Mắt Âm Dương I
Chương 8: Sông ngầm (2)
Vấn đề là trong khe núi lớn bên dưới vùng núi tuyết Đường Cổ Lạp tại sao lại xuất hiện chiến thuyền cổ thời nhà Minh? Thật không thể tưởng tượng nổi.
Chiến thuyền cổ khuất dần trong bóng tối, ngọn đèn bão yếu ớt mỗi lúc một nhỏ dần trên dòng sông ngầm tối tăm, chỉ còn một chấm sáng như ánh đom đóm trong đêm.
Vương Uy bảo lão Tôn:
- Bất kể trên con thuyền đó là người hay ma chúng ta cũng phải xem xem, có xem mới rõ ràng được.
Lão Tôn cau mày, hiển nhiên lão vẫn chưa hiểu nổi chuyện này rốt cuộc là sao, nếu chiến thuyền cổ đó là thuyền ma thì lên đó còn đỡ. Nhưng nếu lên thuyền lại gặp bọn lính áo vàng, chẳng hóa ra tự tìm đường chết hay sao?
Dương Hoài Ngọc nói:
- Bác Tôn, cháu cũng cảm thấy cần phải lên đấy xem thử, hang động dưới lòng đất này chỗ nào cũng có huyền cơ, các manh mối để chúng ta đi tìm vương triều Lạp Cách Nhật đến đây đều đứt cả rồi, chiến thuyền cổ thần bí kia rất có thể liên quan đến vương triều Lạp Cách Nhật, chúng ta không thể để mất cơ hội này được.
Lão Tôn suy nghĩ, đoạn rít mạnh một hơi thuốc, nói:
- Vậy thì đuổi theo.
Thấy ánh đom đóm giữa bóng tối mênh mông kia sắp biến mất, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc vội chèo thật nhanh, cả hai phối hợp cùng lão Tôn quay mũi thuyền, vun vút đuổi theo chiến thuyền cổ vừa đi.
Vào thời nhà Minh, đây là chiến thuyền rất hiện đại. Dưới thời Minh, cướp biển Đông Doanh liên tục quấy nhiễu miền duyên hải, triều đình dốc sức đánh đuổi chúng, đã bỏ rất nhiều công phu vào việc chế tạo chiến thuyền. Chiếc thuyền lớn này có phần thân rất kiên cố, đao búa khó mà phá nổi, hơn nữa việc điều khiển cũng rất linh hoạt. Trong khoang thuyền có mười tám mái chèo để điều khiển, do ba mươi hai phu thuyền phối hợp chèo lái, trong hải chiến có thể tùy cơ chuyển hướng, tránh bị đối thủ đâm thuyền vào, hơn nữa tốc độ lại nhanh, di chuyển như chớp, có thể nói là linh hồn của những trận hải chiến.
Thấy thuyền mình đang dần dần tiến gần đến chiến thuyền cổ kia, Vương Uy đột nhiên quay sang nói với Dương Hoài Ngọc:
- Lúc chiến thuyền đụng vào thuyền gỗ, tốc độ không nhanh như thế này
Dương Hoài Ngọc cũng rất kinh ngạc, nước lặng, không có gió to, chiến thuyền cổ kia không thể trôi nhanh như thế được, lẽ nào trên thuyền có người thật ư?
Nghe Vương Uy nói vậy, lão Tôn càng thêm nghi ngờ, chính mắt lão đã trông thấy bấy nhiêu lính áo vàng lên thuyền, bao năm dọc ngang trên biển, lão rất tự tin vào con mắt và khối óc của mình, quyết không thể nhầm được.
Chiếc thuyền gỗ dần đuổi kịp chiến thuyền cổ, trên chiến thuyền cổ vẫn chỉ có một ngọn đèn bão tù mù, trong khoang thuyền tối om, giữa dòng sông ngầm mênh mông này, trông hệt như một con thuyền ma không người chèo lái.
Dương Hoài Ngọc thay đồ lặn, ào một cái nhảy xuống nước. Chiến thuyền cổ có mười tám mái chèo, nước sông ngầm lặng sóng, không có gió to, vậy mà nó lại có thể lướt đi nhanh như vậy, khả năng duy nhất là trên thuyền có phu thuyền đang chèo. Nhằm đề phòng lúc chiến đấu với kẻ địch bị phá hủy mái chèo, nên loại chiến thuyền thời Minh này thường giấu kín mái chèo dưới nước.
Dương Hoài Ngọc lặn xuống một lúc lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, Vương Uy và lão Tôn vừa ra sức chèo vừa rì rầm nói chuyện. Vương Uy nói với lão Tôn:
- Bác Tôn, cô ấy lặn xuống xem mái chèo có hoạt động không thôi mà, sao lâu thế?
Lão Tôn gật đầu, hai hàng lông mày càng nhíu chặt lại, cảm thấy Dương Hoài Ngọc ở dưới nước có thể đã xảy ra chuyện, lão bèn buông mái chèo, định chui vào khoang thay đồ lặn. Vương Uy vội lôi lão lại, nói:
- Bác già rồi, lặn xuống dưới không tiện, để đấy tôi xuống xem, hồi nhỏ tôi cũng tập bơi qua sông rồi.
Nghe Vương Uy nói vậy, lão Tôn gật đầu. Vương Uy thay đồ lặn, rồi âm thầm chuồi xuống nước. Bộ đồ lặn này là bọn lão Tôn đặt mua ở nước Anh, luôn đem theo người, trên mũ lặn còn có đèn, bên trong lắp cả ắc quy, chỉ cần bấm nút là bật sáng, có thể chiếu sáng trong phạm vi mười mét dưới nước.
Nước rất lạnh, Vương Uy vừa lặn xuống đã rùng cả mình. Anh lặn xuống sâu mấy mét, phát hiện dưới sông ngầm không có cá, chỉ mênh mông những nước là nước. Anh lặn xuống dưới đáy chiến thuyền cổ, quả nhiên thấy bên dưới có một hàng mái chèo lớn, đang từ từ khua động theo dòng nước.
Những mái chèo này không hề có dấu hiệu gì là có người điều khiển, nhưng nếu là tốc độ tự nhiên thì không thể nhanh như thế được. Vương Uy cố bơi theo con thuyền, tâm trí anh chợt rúng động, trong số những mái chèo hình như có mấy cái chèo rất nhịp nhàng. Anh dụi mắt, lại gần hơn chút nữa, xác nhận mình không nhìn nhầm, ở đấy có ít nhất hai mái chèo đang hoạt động.
Ró ràng trên thuyền có người, Vương Uy kinh ngạc.
Anh bơi tiếp một đoạn nữa, có thể thấy mái chèo của con thuyền gỗ đang khua động liên tục trên đầu anh, nhưng không thấy Dương Hoài Ngọc đâu cả. Chuyện này quả là không bình thường, rõ ràng Dương Hoài Ngọc cũng lặn xuống ở chỗ này mà. Nhìn tư thế xuống nước của Dương Hoài Ngọc Vương Uy có thể đoán được khả năng bơi lặn của cô còn siêu hơn anh nhiều. Nhưng một người sống sờ sờ như thế tại sao lại vô duyên vô cớ biến mất được.
Vương Uy đang thắc mắc thì bỗng thấy một cục máu từ đáy nước nổi lên, anh vội rọi đèn về hướng đó, chỉ thấy sâu dưới nước chừng mười mét, có hai bóng đen đang quấn lấy nhau.
Vương Uy vội lặn xuống đó, thấy trên mình bóng đen phụt ra mấy luồng máu, anh tránh luồng máu đang phun về phía mình, nhận ra một trong hai bóng đen kia là Dương Hoài Ngọc. Thứ đang quấn lấy Dương Hoài Ngọc thấy có người đến liền quay mình chuồn thẳng, tốc độ rất nhanh, chỉ một loáng đã lặn mất tăm.
Vương Uy vội tóm chặt lấy Dương Hoài Ngọc đang cứng đờ cả người, ngoi lên mặt nước. Lão Tôn ném một sợi dây thừng xuống, kéo hai người lên thuyền.
Bàn tay và cánh tay Dương Hoài Ngọc đều bị thương, nhưng vết thương không sâu. Vương Uy lấy thuốc trong hộp cứu thương bôi vào rồi băng lại cho cô, may mà không có gì nghiêm trọng.
Lão Tôn vội la lên:
- Dưới nước có người à?
Dương Hoài Ngọc gật rồi lại lắc đầu, nói:
- Cháu vừa xuống nước thì đèn trên mũ lặn bị đập vỡ, sau đó liền bị một luồng sức mạnh tấn công. Hình như không phải người, người ở dưới nước làm thế nào mạnh như thế được? Thứ đó lôi cháu xuống đáy nước, cháu hoảng quá, vội rút dao ra đánh nhau với nó. Vết thương trên người cháu đều là do lúc đánh nhau bị thứ đó khống chế dao, tự chém vào tay mình.
Lão Tôn vuốt râu, trầm ngâm hồi lâu mới nói:
- Bằng vào thân thủ của cô, đánh nhau với nó bấy nhiêu lâu mà không biết có phải là người không à?
Dương Hoài Ngọc nói:
- Cháu đâu có đụng được vào nó, có điều lúc nó tóm lấy tay cháu, có cảm giác tay nó không phải là tay người, mà là một cặp móng vuốt.
- Móng vuốt? – Vương Uy và lão Tôn cùng sững sờ.
Lão Tôn hỏi dồn:
- Các người có thấy mái chèo hoạt động không?
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đồng loạt gật đầu, nghe họ thuật lại những gì đã gặp ở dưới nước, lão Tôn luôn miệng than quái lạ.
Việc chèo thuyền cổ cũng có quy tắc của nó, gọi là mười hai chèo, nghĩa là ít nhất phải có mười hai mái chèo cùng chèo, bằng không sẽ không thể phát huy ưu thế của cấu tạo mười tám mái chèo được. Lão Tôn và Dương Hoài Ngọc bôn ba trên biển bấy lâu, đã gặp nhiều tàu thuyền đi biển, hiểu khá rõ về các loại tàu thuyền. Họ dọc ngang suốt một dải hải phận Đông Nam Á, từng phát hiện thấy thuyền đi biển cổ đại của Trung Quốc ở rất nhiều làng chài hoặc vùng biển, hàng hải và phòng thủ bờ biển rất phát triển dưới thời Minh, kỹ thuật đóng thuyền đi biển rất cao siêu, vì vậy lão Tôn và Dương Hoài Ngọc hiểu rất rõ về loại chiến thuyền cổ thời Minh này.
Trên chiến thuyền cổ có đông lính áo vàng như thế, nếu chúng muốn tìm gì đó trên con sông ngầm này, chắc chắn sẽ phát huy toàn bộ ưu thế của mười tám mái chèo, chúng không thiếu người, sao lại chỉ chèo có hai mái?
Ba người cùng bàn bạc, cảm thấy cứ phỏng đoán như thế này cũng chẳng ích gì, Vương Uy xung phong lên chiến thuyền cổ kia xem xét, vết thương trên tay Dương Hoài Ngọc không nghiêm trọng nên cô cũng đòi đi với Vương Uy. Lão Tôn khuyên ngăn mấy câu, thấy cô vẫn khăng khăng, cũng đành đồng ý.
Lão Tôn cập con thuyền gỗ vào đuôi chiếc thuyền cổ, Vương Uy nhanh nhẹn tung móc câu vào mạn thuyền, nắm chặt dây móc câu kéo thật mạnh rồi tung người nhảy sang. Chiến thuyền cổ cao hơn thuyền gỗ đến mấy thước, Vương Uy sử dụng cả tay chân, thoăn thoắt leo lên mạn thuyền rồi trèo lên sàn. Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy lên được chiến thuyền cũng tung móc câu leo lên.
Hai người đứng trên boong thuyền, nhìn bóng khoang thuyền đổ dài hiu hắt dưới ánh đèn bão. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc lấy làm lạ, nếu trên thuyền có người thì lúc họ leo lên chắc chắn đã bị phát hiện, tại sao không có động tĩnh gì?
Quái gở vẫn là quái gở! Họ tận mắt trông thấy mái chèo dưới nước bị người điều khiển hẳn hoi, trong khoang thuyền có người là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều rút súng, lên đạn, chuẩn bị sẵn sàng rồi từ từ đẩy của khoang thuyền, cùng với tiếng cánh cửa kèn kẹt mở ra, cả hai vội nép sang một bên theo phản xạ.
Thật bất ngờ, chào đón họ không phải là đạn, mà là một khoảng lặng vô cùng sau tiếng kẹt cửa, gió trên sông chợt đóng sập cửa khoang thuyền lại khiến Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nghe tiếng mà thót cả tim.
Dương Hoài Ngọc lấy từ trong ba lô ra một cái đèn pin rất đẹp, Vương Uy mới thấy lần đầu, nó rất giống với đèn trên mũ lặn, nhưng cự li chiếu sáng rất xa, mà cũng sáng hơn nhiều.
Vương Uy tay cầm súng, dè dặt tiến vào khoang thuyền, Dương Hoài Ngọc soi đèn theo sau. Cô soi khắp khoang thuyền một lượt, nhưng không thấy có dấu vết con người. Những thứ bày biện trong khoang toàn đồ cổ, từ bàn ghế kỷ trà trạm trổ hoa văn đến đủ loại binh khí đao thương kiếm kích đã han gỉ đến không nhận ra hình dạng gì nữa. Dường như tất cả đồ gỗ chạm trổ trong này đều có màu đen thẫm, sờ vào thấy âm ẩm, khiến người ta cảm thấy rất khó chịu.
Trong khoang thuyền giăng đầy mạng nhện, những con nhện to bằng bàn tay quơ quơ những cái chân lều nghều xù xì, bò đi bò lại trên đó. Dương Hoài Ngọc và Vương Uy đến gần lũ nhện, nhưng chúng vẫn bò lổm ngổm, coi như họ không tồn tại.
Vương Uy nói:
- Đay là khoang chính, xem ra nhiều năm nay không có người vào đây. Nếu những tên áo vàng bước lên thuyền mà bác Tôn thấy là người sống, chắc chắn khoang chính sẽ không như thế này.
Dương Hoài Ngọc gật đầu, chuyện này đúng là rất kỳ lạ, họ lượn qua cả khoang một lượt, nhưng không thấy bất cứ thứ gì có giá trị.
Tiếp đó, họ bước xuống tầng dưới. Tầng dưới lẽ thường là nơi ở và làm việc của tướng lĩnh trên chiến thuyền, tầng này ngăn thành mấy gian lớn, trang trí rất đẹp. Gian ngoài còn bày biện xa hoa hơn tầng trên, tuy về cơ bản đồ dùng cũng chẳng khác biệt gì mấy, hai người bèn đi thẳng vào gian trong cùng.
Dương Hoài Ngọc vừa đẩy cửa, liền trông thấy trong đó có một người đang đứng, Vương Uy nhanh mắt nhanh tay, thầm nghĩ người trên chiến thuyền cổ mấy trăm năm tuổi chắc chắn chẳng phải hạng tử tế gì, bèn nhắm thẳng vào người kia, nổ liền hai phát súng.
Dương Hoài Ngọc cũng tắt đèn pin, giơ súng liên thanh quét một tràng, phát nào cũng trúng mục tiêu, đạn ghim vào thân thể phầm phập.
Vương Uy lách người tiến vào phòng, Dương Hoài Ngọc ở phía sau bật đèn pin soi, luồng sáng chói mắt rọi thẳng vào người kia, chỉ thấy kẻ đó đang quay lưng về phía hai người, mình vận chiếc áo dài có hoa văn kỳ lân mai hoa, đầu đội mũ cánh chuồn lụa đen.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nhìn nhau, thì ra đó là một xác chết đã mấy trăm năm, hèn gì trúng nhiều đạn như vậy mà không chảy một giọt máu.
Hai người đi vòng lên phái trước, thấy khuôn mặt cái xác đã khô hết nước, chỉ còn lại cái đầu lâu bọc da nhăn nheo, trông thật ghê sợ.
Nhưng lạ lùng là, tại sao người này lại chết đứng? Nếu là người bình thường, dù đột tử do bệnh tim mạch chắc hẳn cũng sẽ ngã lăn ra chết, lẽ nào cái xác từ thời nhà Minh này vẫn đứng trong phòng suốt năm trăm năm qua? Chẳng phải quá ly kỳ sao?
Hơn nữa, chiến thuyền cổ này đi dưới dòng sông ngầm năm trăm năm, biết bao nhiêu lần gặp gió mạnh, đụng vào bờ đê hay đá ngầm, hoặc rơi vào vùng nước xiết, khó tránh khỏi chao đảo, tại sao cái xác này vẫn đứng vững?
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều không hiểu, cả hai đi quanh quan sát cái xác vô số lần vẫn chẳng tìm được nguyên nhân, lòng vô cùng thắc mắc.
Bỗng Vương Uy nói:
- Cô Ngọc, cô có thấy tư thế đứng của người này giống hệt bức bích họa trong địa lao phủ bối lặc mà bác Tôn kể không?
Dương Hoài Ngọc nhìn phía sau cái xác, nhớ lại bản sao của bức bích họa mà lão Tôn cho cô xem, toàn thân chợt toát mồ hôi lạnh.
Nhìn sau lưng, cái xác này giống hệt vị quốc vương Lạp Cách Nhật trong tranh, dường như cũng đang đứng quay lưng về phía quần thần, nghe các quần thần báo cáo, thật khó hiểu. Không những tư thế, dáng vẻ, thần thái sống động giống hệt quốc vương Lạp Cách Nhật, mà thậm chí cả khí thế oai phong chấn nhiếp quần thần cũng như đúc một khuôn.
Quốc vương Lạp Cách Nhật có liên quan gì đến chiến thuyền cổ thời Minh trôi trên dòng sông ngầm này? Tại sao vị quan triều Minh này lúc chết lại giống quốc vương Lạp Cách Nhật đến vậy?
Cánh tay cầm đèn pin của Dương Hoài Ngọc run run, Vương Uy cũng nhận thấy vẻ không ổn của cô ta. Đáp án đã rõ, vị quan triều Minh chết đứng này nhất định có mối quan hệ thần bí nào đó với vương triều Lạp Cách Nhật trong truyền thuyết.
Vương Uy dời mắt khỏi cái xác, thấy gần đó có một chiếc bàn dài, bên trên đầy đủ bút giấy, nghiên mực. Một xấp giấy đã ố vàng chặn dưới nghiên mực, trên giấy viết đầy những chữ. Anh bất giác “ồ” lên một tiếng, lại gần bên bàn xem xét. Nghe Vương Uy buột miệng ồ lên, Dương Hoài Ngọc cũng sực tỉnh.
Vương Uy cầm tệp giấy đã ố vàng lên, chỉ thấy chữ trên đó viết theo thể chữ khải, ghi lại toàn bộ những điều sâu xa, nét chữ đẹp mà không lả lướt, rắn rỏi mà nắn nót, có thể coi như hàng thượng phẩm trong thư pháp. Thuở nhỏ Vương Uy học thầy giáo riêng ở nhà, ông nội của anh từng mời một ông thầy nổi tiếng nhất kinh thành về dạy cho anh nên về thư pháp, Vương Uy khá có bài bản, cũng xem như có trình độ.
Đọc xong mấy chục trang giấy ấy, Vương Uy sợ toát mồ hôi, lòng cũng trầm hẳn xuống, quả nhiên nơi đây là một thung lũng chết, hơn nữa còn là đất dữ trong phong thủy nghìn năm hiếm gặp.
Đại ý nội dung trên giấy nói vị này là quan lớn nhất phẩm của triều Minh dưới thời Vạn Lịch, họ Trương, tên Tử Thông, tên chữ là Dữ Chi, về dòng dõi của ông ta, có thể truy nguyên về tận hoàng đế khai quốc triều Minh Chu Nguyên Chương, cụ tổ ông ta từng theo Chu Nguyên Chương dánh dẹp, giành được đến nửa giang sơn Đại Minh, về sau mới cởi giáp, từ bỏ binh quyền làm một quan văn. Từ đời cụ tổ trở đi, họ Trương đời đời đều có người làm quan lớn trong triều đình, trung lương chính trực, bản thân ông ta cũng đậu võ trạng nguyên vào năm Vạn Lịch thứ hai mươi mốt, có công dẹp loạn, được phong làm Trấn Đông đại tướng quân, hàm nhất phẩm.
Vạn Lịch năm thứ ba mươi mốt, tức là mười năm sau, Vạn Lịch hoàng đế Chu Dực Quân bỗng lâm bệnh lạ, các vị ngự y trong triều dùng đủ mọi cách vẫn không chữa khỏi. Không còn cách nào khác, trong cung đành phải hạ thánh chỉ, chiêu mộ thần y trong thiên hạ để chữa khỏi bệnh cho hoàng đế. Lúc ấy, một vị lạt ma người Tạng vào cung, vừa thấy bệnh tình của hoàng đế, ông liền bảo sẽ chữa khỏi, rồi kê mấy phương thuốc lạ lùng, nào ngờ lại trị lành được cho Vạn Lịch Thần Tông hoàng đế.
Hoàng đế khỏi bệnh, phong thưởng cho lạt ma không biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu, nhưng lạt ma nhất mực từ chối. Hoàng đế lấy làm lạ, nói rằng vị lạt ma là ân nhân cứu mạng của mình, bách tính thường dân còn biết đạo lý mang ơn phải báo đáp, thân là cửu ngũ chí tôn, càng phải làm gương cho thiên hạ.
Vị lạt ma không từ chối nổi, đành yêu cầu nhà vua giúp ông ta làm một việc, còn ngọc ngà châu báu, quan to lộc lớn ông ta không hứng thú. Vị lạt ma lấy từ trong bọc ra một tấm bản đồ dơ dáy, đưa cho hoàng đế xem, rồi rỉ tai nói nhỏ mấy câu, Vạn Lịch hoàng đế lập tức biến sắc mặt, truyền lệnh bãi triều.
Trương Tử Thông không biết vị lạt ma kia nói gì với hoàng đế, nhưng sau buổi chầu đó, Vạn Lịch hoàng đế liền mấy hôm không thượng triều, chỉ ở trong cung mật đàm với vị lạt ma
Bốn ngày sau, Vạn Lịch hoàng đế ra một mật chỉ, phong cho Trương Tử Thông làm khâm sai đại thần, phái một nghìn ngự lâm quân cùng bốn nghìn quan quân Tứ Xuyên tiến vào Tây Tạng, dựng chùa ở phía Tây Nam, ban danh Phong Đô.
Trương Tử Thông đem năm nghìn quân vào Tây Tạng, mất một tháng để xây chùa Phong Đô, sau đó dựa theo tấm bản đồ thần bí mà Vạn Lịch hoàng đế ban cho, tiến sâu vào vùng núi tuyết, thuận lợi tìm được hang động khổng lồ dưới lòng đất này.
Trong triều, Trương Tử Thông được phong làm nhất phẩm đại thần, Trấn Đông đại tướng quân, nhưng thực tế ông ta còn có một thân phận đặc biệt khác, đây là bí mật mà trong triều ngoài nội không ai biết, chỉ trừ Vạn Lịch hoàng đế. Thân phận đặc biệt đó là Ngự Dụng quốc sư của Vạn Lịch hoàng đế, chuyên tìm long mạch, chọn huyệt vị, phân tích địa thế long mạch khắp thiên hạ.
Trương Tử Thông tiến vào vùng núi tuyết, bị địa thế long mạch ở đây trấn trụ, chỉ thấy long mạch phía Nam bắt nguồn từ núi Côn Lôn, thế đi rất hiểm, đến núi tuyết Đường Cổ Lạp thì rơi vào vùng đất dữ kìm hãm long mạch nên bị vùi lấp dưới lòng đất. Mà hang động ngầm dưới đất này theo truyền thuyết lại đứng đầu trong số mười vạn thế đất hung hiểm, là Bối long âm khư, dương khí không vào được, âm khí không ra được. Kỳ dị hơn nữa là, tấm bản đồ vẽ đến đây thì bỏ trống quãng giữa, các phần sau không có liên hệ gì cả.
Muốn hoàn thành mật lệnh của Vạn Lịch hoàng đế phải nghĩ cách phá được Bối long âm khư. Trương Tử Thông tụt xuống hang động ngầm, phát hiện ra dưới này là một biển nước mênh mông, tuyết từ trên núi chảy xuống ngập cả hang, nước sâu quá sức tưởng tượng. Quan trọng hơn, cái hang này vốn là đất chí âm, nước ngập cả đôi mắt rồng của Bối long âm khư, không thấy mắt rồng nghĩa là không có cách nào phá nổi tuyệt địa phong thủy Bối long âm khư.
Trương Tử Thông cho năm nghìn quân đóng ở khe núi lớn rồi một mình xuống thám hiểm hang sâu. Hơn một tháng sau, qua nhiều lần cân nhắc, ông ta quyết định làm một việc kinh thiên động địa là ngăn nước chặn dòng, quây biển nước dưới lòng đất này lại, đắp một con đê lớn,tạo thành một bờ ngăn nước, để một phần âm khí chìm xuống đáy sâu, một phần ở trong không khí, hình thành địa thế âm dương phân cách. Bối long âm khư thuộc âm, một khi nằm giữa hồ nước sẽ biến thành vô hình, chỉ có rót dương khí vào mới có thể làm cho âm khư hiện hình.
Trương Tử Thông chỉ huy năm nghìn người chặn đứng mấy đường thủy đạo chủ yếu chảy vào hang sâu, hao tốn năm năm xây lên một con đê lớn dài mười mấy cây số trong hang. Trong năm năm đó, tại hang này đã xảy ra nhiều sự việc khác thường, năm nghìn quân sĩ cũng hi sinh không ít, tổn thất rất nặng nề.
Đắp xong con đê, để tiện qun sát toàn cảnh con sông ngầm, Trương Tử Thông lại ra lệnh đóng chiến thuyền cổ mười tám mái chèo này. Trong quân chẳng thiếu thợ khéo, họ nhanh chóng hoàn thành chiến thuyền, Trương Tử Thông chọn ngày hoàng đạo, thân chinh dẫn năm chục tướng sĩ dong thuyền thám hiểm sông ngầm.
Trương Tử Thông từ nhỏ đã luyện được đôi mắt có thể nhìn thấu âm dương, trong thấy đôi mắt rồng của Bối long âm khư. Ông ta chỉ huy chiến thuyền tiến vào dòng sông ngầm, không khỏi kinh ngạc trước sự rộng lớn của thủy vực, thậm chí có thể coi nơi này là đại dương dưới lòng đất, hang động do con đê của ông ta vây lại tạo thành, chỉ bằng một góc so với thủy vực rộng lớn này thôi.
Trong khi tuần tra thủy vực, Trương Tử Thông phát hiện thấy đôi mắt rồng của Bối long âm khư trên mặt nước, ông ta đã rất kích động, cho rằng biện pháp phân cách thủy vực âm dương của mình đã có hiệu quả, bèn thân chinh chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng kia.
Bấy giờ Trương Tử Thông đã hoàn toàn rơi vào trạng thái điên cuồng, ông ta chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng của Bối long âm khư hơn một tháng mà chẳng thu được kết quả gì. Ngay sau đó lại xảy ra một sự việc nghiêm trọng hơn, tướng sĩ trên thuyền cứ lần lượt chết đi, hết người này tới người khác, khiến ông ta phải ra lệnh cho thuộc hạ điều tra rõ ngọn ngành.
Nhưng bất kể Trương Tử Thông dùng cách nào đi nữa, người trên chiến thuyền vẫn cứ chết dần chết mòn, không cách gì ngăn nổi, quân sĩ trên thuyền chết đi, lại phải lấy thêm người trên bờ bổ sung. Cho đến một hôm, năm nghìn quân của Trương Tử Thông đưa đến chỉ còn lại năm mươi người cuối cùng trên thuyền, ông ta mới nhận ra thời gian của mình không còn nhiều, liền bắt tay ghi chép lại những gì đã trải qua dưới hang ngầm này.
Ông ta giam mình trong phòng nghị sự, hằng ngày chỉ nghe phó tướng đến báo cáo có thêm bao nhiêu người chết, bỗng một hôm, ông ta phát hiện ra bí mật trong chuyện này. Thì ra trong số bọn họ có một thứ đang ẩn náu, ông ta không trông thấy, cũng không biết nó là gì, nhưng có thể khẳng định thứ đó đang trà trộn giữa bọn họ, bất cứ lúc nào cũng có thể âm thầm quan sát tất cả hành động của bọn họ.
Ông ta có thể khẳng định rằng năm nghìn tướng sĩ do mình dẫn đến đây đều chết dưới tay thứ đó, nó giống như một con sói đói mai phục giữa đàn cừu, lần lượt ăn thịt hết cừu trong đàn vậy.
Sau khi biết thứ đó tồn tại, Trương Tử Thông viết càng nhanh hơn, trước khi bị thứ đó giết hại, nhất định ông phải viết bằng hết mọi chuyện để lại cho người đời sau.
Cho đến một hôm, viên phó tướng đến trước cửa phòng ông ta, đứng lặng ở cửa hồi lâu, không nói gì. Trương Tử Thông liền hỏi:
- Có chuyện gì? Hôm nay chết mấy người?
Viên phó tướng nói một câu ròi đi ngay:
- Chỉ còn lại tôi và tướng quân.
Nghe viên phó tướng nói, Trương Tử Thông đáp lại một tiếng “Biết rồi”, đoạn tiếp tục viết.
Tiếng viên phó tướng xa dần về cuối hành lang, bỗng Trương Tử Thông nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết, tiếng kêu của viên phó tướng đã theo ông suốt mười năm trời. Đúng vậy, viên phó tướng cũng đã chết.
Lúc ấy, ngoài cửa chợt vang lên tiếng chân lạ, mỗi lúc một tiến đến gần. Trương Tử Thông biết đã đến lượt mình, bèn từ từ đứng dậy, nghênh đón con quỷ giết người kia.
Phá giải được bí mật của Bối long âm khư, Trương Tử Thông đã có thể lìa bỏ thế giới này, đi đối diện với con quỷ giết chết năm nghìn tướng sĩ của ông mà chẳng còn gì nuối tiếc nữa.
Những trang viết đến đây thì dừng lại, mấy trang giấy sau đều để trắng khiến Vương Uy không khỏi rúng động.
Ác quỷ đã giết hết năm nghìn tướng sĩ kia là thứ gì?
Anh chợt nghĩ chẳng hiểu cái chết thảm thương của Ngoẹo và Ngọng trong quan tài đá treo trên những trụ đá dưới hang sâu kia có liên quan gì đến con quỷ này hay không?
Dương Hoài Ngọc cũng cùng Vương Uy đọc xong tất cả các ghi chép, cô chỉ vào dòng cuối cùng nói:
- Ông ta viết xong mấy dòng chữ này liền đứng dậy ngay, anh nhìn dáng vẻ ông ta hiện giờ xem, trông y như vừa rời ghế vậy.
Vương Uy cũng để ý thấy điều này, nghĩ lại những ghi chép chân thực của Trương Tử Thông, da đầu anh bỗng tê đi, lẽ nào trên đời này thật sự tồn tại thứ gì đó mà mắt người không thể trông thấy? Nó ở ngay dưới hang sâu này, giết chết năm nghìn tướng sĩ nhà Minh, mà năm nghìn tướng sĩ thét ra lửa trên chiến trường ấy chỉ có thể trơ mắt chứng kiến bản thân bị giết như gia súc bị đưa vào lò mổ mà không có khả năng phản kháng, chết cho đến tận người cuối cùng, Đại tướng quân Trương Tử Thông.
Phải chăng thứ đó là ma quỷ?
Lòng Vương Uy tê dại hẳn đi, cảm thấy chuyện này quá sức kỳ lạ. Dương Hoài Ngọc chỉ vào xác Trương Tử Thông, nói:
- Nhìn dáng vẻ ông ta này, vẻ mặt ông ta trước khi chết rất bình thản, như không phải bị giết mà tự nhiên đi vào cõi chết vậy.
Vương Uy khẽ lẩm bẩm:
- Thứ có thể lấy mạng người như vậy, rột cuộc là gì?
Dương Hoài ngọc nói:
- Chúng ta không biết nó là gì, nhưng có thể khẳng định, đó không phải là người.
Đúng lúc đó, ở khoang dưới cùng vang lên tiếng kẹt cửa, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đồng loạt xông ra, ôm súng chạy xuống tầng dưới.
Khoang thuyền phía dưới có một hành lang dài, hai bên hành lang là một dãy phòng, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc thận trọng đi dọc hành lang, tim như muốn thót lên đến cổ họng. Cả hai đều băn khoăn chẳng rõ đó có phải là tiếng của con quái vật đã giết chết năm nghìn quân Minh hay không?
Trong khoang thuyền tĩnh lặng như chết, Dương Hoài Ngọc một tay cầm súng, một tay chiếu đèn pin vào từng góc hành lang. Mắt Vương Uy sáng trưng như điện, anh có thể khẳng định đây là giây phút căng thẳng nhất trong đời mình.
Trước đây trên chiến trường, đối diện với kẻ địch dũng mãnh như hổ sói anh cũng chưa từng sợ hãi, nhưng lần này thì khác, kẻ địch của họ không phải là người, thậm chí rất có thể cũng không phải là thú dữ, mà là một thứ không trông thấy được, có thể khiến người ta phải giương mắt chứng kiến bản thân bị nó giết hại.
Tiếng chân hai người vang vọng dọc hành lang, tiếng kẹt cửa kia chỉ vang lên một lần rồi tắt hẳn, nhưng Vương Uy và Dương Hoài ngọc rất nhạy cảm, đều cảm thấy vật kia như đang ở ngay bên cạnh, lén lút theo dõi họ ngay trong tầm mắt họ. Dương Hoài Ngọc cố nén sợ bảo Vương Uy:
- Anh có để ý thấy không, ở đây ngay cả bóng dáng mấy tên lính mặc quân phục vàng cũng không có nữa? Nhưng bác Tôn lại bảo mình không nhìn nhầm, chắc chắn là chiếc thuyền này.
Vương Uy nói:
-Tôi nghĩ ra từ lâu rồi, bọn lính ấy rất có thể cũng như cha cô và đám lính nhà Thanh mà tôi thấy trong thung lũng vậy, họ không phải là người sống, con thuyền này là thuyền ma.
Mấy câu này khiến Dương Hoài Ngọc lạnh toát cả sống lưng, cả người run rẩy, sự thực chứng minh, chiến thuyền cổ thời Minh trôi trên con sông ngầm này hơn năm trăm năm nay đúng là một con thuyền ma.
Dương Hoài Ngọc lạnh người, nói:
- Chúng ta mau đi tiếp thôi.
Vương Uy xua tay, nói:
- Nếu hôm nay không kiểm tra rõ con thuyền này thì cả đời chúng ta không thể yên tâm nổi chứ đừng nói gì tìm ra bí mật của vương triều Lạp Cách Nhật.
Anh đến trước một cánh cửa, thình lình đá bật cửa ra, lao vào trong, Dương Hoài Ngọc cũng xông vào theo. Khoang thuyền này là nơi đặt mười tám mái chèo, mười tám mái chèo chia ra hai bên, mỗi bên chín mái, có mấy chiếc đang hoạt động.
Vương Uy chỉ vào hai mái chèo. nói:
- Cô xem, bụi bẩn trên hai mái chèo này đều bị lau sạch, trên thuyền chắc chắn có người sống.
Dương Hoài ngọc soi đèn quan sát kỹ hai mái chèo, gật đầu:
- Trên đó còn có dấu tay, khi nãy âm thanh kia vừa vang lên chúng ta đã lao xuống ngay, chắc chúng đang ở trong một phòng khác.
Vương Uy gật đầu, hai người bèn trở ra ngoài, lần lượt đạp tung từng cánh của dọc hành lang, xông vào kiểm tra, nhưng không thấy bóng người nào cả.
Ngay lúc ấy, phía trên hành lang đột nhiên lại vang lên tiếng ken két, có điều âm thanh này rất chói tai, không phải tiếng cửa gỗ.
Vương Uy và Dương Hoài ngọc kinh hoàng thốt lên:
- Hỏng rồi!
Hai người chạy nhanh về đầu trên hành lang, nhưng hai cánh cửa sắt sừng sững đã nặng nề đóng lại, vào khoảnh khắc của sắt khép lại Vương Uy còn kịp nổ hai phát súng qua khe cửa, nhưng không có kết quả gì. Cửa sắt bị đóng chặt, tiếp đó nghe có tiếng khóa cửa, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc chỉ biết trơ mắt nhìn mình bị giam trên chiếc thuyền ma này, lòng trầm hẳn xuống.
Trong lòng hai người có vô số nghi vấn, bên ngoài cánh cửa kia rốt cuộc là người hay ma? Nếu là người thì đó là ai?
Lú người bước ra hành lang, họ đâu có ngờ hai cánh cửa sắt này chính là tử huyệt của khoang thuyền dưới cùng. Cánh cửa này đúc bằng sắt, súng bắn không thủng, một khi bị khóa lại, nếu không có người bên ngoài mở khóa thì không thể nào mở ra được. Dương Hoài Ngọc nói cách thiết kế này rất phổ biến trên những chiến thuyền cổ thời Minh, tầng dưới cùng là trung tâm của các loại cơ quan trên thuyền, trong lúc tác chiến, phải đảm bảo an toàn cho trung tâm của các loại cơ quan trên thuyền cùng tất cả phu chèo thuyền. Hai cánh cửa sắt này có cả khóa trong khóa ngoài, chỉ cần khóa chặt một phía là không có cách nào mở ra nổi.
Vương Uy quan sát kỹ cánh cửa sắt mấy lần, không ngờ ngay cả bản lề cũng đúc bằng sắt, đúng là không thể thoát khỏi hai cánh cửa này được.
Cả hai đang mải chăm chú quan sát cánh cửa sắt, bỗng Dương Hoài Ngọc kêu lên:
- Có người!
Vương Uy nhìn về phía Dương Hoài Ngọc, thấy cô chiếu đèn pin vào một góc hành lang. Nhưng dưới ánh đèn pin loang loáng, phía cuối hành lang âm u chỉ thấy những cánh cửa gỗ đen kịt, cả hành lang bốc lên mùi ẩm mốc ngai ngái. Hai người cùng chĩa súng vào góc hành lang đó rồi từ từ đi vào bên trong, mùi ẩm mốc khiến mũi họ rất khó chịu, ngay cả hít thở cũng khó khăn. Bầu không khí tĩnh mịch vô bờ khiến tiếng chân của họ càng thêm vang vọng, như thể cứ bước chân một bước chân, tim lại nảy lên một nhịp.
Bầu không khí này thật khiến người ta tuyệt vọng, họ kiểm tra khắp cả khoang thuyền, rõ ràng chẳng có bất cứ người nào cả. Ngay sau đó, họ lại nghĩ đến thung lũng tuyết, hang động ngầm nằm sâu dưới lòng đất hàng mấy trăm mét, chiến thuyền cổ thời Minh phiêu bạt trên dòng sông ngầm mênh mông, và cả thứ không biết là người hay ma cứ lẵng nhẵng bám theo họ như u hồn vậy, càng nghĩ họ càng thêm sợ.
Vương Uy ghé tai Dương Hoài ngọc hỏi nhỏ:
- Vừa rồi cô thấy gì?
Dương Hoài Ngọc gần như run bắn lên, đáp:
- Một bóng người, đúng là một bóng người, soạt một cái hắn ta đã chạy vào góc kia, tôi không nhìn nhầm đâu.
Vương Uy sững sờ, chuyện này nhất định không thể xảy ra được, trong khoang thuyền đều lát gỗ, hắn chạy trên hành lang, sao có thể không gây ra tiếng động?
Nhưng vẻ kinh hoàng tột độ trong ánh mắt Dương Hoài Ngọc dường như không phải là giả vờ. Hai người đi đến gian phòng khuất nẻo nhất hành lang thì dừng lại. Cửa phòng này khép hờ, chỉ để hở một khe nhỏ, trên song cửa còn dán giấy, vì lâu ngày nên lớp giấy đã ố vàng, bên trên còn dính một lớp dầu mỡ. Vương Uy nhìn Dương Hoài Ngọc, cô gật dầu, khẽ đẩy cửa ra, theo tiếng “kẹt” cửa, bóng tối sau cánh cửa bị ánh đèn pin xua tan, lộ ra một đống đồ đạc cao ngất, bên trên còn trùm một tấm vải gai, trông lù lù như một đống đất nhỏ.
Hai người kiểm tra mọi ngóc ngách không thấy một ai khác cả, Dương Hoài Ngọc bèn lật tấm vải trùm đồ ra, vừa nhìn thấy vật bên dưới tấm vải, cô đã giật nảy mình, Vương Uy cũng được phen hoảng vía.
Đó là một tượng đá lớn đứng trên bệ gỗ, trông như một pho tượng Phật. Nhưng bức tượng đá này lại có thêm một đôi cánh, thân cao một trượng tám, trên chiếc cổ dài là một cái đầu chim, rất giống bức tượng người chim mà Vương Uy thấy trong rừng ở Xương Đô.
Anh không sao ngờ được bệ đá trên lưng chừng núi kia lại có dính dáng tới hang ngầm dưới dãy núi Đường Cổ Lạp, sự việc này mỗi lúc một phức tạp rồi.
Chắc đây là lần đầu Dương Hoài ngọc trông thấy bức tượng này nên gương mặt có vẻ ngỡ ngàng. Vương Uy bèn kể lại cho cô nghe những gì mình đã thấy trong khu rừng rậm ở Xương Đô, Dương Hoài Ngọc cũng kinh sợ không thôi.
Rồi anh lại nghĩ đến hành tung bất định của đám lính đào trộm mộ dưới trướng Mã Văn Ninh, tất cả đều bắt nguồn từ tấm bản đồ của vị lạt ma già, nhưng rốt cuộc tấm bản đồ đó ra sao thì chẳng thể điều tra được nữa. Có điều Mã Văn Ninh dựa vào tấm bản đồ đó, trước là thấy cây đá trong rừng Xương Đô, lại đến được hang ngầm dưới núi Đường Cổ Lạp, tất cả đều là sự thật không cãi vào đâu được. Bức tượng người chim thần bí có liên quan gì đến những thứ mà Mã Văn Ninh muốn tìm?
Tấm bản đồ mà Vạn Lịch hoàng đế nhận được năm xưa giống hệt tấm mà Mã Văn Ninh tìm được, khác chăng là Vạn Lịch hoàng đế cử Trương Tử Thông đi tìm hang ngầm, còn Mã Văn Ninh lại đích thân dẫn đội đào trộm mộ đến, kết quả là những kẻ đến đây không một ai thoát được, tất cả đều chết một cách ly kỳ.
Điều làm cho Vương Uy kinh ngạc nhất chính là trên chiến thuyền của Trương Tử Thông tại sao lại có bức tượng này? Trương Tử thông ghi chép tỉ mỉ lại mọi chuyện từ sau khi ông ta nhận được mật chỉ của nhà vua, chỉ không hề nhắc tới xuất xứ của bức tượng người chim, thật là quái lạ.
Bệ gỗ này được làm rất khớp với chân pho tượng, xem ra đã được thiết kế công phu, tức là trước khi đóng con thuyền chiến này thì đã có bức tượng người chim rồi, nhưng bức tượng thần bí này đâu ra?
Vương Uy đứng trước bức tượng, lòng hết sức khó chịu, cảm giác ngột ngạt vô cùng, giống như bị thứ gì đó lèn chặt vậy. Đôi mắt màu nâu vàng của pho tượng người chim cúi nhìn xuống, Vương Uy vừa ngước lên liền chạm ngay phải luồng mắt ấy, đôi mắt người chim rất sắc sảo như thể thoáng nhìn đã thấu tâm can người khác.
Vương Uy nhìn mấy lần rồi chẳng dám nhìn thêm nữa, cặp mắt ấy âm u tăm tối như có thể hút cả hồn vía con người vậy.
Đột nhiên Dương Hoài Ngọc lên tiếng:
- Anh Uy, anh có cảm thấy toàn bộ sự việc có rất nhiều nghi vấn không?
Vương Uy ngước nhìn Dương Hoài Ngọc, chờ cô nói tiếp.
- Anh còn nhớ trong ghi chép của mình, Trương Tử Thông có viết câu gì không? Ông ta nói bí mật của Bối long âm khư đã bị phá giải, ông ấy có thể yên tâm mà chết, nên tôi đoán chừng năm nghìn quân của ông ấy lần lượt bị giết là bởi bí mật của Bối long âm khư.
Nghe Dương Hoài Ngọc nói vậy, Vương Uy cũng cảm thấy trong chuyện này có nhiều nghi vấn, lúc ấy khi anh đọc đến câu đó, lòng cũng thấy rất lạ, nhưng những sự việc về sau xảy ra quá đột ngột nên anh không nghĩ tiếp nữa. Bây giờ phân tích manh mối này, thấy đúng là có vấn đề.
Điểm quan trọng nhất là, bức tượng người chim thần bí này đến đây bằng cách nào? Trương Tử Thông mất năm năm đắp con đê dưới hang ngầm là để phá Bối long âm khư, đã phá giải được bí mật của Bối long âm khư rồi, tại sao ông ta không rời hang ngầm này mà quay về tiếp tục sứ mệnh mà Vạn Lịch hoàng đế giao phó?
Rốt cuộc bên trong đã xảy ra chuyện gì?
Dương Hoài ngọc nói:
- Có mấy sự việc quan trọng nhất thì Trương Tử Thông không ghi lại, lẽ nào vấn đề nằm ở đấy?
Vương Uy cũng nhận thấy điểm này, năm trăm năm sau khi Trương Tử Thông chết, theo họ biết được thì đám lính đào trộm mộ của Mã Văn Ninh đã đến đây. Đội đào trộm mộ của Mã Văn Ninh có hơn một nghìn người, chắc hẳn đã phát hiện ra chiến thuyền cổ này chẳng khó khăn gì.
Lại cả căn nhà kho dưới chân con đê nữa, có thể khẳng định nhà kho ấy do Mã Văn Ninh dựng nên, bọn chúng xây căn nhà kho này bên bến thuyền là để đóng thuyền. Diện tích mặt đất của cái hang ngầm này rất rộng, vậy mà bọn chúng không tốn công sức đóng thuyền như Trương Tử Thông, lẽ nào mục đích cũng là để phá giải Bối long âm khư, hoặc có thể nói, mấu chốt phá giải Bối long âm khư là ở dòng sông ngầm này ư?
Càng nghĩ Vương Uy càng thấy khả năng này rất có thể xảy ra, anh nói suy nghĩ của mình với Dương Hoài ngọc, cô cũng tán đồng.
Càng nói hai người càng thấy sự việc đúng như thế, Dương Hoài Ngọc cũng nói đôi điều suy nghĩ của mình, đột nhiên Vương Uy hạ giọng nói:
- Cô xác định vừa rồi cái bóng cô thấy là người chứ?
Dương Hoài Ngọc ngẩn ra giây lát, gật đầu:
- Tôi thấy cái bóng kia loáng một cái đã bỏ chạy, căn bản không trông rõ được, nhưng tôi cảm giác đó đúng là một con người.
Vương Uy gật đầu, nói:
- Cô có để ý không, trừ gian phòng này, các gian phòng khác dọc lối đi đều khóa trái từ bên trong, lúc vào tôi đã đẩy thử từng cánh cửa một rồi.
Câu nói này làm cho Dương Hoài Ngọc chấn động đến nổ đom đóm mắt, cứ ngỡ như mình nghe nhầm, nếu mọi căn phòng đều khóa trái thì cái bóng kia chỉ có thể vào phòng này. Nhưng khi vào, cô đã kiểm tra kỹ mọi ngóc ngách, không hề thấy sinh vật sống nào, vậy cái bóng kia chạy đi đâu?
Vương Uy cũng nghĩ như vậy, anh cầm lấy đèn pin từ tay Dương Hoài Ngọc, soi trên soi dưới khắp lượt, không hề thấy có dấu tích người sống ẩn nấp.
Dương Hoài Ngọc lại đi theo Vương Uy đi kiểm tra khắp xung quanh, cơ hồ không bỏ sót một ngóc ngách nào, đột nhiên Vương Uy để ý thấy lúc họ vào đã mở cửa phòng ra, nhưng chẳng rõ từ bao giờ, cánh cửa kia lại đóng im ỉm.
Vương uy toát mồ hôi lạnh, anh nhớ rõ ràng là họ đã mở cửa, cũng chưa hề đóng lại, vậy thứ gì đã lặng lẽ đóng cửa ngay trước mắt họ? Lẽ nào trong tối thật sự có thứ gì đó ẩn nấp, cái bóng kia vốn không phải người ư?
Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy cứ trợn trừng mắt nhìn cánh cửa đen trạm trổ hoa văn, bèn hỏi:
- Anh sao thế?
Vương Uy muốn xác nhận mình không nhớ nhầm bèn hỏi Dương Hoài Ngọc.
- Từ lúc chúng ta vào, cái cửa này vẫn luôn mở, đúng không?
Nào ngờ Dương Hoài Ngọc lắc đầu nói:
- Cửa vẫn đóng mà. Anh vào theo tôi, sau đấy khép cửa lại, anh không nhớ à?
Dương Hoài Ngọc nói rất bình tĩnh, nhưng Vương Uy nghe mà toát mồ hôi lạnh. Anh nhớ lại quá trình lúc tiến vào, khẳng định mình nhớ không lầm, anh căn bản không hề khép cửa, mà Dương Hoài Ngọc vào trước lại càng không thể khép cửa.
Sao cánh cửa này lại bị khép vào chứ? Càng kinh ngạc hơn nữa là, tại sao Dương Hoài Ngọc lại nói anh khép cửa? Sao có thể như thế chứ?
Vương Uy nhìn vào mắt Dương Hoài Ngọc, mắt cô rất to, sống mũi cao, gương mặt kết hợp cả nét đẹp nhu mì và cương nghị. Nhưng trong mắt cô Vương Uy lại thấy vẻ quái dị, mơ màng và đờ đẫn, một tay cô nàng đang ghì chặt khẩu tiểu liên.
Vương Uy nhắc lại:
- Cửa thật sự là do tôi đóng lại ư?
Dương Hoài Ngọc cảnh giác nhìn Vương Uy, gật đầu:
- Đúng vậy, anh vào rồi khép cửa mà.
Vương Uy đi đi lại lại trong phòng, tự mình quan sát kỹ từng ngóc ngách, từng đồ vật. Bức tượng người chim trên bệ gỗ cạnh đó vẫn giữ nguyên tư thế kỳ dị, đứng sừng sững trước mặt Vương Uy. Vương Uy cứ cảm thấy ngột ngạt, tức thở, anh dám khẳng định trong căn phòng này có thứ gì đó, tuy anh không nhìn thấy nó, nhưng vẫn mơ hồ cảm thấy nó đang tồn tại, nó ẩn nấp trong bóng tối, theo dõi hai người.
Vương Uy chợt lạnh toát sống lưng, anh luôn cảm thấy thứ đó đang bám theo anh, sẵn sàng xông ra bất cứ lúc nào. Trong phòng thoang thoảng một mùi hôi thối âm ẩm, khiến người ta lợm cả giọng. Anh để ý thấy căn phòng này tăm tối khác thường, hình như không phải là nơi dành cho người sống.
Suy xét kỹ mọi tiền nhân hậu quả trong chuyện này, nghĩ thế nào anh cũng cảm thấy mình không nhầm, nhưng rõ ràng cửa đã đóng lại, mà Dương Hoài Ngọc còn nhấn mạnh là do chính anh khép, chẳng lẽ trí nhớ của anh có vấn đề?
Vương Uy lập tức phủ nhận giả thiết đó, anh đã chinh chiến mười mấy năm trời, nơi chiến trường rừng tên mưa đạn thì bình tĩnh là tiền đề bắt buộc để chiến thắng mọi thứ, anh tin rằng từ lúc xuống hang ngầm đến giờ mình vẫn luôn luôn bình tĩnh.
Đã giữ được bình tĩnh thì Vương Uy không cần phải nghi ngờ trí nhớ của mình nữa, vậy kẻ đáng nghi ngờ nhất lúc này phải là Dương Hoài Ngọc. Giả dụ cô ta nói dối đi, nhưng trước sau cô vẫn theo sát bên cạnh anh, cũng không có khả năng khép cửa, cánh cửa này không thể do cô lặng lẽ khép lại được.
Vương Uy càng nghĩ càng sợ. Cứ theo những dữ kiện này mà suy đoán thì người đáng ngờ nhất trong căn phòng này chính là Dương Hoài Ngọc, bởi cái bóng kia chạy vào một góc hành lang, vậy mà Vương Uy tinh nhanh như thế lại chẳng hề phát hiện ra thì thật là kỳ lạ.
Sơ bộ sự việc hiện rõ dần, chắc chắn Dương Hoài Ngọc có vấn đề, cô ta không những có vấn đề, mà quan trọng hơn nữa là, rất có thể cô ta không phải là người.
Toàn thân Vương Uy tê dại, sởn cả da gà, không thể ngờ chiến hữu đi theo bên mình lâu như thế lại không phải là người sống. Hoặc có thể nói, thoạt đầu Dương Hoài Ngọc là người, nhưng từ sau khi xuống hang ngầm, không biết từ lúc nào, cô đã không còn là Dương Hoài Ngọc khi trước nữa.
Vương Uy giữ chắc cò súng, quay ngoắt lại, chĩa vào vị trí Dương Hoài Ngọc đang đứng, đột nhiên phát hiện cô ta đã biến mất. Mùi hôi thối trong căn phòng càng nồng nặc hơn, Vương Uy nghĩ mình đang hoa mắt, nhưng trong căn phòng rộng lớn này trừ anh ra còn có ai đâu?
Dương Hoài Ngọc đi đâu? Cô ta không phải là người, vậy là gì?
Mồ hôi lạnh hết lần này đến lần khác túa ra làm ướt đẫm cả người Vương Uy, chuyện này thật sự đã vượt quá sức chịu đựng của anh. Việc gặp Thomas và đám lính nhà Thanh trong thung lũng tuyết xảy ra vào lúc anh nửa mơ nửa tỉnh, khó biết được rốt cuộc là thật hay mơ, nhưng chuyện này lại diễn ra ngay trước mắt anh: một người đang sống sờ sờ, thoát cái đã không thấy đâu nữa.
Anh nhìn kỹ chỗ Dương Hoài Ngọc đứng, không bỏ qua cả lớp bụi trên mặt đất, nhưng tất cả vẫn thế, chẳng có cạm bẫy nào hết. Dương Hoài Ngọc không phải là người sống nên khi Vương Uy phát hiện ra thân phận cô ta, hẳn cô ta cũng đã nhận thấy, liền đột ngột biến mất.
Đang lúc không biết phải làm thế nào, bỗng anh nghe thấy tiếng bước chân ngoài hành lang, tiếng chân giòn đanh răng rắc, vang vang trên sàn thuyền bằng gỗ.
Vương Uy như điên cuồng xông ra, anh đứng ở cuối hành lang, rọi đèn pin đến tận cùng đầu bên kia, nhưng ngoài một dãy cửa đen sì chạm trổ hoa văn ra, đâu có bóng ai khác?
Chẳng những trên hành lang không có ai, mà cả tiếng bước chân cũng tắt lịm, chỉ còn lại bóng tối mênh mông và một dãy cửa cửa sổ đen sì.
Vương Uy đứng ở cuối hành lang, chợt thấy choáng váng đầu óc, tựa hồ cả đất trời đều đang quay cuồng vậy, có điều đó không phải là ảo giác mà là sự thật, con thuyền quả thực đang chao đảo dữ dội.
Vương Uy phải tựa vào một cánh cửa phòng mới khỏi ngã. Cũng như tất cả các cánh cửa dọc hành lang, cánh cửa này bị khóa trong, cả người anh không ngừng va đập vào cửa nhưng nó chẳng hề bật ra.
Vương Uy thầm lấy làm kinh ngạc, thường thì chốt cửa của loại cửa chạm trổ hoa văn này đều không chắc, hễ đụng mạnh là gãy ngay. Hơn nữa chiến thuyền cổ này nổi trôi trên dòng sông ngầm năm trăm năm nay, những đồ dùng bằng gỗ trên thuyền hẳn đều mục nát vì ẩm thấp cả rồi, bị va chạm mạnh thế này, làm sao mà chịu nổi, chẳng nhẽ phía sau cửa có gì đó?
Anh rút súng nhắm chốt cửa bắn liền hai phát, chốt cửa tung ra, nhưng anh lại nghe rõ tiếng kim loại va chạm. Anh thoáng sững sờ, lẽ nào phía sau cánh cửa gỗ còn ốp một lớp sắt nữa ư?
Vương Uy đẩy cửa ra, liền nghe thấy tiếng bản lề sắt nghiến ken két. Vì lâu ngày bản lề bị hen gỉ, Vương Uy phải đẩy mạnh cửa mới hé ra một khe nhỏ.
Ngay lúc ấy, bên trong cánh cửa chợt vang lên tiếng bước chân nặng nề. Tiếng chân vang lên trong bóng tối nghe như không phải đến từ nhân gian, cách một tầng bóng tối sau cánh cửa, càng khiến người ta rợn cả người.
Vương Uy chẳng lo được nhiều đến vậy, anh cố sức đẩy cánh cửa, chợt một mùi tanh nồng ập tới, làm anh ọe ra cả nước chua. Mùi hôi thối bên trong cánh cửa thật khó hình dung nổi, hệt như mùi xác chết thối rữa giữa ngày hè nóng nực, vô cùng khó ngửi.
Mùi tanh thối sau cánh cửa sắt bốc ra nồng nặc, Vương Uy gắng nín thở chui vào trong, dưới ánh đèn pin, anh thấy vách phòng không phải bằng gỗ sam đen sẫm, mà ghép bằng từng tấm từng tấm sắt, rõ ràng đây là căn phòng bằng sắt.
Vương Uy cứ nghĩ chiến thuyền cổ này được đóng toàn bằng gỗ sam, cho dù mấy vị trí trọng yếu được đúc cửa sắt cũng chẳng có gì ghê gớm, nhưng làm cả một căn phòng bằng sắt thì thật đáng ngờ. Phòng ở và làm việc của Trương Tử Thông cũng là phòng gỗ, tại sao một căn phòng ở tầng dưới lại được làm bằng sắt? Thật là kỳ lạ.
Trương Tử Thông ghi lại tỉ mỉ mọi chuyện từ sau khi ông ta xuống hang ngầm, nhưng Vương Uy xuống khoang dưới này lại phát hiện ra những bí mật trên chiến thuyền cổ này vượt xa so với những gì Trương Tử Thông ghi chép. Thậm chí trong những ghi chép của ông ta cũng không hề đề cập gì đến khoang dưới này, tượng người chim và căn phòng sắt kín bưng.
Bên trong căn phòng sắt trừ bốn bức vách ra, còn lại trống trơn, không có gì cả. Vương Uy lòng đầy thắc mắc bèn rảo bước tiến vào bên trong. Theo lý mà nói, năm trăm năm trước, muốn làm được một căn phòng bằng sắt dưới hang ngầm thế này, thật hết sức khó khăn, Trương tử Thông không cần phí nhiều công sức như vậy để làm một chuyện vô bổ.
Vương Uy nghĩ, căn phòng sắt này được khóa trái từ bên trong, điều này khác hẳn tư duy của người bình thường, nhất định trong đó có lý do gì khác. Chợt nhớ đến sự thay đổi của Dương Hoài Ngọc, anh bỗng nổi hết da gà, chiến thuyền cổ nổi trôi năm trăm năm trên dòng sông ngầm này quả nhiên là một con thuyền ma, Dương Hoài Ngọc đang sống sờ sờ ra đó, vậy mà lại lặng lẽ biến mất, thật quá kỳ dị.
Trên bốn bức vách sắt của căn phòng đầy những vết hoen gỉ bởi hơi nước, hễ đụng vào là rơi ra từng mảng. Vương Uy vừa đi vừa tra xét thật kỹ, bỗng anh đứng sững lại, đầu óc đờ ra.
Anh nghe tiếng chân mình bước đi, chân anh cọ xát lên sàn nhà sắt gỉ phát ra tiếng răng rắc, hoàn toàn giống với tiếng chân quỷ dị lởn vởn ngoài hành lang.
Vương Uy kinh ngạc lại thận trọng đi thêm vài bước nữa, quả nhiên đúng là âm thanh ấy, không sai chút nào. Thoạt đầu, lúc ở trong gian phòng để tượng người chim, anh không chú ý, bây giờ nghĩ lại mới thấy bí ẩn bên trong chuyện này rất lớn, nếu người bình thường đi lại hẳn không thể phát ra tiếng bước chân nặng như thế được, chỉ có bàn chân ma sát trên sắt gỉ mới phát ra được âm thanh đó mà thôi, tức là tiếng chân bước lúc ấy anh nghe thấy không phải ở hành lang mà ở trong căn phòng sắt này.
Việc đến nước này cũng chẳng có gì là kỳ quái nữa, bởi trên chiến thuyền cổ này đã xảy ra quá nhiều chuyện kỳ quái rồi. Theo lý giải của Vương Uy, căn phòng này đã bị người khóa trái từ bên trong từ năm trăm năm trước, mà con người vốn không thể sống trong căn phòng sắt như vậy được, nhưng sự thực lại chứng minh trong phòng đang có người.
Vương Uy rất căng thẳng, anh biết mình đã lên con thuyền ma này thì mười phần hết chín là có đi không về, không cẩn thận sẽ đi theo đại tướng quân Trương Tử Thông cũng nên. Nghĩ đi nghĩ lại cũng thấy ấm ức trong lòng, đời anh đến giờ mới chỉ là một đại đội trưởng hai bàn tay trắng, còn Trương Tử Thông trước khi chết đã là quan lớn nhất phẩm triều đình, Trấn Đông đại tướng quân, khâm sai đại thần được hoàng đế mật phong, tuy cùng phải chết, nhưng so với ông ta, anh vẫn cảm thấy không thể bằng được.
Vương Uy cuống lên, bắt đầu tính đến tình huống xấu nhất. Anh lên đạn khẩu súng lục cầm trên tay, sẵn sàng ứng chiến bất cứ lúc nào. Cuối căn phòng này là một bức tường sắt, trên tường trổ một ô cửa, cửa không khóa, đẩy nhẹ là mở ra ngay. Bấy giờ anh mới biết căn phòng này thông sang phòng bên cạnh.
Anh thận trọng bước sang căn phòng sắt bên cạnh, phát hiện căn phòng này khác hẳn căn phòng vừa rồi, trong phòng có một chiếc giường ghép, bên trên phủ một tấm vải trắng dài đến mấy mét, tấm vải hơi phồng lên, tựa như bên dưới có người đang ngủ.
Vương Uy nén sợ, từ từ bước đến gần, giơ nòng súng lật một góc tấm vải lên bên dưới liền lộ ra một chiếc đầu lâu trắng hếu. Tuy đã chuẩn bị tâm lý nhưng Vương Uy vẫn giật nảy mình, tim đập thình thịch. Vương Uy bèn lật tung tấm vải, vì quá lâu ngày, tấm vải đã mục nát, bị anh kéo mạnh liền mủn ra, bay tung tóe như hoa tuyết.
Tấm vải bị lật tung, trên chiếc giường ghép ngay trước mắt anh là bảy bộ xương người cao xấp xỉ nhau, nằm song song, ánh đèn pin chiếu lên những bộ xương trắng hếu, khiến anh nổi da gà. Anh biết rõ bảy bộ xương này là tướng sĩ của Trương Tử Thông tướng quân, có điều dáng vẻ cả bảy bộ đều không có dấu vết dập gãy, như thể họ tự nhiên mà chết trên giường vậy.
Trên vách treo bảy bộ giáp và gươm đao, tất cả đều phủ một lớp bụi dày, tỏa mùi ẩm mốc, còn mùi tanh nồng trong không khí hình như mỗi lúc một nồng nặc hơn. Vương Uy thấy họng chua loét, ọe liền mấy cái mà không nôn ra nổi thứ gì.
Đúng lúc này, anh bỗng phát hiện trên mặt sàn có gì đó khác thường, dường như có nước thấm ra vậy. Vương Uy chợt nghĩ, lẽ nào chiến thuyền cổ này đụng vào vậy gì đó nên đáy khoang bị thủng rồi ư?
Vương Uy kinh hoàng, việc này không thể coi thường được, vội vàng cúi xuống xem xét mặt sàn. Chỉ thấy trên sàn lênh láng máu, máu từ khe hở của bức tường sắt phía trong phun ra như suối, trong phòng đã ngập lên đến mắt cá chân. Vương Uy đứng giữa bể máu, mùi tanh của máu làm anh không ngừng ọe ra nước chua.
Vương Uy chinh chiến sa trường bao nhiêu năm trời chưa bao giờ thấy nhiều máu như thế này, đúng là máu chảy thành sông. Máu từ kẽ tường sắt phun ra ào ào, mỗi lúc một mạnh, mà bức tường hướng ra ngoài sát với hành lang lại bị bịt kín, máu không thoát ra nổi nên cứ dềnh lên cao mãi.
Vương Uy kinh hãi chạy sang phòng bên cạnh, thấy bên đó cũng lênh láng máu, ngập đến tận bắp chân. Căn phòng này ba bề kín mít, chỉ có một mặt không biết tại sao lại để hở, lẽ nào làm nhiều khe hở như vậy là để máu chảy ra?
Trương Tử Thông dựng nên căn phòng này để làm gì?
Dãy phòng dọc hành lang này là nơi nghỉ ngơi của các tướng sĩ, vốn là loại phòng ở hết sức bình thường, nhưng lại được đúc thành những căn phòng bằng sắt kín mít. Trên mặt tường phía trong có nhiều chỗ đã bị thủng lỗ chỗ, lỗ nhỏ bằng đầu ngón tay, lỗ to có thể đút vừa cánh tay người lớn. Những lỗ thùng này đều bám đầy gỉ sắt, bị máu xối vào, gỉ sắt rụng xuống từng mảng, những lỗ thủng lần lượt lộ ra.
Vương Uy đứng giữa bể máu, hai mắt đỏ ngầu, mùi tanh nồng nặc khiến anh ngạt thở, mỗi lần hít thở lại thấy họng nóng rát, h
Chiến thuyền cổ khuất dần trong bóng tối, ngọn đèn bão yếu ớt mỗi lúc một nhỏ dần trên dòng sông ngầm tối tăm, chỉ còn một chấm sáng như ánh đom đóm trong đêm.
Vương Uy bảo lão Tôn:
- Bất kể trên con thuyền đó là người hay ma chúng ta cũng phải xem xem, có xem mới rõ ràng được.
Lão Tôn cau mày, hiển nhiên lão vẫn chưa hiểu nổi chuyện này rốt cuộc là sao, nếu chiến thuyền cổ đó là thuyền ma thì lên đó còn đỡ. Nhưng nếu lên thuyền lại gặp bọn lính áo vàng, chẳng hóa ra tự tìm đường chết hay sao?
Dương Hoài Ngọc nói:
- Bác Tôn, cháu cũng cảm thấy cần phải lên đấy xem thử, hang động dưới lòng đất này chỗ nào cũng có huyền cơ, các manh mối để chúng ta đi tìm vương triều Lạp Cách Nhật đến đây đều đứt cả rồi, chiến thuyền cổ thần bí kia rất có thể liên quan đến vương triều Lạp Cách Nhật, chúng ta không thể để mất cơ hội này được.
Lão Tôn suy nghĩ, đoạn rít mạnh một hơi thuốc, nói:
- Vậy thì đuổi theo.
Thấy ánh đom đóm giữa bóng tối mênh mông kia sắp biến mất, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc vội chèo thật nhanh, cả hai phối hợp cùng lão Tôn quay mũi thuyền, vun vút đuổi theo chiến thuyền cổ vừa đi.
Vào thời nhà Minh, đây là chiến thuyền rất hiện đại. Dưới thời Minh, cướp biển Đông Doanh liên tục quấy nhiễu miền duyên hải, triều đình dốc sức đánh đuổi chúng, đã bỏ rất nhiều công phu vào việc chế tạo chiến thuyền. Chiếc thuyền lớn này có phần thân rất kiên cố, đao búa khó mà phá nổi, hơn nữa việc điều khiển cũng rất linh hoạt. Trong khoang thuyền có mười tám mái chèo để điều khiển, do ba mươi hai phu thuyền phối hợp chèo lái, trong hải chiến có thể tùy cơ chuyển hướng, tránh bị đối thủ đâm thuyền vào, hơn nữa tốc độ lại nhanh, di chuyển như chớp, có thể nói là linh hồn của những trận hải chiến.
Thấy thuyền mình đang dần dần tiến gần đến chiến thuyền cổ kia, Vương Uy đột nhiên quay sang nói với Dương Hoài Ngọc:
- Lúc chiến thuyền đụng vào thuyền gỗ, tốc độ không nhanh như thế này
Dương Hoài Ngọc cũng rất kinh ngạc, nước lặng, không có gió to, chiến thuyền cổ kia không thể trôi nhanh như thế được, lẽ nào trên thuyền có người thật ư?
Nghe Vương Uy nói vậy, lão Tôn càng thêm nghi ngờ, chính mắt lão đã trông thấy bấy nhiêu lính áo vàng lên thuyền, bao năm dọc ngang trên biển, lão rất tự tin vào con mắt và khối óc của mình, quyết không thể nhầm được.
Chiếc thuyền gỗ dần đuổi kịp chiến thuyền cổ, trên chiến thuyền cổ vẫn chỉ có một ngọn đèn bão tù mù, trong khoang thuyền tối om, giữa dòng sông ngầm mênh mông này, trông hệt như một con thuyền ma không người chèo lái.
Dương Hoài Ngọc thay đồ lặn, ào một cái nhảy xuống nước. Chiến thuyền cổ có mười tám mái chèo, nước sông ngầm lặng sóng, không có gió to, vậy mà nó lại có thể lướt đi nhanh như vậy, khả năng duy nhất là trên thuyền có phu thuyền đang chèo. Nhằm đề phòng lúc chiến đấu với kẻ địch bị phá hủy mái chèo, nên loại chiến thuyền thời Minh này thường giấu kín mái chèo dưới nước.
Dương Hoài Ngọc lặn xuống một lúc lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, Vương Uy và lão Tôn vừa ra sức chèo vừa rì rầm nói chuyện. Vương Uy nói với lão Tôn:
- Bác Tôn, cô ấy lặn xuống xem mái chèo có hoạt động không thôi mà, sao lâu thế?
Lão Tôn gật đầu, hai hàng lông mày càng nhíu chặt lại, cảm thấy Dương Hoài Ngọc ở dưới nước có thể đã xảy ra chuyện, lão bèn buông mái chèo, định chui vào khoang thay đồ lặn. Vương Uy vội lôi lão lại, nói:
- Bác già rồi, lặn xuống dưới không tiện, để đấy tôi xuống xem, hồi nhỏ tôi cũng tập bơi qua sông rồi.
Nghe Vương Uy nói vậy, lão Tôn gật đầu. Vương Uy thay đồ lặn, rồi âm thầm chuồi xuống nước. Bộ đồ lặn này là bọn lão Tôn đặt mua ở nước Anh, luôn đem theo người, trên mũ lặn còn có đèn, bên trong lắp cả ắc quy, chỉ cần bấm nút là bật sáng, có thể chiếu sáng trong phạm vi mười mét dưới nước.
Nước rất lạnh, Vương Uy vừa lặn xuống đã rùng cả mình. Anh lặn xuống sâu mấy mét, phát hiện dưới sông ngầm không có cá, chỉ mênh mông những nước là nước. Anh lặn xuống dưới đáy chiến thuyền cổ, quả nhiên thấy bên dưới có một hàng mái chèo lớn, đang từ từ khua động theo dòng nước.
Những mái chèo này không hề có dấu hiệu gì là có người điều khiển, nhưng nếu là tốc độ tự nhiên thì không thể nhanh như thế được. Vương Uy cố bơi theo con thuyền, tâm trí anh chợt rúng động, trong số những mái chèo hình như có mấy cái chèo rất nhịp nhàng. Anh dụi mắt, lại gần hơn chút nữa, xác nhận mình không nhìn nhầm, ở đấy có ít nhất hai mái chèo đang hoạt động.
Ró ràng trên thuyền có người, Vương Uy kinh ngạc.
Anh bơi tiếp một đoạn nữa, có thể thấy mái chèo của con thuyền gỗ đang khua động liên tục trên đầu anh, nhưng không thấy Dương Hoài Ngọc đâu cả. Chuyện này quả là không bình thường, rõ ràng Dương Hoài Ngọc cũng lặn xuống ở chỗ này mà. Nhìn tư thế xuống nước của Dương Hoài Ngọc Vương Uy có thể đoán được khả năng bơi lặn của cô còn siêu hơn anh nhiều. Nhưng một người sống sờ sờ như thế tại sao lại vô duyên vô cớ biến mất được.
Vương Uy đang thắc mắc thì bỗng thấy một cục máu từ đáy nước nổi lên, anh vội rọi đèn về hướng đó, chỉ thấy sâu dưới nước chừng mười mét, có hai bóng đen đang quấn lấy nhau.
Vương Uy vội lặn xuống đó, thấy trên mình bóng đen phụt ra mấy luồng máu, anh tránh luồng máu đang phun về phía mình, nhận ra một trong hai bóng đen kia là Dương Hoài Ngọc. Thứ đang quấn lấy Dương Hoài Ngọc thấy có người đến liền quay mình chuồn thẳng, tốc độ rất nhanh, chỉ một loáng đã lặn mất tăm.
Vương Uy vội tóm chặt lấy Dương Hoài Ngọc đang cứng đờ cả người, ngoi lên mặt nước. Lão Tôn ném một sợi dây thừng xuống, kéo hai người lên thuyền.
Bàn tay và cánh tay Dương Hoài Ngọc đều bị thương, nhưng vết thương không sâu. Vương Uy lấy thuốc trong hộp cứu thương bôi vào rồi băng lại cho cô, may mà không có gì nghiêm trọng.
Lão Tôn vội la lên:
- Dưới nước có người à?
Dương Hoài Ngọc gật rồi lại lắc đầu, nói:
- Cháu vừa xuống nước thì đèn trên mũ lặn bị đập vỡ, sau đó liền bị một luồng sức mạnh tấn công. Hình như không phải người, người ở dưới nước làm thế nào mạnh như thế được? Thứ đó lôi cháu xuống đáy nước, cháu hoảng quá, vội rút dao ra đánh nhau với nó. Vết thương trên người cháu đều là do lúc đánh nhau bị thứ đó khống chế dao, tự chém vào tay mình.
Lão Tôn vuốt râu, trầm ngâm hồi lâu mới nói:
- Bằng vào thân thủ của cô, đánh nhau với nó bấy nhiêu lâu mà không biết có phải là người không à?
Dương Hoài Ngọc nói:
- Cháu đâu có đụng được vào nó, có điều lúc nó tóm lấy tay cháu, có cảm giác tay nó không phải là tay người, mà là một cặp móng vuốt.
- Móng vuốt? – Vương Uy và lão Tôn cùng sững sờ.
Lão Tôn hỏi dồn:
- Các người có thấy mái chèo hoạt động không?
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đồng loạt gật đầu, nghe họ thuật lại những gì đã gặp ở dưới nước, lão Tôn luôn miệng than quái lạ.
Việc chèo thuyền cổ cũng có quy tắc của nó, gọi là mười hai chèo, nghĩa là ít nhất phải có mười hai mái chèo cùng chèo, bằng không sẽ không thể phát huy ưu thế của cấu tạo mười tám mái chèo được. Lão Tôn và Dương Hoài Ngọc bôn ba trên biển bấy lâu, đã gặp nhiều tàu thuyền đi biển, hiểu khá rõ về các loại tàu thuyền. Họ dọc ngang suốt một dải hải phận Đông Nam Á, từng phát hiện thấy thuyền đi biển cổ đại của Trung Quốc ở rất nhiều làng chài hoặc vùng biển, hàng hải và phòng thủ bờ biển rất phát triển dưới thời Minh, kỹ thuật đóng thuyền đi biển rất cao siêu, vì vậy lão Tôn và Dương Hoài Ngọc hiểu rất rõ về loại chiến thuyền cổ thời Minh này.
Trên chiến thuyền cổ có đông lính áo vàng như thế, nếu chúng muốn tìm gì đó trên con sông ngầm này, chắc chắn sẽ phát huy toàn bộ ưu thế của mười tám mái chèo, chúng không thiếu người, sao lại chỉ chèo có hai mái?
Ba người cùng bàn bạc, cảm thấy cứ phỏng đoán như thế này cũng chẳng ích gì, Vương Uy xung phong lên chiến thuyền cổ kia xem xét, vết thương trên tay Dương Hoài Ngọc không nghiêm trọng nên cô cũng đòi đi với Vương Uy. Lão Tôn khuyên ngăn mấy câu, thấy cô vẫn khăng khăng, cũng đành đồng ý.
Lão Tôn cập con thuyền gỗ vào đuôi chiếc thuyền cổ, Vương Uy nhanh nhẹn tung móc câu vào mạn thuyền, nắm chặt dây móc câu kéo thật mạnh rồi tung người nhảy sang. Chiến thuyền cổ cao hơn thuyền gỗ đến mấy thước, Vương Uy sử dụng cả tay chân, thoăn thoắt leo lên mạn thuyền rồi trèo lên sàn. Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy lên được chiến thuyền cũng tung móc câu leo lên.
Hai người đứng trên boong thuyền, nhìn bóng khoang thuyền đổ dài hiu hắt dưới ánh đèn bão. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc lấy làm lạ, nếu trên thuyền có người thì lúc họ leo lên chắc chắn đã bị phát hiện, tại sao không có động tĩnh gì?
Quái gở vẫn là quái gở! Họ tận mắt trông thấy mái chèo dưới nước bị người điều khiển hẳn hoi, trong khoang thuyền có người là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều rút súng, lên đạn, chuẩn bị sẵn sàng rồi từ từ đẩy của khoang thuyền, cùng với tiếng cánh cửa kèn kẹt mở ra, cả hai vội nép sang một bên theo phản xạ.
Thật bất ngờ, chào đón họ không phải là đạn, mà là một khoảng lặng vô cùng sau tiếng kẹt cửa, gió trên sông chợt đóng sập cửa khoang thuyền lại khiến Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nghe tiếng mà thót cả tim.
Dương Hoài Ngọc lấy từ trong ba lô ra một cái đèn pin rất đẹp, Vương Uy mới thấy lần đầu, nó rất giống với đèn trên mũ lặn, nhưng cự li chiếu sáng rất xa, mà cũng sáng hơn nhiều.
Vương Uy tay cầm súng, dè dặt tiến vào khoang thuyền, Dương Hoài Ngọc soi đèn theo sau. Cô soi khắp khoang thuyền một lượt, nhưng không thấy có dấu vết con người. Những thứ bày biện trong khoang toàn đồ cổ, từ bàn ghế kỷ trà trạm trổ hoa văn đến đủ loại binh khí đao thương kiếm kích đã han gỉ đến không nhận ra hình dạng gì nữa. Dường như tất cả đồ gỗ chạm trổ trong này đều có màu đen thẫm, sờ vào thấy âm ẩm, khiến người ta cảm thấy rất khó chịu.
Trong khoang thuyền giăng đầy mạng nhện, những con nhện to bằng bàn tay quơ quơ những cái chân lều nghều xù xì, bò đi bò lại trên đó. Dương Hoài Ngọc và Vương Uy đến gần lũ nhện, nhưng chúng vẫn bò lổm ngổm, coi như họ không tồn tại.
Vương Uy nói:
- Đay là khoang chính, xem ra nhiều năm nay không có người vào đây. Nếu những tên áo vàng bước lên thuyền mà bác Tôn thấy là người sống, chắc chắn khoang chính sẽ không như thế này.
Dương Hoài Ngọc gật đầu, chuyện này đúng là rất kỳ lạ, họ lượn qua cả khoang một lượt, nhưng không thấy bất cứ thứ gì có giá trị.
Tiếp đó, họ bước xuống tầng dưới. Tầng dưới lẽ thường là nơi ở và làm việc của tướng lĩnh trên chiến thuyền, tầng này ngăn thành mấy gian lớn, trang trí rất đẹp. Gian ngoài còn bày biện xa hoa hơn tầng trên, tuy về cơ bản đồ dùng cũng chẳng khác biệt gì mấy, hai người bèn đi thẳng vào gian trong cùng.
Dương Hoài Ngọc vừa đẩy cửa, liền trông thấy trong đó có một người đang đứng, Vương Uy nhanh mắt nhanh tay, thầm nghĩ người trên chiến thuyền cổ mấy trăm năm tuổi chắc chắn chẳng phải hạng tử tế gì, bèn nhắm thẳng vào người kia, nổ liền hai phát súng.
Dương Hoài Ngọc cũng tắt đèn pin, giơ súng liên thanh quét một tràng, phát nào cũng trúng mục tiêu, đạn ghim vào thân thể phầm phập.
Vương Uy lách người tiến vào phòng, Dương Hoài Ngọc ở phía sau bật đèn pin soi, luồng sáng chói mắt rọi thẳng vào người kia, chỉ thấy kẻ đó đang quay lưng về phía hai người, mình vận chiếc áo dài có hoa văn kỳ lân mai hoa, đầu đội mũ cánh chuồn lụa đen.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nhìn nhau, thì ra đó là một xác chết đã mấy trăm năm, hèn gì trúng nhiều đạn như vậy mà không chảy một giọt máu.
Hai người đi vòng lên phái trước, thấy khuôn mặt cái xác đã khô hết nước, chỉ còn lại cái đầu lâu bọc da nhăn nheo, trông thật ghê sợ.
Nhưng lạ lùng là, tại sao người này lại chết đứng? Nếu là người bình thường, dù đột tử do bệnh tim mạch chắc hẳn cũng sẽ ngã lăn ra chết, lẽ nào cái xác từ thời nhà Minh này vẫn đứng trong phòng suốt năm trăm năm qua? Chẳng phải quá ly kỳ sao?
Hơn nữa, chiến thuyền cổ này đi dưới dòng sông ngầm năm trăm năm, biết bao nhiêu lần gặp gió mạnh, đụng vào bờ đê hay đá ngầm, hoặc rơi vào vùng nước xiết, khó tránh khỏi chao đảo, tại sao cái xác này vẫn đứng vững?
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều không hiểu, cả hai đi quanh quan sát cái xác vô số lần vẫn chẳng tìm được nguyên nhân, lòng vô cùng thắc mắc.
Bỗng Vương Uy nói:
- Cô Ngọc, cô có thấy tư thế đứng của người này giống hệt bức bích họa trong địa lao phủ bối lặc mà bác Tôn kể không?
Dương Hoài Ngọc nhìn phía sau cái xác, nhớ lại bản sao của bức bích họa mà lão Tôn cho cô xem, toàn thân chợt toát mồ hôi lạnh.
Nhìn sau lưng, cái xác này giống hệt vị quốc vương Lạp Cách Nhật trong tranh, dường như cũng đang đứng quay lưng về phía quần thần, nghe các quần thần báo cáo, thật khó hiểu. Không những tư thế, dáng vẻ, thần thái sống động giống hệt quốc vương Lạp Cách Nhật, mà thậm chí cả khí thế oai phong chấn nhiếp quần thần cũng như đúc một khuôn.
Quốc vương Lạp Cách Nhật có liên quan gì đến chiến thuyền cổ thời Minh trôi trên dòng sông ngầm này? Tại sao vị quan triều Minh này lúc chết lại giống quốc vương Lạp Cách Nhật đến vậy?
Cánh tay cầm đèn pin của Dương Hoài Ngọc run run, Vương Uy cũng nhận thấy vẻ không ổn của cô ta. Đáp án đã rõ, vị quan triều Minh chết đứng này nhất định có mối quan hệ thần bí nào đó với vương triều Lạp Cách Nhật trong truyền thuyết.
Vương Uy dời mắt khỏi cái xác, thấy gần đó có một chiếc bàn dài, bên trên đầy đủ bút giấy, nghiên mực. Một xấp giấy đã ố vàng chặn dưới nghiên mực, trên giấy viết đầy những chữ. Anh bất giác “ồ” lên một tiếng, lại gần bên bàn xem xét. Nghe Vương Uy buột miệng ồ lên, Dương Hoài Ngọc cũng sực tỉnh.
Vương Uy cầm tệp giấy đã ố vàng lên, chỉ thấy chữ trên đó viết theo thể chữ khải, ghi lại toàn bộ những điều sâu xa, nét chữ đẹp mà không lả lướt, rắn rỏi mà nắn nót, có thể coi như hàng thượng phẩm trong thư pháp. Thuở nhỏ Vương Uy học thầy giáo riêng ở nhà, ông nội của anh từng mời một ông thầy nổi tiếng nhất kinh thành về dạy cho anh nên về thư pháp, Vương Uy khá có bài bản, cũng xem như có trình độ.
Đọc xong mấy chục trang giấy ấy, Vương Uy sợ toát mồ hôi, lòng cũng trầm hẳn xuống, quả nhiên nơi đây là một thung lũng chết, hơn nữa còn là đất dữ trong phong thủy nghìn năm hiếm gặp.
Đại ý nội dung trên giấy nói vị này là quan lớn nhất phẩm của triều Minh dưới thời Vạn Lịch, họ Trương, tên Tử Thông, tên chữ là Dữ Chi, về dòng dõi của ông ta, có thể truy nguyên về tận hoàng đế khai quốc triều Minh Chu Nguyên Chương, cụ tổ ông ta từng theo Chu Nguyên Chương dánh dẹp, giành được đến nửa giang sơn Đại Minh, về sau mới cởi giáp, từ bỏ binh quyền làm một quan văn. Từ đời cụ tổ trở đi, họ Trương đời đời đều có người làm quan lớn trong triều đình, trung lương chính trực, bản thân ông ta cũng đậu võ trạng nguyên vào năm Vạn Lịch thứ hai mươi mốt, có công dẹp loạn, được phong làm Trấn Đông đại tướng quân, hàm nhất phẩm.
Vạn Lịch năm thứ ba mươi mốt, tức là mười năm sau, Vạn Lịch hoàng đế Chu Dực Quân bỗng lâm bệnh lạ, các vị ngự y trong triều dùng đủ mọi cách vẫn không chữa khỏi. Không còn cách nào khác, trong cung đành phải hạ thánh chỉ, chiêu mộ thần y trong thiên hạ để chữa khỏi bệnh cho hoàng đế. Lúc ấy, một vị lạt ma người Tạng vào cung, vừa thấy bệnh tình của hoàng đế, ông liền bảo sẽ chữa khỏi, rồi kê mấy phương thuốc lạ lùng, nào ngờ lại trị lành được cho Vạn Lịch Thần Tông hoàng đế.
Hoàng đế khỏi bệnh, phong thưởng cho lạt ma không biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu, nhưng lạt ma nhất mực từ chối. Hoàng đế lấy làm lạ, nói rằng vị lạt ma là ân nhân cứu mạng của mình, bách tính thường dân còn biết đạo lý mang ơn phải báo đáp, thân là cửu ngũ chí tôn, càng phải làm gương cho thiên hạ.
Vị lạt ma không từ chối nổi, đành yêu cầu nhà vua giúp ông ta làm một việc, còn ngọc ngà châu báu, quan to lộc lớn ông ta không hứng thú. Vị lạt ma lấy từ trong bọc ra một tấm bản đồ dơ dáy, đưa cho hoàng đế xem, rồi rỉ tai nói nhỏ mấy câu, Vạn Lịch hoàng đế lập tức biến sắc mặt, truyền lệnh bãi triều.
Trương Tử Thông không biết vị lạt ma kia nói gì với hoàng đế, nhưng sau buổi chầu đó, Vạn Lịch hoàng đế liền mấy hôm không thượng triều, chỉ ở trong cung mật đàm với vị lạt ma
Bốn ngày sau, Vạn Lịch hoàng đế ra một mật chỉ, phong cho Trương Tử Thông làm khâm sai đại thần, phái một nghìn ngự lâm quân cùng bốn nghìn quan quân Tứ Xuyên tiến vào Tây Tạng, dựng chùa ở phía Tây Nam, ban danh Phong Đô.
Trương Tử Thông đem năm nghìn quân vào Tây Tạng, mất một tháng để xây chùa Phong Đô, sau đó dựa theo tấm bản đồ thần bí mà Vạn Lịch hoàng đế ban cho, tiến sâu vào vùng núi tuyết, thuận lợi tìm được hang động khổng lồ dưới lòng đất này.
Trong triều, Trương Tử Thông được phong làm nhất phẩm đại thần, Trấn Đông đại tướng quân, nhưng thực tế ông ta còn có một thân phận đặc biệt khác, đây là bí mật mà trong triều ngoài nội không ai biết, chỉ trừ Vạn Lịch hoàng đế. Thân phận đặc biệt đó là Ngự Dụng quốc sư của Vạn Lịch hoàng đế, chuyên tìm long mạch, chọn huyệt vị, phân tích địa thế long mạch khắp thiên hạ.
Trương Tử Thông tiến vào vùng núi tuyết, bị địa thế long mạch ở đây trấn trụ, chỉ thấy long mạch phía Nam bắt nguồn từ núi Côn Lôn, thế đi rất hiểm, đến núi tuyết Đường Cổ Lạp thì rơi vào vùng đất dữ kìm hãm long mạch nên bị vùi lấp dưới lòng đất. Mà hang động ngầm dưới đất này theo truyền thuyết lại đứng đầu trong số mười vạn thế đất hung hiểm, là Bối long âm khư, dương khí không vào được, âm khí không ra được. Kỳ dị hơn nữa là, tấm bản đồ vẽ đến đây thì bỏ trống quãng giữa, các phần sau không có liên hệ gì cả.
Muốn hoàn thành mật lệnh của Vạn Lịch hoàng đế phải nghĩ cách phá được Bối long âm khư. Trương Tử Thông tụt xuống hang động ngầm, phát hiện ra dưới này là một biển nước mênh mông, tuyết từ trên núi chảy xuống ngập cả hang, nước sâu quá sức tưởng tượng. Quan trọng hơn, cái hang này vốn là đất chí âm, nước ngập cả đôi mắt rồng của Bối long âm khư, không thấy mắt rồng nghĩa là không có cách nào phá nổi tuyệt địa phong thủy Bối long âm khư.
Trương Tử Thông cho năm nghìn quân đóng ở khe núi lớn rồi một mình xuống thám hiểm hang sâu. Hơn một tháng sau, qua nhiều lần cân nhắc, ông ta quyết định làm một việc kinh thiên động địa là ngăn nước chặn dòng, quây biển nước dưới lòng đất này lại, đắp một con đê lớn,tạo thành một bờ ngăn nước, để một phần âm khí chìm xuống đáy sâu, một phần ở trong không khí, hình thành địa thế âm dương phân cách. Bối long âm khư thuộc âm, một khi nằm giữa hồ nước sẽ biến thành vô hình, chỉ có rót dương khí vào mới có thể làm cho âm khư hiện hình.
Trương Tử Thông chỉ huy năm nghìn người chặn đứng mấy đường thủy đạo chủ yếu chảy vào hang sâu, hao tốn năm năm xây lên một con đê lớn dài mười mấy cây số trong hang. Trong năm năm đó, tại hang này đã xảy ra nhiều sự việc khác thường, năm nghìn quân sĩ cũng hi sinh không ít, tổn thất rất nặng nề.
Đắp xong con đê, để tiện qun sát toàn cảnh con sông ngầm, Trương Tử Thông lại ra lệnh đóng chiến thuyền cổ mười tám mái chèo này. Trong quân chẳng thiếu thợ khéo, họ nhanh chóng hoàn thành chiến thuyền, Trương Tử Thông chọn ngày hoàng đạo, thân chinh dẫn năm chục tướng sĩ dong thuyền thám hiểm sông ngầm.
Trương Tử Thông từ nhỏ đã luyện được đôi mắt có thể nhìn thấu âm dương, trong thấy đôi mắt rồng của Bối long âm khư. Ông ta chỉ huy chiến thuyền tiến vào dòng sông ngầm, không khỏi kinh ngạc trước sự rộng lớn của thủy vực, thậm chí có thể coi nơi này là đại dương dưới lòng đất, hang động do con đê của ông ta vây lại tạo thành, chỉ bằng một góc so với thủy vực rộng lớn này thôi.
Trong khi tuần tra thủy vực, Trương Tử Thông phát hiện thấy đôi mắt rồng của Bối long âm khư trên mặt nước, ông ta đã rất kích động, cho rằng biện pháp phân cách thủy vực âm dương của mình đã có hiệu quả, bèn thân chinh chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng kia.
Bấy giờ Trương Tử Thông đã hoàn toàn rơi vào trạng thái điên cuồng, ông ta chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng của Bối long âm khư hơn một tháng mà chẳng thu được kết quả gì. Ngay sau đó lại xảy ra một sự việc nghiêm trọng hơn, tướng sĩ trên thuyền cứ lần lượt chết đi, hết người này tới người khác, khiến ông ta phải ra lệnh cho thuộc hạ điều tra rõ ngọn ngành.
Nhưng bất kể Trương Tử Thông dùng cách nào đi nữa, người trên chiến thuyền vẫn cứ chết dần chết mòn, không cách gì ngăn nổi, quân sĩ trên thuyền chết đi, lại phải lấy thêm người trên bờ bổ sung. Cho đến một hôm, năm nghìn quân của Trương Tử Thông đưa đến chỉ còn lại năm mươi người cuối cùng trên thuyền, ông ta mới nhận ra thời gian của mình không còn nhiều, liền bắt tay ghi chép lại những gì đã trải qua dưới hang ngầm này.
Ông ta giam mình trong phòng nghị sự, hằng ngày chỉ nghe phó tướng đến báo cáo có thêm bao nhiêu người chết, bỗng một hôm, ông ta phát hiện ra bí mật trong chuyện này. Thì ra trong số bọn họ có một thứ đang ẩn náu, ông ta không trông thấy, cũng không biết nó là gì, nhưng có thể khẳng định thứ đó đang trà trộn giữa bọn họ, bất cứ lúc nào cũng có thể âm thầm quan sát tất cả hành động của bọn họ.
Ông ta có thể khẳng định rằng năm nghìn tướng sĩ do mình dẫn đến đây đều chết dưới tay thứ đó, nó giống như một con sói đói mai phục giữa đàn cừu, lần lượt ăn thịt hết cừu trong đàn vậy.
Sau khi biết thứ đó tồn tại, Trương Tử Thông viết càng nhanh hơn, trước khi bị thứ đó giết hại, nhất định ông phải viết bằng hết mọi chuyện để lại cho người đời sau.
Cho đến một hôm, viên phó tướng đến trước cửa phòng ông ta, đứng lặng ở cửa hồi lâu, không nói gì. Trương Tử Thông liền hỏi:
- Có chuyện gì? Hôm nay chết mấy người?
Viên phó tướng nói một câu ròi đi ngay:
- Chỉ còn lại tôi và tướng quân.
Nghe viên phó tướng nói, Trương Tử Thông đáp lại một tiếng “Biết rồi”, đoạn tiếp tục viết.
Tiếng viên phó tướng xa dần về cuối hành lang, bỗng Trương Tử Thông nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết, tiếng kêu của viên phó tướng đã theo ông suốt mười năm trời. Đúng vậy, viên phó tướng cũng đã chết.
Lúc ấy, ngoài cửa chợt vang lên tiếng chân lạ, mỗi lúc một tiến đến gần. Trương Tử Thông biết đã đến lượt mình, bèn từ từ đứng dậy, nghênh đón con quỷ giết người kia.
Phá giải được bí mật của Bối long âm khư, Trương Tử Thông đã có thể lìa bỏ thế giới này, đi đối diện với con quỷ giết chết năm nghìn tướng sĩ của ông mà chẳng còn gì nuối tiếc nữa.
Những trang viết đến đây thì dừng lại, mấy trang giấy sau đều để trắng khiến Vương Uy không khỏi rúng động.
Ác quỷ đã giết hết năm nghìn tướng sĩ kia là thứ gì?
Anh chợt nghĩ chẳng hiểu cái chết thảm thương của Ngoẹo và Ngọng trong quan tài đá treo trên những trụ đá dưới hang sâu kia có liên quan gì đến con quỷ này hay không?
Dương Hoài Ngọc cũng cùng Vương Uy đọc xong tất cả các ghi chép, cô chỉ vào dòng cuối cùng nói:
- Ông ta viết xong mấy dòng chữ này liền đứng dậy ngay, anh nhìn dáng vẻ ông ta hiện giờ xem, trông y như vừa rời ghế vậy.
Vương Uy cũng để ý thấy điều này, nghĩ lại những ghi chép chân thực của Trương Tử Thông, da đầu anh bỗng tê đi, lẽ nào trên đời này thật sự tồn tại thứ gì đó mà mắt người không thể trông thấy? Nó ở ngay dưới hang sâu này, giết chết năm nghìn tướng sĩ nhà Minh, mà năm nghìn tướng sĩ thét ra lửa trên chiến trường ấy chỉ có thể trơ mắt chứng kiến bản thân bị giết như gia súc bị đưa vào lò mổ mà không có khả năng phản kháng, chết cho đến tận người cuối cùng, Đại tướng quân Trương Tử Thông.
Phải chăng thứ đó là ma quỷ?
Lòng Vương Uy tê dại hẳn đi, cảm thấy chuyện này quá sức kỳ lạ. Dương Hoài Ngọc chỉ vào xác Trương Tử Thông, nói:
- Nhìn dáng vẻ ông ta này, vẻ mặt ông ta trước khi chết rất bình thản, như không phải bị giết mà tự nhiên đi vào cõi chết vậy.
Vương Uy khẽ lẩm bẩm:
- Thứ có thể lấy mạng người như vậy, rột cuộc là gì?
Dương Hoài ngọc nói:
- Chúng ta không biết nó là gì, nhưng có thể khẳng định, đó không phải là người.
Đúng lúc đó, ở khoang dưới cùng vang lên tiếng kẹt cửa, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đồng loạt xông ra, ôm súng chạy xuống tầng dưới.
Khoang thuyền phía dưới có một hành lang dài, hai bên hành lang là một dãy phòng, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc thận trọng đi dọc hành lang, tim như muốn thót lên đến cổ họng. Cả hai đều băn khoăn chẳng rõ đó có phải là tiếng của con quái vật đã giết chết năm nghìn quân Minh hay không?
Trong khoang thuyền tĩnh lặng như chết, Dương Hoài Ngọc một tay cầm súng, một tay chiếu đèn pin vào từng góc hành lang. Mắt Vương Uy sáng trưng như điện, anh có thể khẳng định đây là giây phút căng thẳng nhất trong đời mình.
Trước đây trên chiến trường, đối diện với kẻ địch dũng mãnh như hổ sói anh cũng chưa từng sợ hãi, nhưng lần này thì khác, kẻ địch của họ không phải là người, thậm chí rất có thể cũng không phải là thú dữ, mà là một thứ không trông thấy được, có thể khiến người ta phải giương mắt chứng kiến bản thân bị nó giết hại.
Tiếng chân hai người vang vọng dọc hành lang, tiếng kẹt cửa kia chỉ vang lên một lần rồi tắt hẳn, nhưng Vương Uy và Dương Hoài ngọc rất nhạy cảm, đều cảm thấy vật kia như đang ở ngay bên cạnh, lén lút theo dõi họ ngay trong tầm mắt họ. Dương Hoài Ngọc cố nén sợ bảo Vương Uy:
- Anh có để ý thấy không, ở đây ngay cả bóng dáng mấy tên lính mặc quân phục vàng cũng không có nữa? Nhưng bác Tôn lại bảo mình không nhìn nhầm, chắc chắn là chiếc thuyền này.
Vương Uy nói:
-Tôi nghĩ ra từ lâu rồi, bọn lính ấy rất có thể cũng như cha cô và đám lính nhà Thanh mà tôi thấy trong thung lũng vậy, họ không phải là người sống, con thuyền này là thuyền ma.
Mấy câu này khiến Dương Hoài Ngọc lạnh toát cả sống lưng, cả người run rẩy, sự thực chứng minh, chiến thuyền cổ thời Minh trôi trên con sông ngầm này hơn năm trăm năm nay đúng là một con thuyền ma.
Dương Hoài Ngọc lạnh người, nói:
- Chúng ta mau đi tiếp thôi.
Vương Uy xua tay, nói:
- Nếu hôm nay không kiểm tra rõ con thuyền này thì cả đời chúng ta không thể yên tâm nổi chứ đừng nói gì tìm ra bí mật của vương triều Lạp Cách Nhật.
Anh đến trước một cánh cửa, thình lình đá bật cửa ra, lao vào trong, Dương Hoài Ngọc cũng xông vào theo. Khoang thuyền này là nơi đặt mười tám mái chèo, mười tám mái chèo chia ra hai bên, mỗi bên chín mái, có mấy chiếc đang hoạt động.
Vương Uy chỉ vào hai mái chèo. nói:
- Cô xem, bụi bẩn trên hai mái chèo này đều bị lau sạch, trên thuyền chắc chắn có người sống.
Dương Hoài ngọc soi đèn quan sát kỹ hai mái chèo, gật đầu:
- Trên đó còn có dấu tay, khi nãy âm thanh kia vừa vang lên chúng ta đã lao xuống ngay, chắc chúng đang ở trong một phòng khác.
Vương Uy gật đầu, hai người bèn trở ra ngoài, lần lượt đạp tung từng cánh của dọc hành lang, xông vào kiểm tra, nhưng không thấy bóng người nào cả.
Ngay lúc ấy, phía trên hành lang đột nhiên lại vang lên tiếng ken két, có điều âm thanh này rất chói tai, không phải tiếng cửa gỗ.
Vương Uy và Dương Hoài ngọc kinh hoàng thốt lên:
- Hỏng rồi!
Hai người chạy nhanh về đầu trên hành lang, nhưng hai cánh cửa sắt sừng sững đã nặng nề đóng lại, vào khoảnh khắc của sắt khép lại Vương Uy còn kịp nổ hai phát súng qua khe cửa, nhưng không có kết quả gì. Cửa sắt bị đóng chặt, tiếp đó nghe có tiếng khóa cửa, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc chỉ biết trơ mắt nhìn mình bị giam trên chiếc thuyền ma này, lòng trầm hẳn xuống.
Trong lòng hai người có vô số nghi vấn, bên ngoài cánh cửa kia rốt cuộc là người hay ma? Nếu là người thì đó là ai?
Lú người bước ra hành lang, họ đâu có ngờ hai cánh cửa sắt này chính là tử huyệt của khoang thuyền dưới cùng. Cánh cửa này đúc bằng sắt, súng bắn không thủng, một khi bị khóa lại, nếu không có người bên ngoài mở khóa thì không thể nào mở ra được. Dương Hoài Ngọc nói cách thiết kế này rất phổ biến trên những chiến thuyền cổ thời Minh, tầng dưới cùng là trung tâm của các loại cơ quan trên thuyền, trong lúc tác chiến, phải đảm bảo an toàn cho trung tâm của các loại cơ quan trên thuyền cùng tất cả phu chèo thuyền. Hai cánh cửa sắt này có cả khóa trong khóa ngoài, chỉ cần khóa chặt một phía là không có cách nào mở ra nổi.
Vương Uy quan sát kỹ cánh cửa sắt mấy lần, không ngờ ngay cả bản lề cũng đúc bằng sắt, đúng là không thể thoát khỏi hai cánh cửa này được.
Cả hai đang mải chăm chú quan sát cánh cửa sắt, bỗng Dương Hoài Ngọc kêu lên:
- Có người!
Vương Uy nhìn về phía Dương Hoài Ngọc, thấy cô chiếu đèn pin vào một góc hành lang. Nhưng dưới ánh đèn pin loang loáng, phía cuối hành lang âm u chỉ thấy những cánh cửa gỗ đen kịt, cả hành lang bốc lên mùi ẩm mốc ngai ngái. Hai người cùng chĩa súng vào góc hành lang đó rồi từ từ đi vào bên trong, mùi ẩm mốc khiến mũi họ rất khó chịu, ngay cả hít thở cũng khó khăn. Bầu không khí tĩnh mịch vô bờ khiến tiếng chân của họ càng thêm vang vọng, như thể cứ bước chân một bước chân, tim lại nảy lên một nhịp.
Bầu không khí này thật khiến người ta tuyệt vọng, họ kiểm tra khắp cả khoang thuyền, rõ ràng chẳng có bất cứ người nào cả. Ngay sau đó, họ lại nghĩ đến thung lũng tuyết, hang động ngầm nằm sâu dưới lòng đất hàng mấy trăm mét, chiến thuyền cổ thời Minh phiêu bạt trên dòng sông ngầm mênh mông, và cả thứ không biết là người hay ma cứ lẵng nhẵng bám theo họ như u hồn vậy, càng nghĩ họ càng thêm sợ.
Vương Uy ghé tai Dương Hoài ngọc hỏi nhỏ:
- Vừa rồi cô thấy gì?
Dương Hoài Ngọc gần như run bắn lên, đáp:
- Một bóng người, đúng là một bóng người, soạt một cái hắn ta đã chạy vào góc kia, tôi không nhìn nhầm đâu.
Vương Uy sững sờ, chuyện này nhất định không thể xảy ra được, trong khoang thuyền đều lát gỗ, hắn chạy trên hành lang, sao có thể không gây ra tiếng động?
Nhưng vẻ kinh hoàng tột độ trong ánh mắt Dương Hoài Ngọc dường như không phải là giả vờ. Hai người đi đến gian phòng khuất nẻo nhất hành lang thì dừng lại. Cửa phòng này khép hờ, chỉ để hở một khe nhỏ, trên song cửa còn dán giấy, vì lâu ngày nên lớp giấy đã ố vàng, bên trên còn dính một lớp dầu mỡ. Vương Uy nhìn Dương Hoài Ngọc, cô gật dầu, khẽ đẩy cửa ra, theo tiếng “kẹt” cửa, bóng tối sau cánh cửa bị ánh đèn pin xua tan, lộ ra một đống đồ đạc cao ngất, bên trên còn trùm một tấm vải gai, trông lù lù như một đống đất nhỏ.
Hai người kiểm tra mọi ngóc ngách không thấy một ai khác cả, Dương Hoài Ngọc bèn lật tấm vải trùm đồ ra, vừa nhìn thấy vật bên dưới tấm vải, cô đã giật nảy mình, Vương Uy cũng được phen hoảng vía.
Đó là một tượng đá lớn đứng trên bệ gỗ, trông như một pho tượng Phật. Nhưng bức tượng đá này lại có thêm một đôi cánh, thân cao một trượng tám, trên chiếc cổ dài là một cái đầu chim, rất giống bức tượng người chim mà Vương Uy thấy trong rừng ở Xương Đô.
Anh không sao ngờ được bệ đá trên lưng chừng núi kia lại có dính dáng tới hang ngầm dưới dãy núi Đường Cổ Lạp, sự việc này mỗi lúc một phức tạp rồi.
Chắc đây là lần đầu Dương Hoài ngọc trông thấy bức tượng này nên gương mặt có vẻ ngỡ ngàng. Vương Uy bèn kể lại cho cô nghe những gì mình đã thấy trong khu rừng rậm ở Xương Đô, Dương Hoài Ngọc cũng kinh sợ không thôi.
Rồi anh lại nghĩ đến hành tung bất định của đám lính đào trộm mộ dưới trướng Mã Văn Ninh, tất cả đều bắt nguồn từ tấm bản đồ của vị lạt ma già, nhưng rốt cuộc tấm bản đồ đó ra sao thì chẳng thể điều tra được nữa. Có điều Mã Văn Ninh dựa vào tấm bản đồ đó, trước là thấy cây đá trong rừng Xương Đô, lại đến được hang ngầm dưới núi Đường Cổ Lạp, tất cả đều là sự thật không cãi vào đâu được. Bức tượng người chim thần bí có liên quan gì đến những thứ mà Mã Văn Ninh muốn tìm?
Tấm bản đồ mà Vạn Lịch hoàng đế nhận được năm xưa giống hệt tấm mà Mã Văn Ninh tìm được, khác chăng là Vạn Lịch hoàng đế cử Trương Tử Thông đi tìm hang ngầm, còn Mã Văn Ninh lại đích thân dẫn đội đào trộm mộ đến, kết quả là những kẻ đến đây không một ai thoát được, tất cả đều chết một cách ly kỳ.
Điều làm cho Vương Uy kinh ngạc nhất chính là trên chiến thuyền của Trương Tử Thông tại sao lại có bức tượng này? Trương Tử thông ghi chép tỉ mỉ lại mọi chuyện từ sau khi ông ta nhận được mật chỉ của nhà vua, chỉ không hề nhắc tới xuất xứ của bức tượng người chim, thật là quái lạ.
Bệ gỗ này được làm rất khớp với chân pho tượng, xem ra đã được thiết kế công phu, tức là trước khi đóng con thuyền chiến này thì đã có bức tượng người chim rồi, nhưng bức tượng thần bí này đâu ra?
Vương Uy đứng trước bức tượng, lòng hết sức khó chịu, cảm giác ngột ngạt vô cùng, giống như bị thứ gì đó lèn chặt vậy. Đôi mắt màu nâu vàng của pho tượng người chim cúi nhìn xuống, Vương Uy vừa ngước lên liền chạm ngay phải luồng mắt ấy, đôi mắt người chim rất sắc sảo như thể thoáng nhìn đã thấu tâm can người khác.
Vương Uy nhìn mấy lần rồi chẳng dám nhìn thêm nữa, cặp mắt ấy âm u tăm tối như có thể hút cả hồn vía con người vậy.
Đột nhiên Dương Hoài Ngọc lên tiếng:
- Anh Uy, anh có cảm thấy toàn bộ sự việc có rất nhiều nghi vấn không?
Vương Uy ngước nhìn Dương Hoài Ngọc, chờ cô nói tiếp.
- Anh còn nhớ trong ghi chép của mình, Trương Tử Thông có viết câu gì không? Ông ta nói bí mật của Bối long âm khư đã bị phá giải, ông ấy có thể yên tâm mà chết, nên tôi đoán chừng năm nghìn quân của ông ấy lần lượt bị giết là bởi bí mật của Bối long âm khư.
Nghe Dương Hoài Ngọc nói vậy, Vương Uy cũng cảm thấy trong chuyện này có nhiều nghi vấn, lúc ấy khi anh đọc đến câu đó, lòng cũng thấy rất lạ, nhưng những sự việc về sau xảy ra quá đột ngột nên anh không nghĩ tiếp nữa. Bây giờ phân tích manh mối này, thấy đúng là có vấn đề.
Điểm quan trọng nhất là, bức tượng người chim thần bí này đến đây bằng cách nào? Trương Tử Thông mất năm năm đắp con đê dưới hang ngầm là để phá Bối long âm khư, đã phá giải được bí mật của Bối long âm khư rồi, tại sao ông ta không rời hang ngầm này mà quay về tiếp tục sứ mệnh mà Vạn Lịch hoàng đế giao phó?
Rốt cuộc bên trong đã xảy ra chuyện gì?
Dương Hoài ngọc nói:
- Có mấy sự việc quan trọng nhất thì Trương Tử Thông không ghi lại, lẽ nào vấn đề nằm ở đấy?
Vương Uy cũng nhận thấy điểm này, năm trăm năm sau khi Trương Tử Thông chết, theo họ biết được thì đám lính đào trộm mộ của Mã Văn Ninh đã đến đây. Đội đào trộm mộ của Mã Văn Ninh có hơn một nghìn người, chắc hẳn đã phát hiện ra chiến thuyền cổ này chẳng khó khăn gì.
Lại cả căn nhà kho dưới chân con đê nữa, có thể khẳng định nhà kho ấy do Mã Văn Ninh dựng nên, bọn chúng xây căn nhà kho này bên bến thuyền là để đóng thuyền. Diện tích mặt đất của cái hang ngầm này rất rộng, vậy mà bọn chúng không tốn công sức đóng thuyền như Trương Tử Thông, lẽ nào mục đích cũng là để phá giải Bối long âm khư, hoặc có thể nói, mấu chốt phá giải Bối long âm khư là ở dòng sông ngầm này ư?
Càng nghĩ Vương Uy càng thấy khả năng này rất có thể xảy ra, anh nói suy nghĩ của mình với Dương Hoài ngọc, cô cũng tán đồng.
Càng nói hai người càng thấy sự việc đúng như thế, Dương Hoài Ngọc cũng nói đôi điều suy nghĩ của mình, đột nhiên Vương Uy hạ giọng nói:
- Cô xác định vừa rồi cái bóng cô thấy là người chứ?
Dương Hoài Ngọc ngẩn ra giây lát, gật đầu:
- Tôi thấy cái bóng kia loáng một cái đã bỏ chạy, căn bản không trông rõ được, nhưng tôi cảm giác đó đúng là một con người.
Vương Uy gật đầu, nói:
- Cô có để ý không, trừ gian phòng này, các gian phòng khác dọc lối đi đều khóa trái từ bên trong, lúc vào tôi đã đẩy thử từng cánh cửa một rồi.
Câu nói này làm cho Dương Hoài Ngọc chấn động đến nổ đom đóm mắt, cứ ngỡ như mình nghe nhầm, nếu mọi căn phòng đều khóa trái thì cái bóng kia chỉ có thể vào phòng này. Nhưng khi vào, cô đã kiểm tra kỹ mọi ngóc ngách, không hề thấy sinh vật sống nào, vậy cái bóng kia chạy đi đâu?
Vương Uy cũng nghĩ như vậy, anh cầm lấy đèn pin từ tay Dương Hoài Ngọc, soi trên soi dưới khắp lượt, không hề thấy có dấu tích người sống ẩn nấp.
Dương Hoài Ngọc lại đi theo Vương Uy đi kiểm tra khắp xung quanh, cơ hồ không bỏ sót một ngóc ngách nào, đột nhiên Vương Uy để ý thấy lúc họ vào đã mở cửa phòng ra, nhưng chẳng rõ từ bao giờ, cánh cửa kia lại đóng im ỉm.
Vương uy toát mồ hôi lạnh, anh nhớ rõ ràng là họ đã mở cửa, cũng chưa hề đóng lại, vậy thứ gì đã lặng lẽ đóng cửa ngay trước mắt họ? Lẽ nào trong tối thật sự có thứ gì đó ẩn nấp, cái bóng kia vốn không phải người ư?
Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy cứ trợn trừng mắt nhìn cánh cửa đen trạm trổ hoa văn, bèn hỏi:
- Anh sao thế?
Vương Uy muốn xác nhận mình không nhớ nhầm bèn hỏi Dương Hoài Ngọc.
- Từ lúc chúng ta vào, cái cửa này vẫn luôn mở, đúng không?
Nào ngờ Dương Hoài Ngọc lắc đầu nói:
- Cửa vẫn đóng mà. Anh vào theo tôi, sau đấy khép cửa lại, anh không nhớ à?
Dương Hoài Ngọc nói rất bình tĩnh, nhưng Vương Uy nghe mà toát mồ hôi lạnh. Anh nhớ lại quá trình lúc tiến vào, khẳng định mình nhớ không lầm, anh căn bản không hề khép cửa, mà Dương Hoài Ngọc vào trước lại càng không thể khép cửa.
Sao cánh cửa này lại bị khép vào chứ? Càng kinh ngạc hơn nữa là, tại sao Dương Hoài Ngọc lại nói anh khép cửa? Sao có thể như thế chứ?
Vương Uy nhìn vào mắt Dương Hoài Ngọc, mắt cô rất to, sống mũi cao, gương mặt kết hợp cả nét đẹp nhu mì và cương nghị. Nhưng trong mắt cô Vương Uy lại thấy vẻ quái dị, mơ màng và đờ đẫn, một tay cô nàng đang ghì chặt khẩu tiểu liên.
Vương Uy nhắc lại:
- Cửa thật sự là do tôi đóng lại ư?
Dương Hoài Ngọc cảnh giác nhìn Vương Uy, gật đầu:
- Đúng vậy, anh vào rồi khép cửa mà.
Vương Uy đi đi lại lại trong phòng, tự mình quan sát kỹ từng ngóc ngách, từng đồ vật. Bức tượng người chim trên bệ gỗ cạnh đó vẫn giữ nguyên tư thế kỳ dị, đứng sừng sững trước mặt Vương Uy. Vương Uy cứ cảm thấy ngột ngạt, tức thở, anh dám khẳng định trong căn phòng này có thứ gì đó, tuy anh không nhìn thấy nó, nhưng vẫn mơ hồ cảm thấy nó đang tồn tại, nó ẩn nấp trong bóng tối, theo dõi hai người.
Vương Uy chợt lạnh toát sống lưng, anh luôn cảm thấy thứ đó đang bám theo anh, sẵn sàng xông ra bất cứ lúc nào. Trong phòng thoang thoảng một mùi hôi thối âm ẩm, khiến người ta lợm cả giọng. Anh để ý thấy căn phòng này tăm tối khác thường, hình như không phải là nơi dành cho người sống.
Suy xét kỹ mọi tiền nhân hậu quả trong chuyện này, nghĩ thế nào anh cũng cảm thấy mình không nhầm, nhưng rõ ràng cửa đã đóng lại, mà Dương Hoài Ngọc còn nhấn mạnh là do chính anh khép, chẳng lẽ trí nhớ của anh có vấn đề?
Vương Uy lập tức phủ nhận giả thiết đó, anh đã chinh chiến mười mấy năm trời, nơi chiến trường rừng tên mưa đạn thì bình tĩnh là tiền đề bắt buộc để chiến thắng mọi thứ, anh tin rằng từ lúc xuống hang ngầm đến giờ mình vẫn luôn luôn bình tĩnh.
Đã giữ được bình tĩnh thì Vương Uy không cần phải nghi ngờ trí nhớ của mình nữa, vậy kẻ đáng nghi ngờ nhất lúc này phải là Dương Hoài Ngọc. Giả dụ cô ta nói dối đi, nhưng trước sau cô vẫn theo sát bên cạnh anh, cũng không có khả năng khép cửa, cánh cửa này không thể do cô lặng lẽ khép lại được.
Vương Uy càng nghĩ càng sợ. Cứ theo những dữ kiện này mà suy đoán thì người đáng ngờ nhất trong căn phòng này chính là Dương Hoài Ngọc, bởi cái bóng kia chạy vào một góc hành lang, vậy mà Vương Uy tinh nhanh như thế lại chẳng hề phát hiện ra thì thật là kỳ lạ.
Sơ bộ sự việc hiện rõ dần, chắc chắn Dương Hoài Ngọc có vấn đề, cô ta không những có vấn đề, mà quan trọng hơn nữa là, rất có thể cô ta không phải là người.
Toàn thân Vương Uy tê dại, sởn cả da gà, không thể ngờ chiến hữu đi theo bên mình lâu như thế lại không phải là người sống. Hoặc có thể nói, thoạt đầu Dương Hoài Ngọc là người, nhưng từ sau khi xuống hang ngầm, không biết từ lúc nào, cô đã không còn là Dương Hoài Ngọc khi trước nữa.
Vương Uy giữ chắc cò súng, quay ngoắt lại, chĩa vào vị trí Dương Hoài Ngọc đang đứng, đột nhiên phát hiện cô ta đã biến mất. Mùi hôi thối trong căn phòng càng nồng nặc hơn, Vương Uy nghĩ mình đang hoa mắt, nhưng trong căn phòng rộng lớn này trừ anh ra còn có ai đâu?
Dương Hoài Ngọc đi đâu? Cô ta không phải là người, vậy là gì?
Mồ hôi lạnh hết lần này đến lần khác túa ra làm ướt đẫm cả người Vương Uy, chuyện này thật sự đã vượt quá sức chịu đựng của anh. Việc gặp Thomas và đám lính nhà Thanh trong thung lũng tuyết xảy ra vào lúc anh nửa mơ nửa tỉnh, khó biết được rốt cuộc là thật hay mơ, nhưng chuyện này lại diễn ra ngay trước mắt anh: một người đang sống sờ sờ, thoát cái đã không thấy đâu nữa.
Anh nhìn kỹ chỗ Dương Hoài Ngọc đứng, không bỏ qua cả lớp bụi trên mặt đất, nhưng tất cả vẫn thế, chẳng có cạm bẫy nào hết. Dương Hoài Ngọc không phải là người sống nên khi Vương Uy phát hiện ra thân phận cô ta, hẳn cô ta cũng đã nhận thấy, liền đột ngột biến mất.
Đang lúc không biết phải làm thế nào, bỗng anh nghe thấy tiếng bước chân ngoài hành lang, tiếng chân giòn đanh răng rắc, vang vang trên sàn thuyền bằng gỗ.
Vương Uy như điên cuồng xông ra, anh đứng ở cuối hành lang, rọi đèn pin đến tận cùng đầu bên kia, nhưng ngoài một dãy cửa đen sì chạm trổ hoa văn ra, đâu có bóng ai khác?
Chẳng những trên hành lang không có ai, mà cả tiếng bước chân cũng tắt lịm, chỉ còn lại bóng tối mênh mông và một dãy cửa cửa sổ đen sì.
Vương Uy đứng ở cuối hành lang, chợt thấy choáng váng đầu óc, tựa hồ cả đất trời đều đang quay cuồng vậy, có điều đó không phải là ảo giác mà là sự thật, con thuyền quả thực đang chao đảo dữ dội.
Vương Uy phải tựa vào một cánh cửa phòng mới khỏi ngã. Cũng như tất cả các cánh cửa dọc hành lang, cánh cửa này bị khóa trong, cả người anh không ngừng va đập vào cửa nhưng nó chẳng hề bật ra.
Vương Uy thầm lấy làm kinh ngạc, thường thì chốt cửa của loại cửa chạm trổ hoa văn này đều không chắc, hễ đụng mạnh là gãy ngay. Hơn nữa chiến thuyền cổ này nổi trôi trên dòng sông ngầm năm trăm năm nay, những đồ dùng bằng gỗ trên thuyền hẳn đều mục nát vì ẩm thấp cả rồi, bị va chạm mạnh thế này, làm sao mà chịu nổi, chẳng nhẽ phía sau cửa có gì đó?
Anh rút súng nhắm chốt cửa bắn liền hai phát, chốt cửa tung ra, nhưng anh lại nghe rõ tiếng kim loại va chạm. Anh thoáng sững sờ, lẽ nào phía sau cánh cửa gỗ còn ốp một lớp sắt nữa ư?
Vương Uy đẩy cửa ra, liền nghe thấy tiếng bản lề sắt nghiến ken két. Vì lâu ngày bản lề bị hen gỉ, Vương Uy phải đẩy mạnh cửa mới hé ra một khe nhỏ.
Ngay lúc ấy, bên trong cánh cửa chợt vang lên tiếng bước chân nặng nề. Tiếng chân vang lên trong bóng tối nghe như không phải đến từ nhân gian, cách một tầng bóng tối sau cánh cửa, càng khiến người ta rợn cả người.
Vương Uy chẳng lo được nhiều đến vậy, anh cố sức đẩy cánh cửa, chợt một mùi tanh nồng ập tới, làm anh ọe ra cả nước chua. Mùi hôi thối bên trong cánh cửa thật khó hình dung nổi, hệt như mùi xác chết thối rữa giữa ngày hè nóng nực, vô cùng khó ngửi.
Mùi tanh thối sau cánh cửa sắt bốc ra nồng nặc, Vương Uy gắng nín thở chui vào trong, dưới ánh đèn pin, anh thấy vách phòng không phải bằng gỗ sam đen sẫm, mà ghép bằng từng tấm từng tấm sắt, rõ ràng đây là căn phòng bằng sắt.
Vương Uy cứ nghĩ chiến thuyền cổ này được đóng toàn bằng gỗ sam, cho dù mấy vị trí trọng yếu được đúc cửa sắt cũng chẳng có gì ghê gớm, nhưng làm cả một căn phòng bằng sắt thì thật đáng ngờ. Phòng ở và làm việc của Trương Tử Thông cũng là phòng gỗ, tại sao một căn phòng ở tầng dưới lại được làm bằng sắt? Thật là kỳ lạ.
Trương Tử Thông ghi lại tỉ mỉ mọi chuyện từ sau khi ông ta xuống hang ngầm, nhưng Vương Uy xuống khoang dưới này lại phát hiện ra những bí mật trên chiến thuyền cổ này vượt xa so với những gì Trương Tử Thông ghi chép. Thậm chí trong những ghi chép của ông ta cũng không hề đề cập gì đến khoang dưới này, tượng người chim và căn phòng sắt kín bưng.
Bên trong căn phòng sắt trừ bốn bức vách ra, còn lại trống trơn, không có gì cả. Vương Uy lòng đầy thắc mắc bèn rảo bước tiến vào bên trong. Theo lý mà nói, năm trăm năm trước, muốn làm được một căn phòng bằng sắt dưới hang ngầm thế này, thật hết sức khó khăn, Trương tử Thông không cần phí nhiều công sức như vậy để làm một chuyện vô bổ.
Vương Uy nghĩ, căn phòng sắt này được khóa trái từ bên trong, điều này khác hẳn tư duy của người bình thường, nhất định trong đó có lý do gì khác. Chợt nhớ đến sự thay đổi của Dương Hoài Ngọc, anh bỗng nổi hết da gà, chiến thuyền cổ nổi trôi năm trăm năm trên dòng sông ngầm này quả nhiên là một con thuyền ma, Dương Hoài Ngọc đang sống sờ sờ ra đó, vậy mà lại lặng lẽ biến mất, thật quá kỳ dị.
Trên bốn bức vách sắt của căn phòng đầy những vết hoen gỉ bởi hơi nước, hễ đụng vào là rơi ra từng mảng. Vương Uy vừa đi vừa tra xét thật kỹ, bỗng anh đứng sững lại, đầu óc đờ ra.
Anh nghe tiếng chân mình bước đi, chân anh cọ xát lên sàn nhà sắt gỉ phát ra tiếng răng rắc, hoàn toàn giống với tiếng chân quỷ dị lởn vởn ngoài hành lang.
Vương Uy kinh ngạc lại thận trọng đi thêm vài bước nữa, quả nhiên đúng là âm thanh ấy, không sai chút nào. Thoạt đầu, lúc ở trong gian phòng để tượng người chim, anh không chú ý, bây giờ nghĩ lại mới thấy bí ẩn bên trong chuyện này rất lớn, nếu người bình thường đi lại hẳn không thể phát ra tiếng bước chân nặng như thế được, chỉ có bàn chân ma sát trên sắt gỉ mới phát ra được âm thanh đó mà thôi, tức là tiếng chân bước lúc ấy anh nghe thấy không phải ở hành lang mà ở trong căn phòng sắt này.
Việc đến nước này cũng chẳng có gì là kỳ quái nữa, bởi trên chiến thuyền cổ này đã xảy ra quá nhiều chuyện kỳ quái rồi. Theo lý giải của Vương Uy, căn phòng này đã bị người khóa trái từ bên trong từ năm trăm năm trước, mà con người vốn không thể sống trong căn phòng sắt như vậy được, nhưng sự thực lại chứng minh trong phòng đang có người.
Vương Uy rất căng thẳng, anh biết mình đã lên con thuyền ma này thì mười phần hết chín là có đi không về, không cẩn thận sẽ đi theo đại tướng quân Trương Tử Thông cũng nên. Nghĩ đi nghĩ lại cũng thấy ấm ức trong lòng, đời anh đến giờ mới chỉ là một đại đội trưởng hai bàn tay trắng, còn Trương Tử Thông trước khi chết đã là quan lớn nhất phẩm triều đình, Trấn Đông đại tướng quân, khâm sai đại thần được hoàng đế mật phong, tuy cùng phải chết, nhưng so với ông ta, anh vẫn cảm thấy không thể bằng được.
Vương Uy cuống lên, bắt đầu tính đến tình huống xấu nhất. Anh lên đạn khẩu súng lục cầm trên tay, sẵn sàng ứng chiến bất cứ lúc nào. Cuối căn phòng này là một bức tường sắt, trên tường trổ một ô cửa, cửa không khóa, đẩy nhẹ là mở ra ngay. Bấy giờ anh mới biết căn phòng này thông sang phòng bên cạnh.
Anh thận trọng bước sang căn phòng sắt bên cạnh, phát hiện căn phòng này khác hẳn căn phòng vừa rồi, trong phòng có một chiếc giường ghép, bên trên phủ một tấm vải trắng dài đến mấy mét, tấm vải hơi phồng lên, tựa như bên dưới có người đang ngủ.
Vương Uy nén sợ, từ từ bước đến gần, giơ nòng súng lật một góc tấm vải lên bên dưới liền lộ ra một chiếc đầu lâu trắng hếu. Tuy đã chuẩn bị tâm lý nhưng Vương Uy vẫn giật nảy mình, tim đập thình thịch. Vương Uy bèn lật tung tấm vải, vì quá lâu ngày, tấm vải đã mục nát, bị anh kéo mạnh liền mủn ra, bay tung tóe như hoa tuyết.
Tấm vải bị lật tung, trên chiếc giường ghép ngay trước mắt anh là bảy bộ xương người cao xấp xỉ nhau, nằm song song, ánh đèn pin chiếu lên những bộ xương trắng hếu, khiến anh nổi da gà. Anh biết rõ bảy bộ xương này là tướng sĩ của Trương Tử Thông tướng quân, có điều dáng vẻ cả bảy bộ đều không có dấu vết dập gãy, như thể họ tự nhiên mà chết trên giường vậy.
Trên vách treo bảy bộ giáp và gươm đao, tất cả đều phủ một lớp bụi dày, tỏa mùi ẩm mốc, còn mùi tanh nồng trong không khí hình như mỗi lúc một nồng nặc hơn. Vương Uy thấy họng chua loét, ọe liền mấy cái mà không nôn ra nổi thứ gì.
Đúng lúc này, anh bỗng phát hiện trên mặt sàn có gì đó khác thường, dường như có nước thấm ra vậy. Vương Uy chợt nghĩ, lẽ nào chiến thuyền cổ này đụng vào vậy gì đó nên đáy khoang bị thủng rồi ư?
Vương Uy kinh hoàng, việc này không thể coi thường được, vội vàng cúi xuống xem xét mặt sàn. Chỉ thấy trên sàn lênh láng máu, máu từ khe hở của bức tường sắt phía trong phun ra như suối, trong phòng đã ngập lên đến mắt cá chân. Vương Uy đứng giữa bể máu, mùi tanh của máu làm anh không ngừng ọe ra nước chua.
Vương Uy chinh chiến sa trường bao nhiêu năm trời chưa bao giờ thấy nhiều máu như thế này, đúng là máu chảy thành sông. Máu từ kẽ tường sắt phun ra ào ào, mỗi lúc một mạnh, mà bức tường hướng ra ngoài sát với hành lang lại bị bịt kín, máu không thoát ra nổi nên cứ dềnh lên cao mãi.
Vương Uy kinh hãi chạy sang phòng bên cạnh, thấy bên đó cũng lênh láng máu, ngập đến tận bắp chân. Căn phòng này ba bề kín mít, chỉ có một mặt không biết tại sao lại để hở, lẽ nào làm nhiều khe hở như vậy là để máu chảy ra?
Trương Tử Thông dựng nên căn phòng này để làm gì?
Dãy phòng dọc hành lang này là nơi nghỉ ngơi của các tướng sĩ, vốn là loại phòng ở hết sức bình thường, nhưng lại được đúc thành những căn phòng bằng sắt kín mít. Trên mặt tường phía trong có nhiều chỗ đã bị thủng lỗ chỗ, lỗ nhỏ bằng đầu ngón tay, lỗ to có thể đút vừa cánh tay người lớn. Những lỗ thùng này đều bám đầy gỉ sắt, bị máu xối vào, gỉ sắt rụng xuống từng mảng, những lỗ thủng lần lượt lộ ra.
Vương Uy đứng giữa bể máu, hai mắt đỏ ngầu, mùi tanh nồng nặc khiến anh ngạt thở, mỗi lần hít thở lại thấy họng nóng rát, h
Tác giả :
Lãnh Tàn Hà