Mạnh Hơn Sợ Hãi
Chương 4
Chiếc xe chở thi hài chạy chầm chậm trên đường, phía sau là ba chiếc ô tô hòm với các cửa kính nhuộm màu. Simon, ngồi bên ghế cạnh lái, nhìn chăm chú ra đường.
Đoàn xe tiến vào trong nghĩa địa, len lỏi trên các lối đi dẫn lên tận đỉnh đồi rồi đỗ dọc hai bên vỉa hè.
Nhân viên nhà tang lễ khiêng quan tài ra khỏi xe và kê nó trên những chiếc mễ bên cạnh một huyệt mộ vừa mới được đào. Họ đặt hai vòng hoa trên nắp quan tài. Trên một vòng hoa lên nắp quan tài. Trên một vòng hoa có dòng chữ “Tưởng nhớ bạn thân nhất của tôi”, trên vòng hoa còn lại, do Hiệp hội nghề báo phúng viếng, có thể đọc được dòng đề từ “Kính viếng đồng nghiệp thân thiết của chúng tôi, người đã hy sinh khi đang làm nhiệm vụ”.
Cách đó khoảng mười mét, một phóng viên kênh truyền hình địa phương đứng hơi lui lại, camera để dưới chân, chờ đợi lễ an táng bắt đầu để quay vài cảnh.
Simon là người đầu tiên phát biểu, để nói lên rằng người quá cố với anh thân thiết chẳng khác nào anh em, rằng sau hình ảnh một phóng viên ngang bướng và hay tỏ ra cục cằn ẩn giấu một người đàn ông hào hiệp, đôi lúc hài hước. Andrew không đáng phải chết trẻ như vậy. Anh vẫn còn biết bao công việc phải hoàn thành, một cái chết uổng như thế thật khó chấp nhận.
Simon phải ngưng lại để kìm tiếng nức nở, anh chùi nước mắt và kết lại rằng những con người tốt đẹp nhất luôn là những người đầu tiên ra đi.
Olivia Stern, tổng biên tập tờ The New York Times, đến lượt mình cũng bước lên và, với vẻ mệt mỏi, cô nhắc lại cảnh ngộ bi thảm khi Andrew Stilman bỏ mạng.
Vốn là phóng viên điều tra dày dạn kinh nghiệm, anh đã sang tận Argentina để truy lùng một cựu tội phạm chiến tranh. Trở lại New York, sau khi hoàn thành nhiệm vụ một cách dũng cảm, Andrew Stilman đã bị sát hại khi đang chạy bộ dọc bờ sông Hudson, một bằng chứng cho thấy con người ta không bao giờ chạy đủ nhanh một khi đang bị thần chết rượt đuổi. Một hành vi bỉ ổi, được thực hiện hòng bóp nghẹt sự thật. Một cuộc trả thù nhơ bẩn của con gái tên ác quỷ từng bị Andrew vạch mặt. Khi tấn công Stilman, kẻ giết anh đã tấn công vào tự do báo chí và hành vi của cô ta đã tiếp nối những điều man rợ mà cha cô ta từng gây ra trong quá khứ. Nhưng trước khi chìm vào cơn hôn mê sâu mà anh không bao giờ thoát ra được, Andrew Stilman đã kịp tiết lộ tên của kẻ giết anh cho nhân viên cứu thương. Tổ quốc Hoa Kỳ sẽ không bao giờ để kẻ gây ra cái chết cho một người con của đất nước thoát khỏi sự trừng phạt. Yêu cầu dẫn độ tội phạm đã được chuyển tới nhà chức trách Argentina. “Công lý sẽ được thực thi!” Olivia Stern hô vang.
Rồi cô đặt hai tay lên quan tài và ngước mắt nhìn bầu trời trước khi long trọng tuyên bố: “Andrew Stilman là một con người của niềm tin, anh đã cống hiến cả cuộc đời mình cho công việc, cho nghề báo, thành lũy cuối cùng của nền dân chủ của chúng ta. Andrew Stilman, anh đã ngã xuống trên thành lũy này như một người lính trên chiến trường, chúng tôi sẽ không bao giờ lãng quên anh. Ngay ngày mai, phòng tư liệu B, căn phòng nằm ở tầng ngầm đầu tiên, phía bên phải khi nhìn từ thang máy ra, cô nói thêm đồng thời liếc ánh mắt đồng lõa về phía trưởng phòng nhân sự, sẽ được đổi tên để tưởng nhớ anh. Nó sẽ không còn là phòng tư liệu B nữa, mà sẽ mang tên ‘phòng Andrew Stilman’. Chúng tôi sẽ không bao giờ lãng quên anh!” Cô dằn từng tiếng.
Một vài đồng nghiệp của Andrew đi đưa tang vỗ tay hoan nghênh trong khi Olivia Stern hôn lên nắp quan tài, in lên lớp gỗ sồi phủ véc ni hai vệt son môi hiệu Coco Chanel. Rồi cô quay về chỗ.
Nhân viên nhà tang lễ chờ đợi tín hiệu từ Simon. Bốn người đàn ông khiêng quan tài đặt lên một vòm bán nguyệt nhô cao trên mộ. Họ khởi động chiếc tời và di hài Andrew Stilman từ từ khuất dần dưới lòng đất.
Những người đã dành cả buổi sáng để tiễn anh ra nghĩa địa lần lượt tiến lại tạm biệt anh trong ngôi nhà mới. Ở đây có mặt Dolorès Salazar, nhân viên phòng tư liệu vốn rất quý mến Andrew – họ thường xuyên gặp nhau vào các sáng thứ Bảy tại trụ sở của Hội đệ tử Lưu Linh vô danh trên phố Perry - , Manuel Figera, người đưa thư - Andrew là người duy nhất thỉnh thoảng đãi ông cà phê những khi họ gặp nhau tại căng tin - , Tom Cimilio, trưởng phòng nhân sự - người mà cách đây hai năm đã dọa sẽ sa thải anh nếu anh không giải quyết dứt điểm vấn đề rượu chè của mình - , Gary Palmer, nhân viên phòng pháp lý- , người thường xuyên dàn xếp ổn thỏa những thái quá mà Andrew gây ra khi thực thi chức trách- , Bob Stole, chủ tích công đoàn - ông chưa từng quen biết Andrew, nhưng ngày hôm đó, ông có ca trực - , và Freddy Olson, đồng nghiệp cùng phòng, - người mà ta không thể biết là anh ta sắp khóc đến nơi hay đang kiềm chế tiếng cười điên dại vang như sấm mỗi khi anh ta mang vẻ mặt đưa đám kia.
Olson là người cuối cùng thả một cành hoa hồng bạch xuống linh cữu. Anh ta cúi xuống để nhìn xem cành hồng đã hạ cánh ở đâu và thiếu chút nữa còn ngã nhào xuống huyệt nếu ông chủ tịch công đoàn không kịp tóm được tay áo anh ta.
Rồi, đoàn người đi xa dần và đến đứng thành nhóm quanh mấy chiếc ô tô.
Người này ôm ghì lấy người kia, Olivia và Dolorès nước mắt ngắn dài, Simon cảm ơn tất cả những người đã đi đưa tang và mỗi người lại lặng lẽ trở về với những mối bận tâm của mình.
Dolorès có một cuộc hẹn sơn sửa móng vào lúc 11 giờ, Olivia hẹn đi ăn trưa với một cô bạn, Manuel Figera thì hứa sẽ đưa vợ tới Home Depot để mua một chiếc máy sấy quần áo mới, Tom Cimilio là nhân chứng trong đám cưới của cậu cháu trai, Gary Palmer phải đi gặp người bạn đang quản lý một quầy hàng tại Flea market trên phố 25, Bob Stole trở về tòa soạn hoàn thành nốt ca trực và Freddy Olson thì để dành buổi chăm sóc sức khỏe theo liệu pháp phương Đông cho giờ nghỉ trưa tại một cơ sở ở khu phố Tàu, nơi mà các cô nhân viên mát xa có lẽ đã lâu lắm rồi không phải đi xưng tội.
Mỗi người trở lại với cuộc sống của họ, để Andrew lại với cái chết.
*
Những giờ đầu tiên tiếp sau lễ an táng đối với anh cứ dài đằng đẵng, và nhất là cảm giác cô độc, điều này khá bất ngờ với một người như anh, người đã luôn khao khát được ở một mình. Và nỗi lo sợ xâm chiếm anh lần này không gây ra cơn thèm một ly cocktail Fernet- Coca, không mồ hôi, không run rẩy, thậm chí mạch cũng không đập dồn dập hơn, mà vì những lẽ đã rõ.
Rồi màn đêm buông xuống và, cùng với nó, cái hiện tượng lạ lùng mà anh ngay lập tức nhận thức được.
Mặc dù cho tới khi ấy anh đã khá quen với sự chật chội của “ngôi nhà nhỏ trong lòng đất, không cửa ra vào không cửa sổ” của mình và dù sự im lặng ngự trị ở nơi cách mặt đất sáu tấc này rốt cuộc cũng không khiến anh thấy phiền phức hơn chuyện đó (anh từng yêu thích biết bao cảnh xô bồ trên đường phố, tiếng ồn ào từ chiếc máy khoan, những cảnh sát đi mô tô hòa trộn vẻ hùng tráng với tiếng vù vù của động cơ xe, tiếng còi xe huyên náo, những chiếc xe tải giao hàng vừa lùi vừa bấm còi khiền người ta nảy sinh ý đồ giết quách gã tài xế đi cho rồi, những gã tay chơi phê thuốc hát đến váng đầu trên suốt cả quãng đường về nhà, những kẻ mà người ta những muốn đuổi theo đến tận cửa nhà để ăn miếng trả miếng), Andrew, trong sự ngạc nhiên tột độ, thấy mình bay lên vài xăng ti mét phía trên nấm mồ mới đắp trên quan tài chứa xác anh. Cũng phi lý với anh hệt như chuyện này, anh ở đó, ngồi xếp bằng, và có thể nhìn thấy mọi thứ diễn ra xung quanh mình, tức là không có gì đáng kể.
Vì rảnh rỗi chẳng có việc gì làm, anh bắt đầu trò thống kê.
Bãi cỏ bị gió quần thảo chĩa những ngọn cỏ quay về hướng Bắc. Những khóm thông đỏ, những cây thích và những cây sồi trong góc cũng dập dờn về cùng hướng đó. Tất cả thiên nhiên xung quanh dường như đều hướng về xa lộ nằm phía dưới nghĩa địa.
Và đột nhiên, trong khi đang rụng rời tự hỏi mình sẽ còn phải ở trong hoàn cảnh khó chịu này bao nhiêu giờ đồng hồ nữa, thì anh nghe thấy một giọng nói:
- Anh sẽ quen thôi, ban đầu thì có vẻ hơi lâu, nhưng rốt cuộc chúng ta cũng sẽ mất ý niệm về thời gian. Tôi biết anh đang tự nhủ điều gì. Nếu anh nghĩ đến cái chết của mình sớm hơn, hẳn là anh sẽ móc hầu bao mua một khoảnh đất có tầm nhìn ra biển. Và anh sẽ mắc sai lầm trầm trọng. Sóng biển rốt cuộc cũng chỉ là một thứ phiền phức! Trong khi đó trên xa lộ, thỉnh thoảng lại xảy ra những chuyện hay ho. Tắc đường, những cuộc rượt đổi, tai nạn, phong phú thể loại hơn hẳn những gì chúng ta hình dung.
Andrew nhìn về hướng phát ra giọng nói. Một người đàn ông ngồi xếp bằng, cũng đang bay như anh, phía trên mồ bên cạnh chừng vài phân, đang mỉm cười với anh.
- Arnold Knopf, người đó nói mà vẫn không thay đổi tư thế. Tên tôi đó. Tôi bắt đầu sang năm thứ năm mươi ở đây rồi. Anh sẽ thấy, anh sẽ quen thôi, chỉ là một vố phải chịu thôi mà.
- Vậy là như thế sao, cái chết ấy? Andrew hỏi, chúng ta ở đây, ngồi trên nấm mồ của mình mà ngắm quốc lộ sao?
- Anh muốn ngắm gì thì ngắm, anh được tự do mà, nhưng đây là điều tôi thấy khuây khỏa nhất. Đôi khi, có người tới thăm viếng, đặc biệt vào dịp cuối tuần. Những người sống đến đây khóc thương trên nấm mồ của chúng ta, nhưng riêng mồ của tôi thì không. Còn về hàng xóm láng giềng của chúng ta, họ đã ở đây lâu đến mức mà những người từng đến thăm họ cũng đến lượt bị chôn cất cả. Đa số còn không buồn ra ngoài nữa kia. Hai chúng ta là những người trẻ tuổi nhất của khu này, nếu tôi có thể gọi như vậy. Tôi hy vọng là anh cũng sẽ được thăm viếng, ban đầu thì luôn có người tới thăm, sau đó nỗi đau nguôi dần, người thăm cũng sẽ vãn.
Andrew, trong suốt quãng thời gian hấp hối kéo dài, thường xuyên hình dung ra cái chết có thể là gì, thậm chí hy vọng tìm thấy trong đó một dạng phóng thích những con quỷ sa tăng từng ám anh. Nhưng chuyện xảy đến với anh lại tệ hại hơn tất thảy những gì mà đầu óc tinh quái của anh từng tính đến.
- Tôi đã chứng kiến bao nhiêu chuyện, anh biết đấy, người đàn ông nói tiếp. Hai thế kỷ và ba cuộc chiến tranh. Có tưởng tượng nổi rằng chỉ một cơn viêm phế quản tầm thường đã hạ gục tôi. Hãy nói với tôi rằng cái thứ nực cười ấy chẳng giết nổi người đâu! Thế còn anh?
Andrew không trả lời.
- Nghe này, chúng ta chẳng vội vàng gì, với lại anh đừng chán nản, tôi đã nghe hết rồi, ông hàng xóm nói tiếp. Đã có rất đông người đến đám tang của anh. Bị sát hại, dù sao cũng không phải chuyện tầm thường.
- Đúng, khá là độc đáo, tôi công nhận, Andrew đáp.
- Hơn nữa lại dưới tay một phụ nữ!
- Phụ nữ hay nam giới thì cũng chẳng thay đổi được gì nhiều, không hiểu sao?
- Tôi cho là không. Mà dù sao cũng có. Ngài đây không có con sao? Tôi không thấy quả phụ hay nhóc tì nào.
- Không, không vợ góa con côi, Andrew thở dài.
- Vậy là độc thân sao?
- Mới thôi.
- Thật đáng tiếc, nhưng như vậy có khi lại tốt cho cô ấy.
- Tôi nghĩ thế.
Xa xa, đèn hiệu của một xe cảnh sát bắt đầu nhấp nháy, chiếc xe con mà nó đang đuổi theo đỗ lại trên làn đường dừng khẩn cấp.
- Anh thấy đấy, trên xa lộ không ngừng xảy ra những chuyện hay ho. Đây là đường cao tốc Long Island nối liền với sân bay JFK. Mọi người lúc nào cũng vội vã và lần nào họ cũng tự chui vào rõ ở khu vực này. Những ngày đẹp trời, có một kẻ nào đó không chịu dừng lại, khi ấy anh có thể xem màn rượt đuổi đến tận chỗ ngoặt đằng kia. Sau đó, hàng cây tiêu huyền lại che mất tầm nhìn của chúng ta, tiếc thật.
- Ý ông là chúng ta không thể nhúc nhích khỏi mộ mình à?
- Có chứ, dần dần theo thời gian. Tuần trước tôi vừa đi được đến cuối lối đi, sáu mươi bước liền! Dẫu sao cũng mất năm mươi năm luyện tập! May mà công sức bỏ ra được tưởng thưởng, nếu không thì có gì vui chứ?
Andrew thấy tuyệt vọng. Ông hàng xóm tiến lại gần anh.
- Cứ lo đi, tôi thề với anh là anh sẽ quen thôi. Ban đầu chuyện này có vẻ bất khả thi, nhưng rồi anh sẽ thấy, tin tôi đi.
- Ông hẳn sẽ thấy buồn phiền nếu chúng ta giữ im lặng một thời gian đấy. Tôi thực sự cần được yên tĩnh.
- Thứ thời gian mà anh muốn, chàng trai ạ, Arnold Knopf bắt bẻ, tôi hiểu mà, tôi không vội đâu.
Và cả hai người cứ ngồi xếp bằng bên nhau như thế trong đêm tối.
Một lát sau, đèn pha một chiếc ô tô chiếu sáng con đường dẫn từ cổng vào nghĩa trang lên ngọn đồi. Việc người ta mở cánh cổng mà vào giờ này thường đã khóa kín để chiếc ô tô đi vào là một điều bí ẩn đối với Arnold, người đã chia sẻ sự ngạc nhiên của mình với Andrew.
Chiếc xe con màu nâu đỗ dọc vỉa hè, một phụ nữ bước xuống và tiến về phía họ.
Andrew ngay lập tức nhận ra vợ cũ, Valérie, tình yêu của đời anh mà anh đã để mất vì một sai lầm ngớ ngẩn nhất đời. Và hoàn cảnh của anh lúc này đã chứng thực cho cái giá mà anh phải trả vì một khoảnh khắc lầm lỗi, một lần mê đắm qua đường.
Cô có biết những day dứt đã gặm nhấm anh biết bao! Rằng anh đã từ bỏ chiến đấu kể từ giây phút cô ngừng tới bệnh viện thăm anh?
Cô tiến lại phía ngôi mộ và tĩnh tâm trong không khí im lặng tuyệt đối.
Nhìn thấy cô ngồi sụp xuống trước mặt mình như vậy khiến anh lần đầu tiên thấy nguôi ngoai kể từ khi bị đâm bên bờ sông Hudson.
Valérie đang ở đây, cô ấy đã tới, và điều đó đáng kể hơn tất thảy.
Đột nhiên, cô lén vén jupe lên rồi bắt đầu đi tiểu lên tấm bia đá.
Làm xong việc, cô chỉnh lại trang phục và nói dõng dạc:
- Biến đi cho khuất mắt, Andrew Stilman.
Rồi, cô trở lên xe và chuồn êm như khi cô đến.
- Chuyện đó, tôi phải nói là, cũng không tầm thường đâu! Arnold Knopf rít lên.
- Cô ấy đã tè bậy lên mộ tôi thật à?
- Không muốn dài dòng văn tự làm gì, tôi tin chắc rằng đó chính xác là điều cô ấy vừa làm. Tôi không muốn là kẻ tọc mạch, nhưng anh đã làm gì mà khiến cô ấy tới đây tiểu tiện như thế giữa lúc đêm hôm?
Andrew buông một tiếng thở dài.
- Vào đêm tân hôn, tôi thú nhận với cô ấy rằng mình đã phải lòng một phụ nữ khác.
- Tôi hài lòng khi có anh làm hàng xóm, Andrew Stilman ạ, anh không thể biết tôi hài lòng đến mức nào đâu! Tôi cảm thấy mình sẽ bớt buồn phiền đi nhiều đấy, thậm chí hết hoàn toàn. Ban nãy tôi đã nói dối anh một chút, chúng ta luôn phát bực vì phải chết. Và vì mọi chuyện đã rồi, thật sự chẳng còn lựa chọn thay thế nào, nên ta rơi vào ngõ cụt, anh bạn ạ. Không nên nói ra điều này, nhưng tôi có cảm tưởng cô nàng ghê gớm của anh vẫn chưa tha thứ cho anh đâu. Mà thêm nữa, dốc cạn gan ruột vào đêm tân hôn, tôi không muốn đóng vai kẻ rao giảng đạo đức đâu, nhưng phải công nhận là anh đã chọn sai thời điểm.
- Tôi không có khiếu nói dối, Andrew thở dài.
- Ấy vậy mà anh đây từng là nhà báo sao? Sau này hãy kể cho tôi từ đầu chí cuối nhé, tôi phải thực hành mấy chiêu tập trung tinh thần đã, tôi tự thề với mình là đến cuối thế kỷ này sẽ tới được cái khóm cây mà anh thấy ở chỗ kia kìa. Tôi chán ngấy mấy cây tiêu huyền này rồi!
- “Từng”… thời quá khứ. Cách nói này tác động tới Andrew chẳng khác nào một phát đại bác xuyên thủng thành lũy của một pháo đài. Đã, và đang chỉ còn là một cái xác đang phân hủy.
Andrew cảm thấy bị hút lại phía ngôi mộ, anh cố gắng kháng cự lại lực hút đang kéo mình xuống dưới lòng đất và anh hét lên.
*
Simon tiến lại chỗ xô pha, tung chăn ra và lay người anh.
- Thôi mấy cái trò rên rỉ đó đi, thật không thể chịu nổi. Dậy đi, 10 giờ rồi đấy, đáng lẽ cậu phải đi làm rồi chứ!
Andrew hít một hơi thật sâu, như người thợ lặn vừa trồi lên khỏi mặt nước sau một lúc lâu nhịn thở.
- Cậu đừng uống nữa thì đêm ngủ mới ngon được chứ. Simon vừa lượm một vỏ chai Jack Daniel’s lên vừa nói tiếp. Dậy và thay đồ đi hoặc là tớ thề sẽ tống cổ cậu ra ngoài, tớ chán thấy cậu trong tình trạng này lắm rồi.
- Được rồi, Andrew vừa vươn vai vừa đáp. Tại lò xo dưới xô pha nhà cậu làm tớ khổ sở đấy chứ. Cậu không thể có phòng tiếp bạn được sao?
- Cậu không về nhà cậu được à? Cậu ra viện được ba tháng rồi đấy.
- Sớm thôi, tớ hứa đấy. Tớ vẫn chưa thể ở một mình vào ban đêm được. Với lại, ở đây thì tớ mới không uống rượu.
- Chỉ không uống trước khi tớ đi ngủ thôi! Có cà phê trong bếp đấy. Cậu đi làm đi, Andrew, đó là việc cậu cần làm nhất lúc này và thật sự thì đó là điều duy nhất cậu làm tốt.
- “Những con người tốt đẹp nhất luôn là những người đầu tiên ra đi”… thật thế sao? Cậu không tìm được câu nào hay hơn để kết thúc điếu văn cho tớ à?
- Tớ nhắc lại với cậu rằng tất cả chuyện đó chỉ tồn tại trong cái đầu óc lộn xộn của cậu thôi. Chính cậu là người cầm bút trong những cơn ác mộng đó, mà quả thật, văn vẻ của cậu thật bi thảm.
Simon đóng sập cửa rồi đi khỏi.
Andrew bước vào phòng tắm. Anh săm soi mặt mình và cảm thấy khá thoải mái khi nghĩ lại chuyện xảy đến đêm qua. Anh thay đổi ý kiến khi ghé sát vào gương. Đôi mắt anh sung húp, chòm râu đen che gần kín hai bên má. Simon nói đúng, có lẽ đã đến lúc quay trở lại tụ tập với Hội đệ tử Lưu Linh vô danh trên phố Perry. Trong lúc chờ đợi, anh sẽ đến tham dự cho có mặt ở cuộc họp của ban biên tập và sau đó sẽ đến thư viện thành phố. Từ ba tháng nay, anh thích ở đó cả ngày.
Yên vị trong phòng đọc lớn, anh vẫn cảm thấy có bầu có bạn mặc dù không khí im lặng bao trùm. Có nơi nào khác trên thế giới này có thể tặng cho anh cái thành lũy tương tự để chống chọi với nỗi cô đơn mà không bị tiếng ồn ào từ người khác làm phiền?
Tắm táp xong, ăn mặc sạch sẽ, anh rời căn hộ, dừng chân ở quá Starbucks để nuốt vội bữa sáng và đọc lướt nhật báo. Nhìn giờ trên đồng hồ đeo tay, anh đi thẳng vào phòng họp nới Olivia đang truyền đạt nốt chỉ thị.
Đám phóng viên đứng dậy và rời khỏi phòng họp. Andrew đứng gần cửa ra vào, Olivia ra hiệu anh đợi cô. Khi phòng đã hết người, cô bước ra gặp anh.
- Không ai ép buộc anh trở lại làm việc sớm thế đâu, Andrew. Nhưng nếu anh đã trở lại, thì hãy làm việc thật sự. Họp ban biên tập không phải là việc thích thì làm không thích thì thôi.
- Tôi có mặt mà, không phải sao?
- Anh có mặt mà cũng như không ấy. Anh chưa rặn ra được dòng nào từ ba tháng nay rồi.
- Tôi đang suy tính cho kế hoạch sắp tới.
- Anh đang buông xuôi theo số phận và bắt đầu rượu chè trở lại.
- Điều gì khiến cô nói tôi như thế?
- Cứ nhìn mình trong gương đi.
- Tôi làm việc khuya, tôi đang miệt mài theo đuổi một cuộc điều tra mới.
- Rất vui được biết tin đó, tôi có thể biết là đề tài gì không?
- Một phụ nữ trẻ bị cưỡng hiếp và đánh cho đến chết ở ngoại ô Jonhannesburg, cách đây mười tám tháng. Cảnh sát không hề có động thái gì để bắt giữ những kẻ sát nhân.
- Một tin thường nhật ở Nam Phi, đó chính là điều sẽ hấp dẫn độc giả của chúng ta, hãy báo trước cho tôi khi anh xong việc để tôi dành cho anh một chỗ trên trang nhất.
- Cô mỉa mai đấy à?
- Chính thế.
- Cô gái ấy bị sát hại là do xu hướng tình dục của mình. Cô ấy chỉ có một tội duy nhất là yêu một phụ nữa khác. Và cũng chính vì lý do này, phía cảnh sát thừa biết thủ phạm là ai nhưng chẳng buồn bắt giữ chúng, không hơn gì cách họ xử lý kẻ cán bẹp một con chó hoang. Gia đình cô ấy tranh đấu để công lý được thực thi, nhưng giới chức trách không thèm bận tâm, hay có một chút, họ còn khen ngợi những kẻ thiểu năng trí tuệ đã sát hại cô gái. Cô ấy mới hai mươi tư tuổi.
- Đúng là bi kịch, nhưng Nam Phi là một đất nước xa xôi và còn xa hơn nữa khỏi nhưng mối bận tâm của độc giả báo chúng ta.
- Tuần trước, một trong những Nghị sĩ xuất sắc của đảng Cộng hòa nước ta đã phát biểu trên truyền hình về chủ đề kết hôn đồng giới rằng ông ta thấy nó có thể dẫn đến loạn luân và ấu dâm. Chúng ta đang sống trong một thế giới nực cười, nơi nào cũng có giới hạn, ông thị trưởng đáng kính của thành phố này thậm chí còn muốn hạn chế lượng tiêu thụ nước giải khát trong các rạp chiếu phim, nhưng để kìm hãm những điều ngu ngốc của các Nghị sĩ dân biểu thì lại chẳng có gì! Có lẽ nên có các điều luật để họ cũng sẽ phải chịu phạt mỗi lần vượt quá chuẩn thông thường về sự ngu dốt.
- Anh đang muốn dấn thân vào chính trị đấy à, Stilman?
Andrew khẩn khoản mong tổng biên tập không xem nhẹ những đề xuất của anh. Những phát ngôn của Nghị sĩ kia không chỉ là lời nhục mạ, chúng còn kích động hận thù. Andrew muốn thông qua bài viết của mình đặt vấn đề về tính bạo lực mà một diễn văn chính trị có thể kích động khi lên án một cộng đồng nào đó.
- Bây giờ thì cô ủng hộ tôi chứ? Phần đầu sẽ là chuyện sát hại cô gái vô tội đó, sự thụ động của giới chứ Nam Phi vốn không hề coi trọng vụ giết người này và kết lại là viên Nghị sĩ u mê của chúng ta, thông điệp mà ông ta tuyên truyền và những hệ lụy có thể đoán trước từ những người nông nổi tin lời ông ta. Nếu xoay xở ngon lành, tôi có thể buộc đảng Cộng hòa phải khai trừ ông ta, và in fine[1] buộc ông ta tỏ rõ lập trường.
[1] In fine: tiếng Latin trong nguyên bản nghĩ là cuối cùng.
- Một kế hoạch mập mờ và liều lĩnh, nhưng nếu chuyện đó có thể giúp anh bận rộn trong lúc chờ anh tìm lại được mong muốn tấn công vào những chuyện…
- …quan trọng hơn chuyện một cô gái 24 tuổi bị cưỡng hiếp, bị đánh cho nhừ tử và bị đâm chết chỉ bởi vì cô ấy đồng tính?
- Đừng đặt vào miệng tôi những điều mà tôi không nói, Stilman.
Andrew đặt tay lên vai tổng biên tập, ấn nhẹ một cái như để nhấn mạnh tính nghiêm trọng của đề xuất mà anh đưa ra.
- Cứ hứa với tôi một câu, Olivia. Ngày mà tôi thật sự từ giã cõi đời này, hứa với tôi là cô sẽ miễn cho tôi mọi lời phát biểu trong lễ tang của tôi nhé.
Olivia nhìn Andrew, hiếu kỳ.
- Được, nếu anh muốn vậy, nhưng vì sao chứ?
- “Anh đã ngã xuống trên thành lũy này như một người lính trên chiến trường”, không phải đấy chứ, thật tình! Tôi thấy hổ thẹn vì cô.
- Nhưng anh đang nói về cái quái gì thế, Stilman?
- Không có gì, bỏ qua đi. Cứ vui lòng hứa với tôi điều đó và chúng ta dừng ở đó đã. À còn nữa, một điều cuối cùng, phòng tư liệu B ư? Thẳng thắn mà nói, cô không thể tìm được chỗ nào thê thảm hơn à?
- Anh biến đi được rồi đấy, Andrew, anh đang làm mất thì giờ của tôi và tôi chẳng hiểu gì mấy cái câu vớ vẩn của anh đâu. Anh làm việc đi, tôi sẽ sẵn lòng tặng anh một vé tới Cape Town để anh xéo đi cho khuất mắt tôi.
- Johannesburg chứ! Đi mà báo tôi rằng chính tôi mới là người không tập trung trong lúc này. Không, nhưng tôi đang mơ hay sao thế này.
Andrew ra thang máy và lên phòng làm việc của mình. Trên bàn làm việc của anh vẫn là cảnh lộn xộn y nguyên như những gì anh để lại vào cái ngày bị tấn công, Freddy Olson, tạp chí giải ô chữ trong tay, vừa gặm bút chì vừa đung đưa trên ghế tựa.
- “Trở về” với bảy chữ cái, cậu có ý gì không? Olson hỏi.
- Thế bàn tay tôi in trên mặt cậu bảy đốt, cậu có ý gì không?
- Một người đàn ông đạp xe trong khu vực West Village bị một cảnh sát tông vào, Olson nói tiếp. Không bằng lòng với chuyện cắt ngang đường người ta, viên cảnh sát còn đòi ông ta cho xem giấy tờ và khi ông ta phản ứng lại, nói rằng thế giới này lộn tùng phèo hết cả rồi, viên cảnh sát đã còng luôn tay ông ta rồi đưa về đồn. Cậu có muốn đeo đuổi vụ này không?
- Phản ứng như thế nào?
- Theo lời khai, ông già đó đã tát viên cảnh sát vì anh này nói với ông ta bằng cái giọng khiến ông ta thấy bực.
- Ông ta bao nhiêu tuổi, cái ông đi xe đạp ấy?
- Tám mươi lăm, còn gã cảnh sát thì ba mươi.
- Thành phố này ngày nào cũng khiến tôi bất ngờ, Andrew thở dài. Tôi mặc xác cậu với mấy cái tin vặt vãnh của mình, tôi còn có việc báo chí đúng nghĩa đang chờ.
- Bourbon hay chai daiquiri?
- Ý cậu là chúng ta sẽ nói chuyện về mấy món nghiện ngập của cậu hả Olson? Cậu có vẻ nhũn như con chi chi trong lễ tang tôi hay sao ấy.
- Tôi chẳng hiểu cậu đang nói nhăng cuội gì, nhưng tôi chẳng hút hít cái gì từ lâu lắm rồi. Tôi đã thề bên giường bệnh của cậu rằng nếu cậu qua được, tôi sẽ không bao giờ động đến ma túy nữa.
Andrew kiềm chế không đáp trả đồng nghiệp, lấy thư của mình, một bản của ấn phẩm buổi sáng rồi đi khỏi. trời hôm nay rất đẹp, anh đi về phía Thư viện công cộng New York nằm cách tòa soạn vài khối nhà.
*
Andrew trình thẻ tại sảnh vào của phòng đọc. Viên thủ thư khẽ chào anh.
- Chào ông, Yacine, Andrew vừa chào lại vừa chìa tay cho người thủ thư bắt.
- Hôm nay anh đăng ký mượn sách rồi chứ? Người này hỏi tiếp trong khi vẫn dán mắt vào màn hình máy vi tính.
- Tôi đến với tất cả những thứ tôi cần để chắc chắn rằng mình không làm điều gì bổ ích, thư và báo của tôi.
Yacine quay sang phía bàn đọc nơi Andrew thường ngồi.
- Anh có hàng xóm nữ đấy, ông nói, vẫn với giọng khẽ khàng.
- Thế vụ thu xếp nho nhỏ giữa chúng ta thì sao?
- Tôi rất tiếc, thưa anh Stilman, chúng tôi hiện tại nhận được nhiều yêu cầu, phòng đọc luôn kín người và chúng tôi đã phải từ chối nhiều người. Tôi không thể giữ mãi cái chỗ trống này được.
- Cô gái kia ngồi đó lâu không?
- Tôi chịu.
- Xinh chứ?
- Cũng khá.
- Đó là ai vậy?
- Anh cũng biết là chúng tôi không được phép tiết lộ những thông tin kiểu đó mà.
- Ngay cả với tôi sao, Yacine?
- Anh Stilman, có nhiều người đang đợi phía sau anh, anh vui lòng ổn định chỗ ngồi.
Andrew nghe theo và băng qua phòng đọc, tỏ ra thích thú một cách tinh quái khi cố tình làm bước chân mình vang vọng. Anh ồn ào kéo chiếc ghế tựa, buông mình xuống ghế và mở báo ra đọc.
Mỗi lần lật trang báo, anh lại làm sao để phóng đại tiếng giấy sột soạt. Cô hàng xóm của anh thậm chí còn không ngẩng đầu lên. Chán nản, cuối cùng anh cũng bỏ cuộc và cố tập trung vào bài báo đang đọc.
Chẳng ích lợi gì, anh đặt tờ báo xuống để quan sát một lần nữa cô gái chăm chỉ đang ngồi đối diện.
Cô gái có kiểu tóc tém và khuôn mặt ngây thơ đúng phong cách cô đào Jean Seberg. Ánh mắt như gắn chặt vào trang sách, cô dùng ngón trỏ lần theo từng dòng. Đôi lúc, cô ghi chép vào một cuốn sổ. Hiếm khi nào Andrew thấy có người tập trung như vậy.
- Có nhiều tập sao, tôi hy vọng thế? Anh hỏi.
Người phụ nữ trẻ ngước mắt nhìn lên.
- Tôi không biết cô đang đọc sách gì, nhưng có vẻ nó quá mức hấp dẫn, anh nói tiếp.
Cô nhướn mày, phác vẻ mặt ủ rũ và lại chìm đắm vào cuốn sách đọc dở.
Andrew quan sát cô gái trong giây lát, nhưng trước khi anh kịp phát ngôn thêm lời nào, cô gái trẻ đã gấp sổ lại rồi đi khỏi. Cô trả cuốn sách đã mượn cho người thủ thư và rời khỏi phòng đọc.
Andrew đến lượt mình cũng đứng dậy vội vã ra chỗ Yacine.
- Anh cần một cuốn sách sao, anh Stilman?
- Cuốn này, anh đáp, mắt liếc nhìn cuốn sách mà cô hàng xóm vừa để lại trên quầy.
Yacine đặt tay lên cuốn sách.
- Trước tiên tôi phải nhập liệu về việc cuốn sách đã được trả lại rồi mới lập một phiếu mượn khác. Anh biết quy định của chúng tôi lâu rồi, đúng không? Anh cứ về chỗ đi, chúng tôi sẽ mang sách ra cho anh.
Andrew nói để người thủ thư hiểu rằng sự mẫn cán của ông ta đã khiến anh bực mình không để đâu cho hết.
Anh rời thư viện và bất giác, khi đã ra ngoài, tìm kiếm cô gái ngồi cùng bàn giữa đám đông những người đang ngồi trên các bậc thang rộng rãi của tòa nhà. Rồi anh nhún vai và quyết định đi dạo.
*
Hôm sau, theo nếp cũ, Andrew xuất hiện trở lại ở phòng đọc tầm 10h sáng. Chiếc ghế trước mặt anh vẫn bỏ trống. Anh nhiều lần lướt mắt khắp các góc phòng rồi quyết định mở báo ra đọc.
Đến giờ ăn trưa, anh ra căng tin thư viện. Cô gái ngồi cùng bàn hôm trước tiến lại quầy thu ngân, đẩy một chiếc khay trên rãnh trượt dọc rủ kính đông lạnh. Andrew chộp lấy một chiếc sandwich trên kệ, đồng thời liếc mắt dõi theo cô gái, và lách vào hàng.
Lát sau, anh tới ngồi xuống cách cô ba hàng ghế và ngắm nhìn cô ăn trưa. Vừa ăn bánh mứt táo, cô vừa nguệch ngoạc lên sổ ghi chép và dường như không thứ gì xung quanh làm cô bận tâm được.
Andrew bị ấn tượng bởi độ tập trung của cô gái. Ánh mắt cô đưa theo nhịp độ đều như vắt chanh từ cuốn sổ ghi chép sang chiếc bánh ngọt mà cô ăn rất ngon lành. Nhưng anh để ý đến một chi tiết đã thấy từ hôm trước. Trong khi dùng ngón trỏ tay trái dõi theo từng dòng người mà cô đọc, cô ghi chép vào sổ cũng bằng tay trái, còn bàn tay phải luôn để dưới bàn. Andrew tự hỏi cô có thể giấu kỹ thứ gì được chứ.
Cô gái trẻ lại ngẩng đầu lên, lướt mắt nhìn quanh phòng, gửi đến anh một nụ cười thoảng vội vã và lại đi về phía phòng đọc sau khi đã tống nốt phần còn lại của bữa trưa vào sọt rác.
Andrew ném chiếc sandwich của mình vào sọt rác rồi theo gót cô. Anh ngồi vào chỗ của mình và mở báo ra.
- Là số hôm nay chứ, tôi hy vọng thế, cô gái trẻ thì thầm sau một lúc.
- Xin lỗi cô bảo sao?
- Anh cũng lộ liễu quá nhỉ; tôi vừa nói là hy vọng ít nhất đây là báo của ngày hôm nay! Vì anh cứ làm như mình đang đọc báo ấy, đi thẳng vào vấn đề đi. Anh muốn gì ở tôi?
- Nhưng có gì đâu nhỉ, tôi không đặc biệt quan tâm tới cô, tôi đang suy nghĩ, chỉ thế thôi, Andrew vừa lúng búng vừa khổ sở che giấu vẻ bối rối của mình.
- Tôi đang nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ, anh thích chủ đề đó chứ?
- Giáo viên lịch sử à?
- Không. Còn anh, cớm à?
- Cũng không, nhà báo.
- Mảng tài chính?
- Điều gì khiến cô nghĩ thế?
- Đồng hồ của anh, tôi chỉ thấy có người làm trong lĩnh vực đó là tự tặng cho mình một món đồ trang sức tương tự.
- Một món quà của vợ tôi, tóm lại là, vợ cũ của tôi.
- Cô ấy không coi thường anh đâu.
- Không, chính tôi mới giễu cợt cô ấy.
- Tôi có thể trở lại công việc của mình rồi chứ? Cô gái trẻ hỏi.
- Tất nhiên, Andrew đáp. Tôi không muốn làm cô bị gián đoạn.
Cô cảm ơn anh và quay trở lại đọc sách.
- Phóng viên, Andrew nói rõ thêm.
- Tôi không muốn tỏ ra khó chịu, cô gái nói, nhưng tôi mong có thể tập trung vào những thứ đang nghiên cứu.
- Tại sao lại là Ấn Độ?
- Tôi định một ngày nào đó sẽ tới đất nước ấy.
- Đi nghỉ à?
- Anh không định để tôi yên, phải không? Cô thở dài.
- Có chứ, tôi xin hứa, tôi sẽ không nói gì nữa. Kể từ giờ phút này, không một lời nào. Thề, hứa, đảm bảo.
Và anh đã giữ lời. Andrew giữ im lặng suốt cả buổi chiều chỉ trừ lúc anh chào cô khi cô đi khỏi khoảng một tiếng trước khi thư viện đóng cửa.
Khi ra về, Andrew cầm lấy một quyển sách mà một độc giả để lại trên quầy, nhét một tờ 20 đô la xuống dưới bìa sách rồi chìa nó cho viên thủ thư.
- Tôi chỉ muốn biết họ của cô ấy thôi.
- Baker, Yacine vừa thì thào vừa ghì chặt cuốn sách vào người.
Andrew thò tay vào túi quần jean và lấy ra một tờ tiền in hình tổng thống Andrew Jackson.
- Địa chỉ của cô ấy?
- 65 phố Morton, Yacine vừa thì thào vừa tóm lấy tờ 20 đô.
Andrew rời thư viện. Vỉa hè đại lộ Năm nhung nhúc người. Vào giờ này, không tài nào bắt nổi một chiếc taxi chạy rong tìm khách. Anh nhận ra cô gái trẻ đang vẫy vẫy tay ở góc giao phố 42, cô thu hút sự chú ý của một tài xế nào đó. Một chiếc xe thuê đỗ lại trước cô và tay tài xế ghé qua cửa kính mời chào dịch vụ. Andrew đã tiến lại đủ gần để nghe thấy cô mặc cả. Cô lên ghế sau của chiếc Crown màu đen và chiếc xe lách vào dòng xe đang chạy.
µµ
Andrew chạy đến tận đại lộ Sáu, chạy ào lên tàu điện ngầm, đi tuyến D và mười lăm phút sau, lên bến Tây phố 4. Từ đó, anh tới quán bar Henrietta Hudson mà anh đã quá rành thực đơn cocktail. Anh gọi một ly bia gừng và ngồi trên chiếc ghế đẩu sau cửa kính. Quan sát ngã tư phố Morton giao Hudson, anh tự hỏi điều gì khiến anh nghĩ rằng cô gái ấy sẽ về thẳng nhà sau khi rời khỏi thư viện và nhất là điều gì xui khiến anh tới tận đây, trong khi chuyện này chẳng có nghĩa lý gì. Sau khi đã nghiền ngẫn câu hỏi đủ lâu, anh rút ra kết luận là nỗi buồn phiền đang thắng thế trong con người anh. Anh thanh toán đồ uống rồi đi tìm Simon, bạn anh hẳn đang chuẩn bị rời ga ra.
Vài phút sau khi anh đi khỏi, chiếc xe thuê thả Suzie Baker xuống bên dưới tòa nhà cô ở.
*
Cửa cuốn ga ra đã được hạ. Andrew đi tiếp theo hướng dự định và nhận ra dáng người Simon, đang lúi húi dưới ca pô một chiếc Studebaker đỗ trong phố cách đó một đoạn.
- Cậu đến đúng lúc đấy, Simon nói. Tớ không tài nào khởi động được nó mà một mình thì không thể đẩy nó về ga ra được. Tớ sốt hết cả ruột mỗi lần nghĩ đến việc phải để nó ngoài trời cả đêm thế này.
- Tớ thèm được lo lắng như cậu đấy, bạn tốt.
- Cần câu cơm của tớ thôi, mà cũng đúng, tớ luôn chú ý đến nó.
- Cậu vẫn chưa bán nó à, cái xe này ấy?
- Rồi chứ, và mua lại từ một tay sưu tầm xe đã mua của tớ một chiếc Oldsmobile 1950. Trong nghề của tớ, người ta kết thân với khách hàng của mình bằng cách đó. Cậu giúp một tay chứ?
Andrew ở phía sau chiếc Studebaker trong khi Simon đẩy xe, bàn tay, thò qua cửa kính đã hạ, đặt lên vô lăng.
- Cái xe này bị làm sao? Andrew hỏi.
- Tớ không biết, mai tớ sẽ xem xét cùng thợ máy.
Xe đã vào chỗ đậu, hai người bạn cùng nhau đi ăn tối tại Mary’s Fish Camp.
- Tớ sẽ làm việc trở lại, Andrew vừa ngồi vào bàn đã tuyên bố.
- Đúng lúc đấy.
- Và tớ sẽ về nhà.
- Chẳng có gì bắt buộc cậu làm thế.
- Có chứ, cậu đấy.
Andrew chuyển yêu cầu gọi món của mình cho cô phục vụ.
- Cậu có tin gì của cô ấy không?
- Của ai? Simon hỏi.
- Cậu biết thừa là của ai mà.
- Không, tớ chẳng có tin tức gì về cô ấy, mà sao tớ có được chứ?
- Tớ không biết, tớ cứ hy vọng như vậy, thế thôi.
- Cậu sang trang đi, cô ấy sẽ không quay lại đâu. Cậu đã khiến cô ấy quá đau khổ.
- Một đêm say sưa và một lời thú nhận ngớ ngẩn, cậu không nghĩ là tớ đã trả giá đủ cho lỗi lầm đó rồi sao?
- Tớ chẳng can hệ gì tới chuyện đó cả, cậu nên nói tất cả những điều này với chính cô ấy thì hơn.
- Cô ấy chuyển nhà rồi.
- Tớ không biết chuyện đó, nhưng mà cậu, sao cậu biết thế, nếu không có tin tức gì về cô ấy?
- Có lần tớ đi qua tòa nhà cô ấy ở.
- Là thế sao, tình cờ à?
- Ừ, tình cờ.
Andrew đã nhìn lên ô kính cửa sổ thiếu vắng anh đèn trên căn hộ của cô, từ bên kia phố.
- Tớ chẳng thể làm được gì, chuyện đó vượt quá khả năng của tớ. Có những nơi chốn luôn khơi dậy quá khứ. Những khoảnh khắc tớ đã trải qua cùng cô ấy luôn là những khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời. Tớ đi đến dưới cửa sổ nhà cô ấy, ngồi xuống một chiếc ghế băng và nhớ lại những khoảnh khắc ấy. Đôi lúc, tớ còn thấy lại hình ảnh của bọn tớ, hai bóng hình chập chờn như rối bóng, cùng bước vào tòa nhà ấy, hai tay xách nặng đồ vừa mua ở quầy tạp hóa góc phố. Tớ nghe thấy tiếng cười của cô ấy, những lời bông đùa, tớ cứ nhìn vào cái chỗ mà cô ấy rất hay đánh rơi một món đồ nào đó trong lúc tìm chìa khóa. Thậm chí, có lúc tớ còn đứng dậy khỏi ghế, như để tới đó nhặt gói đồ lên, với niềm hy vọng phi lý rằng cánh cổng tòa chung cư sẽ mở ra và rằng cuộc đời sẽ tiếp tục dòng chảy từ nơi mà nó bị ngưng lại. Thật ngốc nghếch, nhưng chuyện đó đã giúp tớ rất nhiều.
- Thế cậu có hay làm như thế không?
- Ngon chứ, món cá của cậu ấy? Andrew vừa đáp vừa cắm chiếc dĩa vào đĩa của Simon.
- Cậu đến đứng dưới nhà cô ấy mấy lần một tuần, Andrew?
- Món của tớ ngon hơn đấy, cậu chọn nhầm món rồi.
- Cậu không thể cứ mãi khóc than số phận mình như thế. Giữa hai người như vậy chẳng ổn chút nào, buồn thật đấy, nhưng đâu đã phải ngày tận thế. Cậu còn cả cuộc đời ở phía trước.
- Tớ đã nghe nhiều câu sáo rỗng, nhưng “cậu còn cả cuộc đời phía trước” thì đúng là nhất quả đất rồi đấy.
- Cậu lại còn muốn dạy dỗ tớ sau cái chuyện cậu vừa kể cho tớ ư?
Rồi Simon hỏi xem ngày hôm nay của anh thế nào, và để đánh lạc hướng, Andrew đã tâm sự với bạn chuyện anh bắt quen một cô gái trong thư viện.
- Chừng nào cậu chưa đến ngồi trên băng ghế dưới nhà cô ấy rình mò, tớ thấy đây đúng là một tin vui đó.
- Tớ đã náu mình trong một quán bar ở góc phố nhà cô ấy.
- Cậu làm gì cơ?
- Cậu nghe rõ tớ nói rồi đấy và không phải như cậu nghĩ đâu; có điều gì đó ở cô gái này khiến tớ thấy hiếu kỳ, tớ vẫn chưa thể biết đó là gì.
Andrew thanh toán hóa đơn. Phố Charles vắng tanh, một ông già dắt chú chó Labrador đi dạo, con chó cũng bước đi tập tễnh y hệt ông chủ.
- Thật quá thể, đúng là người làm sao của chiêm bao làm vậy, Simon thốt lên.
- Đúng, cậu thì nên mua một con chó cốc. Đi thôi, chúng ta về, đêm nay sẽ là đêm cuối cùng tớ ngủ trên cái xô pha xộc xệch nhà cậu. Mai tớ sẽ cuốn gói, hứa đấy. Và cũng sẽ không trồng cây si dưới cửa sổ nhà Valérie nữa, tớ hứa danh dự với cậu điều này. Dù sao thì cô ấy cũng đã chuyển khỏi đó. Cậu biết điều khiến tớ thấy lộn ruột nhất không, đó là khi hình dung ra chuyện có lẽ cô ấy đã dọn sang ở chung cùng một gã khác.
- Nhưng đó chính là toàn bộ điều tệ hại mà cậu có thể mong cho cô ấy, không phải sao?
- Cứ nghĩ đến chuyện cô ấy trao gửi những tâm sự thầm kín cho một người khác, cô ấy chăm lo cho hắn, hỏi han xem ngày hôm này của hắn thế nào, chia sẻ cùng hắn những khoảnh khắc từng là của hai bọn tớ…tớ không thể nào chịu được.
- Lòng ghen tuông đó đặt nhầm chỗ rồi, mà cô ấy thì xứng đáng nhận được nhiều hơn thế.
- Cậu làm tớ thấy bực vì những lời dạy dỗ của cậu rồi đấy.
- Có thể, nhưng phải có ai đó xốc dậy tinh thần cho cậu, cứ nhìn lại mình đi.
- Có lẽ vậy, nhưng không phải là cậu, Simon ạ, đặc biệt không nên là cậu.
- Trước tiên, chẳng có dấu hiệu gì cho thấy cô ấy đang ở cùng ai đó, cũng chẳng gì nói với cậu rằng nếu cô ấy đang ở cùng ai đó thì là cô ấy đang hạnh phúc với hắn. Người ta có thể ở cùng ai đó để chạy trốn nỗi cô đơn của bản thân, có thể chia sẻ mọi việc thường nhật để chịu đựng một sự tan vỡ trong khi vẫn tiếp tục giữ gìn kỷ niệm về một người khác. Chúng ta có thể trò chuyện với ai đó bằng cách lắng nghe giọng nói của một người khác, nhìn vào mắt ai đó để thấy ánh mắt của một người khác.
- Là vậy đấy, Simon, đó chính xác là điều tớ cần nghe. Sao cậu lại biết những điều này, cậu ấy?
- Bởi vì đó là chuyện đã xảy ra với tớ, ngốc ạ.
- Sống cùng với một người trong khi cậu lại nghĩ tới một người khác?
- Không, sống cùng một người mà người đó lại yêu một người khác, là người đóng thế, và yêu là đau khổ mà. Biết thế, nhưng chúng ta vẫn cứ vờ như không biết, cho đến cái ngày ta không còn đủ sức chịu đựng, hoặc đến cái ngày chính cô ấy tống cổ ta ra khỏi cửa.
Trời đêm thấm lạnh, Simon hơi rung mình, Andrew siết chặt vai bạn.
- Hai chúng ta ở với nhau ổn mà, Simon thì thầm. Chẳng có gì bắt cậu phải dọn đi vào ngày mai nếu cậu vẫn chưa hoàn toàn sẵn sàng. Thỉnh thoảng tớ có thể ra xô pha ngủ, còn cậu, dùng phòng của tớ.
- Tớ biết rồi bạn tốt, tớ biết, nhưng mọi chuyện sẽ ổn thôi, giờ thì tớ chắc chắn điều đó. Tóm lại, tớ đồng ý đêm nay sẽ ngủ trên giường cậu. Quân tử nhất ngôn!
Và sau những lời này, hai người bạn cùng đi bộ về căn hộ của Simon, trong bầu không khí im lặng tuyệt đối.
Đoàn xe tiến vào trong nghĩa địa, len lỏi trên các lối đi dẫn lên tận đỉnh đồi rồi đỗ dọc hai bên vỉa hè.
Nhân viên nhà tang lễ khiêng quan tài ra khỏi xe và kê nó trên những chiếc mễ bên cạnh một huyệt mộ vừa mới được đào. Họ đặt hai vòng hoa trên nắp quan tài. Trên một vòng hoa lên nắp quan tài. Trên một vòng hoa có dòng chữ “Tưởng nhớ bạn thân nhất của tôi”, trên vòng hoa còn lại, do Hiệp hội nghề báo phúng viếng, có thể đọc được dòng đề từ “Kính viếng đồng nghiệp thân thiết của chúng tôi, người đã hy sinh khi đang làm nhiệm vụ”.
Cách đó khoảng mười mét, một phóng viên kênh truyền hình địa phương đứng hơi lui lại, camera để dưới chân, chờ đợi lễ an táng bắt đầu để quay vài cảnh.
Simon là người đầu tiên phát biểu, để nói lên rằng người quá cố với anh thân thiết chẳng khác nào anh em, rằng sau hình ảnh một phóng viên ngang bướng và hay tỏ ra cục cằn ẩn giấu một người đàn ông hào hiệp, đôi lúc hài hước. Andrew không đáng phải chết trẻ như vậy. Anh vẫn còn biết bao công việc phải hoàn thành, một cái chết uổng như thế thật khó chấp nhận.
Simon phải ngưng lại để kìm tiếng nức nở, anh chùi nước mắt và kết lại rằng những con người tốt đẹp nhất luôn là những người đầu tiên ra đi.
Olivia Stern, tổng biên tập tờ The New York Times, đến lượt mình cũng bước lên và, với vẻ mệt mỏi, cô nhắc lại cảnh ngộ bi thảm khi Andrew Stilman bỏ mạng.
Vốn là phóng viên điều tra dày dạn kinh nghiệm, anh đã sang tận Argentina để truy lùng một cựu tội phạm chiến tranh. Trở lại New York, sau khi hoàn thành nhiệm vụ một cách dũng cảm, Andrew Stilman đã bị sát hại khi đang chạy bộ dọc bờ sông Hudson, một bằng chứng cho thấy con người ta không bao giờ chạy đủ nhanh một khi đang bị thần chết rượt đuổi. Một hành vi bỉ ổi, được thực hiện hòng bóp nghẹt sự thật. Một cuộc trả thù nhơ bẩn của con gái tên ác quỷ từng bị Andrew vạch mặt. Khi tấn công Stilman, kẻ giết anh đã tấn công vào tự do báo chí và hành vi của cô ta đã tiếp nối những điều man rợ mà cha cô ta từng gây ra trong quá khứ. Nhưng trước khi chìm vào cơn hôn mê sâu mà anh không bao giờ thoát ra được, Andrew Stilman đã kịp tiết lộ tên của kẻ giết anh cho nhân viên cứu thương. Tổ quốc Hoa Kỳ sẽ không bao giờ để kẻ gây ra cái chết cho một người con của đất nước thoát khỏi sự trừng phạt. Yêu cầu dẫn độ tội phạm đã được chuyển tới nhà chức trách Argentina. “Công lý sẽ được thực thi!” Olivia Stern hô vang.
Rồi cô đặt hai tay lên quan tài và ngước mắt nhìn bầu trời trước khi long trọng tuyên bố: “Andrew Stilman là một con người của niềm tin, anh đã cống hiến cả cuộc đời mình cho công việc, cho nghề báo, thành lũy cuối cùng của nền dân chủ của chúng ta. Andrew Stilman, anh đã ngã xuống trên thành lũy này như một người lính trên chiến trường, chúng tôi sẽ không bao giờ lãng quên anh. Ngay ngày mai, phòng tư liệu B, căn phòng nằm ở tầng ngầm đầu tiên, phía bên phải khi nhìn từ thang máy ra, cô nói thêm đồng thời liếc ánh mắt đồng lõa về phía trưởng phòng nhân sự, sẽ được đổi tên để tưởng nhớ anh. Nó sẽ không còn là phòng tư liệu B nữa, mà sẽ mang tên ‘phòng Andrew Stilman’. Chúng tôi sẽ không bao giờ lãng quên anh!” Cô dằn từng tiếng.
Một vài đồng nghiệp của Andrew đi đưa tang vỗ tay hoan nghênh trong khi Olivia Stern hôn lên nắp quan tài, in lên lớp gỗ sồi phủ véc ni hai vệt son môi hiệu Coco Chanel. Rồi cô quay về chỗ.
Nhân viên nhà tang lễ chờ đợi tín hiệu từ Simon. Bốn người đàn ông khiêng quan tài đặt lên một vòm bán nguyệt nhô cao trên mộ. Họ khởi động chiếc tời và di hài Andrew Stilman từ từ khuất dần dưới lòng đất.
Những người đã dành cả buổi sáng để tiễn anh ra nghĩa địa lần lượt tiến lại tạm biệt anh trong ngôi nhà mới. Ở đây có mặt Dolorès Salazar, nhân viên phòng tư liệu vốn rất quý mến Andrew – họ thường xuyên gặp nhau vào các sáng thứ Bảy tại trụ sở của Hội đệ tử Lưu Linh vô danh trên phố Perry - , Manuel Figera, người đưa thư - Andrew là người duy nhất thỉnh thoảng đãi ông cà phê những khi họ gặp nhau tại căng tin - , Tom Cimilio, trưởng phòng nhân sự - người mà cách đây hai năm đã dọa sẽ sa thải anh nếu anh không giải quyết dứt điểm vấn đề rượu chè của mình - , Gary Palmer, nhân viên phòng pháp lý- , người thường xuyên dàn xếp ổn thỏa những thái quá mà Andrew gây ra khi thực thi chức trách- , Bob Stole, chủ tích công đoàn - ông chưa từng quen biết Andrew, nhưng ngày hôm đó, ông có ca trực - , và Freddy Olson, đồng nghiệp cùng phòng, - người mà ta không thể biết là anh ta sắp khóc đến nơi hay đang kiềm chế tiếng cười điên dại vang như sấm mỗi khi anh ta mang vẻ mặt đưa đám kia.
Olson là người cuối cùng thả một cành hoa hồng bạch xuống linh cữu. Anh ta cúi xuống để nhìn xem cành hồng đã hạ cánh ở đâu và thiếu chút nữa còn ngã nhào xuống huyệt nếu ông chủ tịch công đoàn không kịp tóm được tay áo anh ta.
Rồi, đoàn người đi xa dần và đến đứng thành nhóm quanh mấy chiếc ô tô.
Người này ôm ghì lấy người kia, Olivia và Dolorès nước mắt ngắn dài, Simon cảm ơn tất cả những người đã đi đưa tang và mỗi người lại lặng lẽ trở về với những mối bận tâm của mình.
Dolorès có một cuộc hẹn sơn sửa móng vào lúc 11 giờ, Olivia hẹn đi ăn trưa với một cô bạn, Manuel Figera thì hứa sẽ đưa vợ tới Home Depot để mua một chiếc máy sấy quần áo mới, Tom Cimilio là nhân chứng trong đám cưới của cậu cháu trai, Gary Palmer phải đi gặp người bạn đang quản lý một quầy hàng tại Flea market trên phố 25, Bob Stole trở về tòa soạn hoàn thành nốt ca trực và Freddy Olson thì để dành buổi chăm sóc sức khỏe theo liệu pháp phương Đông cho giờ nghỉ trưa tại một cơ sở ở khu phố Tàu, nơi mà các cô nhân viên mát xa có lẽ đã lâu lắm rồi không phải đi xưng tội.
Mỗi người trở lại với cuộc sống của họ, để Andrew lại với cái chết.
*
Những giờ đầu tiên tiếp sau lễ an táng đối với anh cứ dài đằng đẵng, và nhất là cảm giác cô độc, điều này khá bất ngờ với một người như anh, người đã luôn khao khát được ở một mình. Và nỗi lo sợ xâm chiếm anh lần này không gây ra cơn thèm một ly cocktail Fernet- Coca, không mồ hôi, không run rẩy, thậm chí mạch cũng không đập dồn dập hơn, mà vì những lẽ đã rõ.
Rồi màn đêm buông xuống và, cùng với nó, cái hiện tượng lạ lùng mà anh ngay lập tức nhận thức được.
Mặc dù cho tới khi ấy anh đã khá quen với sự chật chội của “ngôi nhà nhỏ trong lòng đất, không cửa ra vào không cửa sổ” của mình và dù sự im lặng ngự trị ở nơi cách mặt đất sáu tấc này rốt cuộc cũng không khiến anh thấy phiền phức hơn chuyện đó (anh từng yêu thích biết bao cảnh xô bồ trên đường phố, tiếng ồn ào từ chiếc máy khoan, những cảnh sát đi mô tô hòa trộn vẻ hùng tráng với tiếng vù vù của động cơ xe, tiếng còi xe huyên náo, những chiếc xe tải giao hàng vừa lùi vừa bấm còi khiền người ta nảy sinh ý đồ giết quách gã tài xế đi cho rồi, những gã tay chơi phê thuốc hát đến váng đầu trên suốt cả quãng đường về nhà, những kẻ mà người ta những muốn đuổi theo đến tận cửa nhà để ăn miếng trả miếng), Andrew, trong sự ngạc nhiên tột độ, thấy mình bay lên vài xăng ti mét phía trên nấm mồ mới đắp trên quan tài chứa xác anh. Cũng phi lý với anh hệt như chuyện này, anh ở đó, ngồi xếp bằng, và có thể nhìn thấy mọi thứ diễn ra xung quanh mình, tức là không có gì đáng kể.
Vì rảnh rỗi chẳng có việc gì làm, anh bắt đầu trò thống kê.
Bãi cỏ bị gió quần thảo chĩa những ngọn cỏ quay về hướng Bắc. Những khóm thông đỏ, những cây thích và những cây sồi trong góc cũng dập dờn về cùng hướng đó. Tất cả thiên nhiên xung quanh dường như đều hướng về xa lộ nằm phía dưới nghĩa địa.
Và đột nhiên, trong khi đang rụng rời tự hỏi mình sẽ còn phải ở trong hoàn cảnh khó chịu này bao nhiêu giờ đồng hồ nữa, thì anh nghe thấy một giọng nói:
- Anh sẽ quen thôi, ban đầu thì có vẻ hơi lâu, nhưng rốt cuộc chúng ta cũng sẽ mất ý niệm về thời gian. Tôi biết anh đang tự nhủ điều gì. Nếu anh nghĩ đến cái chết của mình sớm hơn, hẳn là anh sẽ móc hầu bao mua một khoảnh đất có tầm nhìn ra biển. Và anh sẽ mắc sai lầm trầm trọng. Sóng biển rốt cuộc cũng chỉ là một thứ phiền phức! Trong khi đó trên xa lộ, thỉnh thoảng lại xảy ra những chuyện hay ho. Tắc đường, những cuộc rượt đổi, tai nạn, phong phú thể loại hơn hẳn những gì chúng ta hình dung.
Andrew nhìn về hướng phát ra giọng nói. Một người đàn ông ngồi xếp bằng, cũng đang bay như anh, phía trên mồ bên cạnh chừng vài phân, đang mỉm cười với anh.
- Arnold Knopf, người đó nói mà vẫn không thay đổi tư thế. Tên tôi đó. Tôi bắt đầu sang năm thứ năm mươi ở đây rồi. Anh sẽ thấy, anh sẽ quen thôi, chỉ là một vố phải chịu thôi mà.
- Vậy là như thế sao, cái chết ấy? Andrew hỏi, chúng ta ở đây, ngồi trên nấm mồ của mình mà ngắm quốc lộ sao?
- Anh muốn ngắm gì thì ngắm, anh được tự do mà, nhưng đây là điều tôi thấy khuây khỏa nhất. Đôi khi, có người tới thăm viếng, đặc biệt vào dịp cuối tuần. Những người sống đến đây khóc thương trên nấm mồ của chúng ta, nhưng riêng mồ của tôi thì không. Còn về hàng xóm láng giềng của chúng ta, họ đã ở đây lâu đến mức mà những người từng đến thăm họ cũng đến lượt bị chôn cất cả. Đa số còn không buồn ra ngoài nữa kia. Hai chúng ta là những người trẻ tuổi nhất của khu này, nếu tôi có thể gọi như vậy. Tôi hy vọng là anh cũng sẽ được thăm viếng, ban đầu thì luôn có người tới thăm, sau đó nỗi đau nguôi dần, người thăm cũng sẽ vãn.
Andrew, trong suốt quãng thời gian hấp hối kéo dài, thường xuyên hình dung ra cái chết có thể là gì, thậm chí hy vọng tìm thấy trong đó một dạng phóng thích những con quỷ sa tăng từng ám anh. Nhưng chuyện xảy đến với anh lại tệ hại hơn tất thảy những gì mà đầu óc tinh quái của anh từng tính đến.
- Tôi đã chứng kiến bao nhiêu chuyện, anh biết đấy, người đàn ông nói tiếp. Hai thế kỷ và ba cuộc chiến tranh. Có tưởng tượng nổi rằng chỉ một cơn viêm phế quản tầm thường đã hạ gục tôi. Hãy nói với tôi rằng cái thứ nực cười ấy chẳng giết nổi người đâu! Thế còn anh?
Andrew không trả lời.
- Nghe này, chúng ta chẳng vội vàng gì, với lại anh đừng chán nản, tôi đã nghe hết rồi, ông hàng xóm nói tiếp. Đã có rất đông người đến đám tang của anh. Bị sát hại, dù sao cũng không phải chuyện tầm thường.
- Đúng, khá là độc đáo, tôi công nhận, Andrew đáp.
- Hơn nữa lại dưới tay một phụ nữ!
- Phụ nữ hay nam giới thì cũng chẳng thay đổi được gì nhiều, không hiểu sao?
- Tôi cho là không. Mà dù sao cũng có. Ngài đây không có con sao? Tôi không thấy quả phụ hay nhóc tì nào.
- Không, không vợ góa con côi, Andrew thở dài.
- Vậy là độc thân sao?
- Mới thôi.
- Thật đáng tiếc, nhưng như vậy có khi lại tốt cho cô ấy.
- Tôi nghĩ thế.
Xa xa, đèn hiệu của một xe cảnh sát bắt đầu nhấp nháy, chiếc xe con mà nó đang đuổi theo đỗ lại trên làn đường dừng khẩn cấp.
- Anh thấy đấy, trên xa lộ không ngừng xảy ra những chuyện hay ho. Đây là đường cao tốc Long Island nối liền với sân bay JFK. Mọi người lúc nào cũng vội vã và lần nào họ cũng tự chui vào rõ ở khu vực này. Những ngày đẹp trời, có một kẻ nào đó không chịu dừng lại, khi ấy anh có thể xem màn rượt đuổi đến tận chỗ ngoặt đằng kia. Sau đó, hàng cây tiêu huyền lại che mất tầm nhìn của chúng ta, tiếc thật.
- Ý ông là chúng ta không thể nhúc nhích khỏi mộ mình à?
- Có chứ, dần dần theo thời gian. Tuần trước tôi vừa đi được đến cuối lối đi, sáu mươi bước liền! Dẫu sao cũng mất năm mươi năm luyện tập! May mà công sức bỏ ra được tưởng thưởng, nếu không thì có gì vui chứ?
Andrew thấy tuyệt vọng. Ông hàng xóm tiến lại gần anh.
- Cứ lo đi, tôi thề với anh là anh sẽ quen thôi. Ban đầu chuyện này có vẻ bất khả thi, nhưng rồi anh sẽ thấy, tin tôi đi.
- Ông hẳn sẽ thấy buồn phiền nếu chúng ta giữ im lặng một thời gian đấy. Tôi thực sự cần được yên tĩnh.
- Thứ thời gian mà anh muốn, chàng trai ạ, Arnold Knopf bắt bẻ, tôi hiểu mà, tôi không vội đâu.
Và cả hai người cứ ngồi xếp bằng bên nhau như thế trong đêm tối.
Một lát sau, đèn pha một chiếc ô tô chiếu sáng con đường dẫn từ cổng vào nghĩa trang lên ngọn đồi. Việc người ta mở cánh cổng mà vào giờ này thường đã khóa kín để chiếc ô tô đi vào là một điều bí ẩn đối với Arnold, người đã chia sẻ sự ngạc nhiên của mình với Andrew.
Chiếc xe con màu nâu đỗ dọc vỉa hè, một phụ nữ bước xuống và tiến về phía họ.
Andrew ngay lập tức nhận ra vợ cũ, Valérie, tình yêu của đời anh mà anh đã để mất vì một sai lầm ngớ ngẩn nhất đời. Và hoàn cảnh của anh lúc này đã chứng thực cho cái giá mà anh phải trả vì một khoảnh khắc lầm lỗi, một lần mê đắm qua đường.
Cô có biết những day dứt đã gặm nhấm anh biết bao! Rằng anh đã từ bỏ chiến đấu kể từ giây phút cô ngừng tới bệnh viện thăm anh?
Cô tiến lại phía ngôi mộ và tĩnh tâm trong không khí im lặng tuyệt đối.
Nhìn thấy cô ngồi sụp xuống trước mặt mình như vậy khiến anh lần đầu tiên thấy nguôi ngoai kể từ khi bị đâm bên bờ sông Hudson.
Valérie đang ở đây, cô ấy đã tới, và điều đó đáng kể hơn tất thảy.
Đột nhiên, cô lén vén jupe lên rồi bắt đầu đi tiểu lên tấm bia đá.
Làm xong việc, cô chỉnh lại trang phục và nói dõng dạc:
- Biến đi cho khuất mắt, Andrew Stilman.
Rồi, cô trở lên xe và chuồn êm như khi cô đến.
- Chuyện đó, tôi phải nói là, cũng không tầm thường đâu! Arnold Knopf rít lên.
- Cô ấy đã tè bậy lên mộ tôi thật à?
- Không muốn dài dòng văn tự làm gì, tôi tin chắc rằng đó chính xác là điều cô ấy vừa làm. Tôi không muốn là kẻ tọc mạch, nhưng anh đã làm gì mà khiến cô ấy tới đây tiểu tiện như thế giữa lúc đêm hôm?
Andrew buông một tiếng thở dài.
- Vào đêm tân hôn, tôi thú nhận với cô ấy rằng mình đã phải lòng một phụ nữ khác.
- Tôi hài lòng khi có anh làm hàng xóm, Andrew Stilman ạ, anh không thể biết tôi hài lòng đến mức nào đâu! Tôi cảm thấy mình sẽ bớt buồn phiền đi nhiều đấy, thậm chí hết hoàn toàn. Ban nãy tôi đã nói dối anh một chút, chúng ta luôn phát bực vì phải chết. Và vì mọi chuyện đã rồi, thật sự chẳng còn lựa chọn thay thế nào, nên ta rơi vào ngõ cụt, anh bạn ạ. Không nên nói ra điều này, nhưng tôi có cảm tưởng cô nàng ghê gớm của anh vẫn chưa tha thứ cho anh đâu. Mà thêm nữa, dốc cạn gan ruột vào đêm tân hôn, tôi không muốn đóng vai kẻ rao giảng đạo đức đâu, nhưng phải công nhận là anh đã chọn sai thời điểm.
- Tôi không có khiếu nói dối, Andrew thở dài.
- Ấy vậy mà anh đây từng là nhà báo sao? Sau này hãy kể cho tôi từ đầu chí cuối nhé, tôi phải thực hành mấy chiêu tập trung tinh thần đã, tôi tự thề với mình là đến cuối thế kỷ này sẽ tới được cái khóm cây mà anh thấy ở chỗ kia kìa. Tôi chán ngấy mấy cây tiêu huyền này rồi!
- “Từng”… thời quá khứ. Cách nói này tác động tới Andrew chẳng khác nào một phát đại bác xuyên thủng thành lũy của một pháo đài. Đã, và đang chỉ còn là một cái xác đang phân hủy.
Andrew cảm thấy bị hút lại phía ngôi mộ, anh cố gắng kháng cự lại lực hút đang kéo mình xuống dưới lòng đất và anh hét lên.
*
Simon tiến lại chỗ xô pha, tung chăn ra và lay người anh.
- Thôi mấy cái trò rên rỉ đó đi, thật không thể chịu nổi. Dậy đi, 10 giờ rồi đấy, đáng lẽ cậu phải đi làm rồi chứ!
Andrew hít một hơi thật sâu, như người thợ lặn vừa trồi lên khỏi mặt nước sau một lúc lâu nhịn thở.
- Cậu đừng uống nữa thì đêm ngủ mới ngon được chứ. Simon vừa lượm một vỏ chai Jack Daniel’s lên vừa nói tiếp. Dậy và thay đồ đi hoặc là tớ thề sẽ tống cổ cậu ra ngoài, tớ chán thấy cậu trong tình trạng này lắm rồi.
- Được rồi, Andrew vừa vươn vai vừa đáp. Tại lò xo dưới xô pha nhà cậu làm tớ khổ sở đấy chứ. Cậu không thể có phòng tiếp bạn được sao?
- Cậu không về nhà cậu được à? Cậu ra viện được ba tháng rồi đấy.
- Sớm thôi, tớ hứa đấy. Tớ vẫn chưa thể ở một mình vào ban đêm được. Với lại, ở đây thì tớ mới không uống rượu.
- Chỉ không uống trước khi tớ đi ngủ thôi! Có cà phê trong bếp đấy. Cậu đi làm đi, Andrew, đó là việc cậu cần làm nhất lúc này và thật sự thì đó là điều duy nhất cậu làm tốt.
- “Những con người tốt đẹp nhất luôn là những người đầu tiên ra đi”… thật thế sao? Cậu không tìm được câu nào hay hơn để kết thúc điếu văn cho tớ à?
- Tớ nhắc lại với cậu rằng tất cả chuyện đó chỉ tồn tại trong cái đầu óc lộn xộn của cậu thôi. Chính cậu là người cầm bút trong những cơn ác mộng đó, mà quả thật, văn vẻ của cậu thật bi thảm.
Simon đóng sập cửa rồi đi khỏi.
Andrew bước vào phòng tắm. Anh săm soi mặt mình và cảm thấy khá thoải mái khi nghĩ lại chuyện xảy đến đêm qua. Anh thay đổi ý kiến khi ghé sát vào gương. Đôi mắt anh sung húp, chòm râu đen che gần kín hai bên má. Simon nói đúng, có lẽ đã đến lúc quay trở lại tụ tập với Hội đệ tử Lưu Linh vô danh trên phố Perry. Trong lúc chờ đợi, anh sẽ đến tham dự cho có mặt ở cuộc họp của ban biên tập và sau đó sẽ đến thư viện thành phố. Từ ba tháng nay, anh thích ở đó cả ngày.
Yên vị trong phòng đọc lớn, anh vẫn cảm thấy có bầu có bạn mặc dù không khí im lặng bao trùm. Có nơi nào khác trên thế giới này có thể tặng cho anh cái thành lũy tương tự để chống chọi với nỗi cô đơn mà không bị tiếng ồn ào từ người khác làm phiền?
Tắm táp xong, ăn mặc sạch sẽ, anh rời căn hộ, dừng chân ở quá Starbucks để nuốt vội bữa sáng và đọc lướt nhật báo. Nhìn giờ trên đồng hồ đeo tay, anh đi thẳng vào phòng họp nới Olivia đang truyền đạt nốt chỉ thị.
Đám phóng viên đứng dậy và rời khỏi phòng họp. Andrew đứng gần cửa ra vào, Olivia ra hiệu anh đợi cô. Khi phòng đã hết người, cô bước ra gặp anh.
- Không ai ép buộc anh trở lại làm việc sớm thế đâu, Andrew. Nhưng nếu anh đã trở lại, thì hãy làm việc thật sự. Họp ban biên tập không phải là việc thích thì làm không thích thì thôi.
- Tôi có mặt mà, không phải sao?
- Anh có mặt mà cũng như không ấy. Anh chưa rặn ra được dòng nào từ ba tháng nay rồi.
- Tôi đang suy tính cho kế hoạch sắp tới.
- Anh đang buông xuôi theo số phận và bắt đầu rượu chè trở lại.
- Điều gì khiến cô nói tôi như thế?
- Cứ nhìn mình trong gương đi.
- Tôi làm việc khuya, tôi đang miệt mài theo đuổi một cuộc điều tra mới.
- Rất vui được biết tin đó, tôi có thể biết là đề tài gì không?
- Một phụ nữ trẻ bị cưỡng hiếp và đánh cho đến chết ở ngoại ô Jonhannesburg, cách đây mười tám tháng. Cảnh sát không hề có động thái gì để bắt giữ những kẻ sát nhân.
- Một tin thường nhật ở Nam Phi, đó chính là điều sẽ hấp dẫn độc giả của chúng ta, hãy báo trước cho tôi khi anh xong việc để tôi dành cho anh một chỗ trên trang nhất.
- Cô mỉa mai đấy à?
- Chính thế.
- Cô gái ấy bị sát hại là do xu hướng tình dục của mình. Cô ấy chỉ có một tội duy nhất là yêu một phụ nữa khác. Và cũng chính vì lý do này, phía cảnh sát thừa biết thủ phạm là ai nhưng chẳng buồn bắt giữ chúng, không hơn gì cách họ xử lý kẻ cán bẹp một con chó hoang. Gia đình cô ấy tranh đấu để công lý được thực thi, nhưng giới chức trách không thèm bận tâm, hay có một chút, họ còn khen ngợi những kẻ thiểu năng trí tuệ đã sát hại cô gái. Cô ấy mới hai mươi tư tuổi.
- Đúng là bi kịch, nhưng Nam Phi là một đất nước xa xôi và còn xa hơn nữa khỏi nhưng mối bận tâm của độc giả báo chúng ta.
- Tuần trước, một trong những Nghị sĩ xuất sắc của đảng Cộng hòa nước ta đã phát biểu trên truyền hình về chủ đề kết hôn đồng giới rằng ông ta thấy nó có thể dẫn đến loạn luân và ấu dâm. Chúng ta đang sống trong một thế giới nực cười, nơi nào cũng có giới hạn, ông thị trưởng đáng kính của thành phố này thậm chí còn muốn hạn chế lượng tiêu thụ nước giải khát trong các rạp chiếu phim, nhưng để kìm hãm những điều ngu ngốc của các Nghị sĩ dân biểu thì lại chẳng có gì! Có lẽ nên có các điều luật để họ cũng sẽ phải chịu phạt mỗi lần vượt quá chuẩn thông thường về sự ngu dốt.
- Anh đang muốn dấn thân vào chính trị đấy à, Stilman?
Andrew khẩn khoản mong tổng biên tập không xem nhẹ những đề xuất của anh. Những phát ngôn của Nghị sĩ kia không chỉ là lời nhục mạ, chúng còn kích động hận thù. Andrew muốn thông qua bài viết của mình đặt vấn đề về tính bạo lực mà một diễn văn chính trị có thể kích động khi lên án một cộng đồng nào đó.
- Bây giờ thì cô ủng hộ tôi chứ? Phần đầu sẽ là chuyện sát hại cô gái vô tội đó, sự thụ động của giới chứ Nam Phi vốn không hề coi trọng vụ giết người này và kết lại là viên Nghị sĩ u mê của chúng ta, thông điệp mà ông ta tuyên truyền và những hệ lụy có thể đoán trước từ những người nông nổi tin lời ông ta. Nếu xoay xở ngon lành, tôi có thể buộc đảng Cộng hòa phải khai trừ ông ta, và in fine[1] buộc ông ta tỏ rõ lập trường.
[1] In fine: tiếng Latin trong nguyên bản nghĩ là cuối cùng.
- Một kế hoạch mập mờ và liều lĩnh, nhưng nếu chuyện đó có thể giúp anh bận rộn trong lúc chờ anh tìm lại được mong muốn tấn công vào những chuyện…
- …quan trọng hơn chuyện một cô gái 24 tuổi bị cưỡng hiếp, bị đánh cho nhừ tử và bị đâm chết chỉ bởi vì cô ấy đồng tính?
- Đừng đặt vào miệng tôi những điều mà tôi không nói, Stilman.
Andrew đặt tay lên vai tổng biên tập, ấn nhẹ một cái như để nhấn mạnh tính nghiêm trọng của đề xuất mà anh đưa ra.
- Cứ hứa với tôi một câu, Olivia. Ngày mà tôi thật sự từ giã cõi đời này, hứa với tôi là cô sẽ miễn cho tôi mọi lời phát biểu trong lễ tang của tôi nhé.
Olivia nhìn Andrew, hiếu kỳ.
- Được, nếu anh muốn vậy, nhưng vì sao chứ?
- “Anh đã ngã xuống trên thành lũy này như một người lính trên chiến trường”, không phải đấy chứ, thật tình! Tôi thấy hổ thẹn vì cô.
- Nhưng anh đang nói về cái quái gì thế, Stilman?
- Không có gì, bỏ qua đi. Cứ vui lòng hứa với tôi điều đó và chúng ta dừng ở đó đã. À còn nữa, một điều cuối cùng, phòng tư liệu B ư? Thẳng thắn mà nói, cô không thể tìm được chỗ nào thê thảm hơn à?
- Anh biến đi được rồi đấy, Andrew, anh đang làm mất thì giờ của tôi và tôi chẳng hiểu gì mấy cái câu vớ vẩn của anh đâu. Anh làm việc đi, tôi sẽ sẵn lòng tặng anh một vé tới Cape Town để anh xéo đi cho khuất mắt tôi.
- Johannesburg chứ! Đi mà báo tôi rằng chính tôi mới là người không tập trung trong lúc này. Không, nhưng tôi đang mơ hay sao thế này.
Andrew ra thang máy và lên phòng làm việc của mình. Trên bàn làm việc của anh vẫn là cảnh lộn xộn y nguyên như những gì anh để lại vào cái ngày bị tấn công, Freddy Olson, tạp chí giải ô chữ trong tay, vừa gặm bút chì vừa đung đưa trên ghế tựa.
- “Trở về” với bảy chữ cái, cậu có ý gì không? Olson hỏi.
- Thế bàn tay tôi in trên mặt cậu bảy đốt, cậu có ý gì không?
- Một người đàn ông đạp xe trong khu vực West Village bị một cảnh sát tông vào, Olson nói tiếp. Không bằng lòng với chuyện cắt ngang đường người ta, viên cảnh sát còn đòi ông ta cho xem giấy tờ và khi ông ta phản ứng lại, nói rằng thế giới này lộn tùng phèo hết cả rồi, viên cảnh sát đã còng luôn tay ông ta rồi đưa về đồn. Cậu có muốn đeo đuổi vụ này không?
- Phản ứng như thế nào?
- Theo lời khai, ông già đó đã tát viên cảnh sát vì anh này nói với ông ta bằng cái giọng khiến ông ta thấy bực.
- Ông ta bao nhiêu tuổi, cái ông đi xe đạp ấy?
- Tám mươi lăm, còn gã cảnh sát thì ba mươi.
- Thành phố này ngày nào cũng khiến tôi bất ngờ, Andrew thở dài. Tôi mặc xác cậu với mấy cái tin vặt vãnh của mình, tôi còn có việc báo chí đúng nghĩa đang chờ.
- Bourbon hay chai daiquiri?
- Ý cậu là chúng ta sẽ nói chuyện về mấy món nghiện ngập của cậu hả Olson? Cậu có vẻ nhũn như con chi chi trong lễ tang tôi hay sao ấy.
- Tôi chẳng hiểu cậu đang nói nhăng cuội gì, nhưng tôi chẳng hút hít cái gì từ lâu lắm rồi. Tôi đã thề bên giường bệnh của cậu rằng nếu cậu qua được, tôi sẽ không bao giờ động đến ma túy nữa.
Andrew kiềm chế không đáp trả đồng nghiệp, lấy thư của mình, một bản của ấn phẩm buổi sáng rồi đi khỏi. trời hôm nay rất đẹp, anh đi về phía Thư viện công cộng New York nằm cách tòa soạn vài khối nhà.
*
Andrew trình thẻ tại sảnh vào của phòng đọc. Viên thủ thư khẽ chào anh.
- Chào ông, Yacine, Andrew vừa chào lại vừa chìa tay cho người thủ thư bắt.
- Hôm nay anh đăng ký mượn sách rồi chứ? Người này hỏi tiếp trong khi vẫn dán mắt vào màn hình máy vi tính.
- Tôi đến với tất cả những thứ tôi cần để chắc chắn rằng mình không làm điều gì bổ ích, thư và báo của tôi.
Yacine quay sang phía bàn đọc nơi Andrew thường ngồi.
- Anh có hàng xóm nữ đấy, ông nói, vẫn với giọng khẽ khàng.
- Thế vụ thu xếp nho nhỏ giữa chúng ta thì sao?
- Tôi rất tiếc, thưa anh Stilman, chúng tôi hiện tại nhận được nhiều yêu cầu, phòng đọc luôn kín người và chúng tôi đã phải từ chối nhiều người. Tôi không thể giữ mãi cái chỗ trống này được.
- Cô gái kia ngồi đó lâu không?
- Tôi chịu.
- Xinh chứ?
- Cũng khá.
- Đó là ai vậy?
- Anh cũng biết là chúng tôi không được phép tiết lộ những thông tin kiểu đó mà.
- Ngay cả với tôi sao, Yacine?
- Anh Stilman, có nhiều người đang đợi phía sau anh, anh vui lòng ổn định chỗ ngồi.
Andrew nghe theo và băng qua phòng đọc, tỏ ra thích thú một cách tinh quái khi cố tình làm bước chân mình vang vọng. Anh ồn ào kéo chiếc ghế tựa, buông mình xuống ghế và mở báo ra đọc.
Mỗi lần lật trang báo, anh lại làm sao để phóng đại tiếng giấy sột soạt. Cô hàng xóm của anh thậm chí còn không ngẩng đầu lên. Chán nản, cuối cùng anh cũng bỏ cuộc và cố tập trung vào bài báo đang đọc.
Chẳng ích lợi gì, anh đặt tờ báo xuống để quan sát một lần nữa cô gái chăm chỉ đang ngồi đối diện.
Cô gái có kiểu tóc tém và khuôn mặt ngây thơ đúng phong cách cô đào Jean Seberg. Ánh mắt như gắn chặt vào trang sách, cô dùng ngón trỏ lần theo từng dòng. Đôi lúc, cô ghi chép vào một cuốn sổ. Hiếm khi nào Andrew thấy có người tập trung như vậy.
- Có nhiều tập sao, tôi hy vọng thế? Anh hỏi.
Người phụ nữ trẻ ngước mắt nhìn lên.
- Tôi không biết cô đang đọc sách gì, nhưng có vẻ nó quá mức hấp dẫn, anh nói tiếp.
Cô nhướn mày, phác vẻ mặt ủ rũ và lại chìm đắm vào cuốn sách đọc dở.
Andrew quan sát cô gái trong giây lát, nhưng trước khi anh kịp phát ngôn thêm lời nào, cô gái trẻ đã gấp sổ lại rồi đi khỏi. Cô trả cuốn sách đã mượn cho người thủ thư và rời khỏi phòng đọc.
Andrew đến lượt mình cũng đứng dậy vội vã ra chỗ Yacine.
- Anh cần một cuốn sách sao, anh Stilman?
- Cuốn này, anh đáp, mắt liếc nhìn cuốn sách mà cô hàng xóm vừa để lại trên quầy.
Yacine đặt tay lên cuốn sách.
- Trước tiên tôi phải nhập liệu về việc cuốn sách đã được trả lại rồi mới lập một phiếu mượn khác. Anh biết quy định của chúng tôi lâu rồi, đúng không? Anh cứ về chỗ đi, chúng tôi sẽ mang sách ra cho anh.
Andrew nói để người thủ thư hiểu rằng sự mẫn cán của ông ta đã khiến anh bực mình không để đâu cho hết.
Anh rời thư viện và bất giác, khi đã ra ngoài, tìm kiếm cô gái ngồi cùng bàn giữa đám đông những người đang ngồi trên các bậc thang rộng rãi của tòa nhà. Rồi anh nhún vai và quyết định đi dạo.
*
Hôm sau, theo nếp cũ, Andrew xuất hiện trở lại ở phòng đọc tầm 10h sáng. Chiếc ghế trước mặt anh vẫn bỏ trống. Anh nhiều lần lướt mắt khắp các góc phòng rồi quyết định mở báo ra đọc.
Đến giờ ăn trưa, anh ra căng tin thư viện. Cô gái ngồi cùng bàn hôm trước tiến lại quầy thu ngân, đẩy một chiếc khay trên rãnh trượt dọc rủ kính đông lạnh. Andrew chộp lấy một chiếc sandwich trên kệ, đồng thời liếc mắt dõi theo cô gái, và lách vào hàng.
Lát sau, anh tới ngồi xuống cách cô ba hàng ghế và ngắm nhìn cô ăn trưa. Vừa ăn bánh mứt táo, cô vừa nguệch ngoạc lên sổ ghi chép và dường như không thứ gì xung quanh làm cô bận tâm được.
Andrew bị ấn tượng bởi độ tập trung của cô gái. Ánh mắt cô đưa theo nhịp độ đều như vắt chanh từ cuốn sổ ghi chép sang chiếc bánh ngọt mà cô ăn rất ngon lành. Nhưng anh để ý đến một chi tiết đã thấy từ hôm trước. Trong khi dùng ngón trỏ tay trái dõi theo từng dòng người mà cô đọc, cô ghi chép vào sổ cũng bằng tay trái, còn bàn tay phải luôn để dưới bàn. Andrew tự hỏi cô có thể giấu kỹ thứ gì được chứ.
Cô gái trẻ lại ngẩng đầu lên, lướt mắt nhìn quanh phòng, gửi đến anh một nụ cười thoảng vội vã và lại đi về phía phòng đọc sau khi đã tống nốt phần còn lại của bữa trưa vào sọt rác.
Andrew ném chiếc sandwich của mình vào sọt rác rồi theo gót cô. Anh ngồi vào chỗ của mình và mở báo ra.
- Là số hôm nay chứ, tôi hy vọng thế, cô gái trẻ thì thầm sau một lúc.
- Xin lỗi cô bảo sao?
- Anh cũng lộ liễu quá nhỉ; tôi vừa nói là hy vọng ít nhất đây là báo của ngày hôm nay! Vì anh cứ làm như mình đang đọc báo ấy, đi thẳng vào vấn đề đi. Anh muốn gì ở tôi?
- Nhưng có gì đâu nhỉ, tôi không đặc biệt quan tâm tới cô, tôi đang suy nghĩ, chỉ thế thôi, Andrew vừa lúng búng vừa khổ sở che giấu vẻ bối rối của mình.
- Tôi đang nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ, anh thích chủ đề đó chứ?
- Giáo viên lịch sử à?
- Không. Còn anh, cớm à?
- Cũng không, nhà báo.
- Mảng tài chính?
- Điều gì khiến cô nghĩ thế?
- Đồng hồ của anh, tôi chỉ thấy có người làm trong lĩnh vực đó là tự tặng cho mình một món đồ trang sức tương tự.
- Một món quà của vợ tôi, tóm lại là, vợ cũ của tôi.
- Cô ấy không coi thường anh đâu.
- Không, chính tôi mới giễu cợt cô ấy.
- Tôi có thể trở lại công việc của mình rồi chứ? Cô gái trẻ hỏi.
- Tất nhiên, Andrew đáp. Tôi không muốn làm cô bị gián đoạn.
Cô cảm ơn anh và quay trở lại đọc sách.
- Phóng viên, Andrew nói rõ thêm.
- Tôi không muốn tỏ ra khó chịu, cô gái nói, nhưng tôi mong có thể tập trung vào những thứ đang nghiên cứu.
- Tại sao lại là Ấn Độ?
- Tôi định một ngày nào đó sẽ tới đất nước ấy.
- Đi nghỉ à?
- Anh không định để tôi yên, phải không? Cô thở dài.
- Có chứ, tôi xin hứa, tôi sẽ không nói gì nữa. Kể từ giờ phút này, không một lời nào. Thề, hứa, đảm bảo.
Và anh đã giữ lời. Andrew giữ im lặng suốt cả buổi chiều chỉ trừ lúc anh chào cô khi cô đi khỏi khoảng một tiếng trước khi thư viện đóng cửa.
Khi ra về, Andrew cầm lấy một quyển sách mà một độc giả để lại trên quầy, nhét một tờ 20 đô la xuống dưới bìa sách rồi chìa nó cho viên thủ thư.
- Tôi chỉ muốn biết họ của cô ấy thôi.
- Baker, Yacine vừa thì thào vừa ghì chặt cuốn sách vào người.
Andrew thò tay vào túi quần jean và lấy ra một tờ tiền in hình tổng thống Andrew Jackson.
- Địa chỉ của cô ấy?
- 65 phố Morton, Yacine vừa thì thào vừa tóm lấy tờ 20 đô.
Andrew rời thư viện. Vỉa hè đại lộ Năm nhung nhúc người. Vào giờ này, không tài nào bắt nổi một chiếc taxi chạy rong tìm khách. Anh nhận ra cô gái trẻ đang vẫy vẫy tay ở góc giao phố 42, cô thu hút sự chú ý của một tài xế nào đó. Một chiếc xe thuê đỗ lại trước cô và tay tài xế ghé qua cửa kính mời chào dịch vụ. Andrew đã tiến lại đủ gần để nghe thấy cô mặc cả. Cô lên ghế sau của chiếc Crown màu đen và chiếc xe lách vào dòng xe đang chạy.
µµ
Andrew chạy đến tận đại lộ Sáu, chạy ào lên tàu điện ngầm, đi tuyến D và mười lăm phút sau, lên bến Tây phố 4. Từ đó, anh tới quán bar Henrietta Hudson mà anh đã quá rành thực đơn cocktail. Anh gọi một ly bia gừng và ngồi trên chiếc ghế đẩu sau cửa kính. Quan sát ngã tư phố Morton giao Hudson, anh tự hỏi điều gì khiến anh nghĩ rằng cô gái ấy sẽ về thẳng nhà sau khi rời khỏi thư viện và nhất là điều gì xui khiến anh tới tận đây, trong khi chuyện này chẳng có nghĩa lý gì. Sau khi đã nghiền ngẫn câu hỏi đủ lâu, anh rút ra kết luận là nỗi buồn phiền đang thắng thế trong con người anh. Anh thanh toán đồ uống rồi đi tìm Simon, bạn anh hẳn đang chuẩn bị rời ga ra.
Vài phút sau khi anh đi khỏi, chiếc xe thuê thả Suzie Baker xuống bên dưới tòa nhà cô ở.
*
Cửa cuốn ga ra đã được hạ. Andrew đi tiếp theo hướng dự định và nhận ra dáng người Simon, đang lúi húi dưới ca pô một chiếc Studebaker đỗ trong phố cách đó một đoạn.
- Cậu đến đúng lúc đấy, Simon nói. Tớ không tài nào khởi động được nó mà một mình thì không thể đẩy nó về ga ra được. Tớ sốt hết cả ruột mỗi lần nghĩ đến việc phải để nó ngoài trời cả đêm thế này.
- Tớ thèm được lo lắng như cậu đấy, bạn tốt.
- Cần câu cơm của tớ thôi, mà cũng đúng, tớ luôn chú ý đến nó.
- Cậu vẫn chưa bán nó à, cái xe này ấy?
- Rồi chứ, và mua lại từ một tay sưu tầm xe đã mua của tớ một chiếc Oldsmobile 1950. Trong nghề của tớ, người ta kết thân với khách hàng của mình bằng cách đó. Cậu giúp một tay chứ?
Andrew ở phía sau chiếc Studebaker trong khi Simon đẩy xe, bàn tay, thò qua cửa kính đã hạ, đặt lên vô lăng.
- Cái xe này bị làm sao? Andrew hỏi.
- Tớ không biết, mai tớ sẽ xem xét cùng thợ máy.
Xe đã vào chỗ đậu, hai người bạn cùng nhau đi ăn tối tại Mary’s Fish Camp.
- Tớ sẽ làm việc trở lại, Andrew vừa ngồi vào bàn đã tuyên bố.
- Đúng lúc đấy.
- Và tớ sẽ về nhà.
- Chẳng có gì bắt buộc cậu làm thế.
- Có chứ, cậu đấy.
Andrew chuyển yêu cầu gọi món của mình cho cô phục vụ.
- Cậu có tin gì của cô ấy không?
- Của ai? Simon hỏi.
- Cậu biết thừa là của ai mà.
- Không, tớ chẳng có tin tức gì về cô ấy, mà sao tớ có được chứ?
- Tớ không biết, tớ cứ hy vọng như vậy, thế thôi.
- Cậu sang trang đi, cô ấy sẽ không quay lại đâu. Cậu đã khiến cô ấy quá đau khổ.
- Một đêm say sưa và một lời thú nhận ngớ ngẩn, cậu không nghĩ là tớ đã trả giá đủ cho lỗi lầm đó rồi sao?
- Tớ chẳng can hệ gì tới chuyện đó cả, cậu nên nói tất cả những điều này với chính cô ấy thì hơn.
- Cô ấy chuyển nhà rồi.
- Tớ không biết chuyện đó, nhưng mà cậu, sao cậu biết thế, nếu không có tin tức gì về cô ấy?
- Có lần tớ đi qua tòa nhà cô ấy ở.
- Là thế sao, tình cờ à?
- Ừ, tình cờ.
Andrew đã nhìn lên ô kính cửa sổ thiếu vắng anh đèn trên căn hộ của cô, từ bên kia phố.
- Tớ chẳng thể làm được gì, chuyện đó vượt quá khả năng của tớ. Có những nơi chốn luôn khơi dậy quá khứ. Những khoảnh khắc tớ đã trải qua cùng cô ấy luôn là những khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời. Tớ đi đến dưới cửa sổ nhà cô ấy, ngồi xuống một chiếc ghế băng và nhớ lại những khoảnh khắc ấy. Đôi lúc, tớ còn thấy lại hình ảnh của bọn tớ, hai bóng hình chập chờn như rối bóng, cùng bước vào tòa nhà ấy, hai tay xách nặng đồ vừa mua ở quầy tạp hóa góc phố. Tớ nghe thấy tiếng cười của cô ấy, những lời bông đùa, tớ cứ nhìn vào cái chỗ mà cô ấy rất hay đánh rơi một món đồ nào đó trong lúc tìm chìa khóa. Thậm chí, có lúc tớ còn đứng dậy khỏi ghế, như để tới đó nhặt gói đồ lên, với niềm hy vọng phi lý rằng cánh cổng tòa chung cư sẽ mở ra và rằng cuộc đời sẽ tiếp tục dòng chảy từ nơi mà nó bị ngưng lại. Thật ngốc nghếch, nhưng chuyện đó đã giúp tớ rất nhiều.
- Thế cậu có hay làm như thế không?
- Ngon chứ, món cá của cậu ấy? Andrew vừa đáp vừa cắm chiếc dĩa vào đĩa của Simon.
- Cậu đến đứng dưới nhà cô ấy mấy lần một tuần, Andrew?
- Món của tớ ngon hơn đấy, cậu chọn nhầm món rồi.
- Cậu không thể cứ mãi khóc than số phận mình như thế. Giữa hai người như vậy chẳng ổn chút nào, buồn thật đấy, nhưng đâu đã phải ngày tận thế. Cậu còn cả cuộc đời ở phía trước.
- Tớ đã nghe nhiều câu sáo rỗng, nhưng “cậu còn cả cuộc đời phía trước” thì đúng là nhất quả đất rồi đấy.
- Cậu lại còn muốn dạy dỗ tớ sau cái chuyện cậu vừa kể cho tớ ư?
Rồi Simon hỏi xem ngày hôm nay của anh thế nào, và để đánh lạc hướng, Andrew đã tâm sự với bạn chuyện anh bắt quen một cô gái trong thư viện.
- Chừng nào cậu chưa đến ngồi trên băng ghế dưới nhà cô ấy rình mò, tớ thấy đây đúng là một tin vui đó.
- Tớ đã náu mình trong một quán bar ở góc phố nhà cô ấy.
- Cậu làm gì cơ?
- Cậu nghe rõ tớ nói rồi đấy và không phải như cậu nghĩ đâu; có điều gì đó ở cô gái này khiến tớ thấy hiếu kỳ, tớ vẫn chưa thể biết đó là gì.
Andrew thanh toán hóa đơn. Phố Charles vắng tanh, một ông già dắt chú chó Labrador đi dạo, con chó cũng bước đi tập tễnh y hệt ông chủ.
- Thật quá thể, đúng là người làm sao của chiêm bao làm vậy, Simon thốt lên.
- Đúng, cậu thì nên mua một con chó cốc. Đi thôi, chúng ta về, đêm nay sẽ là đêm cuối cùng tớ ngủ trên cái xô pha xộc xệch nhà cậu. Mai tớ sẽ cuốn gói, hứa đấy. Và cũng sẽ không trồng cây si dưới cửa sổ nhà Valérie nữa, tớ hứa danh dự với cậu điều này. Dù sao thì cô ấy cũng đã chuyển khỏi đó. Cậu biết điều khiến tớ thấy lộn ruột nhất không, đó là khi hình dung ra chuyện có lẽ cô ấy đã dọn sang ở chung cùng một gã khác.
- Nhưng đó chính là toàn bộ điều tệ hại mà cậu có thể mong cho cô ấy, không phải sao?
- Cứ nghĩ đến chuyện cô ấy trao gửi những tâm sự thầm kín cho một người khác, cô ấy chăm lo cho hắn, hỏi han xem ngày hôm này của hắn thế nào, chia sẻ cùng hắn những khoảnh khắc từng là của hai bọn tớ…tớ không thể nào chịu được.
- Lòng ghen tuông đó đặt nhầm chỗ rồi, mà cô ấy thì xứng đáng nhận được nhiều hơn thế.
- Cậu làm tớ thấy bực vì những lời dạy dỗ của cậu rồi đấy.
- Có thể, nhưng phải có ai đó xốc dậy tinh thần cho cậu, cứ nhìn lại mình đi.
- Có lẽ vậy, nhưng không phải là cậu, Simon ạ, đặc biệt không nên là cậu.
- Trước tiên, chẳng có dấu hiệu gì cho thấy cô ấy đang ở cùng ai đó, cũng chẳng gì nói với cậu rằng nếu cô ấy đang ở cùng ai đó thì là cô ấy đang hạnh phúc với hắn. Người ta có thể ở cùng ai đó để chạy trốn nỗi cô đơn của bản thân, có thể chia sẻ mọi việc thường nhật để chịu đựng một sự tan vỡ trong khi vẫn tiếp tục giữ gìn kỷ niệm về một người khác. Chúng ta có thể trò chuyện với ai đó bằng cách lắng nghe giọng nói của một người khác, nhìn vào mắt ai đó để thấy ánh mắt của một người khác.
- Là vậy đấy, Simon, đó chính xác là điều tớ cần nghe. Sao cậu lại biết những điều này, cậu ấy?
- Bởi vì đó là chuyện đã xảy ra với tớ, ngốc ạ.
- Sống cùng với một người trong khi cậu lại nghĩ tới một người khác?
- Không, sống cùng một người mà người đó lại yêu một người khác, là người đóng thế, và yêu là đau khổ mà. Biết thế, nhưng chúng ta vẫn cứ vờ như không biết, cho đến cái ngày ta không còn đủ sức chịu đựng, hoặc đến cái ngày chính cô ấy tống cổ ta ra khỏi cửa.
Trời đêm thấm lạnh, Simon hơi rung mình, Andrew siết chặt vai bạn.
- Hai chúng ta ở với nhau ổn mà, Simon thì thầm. Chẳng có gì bắt cậu phải dọn đi vào ngày mai nếu cậu vẫn chưa hoàn toàn sẵn sàng. Thỉnh thoảng tớ có thể ra xô pha ngủ, còn cậu, dùng phòng của tớ.
- Tớ biết rồi bạn tốt, tớ biết, nhưng mọi chuyện sẽ ổn thôi, giờ thì tớ chắc chắn điều đó. Tóm lại, tớ đồng ý đêm nay sẽ ngủ trên giường cậu. Quân tử nhất ngôn!
Và sau những lời này, hai người bạn cùng đi bộ về căn hộ của Simon, trong bầu không khí im lặng tuyệt đối.
Tác giả :
Marc Levy