Ma Thổi Đèn
Quyển 5 - Chương 23: Người thứ năm
Chuyện xảy ra hoàn toàn nằm ngoài dự kiến, tựa như sấm nổ giữa trời quang, mắt thấy quầng sáng như đốm lửa ma trơi kia từ trên bay xuống, hai chân đang đạp vào vách ống khói của tôi bỗng trượt một cái, thân thể không còn gì chống đỡ tức thì rơi xuống. Tôi biết rất rõ, nếu rơi xuống bụng lò bên dưới ống khói này thì chắc chắn chẳng phải điều hay ho gì, cho dù không chết ngay tại chỗ thì cũng phải bong gân gẫy xương chứ chẳng chơi. Nhưng tôi không ngờ, vì ống khói cực hẹp, mà không khí bên trong bị nén nhiều năm chưa thoát ra được, nên tốc độ rơi xuống của tôi chậm hẳn lại, cảm giác bồng bềnh như thể đang trên mây vậy.
Tuyền béo vừa khéo đang canh ở cửa chui vào chỗ tầng hai để đợi tín hiệu của tôi khi thoát ra được bên ngoài, tuy trong ống khói tối đen như mực, nhưng cậu ta nghe tiếng liền biết ngay tôi đã thất bại, vội vàng thò tay vào chộp bừa mấy cú. Tôi rơi quay lưng về phía Tuyền béo, liền được cậu ta chụp trúng vào cổ áo kéo giật trở về.
Lối thông để vào làm vệ sinh ống khói ở tầng hai càng chật hẹp hơn, bên ngoài cái nắp bằng sắt còn có một lớp tường bê tông, đầu tôi va đập lung tung vào mấy góc tường nhưng trong lúc hỗn loạn cũng không cảm thấy đau đớn mấy. Tôi không phải hạng người bị hổ đuổi đến đít rồi mà vẫn còn tâm tư quay đầu lại xem là con đực hay con cái giống Tuyền béo, vừa biết có chuyện không ổn, liền không dám chậm trễ dù chỉ một giây, nhân đà kéo của Tuyền béo, vội vàng bò ra khỏi lối thông ấy, sau đó lập tức đóng nắp lại. Trong bóng tối, bốn chúng tôi nghe thấy âm thanh như có chùy sắt đập mạnh lên cái nắp, phát ra những tiếng “choang choang choang” vọng mãi.
Nghe chừng có vẻ như trên miệng ống khói có thứ gì đó, bị âm thanh dùng vỏ đao cạo cặn dầu và muội than của tôi làm kinh động, đã chui vào trong ống khói. Cái thứ ấy đập mấy cái bên ngoài lối thông, rồi bỗng im bặt. Quả tim của tôi và ba người còn lại đều cơ hồ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, vừa nãy nếu không phải Tuyền béo quyết đoán nhanh tay, chắc tôi đã rơi vào trong cái lò đốt xác ấy rồi. Dù không bị thương, thì giờ hẳn cũng bị cái thứ kia đớp phải, chẳng hiểu cái giống trông như đốm lửa ma trơi ấy là gì nữa?
Đinh Tư Điềm muốn xem tôi có bị thương không, lại quẹt lên một que diêm. Tôi thấy ánh lửa lóe sáng, liền vội vàng thổi phù một cái: “Người mình đang dính đầy muội than cặn dầu, bạn muốn đốt cho mình thành đèn trời chắc?” Nói đoạn, liền cảm thấy trên mặt mình dinh dính, phỏng chừng là cái đầu bị va đập chảy máu mất rồi. Tôi đưa tay quẹt quẹt bừa vài lượt, rồi bảo Đinh Tư Điềm tìm mảnh khăn tay băng bó lại giúp.
Lão Dương Bì nói với tôi: “Đã bảo cậu trai trẻ đừng chui vào cái hang tối om ấy rồi, cậu lại cứ nằng nặc đòi vào cơ, may mà cậu mạng lớn, thế là có phúc lắm đấy nhé.”
Tuyền béo làu bàu: “Phúc với cả đức cái gì? Vừa nãy nếu không phải cháu nhanh tay nhanh mắt kéo cậu ta trở lại, chắc rằng từ nay về sau trong đội ngũ cách mạng không còn ai tên là Hồ Bát Nhất nữa rồi.”
Tôi cũng lên tiếng, nói: “Các đồng chí, giờ là lúc nào rồi? Mấy chuyện linh tinh ấy thôi đừng nói nữa, tuy bảo rằng cái chết không thuộc về giai cấp công nhân thật đấy, nhưng cái thứ trong ống khói đó, tôi thấy cũng không phải hạng tử tế gì đâu. Đường ống khói chắc chắn là không còn hy vọng gì nữa rồi. Nhưng chúng ta kiên quyết không được nản lòng, theo tôi thấy, kế này không được thì ta bày kế khác, giờ chỉ còn cách lần mò xuống hầm thôi vậy. Không rõ tình hình bên dưới thế nào, chúng ta chỉ có thể đi bước nào hay bước ấy, lấy bát biến ứng vạn biến, tiếp theo đây cho dù xảy ra chuyện gì chăng nữa, chúng ta cũng phải chuẩn bị sẵn tư tưởng là sẽ rất khó khăn đấy nhé.”
Hành lang tối om như mực, không có đèn nến gì thật đúng là đi một bước nửa bước cũng thấy khó. Nhưng bất luận ra sao, chúng tôi cũng không nỡ sử dụng chỗ diêm còn lại, thời bấy giờ ai nấy đều nghèo, không đến bước vạn bất đắc dĩ thì không thể đốt quần áo chiếu sáng, mà cũng chẳng ai biết đến bao giờ chúng tôi mới nhìn lại được ánh sáng ở bên ngoài nữa. Cũng may là đang ở trong nhá, cứ lần theo vách tường và lan can cầu thang mà đi thì cũng xuống được tầng hầm.
Bốn người lần dò từng bước đi hết cầu thang, không còn lối đi xuống dưới nữa, bấy giờ tôi mới bảo Đinh Tư Điềm bật một que diêm lên quan sát xung quanh. Căn hầm ngầm này quả nhiên là gian đốt xác, ngay phía trước chúng tôi là mấy cái bàn có bánh xe để đẩy xác chết, mấy cái tủ chứa đồ tiêu độc, trừ mùi xác thối, trên bức tường trắng phớ cạnh tủ treo hai bộ trang phục trông như đồ cách ly phòng nhiễm hòa chất, có lẽ là của công nhân đốt xác ở đây mặc. Bên cạnh tường là một cái lò lớn, hai cánh cửa to tướng bằng sắt đúc lạnh tanh đóng kín. Tầng hầm rất rộng, vừa bước đến trước lò thiêu xác, que diêm đã cháy hết, chúng tôi thậm chí còn chưa kịp nhìn xem trong gian nhà đốt xác này có di thể của nạn nhân nào chưa bị tiêu hủy hay không.
Nơi này im lìm lạnh buốt, không khí dường như cũng ngưng kết thành băng. Ở giữa chốn âm u lạnh lẽo này, chúng tôi người nào người nấy đều thấp thỏm không yên. Đinh Tư Điềm kéo kéo vạt áo tôi, hỏi: “Nghe cậu mình kể chuyện hồi trước đánh Nhật ở Sơn Tây, quân Nhật giết người xong một cái là vứt xác bừa ra đấy, không thì chỉ đào một cái hố chốn tập thể, nhưng bạn đã bao giờ nghĩ chưa, tại sao bọn Nhật ở đây giết người xong lại còn phải cho vào lò thiêu xác thành tro bụi nữa nhỉ?”
Tôi nghe cô hỏi thế, không khỏi thầm nhủ cô gái này thật hiếu kỳ, chuyện gì cũng muốn hỏi đến tận ngọn tận ngành, bèn thuận mồm đáp bừa: “Thế mà cũng phải hỏi, chắc chắn là bọn chúng muốn hủy thi diệt tích rồi. Cậu của bạn từng tham gia Bát Lộ quân ở Sơn Tây à, sao chưa nghe bạn nhắc đến bao giờ nhỉ.” Nhưng nói tới đây, ý nghĩ tôi lại xoay chuyển, không đúng, trước giờ mình vẫn chưa nghĩ đến vấn đề này. Nghe đồn quân Nhật rất bủn xỉn, ăn cơm còn chẳng nỡ dùng bát to, hao tốn sức người sức của xây một cái lò thiêu xác bí mật ở chốn hoang sơn dã lãnh thế này dường như là điều hoàn toàn không cần thiết. Nếu không phải để hủy thi diệt tích, vậy thì tại sao phải thiêu xác? Trừ phi là có một số xác chết...
Tôi nghĩ rất có thể ở khu vực động Bách Nhãn này đã xảy ra sự việc gì đó kinh khủng, bệnh dịch hạch chăng? Không giống lắm, bức bích họa triệu hoán vong hồn nghìn năm trong huyệt động, chiếc rương đồng cổ xưa từ Đại Hưng An Lĩnh vận chuyển đến đây, và cả cái lò thiêu bí mật do bộ đội cấp nước cấp niếc gì của quân Nhật xây dựng nữa, đằng sau những sự việc đầu óc con người khó thể hình dung này có liên hệ gì với nhau không? Vả lại, người ở đây đi đâu hết rồi? Chiến bại đầu hàng chăng? Bị quân Liên Xô tiêu diệt chăng? Hay là đều đã mất tích giống như đàn bò và bầy nhạn kia? Cái thứ vô hình vô ảnh có thể nuốt lấy các vật sống ấy rốt cuộc là gì? Có phải là cái bóng đen hình con rồng trên bức bích họa trong huyệt động? Những khối đá chôn trong huyệt động ấy có tác dụng gì? Cái xác chết đàn bà vẽ trong bức bích họa có phải đã được quân Nhật đào lên rồi? Ai ở bên ngoài đóng cửa sắt xuống, có kẻ muốn nhốt chúng tôi trong này sao? Rồi những gian phòng xây gạch bít kín, cánh cửa sắt chỉ có thể mở từ phía bên ngoài kia nữa? Nghi vấn thực sự quá nhiều. Nếu chỉ dựa vào tưởng tượng thì tuyệt đối chẳng thể nào suy đoán được hết những sự việc này.
Tôi hiểu rõ cái lý trăm nghe không bằng một thấy, thấy bóng chẳng bằng xem hình, có lẽ trong gian đốt xác ngầm dưới đất này sẽ có một số đầu mối, có điều việc quan trọng nhất phải làm bây giờ chính là dẫn mọi người thoát khỏi tòa nhà trước đã. Ở đây có hai chiến hữu quan trọng nhất của tôi, và cả một vị thuộc giai cấp bần hạ trung nông mà chúng tôi cần phối kết hợp, họ đều tín nhiệm tôi một cách vô điều kiện, bởi thế, tôi nhất định cũng phải gắng sức không để họ gặp phải bất cứ chuyện gì ngoài ý muốn.
Tôi vừa nghĩ ngợi vẩn vơ, vừa lần mò đi tới trước cái xe dùng để chất xác người. Bên trên còn một ít vải trắng, có lẽ là dùng để bọc xác chết trước khi đem đốt, vừa khéo có thể dùng chúng để “thắp sáng”. Tôi lấy tấm vải lau qua gương mặt dính đầy cặn dầu, mặc bộ quần áo có cả mặt nạ phòng độc treo trên tường, rồi cùng ba người còn lại xé mấy tấm vải bọc xác ra thành từng miếng nhỏ, sau đó dùng đao chẻ cái tủ đựng đồ tiêu độc thành các thanh gỗ. Sau một hồi bận bịu, cả bọn cuối cùng cũng làm được mười mấy cây đuốc thô sơ, rồi đốt một cây lên, coi như tạm thời giải quyết được hoàn cảnh khó khăn người mù cưỡi ngựa đui của chúng tôi lúc này.
Phạm vi chiếu sáng của đuốc lớn hơn que diêm nhiều, mọi người đều thấy trước mắt sáng hẳn lên, chỉ thấy trên tường có đủ cả đèn khẩn cấp và các loại dây điện lằng nhằng, chứ không như bên trên chỉ toàn gạch với xi măng cốt thép. Có điều, những thiết bị này đều không thể sử dụng được vì không có điện, dưới hầm ngầm tuy lạnh lẽo âm u, nhưng không khí thậm chí còn thông thoáng hơn cả bên trên, thiết nghĩ chắc là do cấu trúc đặc thù để lọc khí thông giờ cho cái lò đốt xác này đây.
Chúng tôi vừa đốt đuốc lên, đang định xem xét kỹ địa hình để nghĩ cách thoát thân, thì cái lò đốt xác phía sau đột nhiên kêu rầm lên một tiếng, bên trong dường như có thứ gì đó muốn xông ra ngoài. Tôi biết có thể đó chính là thứ mình trông thấy trong ống khói, nhưng không biết rốt cuộc nó là thứ gì, cũng may cửa lò đã đóng chốt, dù nó khỏe mấy cũng không húc bật ra được. Tuy chỉ nghe tiếng chưa thấy hình dáng nó ra sao, nhưng cũng đủ thấy thanh thế kinh người, thực không phải tầm thường, chúng tôi đều không khỏi lo lắng cánh cửa lò kiên cố kia sẽ bị phá hỏng.
Tôi giơ đuốc lên xem xét xung quanh một lượt, trong gian đốt xác không có cửa nào khác, chỉ có một lối đi duy nhất thẳng đuồn đuột, bèn gọi mọi người: “Tuy rằng chúng ta đã đánh gấu ở núi Đông, giết lừa ở núi Tây, nhưng hảo hán phải nhịn được cái thiệt thòi trước mắt, địch tiến thời ta lui, chạy trước đã.” Nói đoạn liền dẫn cả bọn chạy thẳng vào thông đạo ấy, mặt đất dưới chân là dốc láng xi măng, chắc thiết kế để tiện đẩy xe chở xác người, cuối lối đi lại có một cánh cửa sắt nặng nề đóng kín mít, bên trong không có chốt lẫy nào để mở hết.
Chúng tôi vận sức đẩy cánh cửa sắt chắn lối đi ấy, nhưng chỉ như châu chấu đá xe, không sao khiến nó nhúc nhích nổi. Tôi và Tuyền béo uể oải nói: “Đứa nào thiết kế ra chỗ chết tiệt này vậy? Sao cửa kiếc gì chỉ toàn mở được từ bên ngoài thôi là sao!”
Tòa kiến trúc một tầng ngầm, ba tầng trên mặt đất này gần như là một cái hộp kín ghép bằng gạch đá xi măng và các tấm sắt, nơi duy nhất không bị chặn là miệng ống khói, nhưng cũng không thể đi lối ấy được. Nếu giờ mà không tìm được lối ra nữa, thì chỉ còn nước chờ chết ở trong này thôi vậy. Cả bọn không biết phải làm sao, đành quay lại chỗ gian đốt xác tiếp tục tìm kiếm lối ra, nhưng bốn vách tường đều cực kỳ kiên cố, sợ rằng có đem đại pháo đến đây bắn cũng chẳng thủng được, huống hồ trong tay chúng tôi chỉ có mỗi một khẩu súng cổ lỗ sĩ.
Lúc này, âm thanh trong lò đốt xác đã tắt, tôi rón ra rón rén bước đến gần, áp tai vào cửa lò lắng nghe động tĩnh, bên trong dường như có vật gì rất lớn đang cọ vào vách lò. Tôi vẫy tay ra hiệu cho những người còn lại không được lên tiếng, rồi kéo cả bọn lại một góc tường rì rầm bàn bạc.
Hoàn cảnh trước mắt tuy rất đáng lo ngại, nhưng không có nguy hiểm gì trực tiếp, chúng tôi vẫn còn đủ thời gian thương lượng xem làm sao mới thoát ra khỏi tòa nhà quái quỷ này. Tôi bảo với ba người kia: “Trong lò thiêu đúng là có cái gì đó, hình như là dã thú, tôi đoán chừng có thể là một con trăn khổng lồ một mắt. Phỏng chừng lúc tôi leo lên ống khói đã làm kinh động đến nó, nó mới bò xuống tính nuốt người, giờ bị khốn bên trong cái lò kia rồi. Vách bên trong lò toàn là cặn dầu với muội than, nếu không cạo sạch thì dù ba đầu sáu tay cũng đừng hòng leo lên được.”
Bố mẹ Đinh Tư Điềm đi bộ đội giải ngũ về, đều được phân đến Viện Bảo tàng Tự nhiên công tác, nên cô cũng hiểu biết tập tính của rất nhiều sinh vật, vừa nghe tôi nói bên trong cái lò rất có thể là một con trăn khổng lồ, bèn lắc đầu nói: “Chắc là không phải đâu, môi trường không phù hợp. Ở vùng nằm giữa thảo nguyên và sa mạc này không thể có trăn khổng lồ được.”
Lão Dương Bì chen miệng vào: “Lão đã bảo rồi mà các cô các cậu không chịu tin. Đấy là Long vương gia đó, lần này chúng ta gây họa tày trời rồi. Không chỉ ăn con cháu của Ngài, lại còn nhốt cả Ngài trong cái lò này nữa, sợ rằng cái vỏ sắt này cũng không ngăn được...”
Tôi thầm nhủ lão Dương Bì này đúng là đồ nông dân cổ hủ, trình độ giác ngộ cách mạng quá thấp, nói thế nào cũng không chịu nghe, thật chẳng khác nào đàn gảy tai trâu hay hát opera cho lừa, chỉ phí công vô ích. Ông lão đã nhất quyết nghĩ thế, thì tôi cũng chẳng còn hơi đâu mà đi giải thích làm gì, tình hình trước mắt thật chẳng khác nào kiến bò chảo nóng, không thể không tính toán đến trường hợp xấu nhất. Bây giờ chạy lên chạy xuống cũng chưa chắc tìm được lối ra, nhưng thế nào thì cũng không thể cứ trơ mắt ra chờ chết được, tôi phải tính sao đây?
Nghĩ tới đây, tôi lại càng nóng ruột, liền bực bội nói với lão Dương Bì: “Làm gì có Long vương với cả Long bá gì ở đây chứ? Đến một cộng một bằng hai ông còn chẳng biết, sao lại cứ tin mấy cái truyền thuyết vô căn cứ ấy thế?”
Đinh Tư Điềm vội lên tiếng khuyên giải: “Bát Nhất, bạn không nên nói ông lão Dương Bì thế chứ, đây không phải ông mê tín, mà chỉ là tình cảm giai cấp mộc mạc thôi. Thanh niên trí thức chúng ta về nông thôn tham gia lao động sản xuất là để cho giai cấp bần hạ trung nông tái giáo dục không phải là đến để giáo dục giai cấp bần hạ trung nông. Bố mình từng nói, trong lịch sử Trung Quốc, khổ nhất chính là nông dân, cả đời bị bóc lột áp bức, bán mặt cho đất bán lưng cho giời, nhưng vĩ đại nhất, chịu đựng giỏi nhất, nhẫn nại nhất cũng chính là nông dân, nếu không có nông dân thì cũng chẳng có lịch sử Trung Quốc đâu.”
Tôi bị Đinh Tư Điềm nói cho một hơi dài, lập tức bình tĩnh lại, cũng cảm thấy tuy rằng mình chưa nói gì quá đáng, nhưng đúng là không nên có thái độ này với ông lão Dương Bì. Tục ngữ chẳng phải cũng có câu, “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” đó hay sao. Có điều, trước mặt Đinh Tư Điềm tôi cũng không tiện nhận sai, bèn ậm ừ cho qua, rồi nói với mọi người: “Mấy hôm nay không thực hiện phê và tự phê rồi, trở về nhất định sẽ bù lại.” Tuyền béo đứng bên cạnh lập tức thừa cơ móc máy: “Sau khi quay về cậu còn phải tự kiểm điểm lại mình, nghiêm túc học tập văn kiện, theo kịp tình thế, phê phán tư tưởng cánh hữu ở sâu thẳm trong lòng cậu, tự giác cải tạo thế giới quan giai cấp tư sản của cậu đi, đồng thời phải tự giác khai báo các vấn đề lịch sử, vấn đề xuất thân và cả quá trình cậu nảy sinh tư tưởng danh lợi muốn thoát ly khỏi đội ngũ cách mạng nữa. Cậu đừng tưởng cậu không khai báo đầy đủ thì tổ chức không biết đấy, tình hình cậu như thế nào tổ chức đều nắm rõ như lòng bàn tay cả, giờ cho cậu một cơ hội để tự mình thành thật khai báo, cũng chính là cho cậu một cơ hội nhận được sự khoan hồng, tốt nhất cậu nên biết điều mà dừng cương ngựa trước vực thẳm, ngàn vạn lần chớ nên đoạn tuyệt với nhân dân, kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta biết rằng...”
Tôi vội ngắt lời cậu ta: “Cái thằng béo nhà cậu mà không đi làm tay sai phản động thì thật lãng phí cả một tấm thân phì nộn, chúng ta đang bị nhốt trong cái quan tài bằng xi măng sắt thép kín bưng thế này mà cậu vẫn còn tâm tư bới móc tôi được à? Sư cha nhà cậu, tôi nói cái gì mà cậu bảo tôi đoạn tuyệt với nhân dân?”
Tuyền béo nói: “Vui vẻ được thì cứ vui, thủ lợi được thì cứ phải tranh chủ, buồn bực sốt ruột có ích gì, không phải cũng chẳng thoát ra được sao? Theo tôi thấy, chúng ta phải chuẩn bị chiến đấu trường kỳ đi thôi, phỏng chừng một hai ngày nữa lão Nghê thấy chúng ta không về, thế nào chẳng phái người đi tìm? Đợi khi nào họ tìm thấy thì chúng ta sẽ thoát thôi mà.”
Đinh Tư Điềm nói: “Sợ là sợ anh ta muốn giấu giếm trách nhiệm cho ông lão Dương Bì, lại cố gắng tranh thủ cho chúng ta thêm mấy ngày thời gian. Nếu đúng thế, chúng ta không ăn không uống, liệu có thể cầm cự được bao lâu đây? Mà phải mất bao lâu thì họ mới tìm được đến chỗ này chứ?”
Tôi nghe Đinh Tư Điềm nói đến chuyện không ăn không uống, đột nhiên trong óc lóe lên một ý, bèn nói với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Tôi vừa nghĩ ra chiêu này rất độc, cậu còn nhớ chuyện chúng ta nướng lợn sữa trong lò gạch không, hay là chúng ta lên tầng hai ném một mồi lửa xuống, đốt bùng cái lò thiêu xác này lên, mặc kệ bên trong đang nhốt thứ gì, cho nó cháy mẹ nó thành than luôn.”
Lời này vừa thốt ra, ai nấy đều gật gù khen hay. Thật đúng là người trong cuộc thì mê muội, mãi cũng chẳng nghĩ ra cách đơn giản này, chỉ cần tìm cách đốt lò thiêu xác lên thôi, chẳng những có thể thiêu chết thứ bên trong ấy, mà còn có thể lợi dụng ngọn lửa làm sạch cặn dầu trong ống khói. Như thế thì có thể leo ống khói ra bên ngoài, chỉ cần một người thoát ra được, vậy là có thể mở cửa sắt từ phía bên ngoài được rồi.
Cả bọn đang định triển khai hành động thì ngọn đuốc trong tay Tuyền béo cũng cháy hết. Để sử dụng nguồn sáng một cách tiết kiệm nhất, mặc dù đã chuẩn bị mười mấy cây đuốc, nhưng khi nào cây này cháy hết chúng tôi mới đốt cây khác lên. Nghĩ ra cách thoát thân, ai nấy đều cực kỳ hưng phấn, quên cả việc tiếp lửa cho ngọn đuốc tiếp theo, Đinh Tư Điềm vội vàng lấy hộp diêm ra định quẹt lửa. Nhưng đúng vào lúc đó, chợt nghe trong bóng tối vang lên tiếng “sột sà sột soạt” như thể có người đang bước đi, âm thanh dường như phát ra từ chỗ cửa lò đốt xác.
Trong tòa nhà này ngoại trừ bốn người sống chúng tôi ra đâu còn ai khác nữa? Thậm chí còn chẳng thấy con chuột nào, tôi tưởng lão Dương Bì đã lần mò sang phía bên ấy, liền vội đưa tay ra rờ khắp xung quanh. Lão Dương Bì, Tuyền béo, Đinh Tư Điềm, không thiếu ai hết, trong bóng tối sao đột nhiên mọc đâu ra một người nữa? Hay là mọc ra thêm một... con ma?
Âm thanh khe khẽ vang lên trong bóng tối khiến cả bọn chúng tôi đều dựng hết cả tóc gáy, cái kẻ đột nhiên lù lù mọc ra ấy rốt cuộc là ai? Hắn ta ở trước cửa lò đốt xác định làm gì? Trong tôi bỗng dâng lên một dự cảm cực kỳ chẳng lành, lẽ nào có người muốn mở cái cửa lò ấy ra? Nếu đúng là thế, tôi thật không dám tưởng tượng ra hậu quả sẽ như thế nào nữa. Nhưng trong căn hầm tối đen như mực, chúng tôi đều chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng thể nào có hành động ngăn lại. Tôi đành thấp giọng bảo Đinh Tư Điềm mau quẹt diêm đốt đuốc lên, nhưng lúc này cô cũng vô cùng căng thẳng, quẹt hai ba cái liền vẫn không thấy cháy, lại càng thêm hoảng loạn, dồn sức mắm môi mắm lợi quẹt mạnh, không ngờ lại dùng sức quá độ, làm mấy que diêm còn sót lại trong hộp đều rơi vung vãi hết xuống đất. Lúc này, bỗng nghe trên cánh cửa lò thiêu xác vang lên tiếng “cách cách” gọn lỏn, chốt cửa đã bị mở ra rồi.
Tuyền béo vừa khéo đang canh ở cửa chui vào chỗ tầng hai để đợi tín hiệu của tôi khi thoát ra được bên ngoài, tuy trong ống khói tối đen như mực, nhưng cậu ta nghe tiếng liền biết ngay tôi đã thất bại, vội vàng thò tay vào chộp bừa mấy cú. Tôi rơi quay lưng về phía Tuyền béo, liền được cậu ta chụp trúng vào cổ áo kéo giật trở về.
Lối thông để vào làm vệ sinh ống khói ở tầng hai càng chật hẹp hơn, bên ngoài cái nắp bằng sắt còn có một lớp tường bê tông, đầu tôi va đập lung tung vào mấy góc tường nhưng trong lúc hỗn loạn cũng không cảm thấy đau đớn mấy. Tôi không phải hạng người bị hổ đuổi đến đít rồi mà vẫn còn tâm tư quay đầu lại xem là con đực hay con cái giống Tuyền béo, vừa biết có chuyện không ổn, liền không dám chậm trễ dù chỉ một giây, nhân đà kéo của Tuyền béo, vội vàng bò ra khỏi lối thông ấy, sau đó lập tức đóng nắp lại. Trong bóng tối, bốn chúng tôi nghe thấy âm thanh như có chùy sắt đập mạnh lên cái nắp, phát ra những tiếng “choang choang choang” vọng mãi.
Nghe chừng có vẻ như trên miệng ống khói có thứ gì đó, bị âm thanh dùng vỏ đao cạo cặn dầu và muội than của tôi làm kinh động, đã chui vào trong ống khói. Cái thứ ấy đập mấy cái bên ngoài lối thông, rồi bỗng im bặt. Quả tim của tôi và ba người còn lại đều cơ hồ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, vừa nãy nếu không phải Tuyền béo quyết đoán nhanh tay, chắc tôi đã rơi vào trong cái lò đốt xác ấy rồi. Dù không bị thương, thì giờ hẳn cũng bị cái thứ kia đớp phải, chẳng hiểu cái giống trông như đốm lửa ma trơi ấy là gì nữa?
Đinh Tư Điềm muốn xem tôi có bị thương không, lại quẹt lên một que diêm. Tôi thấy ánh lửa lóe sáng, liền vội vàng thổi phù một cái: “Người mình đang dính đầy muội than cặn dầu, bạn muốn đốt cho mình thành đèn trời chắc?” Nói đoạn, liền cảm thấy trên mặt mình dinh dính, phỏng chừng là cái đầu bị va đập chảy máu mất rồi. Tôi đưa tay quẹt quẹt bừa vài lượt, rồi bảo Đinh Tư Điềm tìm mảnh khăn tay băng bó lại giúp.
Lão Dương Bì nói với tôi: “Đã bảo cậu trai trẻ đừng chui vào cái hang tối om ấy rồi, cậu lại cứ nằng nặc đòi vào cơ, may mà cậu mạng lớn, thế là có phúc lắm đấy nhé.”
Tuyền béo làu bàu: “Phúc với cả đức cái gì? Vừa nãy nếu không phải cháu nhanh tay nhanh mắt kéo cậu ta trở lại, chắc rằng từ nay về sau trong đội ngũ cách mạng không còn ai tên là Hồ Bát Nhất nữa rồi.”
Tôi cũng lên tiếng, nói: “Các đồng chí, giờ là lúc nào rồi? Mấy chuyện linh tinh ấy thôi đừng nói nữa, tuy bảo rằng cái chết không thuộc về giai cấp công nhân thật đấy, nhưng cái thứ trong ống khói đó, tôi thấy cũng không phải hạng tử tế gì đâu. Đường ống khói chắc chắn là không còn hy vọng gì nữa rồi. Nhưng chúng ta kiên quyết không được nản lòng, theo tôi thấy, kế này không được thì ta bày kế khác, giờ chỉ còn cách lần mò xuống hầm thôi vậy. Không rõ tình hình bên dưới thế nào, chúng ta chỉ có thể đi bước nào hay bước ấy, lấy bát biến ứng vạn biến, tiếp theo đây cho dù xảy ra chuyện gì chăng nữa, chúng ta cũng phải chuẩn bị sẵn tư tưởng là sẽ rất khó khăn đấy nhé.”
Hành lang tối om như mực, không có đèn nến gì thật đúng là đi một bước nửa bước cũng thấy khó. Nhưng bất luận ra sao, chúng tôi cũng không nỡ sử dụng chỗ diêm còn lại, thời bấy giờ ai nấy đều nghèo, không đến bước vạn bất đắc dĩ thì không thể đốt quần áo chiếu sáng, mà cũng chẳng ai biết đến bao giờ chúng tôi mới nhìn lại được ánh sáng ở bên ngoài nữa. Cũng may là đang ở trong nhá, cứ lần theo vách tường và lan can cầu thang mà đi thì cũng xuống được tầng hầm.
Bốn người lần dò từng bước đi hết cầu thang, không còn lối đi xuống dưới nữa, bấy giờ tôi mới bảo Đinh Tư Điềm bật một que diêm lên quan sát xung quanh. Căn hầm ngầm này quả nhiên là gian đốt xác, ngay phía trước chúng tôi là mấy cái bàn có bánh xe để đẩy xác chết, mấy cái tủ chứa đồ tiêu độc, trừ mùi xác thối, trên bức tường trắng phớ cạnh tủ treo hai bộ trang phục trông như đồ cách ly phòng nhiễm hòa chất, có lẽ là của công nhân đốt xác ở đây mặc. Bên cạnh tường là một cái lò lớn, hai cánh cửa to tướng bằng sắt đúc lạnh tanh đóng kín. Tầng hầm rất rộng, vừa bước đến trước lò thiêu xác, que diêm đã cháy hết, chúng tôi thậm chí còn chưa kịp nhìn xem trong gian nhà đốt xác này có di thể của nạn nhân nào chưa bị tiêu hủy hay không.
Nơi này im lìm lạnh buốt, không khí dường như cũng ngưng kết thành băng. Ở giữa chốn âm u lạnh lẽo này, chúng tôi người nào người nấy đều thấp thỏm không yên. Đinh Tư Điềm kéo kéo vạt áo tôi, hỏi: “Nghe cậu mình kể chuyện hồi trước đánh Nhật ở Sơn Tây, quân Nhật giết người xong một cái là vứt xác bừa ra đấy, không thì chỉ đào một cái hố chốn tập thể, nhưng bạn đã bao giờ nghĩ chưa, tại sao bọn Nhật ở đây giết người xong lại còn phải cho vào lò thiêu xác thành tro bụi nữa nhỉ?”
Tôi nghe cô hỏi thế, không khỏi thầm nhủ cô gái này thật hiếu kỳ, chuyện gì cũng muốn hỏi đến tận ngọn tận ngành, bèn thuận mồm đáp bừa: “Thế mà cũng phải hỏi, chắc chắn là bọn chúng muốn hủy thi diệt tích rồi. Cậu của bạn từng tham gia Bát Lộ quân ở Sơn Tây à, sao chưa nghe bạn nhắc đến bao giờ nhỉ.” Nhưng nói tới đây, ý nghĩ tôi lại xoay chuyển, không đúng, trước giờ mình vẫn chưa nghĩ đến vấn đề này. Nghe đồn quân Nhật rất bủn xỉn, ăn cơm còn chẳng nỡ dùng bát to, hao tốn sức người sức của xây một cái lò thiêu xác bí mật ở chốn hoang sơn dã lãnh thế này dường như là điều hoàn toàn không cần thiết. Nếu không phải để hủy thi diệt tích, vậy thì tại sao phải thiêu xác? Trừ phi là có một số xác chết...
Tôi nghĩ rất có thể ở khu vực động Bách Nhãn này đã xảy ra sự việc gì đó kinh khủng, bệnh dịch hạch chăng? Không giống lắm, bức bích họa triệu hoán vong hồn nghìn năm trong huyệt động, chiếc rương đồng cổ xưa từ Đại Hưng An Lĩnh vận chuyển đến đây, và cả cái lò thiêu bí mật do bộ đội cấp nước cấp niếc gì của quân Nhật xây dựng nữa, đằng sau những sự việc đầu óc con người khó thể hình dung này có liên hệ gì với nhau không? Vả lại, người ở đây đi đâu hết rồi? Chiến bại đầu hàng chăng? Bị quân Liên Xô tiêu diệt chăng? Hay là đều đã mất tích giống như đàn bò và bầy nhạn kia? Cái thứ vô hình vô ảnh có thể nuốt lấy các vật sống ấy rốt cuộc là gì? Có phải là cái bóng đen hình con rồng trên bức bích họa trong huyệt động? Những khối đá chôn trong huyệt động ấy có tác dụng gì? Cái xác chết đàn bà vẽ trong bức bích họa có phải đã được quân Nhật đào lên rồi? Ai ở bên ngoài đóng cửa sắt xuống, có kẻ muốn nhốt chúng tôi trong này sao? Rồi những gian phòng xây gạch bít kín, cánh cửa sắt chỉ có thể mở từ phía bên ngoài kia nữa? Nghi vấn thực sự quá nhiều. Nếu chỉ dựa vào tưởng tượng thì tuyệt đối chẳng thể nào suy đoán được hết những sự việc này.
Tôi hiểu rõ cái lý trăm nghe không bằng một thấy, thấy bóng chẳng bằng xem hình, có lẽ trong gian đốt xác ngầm dưới đất này sẽ có một số đầu mối, có điều việc quan trọng nhất phải làm bây giờ chính là dẫn mọi người thoát khỏi tòa nhà trước đã. Ở đây có hai chiến hữu quan trọng nhất của tôi, và cả một vị thuộc giai cấp bần hạ trung nông mà chúng tôi cần phối kết hợp, họ đều tín nhiệm tôi một cách vô điều kiện, bởi thế, tôi nhất định cũng phải gắng sức không để họ gặp phải bất cứ chuyện gì ngoài ý muốn.
Tôi vừa nghĩ ngợi vẩn vơ, vừa lần mò đi tới trước cái xe dùng để chất xác người. Bên trên còn một ít vải trắng, có lẽ là dùng để bọc xác chết trước khi đem đốt, vừa khéo có thể dùng chúng để “thắp sáng”. Tôi lấy tấm vải lau qua gương mặt dính đầy cặn dầu, mặc bộ quần áo có cả mặt nạ phòng độc treo trên tường, rồi cùng ba người còn lại xé mấy tấm vải bọc xác ra thành từng miếng nhỏ, sau đó dùng đao chẻ cái tủ đựng đồ tiêu độc thành các thanh gỗ. Sau một hồi bận bịu, cả bọn cuối cùng cũng làm được mười mấy cây đuốc thô sơ, rồi đốt một cây lên, coi như tạm thời giải quyết được hoàn cảnh khó khăn người mù cưỡi ngựa đui của chúng tôi lúc này.
Phạm vi chiếu sáng của đuốc lớn hơn que diêm nhiều, mọi người đều thấy trước mắt sáng hẳn lên, chỉ thấy trên tường có đủ cả đèn khẩn cấp và các loại dây điện lằng nhằng, chứ không như bên trên chỉ toàn gạch với xi măng cốt thép. Có điều, những thiết bị này đều không thể sử dụng được vì không có điện, dưới hầm ngầm tuy lạnh lẽo âm u, nhưng không khí thậm chí còn thông thoáng hơn cả bên trên, thiết nghĩ chắc là do cấu trúc đặc thù để lọc khí thông giờ cho cái lò đốt xác này đây.
Chúng tôi vừa đốt đuốc lên, đang định xem xét kỹ địa hình để nghĩ cách thoát thân, thì cái lò đốt xác phía sau đột nhiên kêu rầm lên một tiếng, bên trong dường như có thứ gì đó muốn xông ra ngoài. Tôi biết có thể đó chính là thứ mình trông thấy trong ống khói, nhưng không biết rốt cuộc nó là thứ gì, cũng may cửa lò đã đóng chốt, dù nó khỏe mấy cũng không húc bật ra được. Tuy chỉ nghe tiếng chưa thấy hình dáng nó ra sao, nhưng cũng đủ thấy thanh thế kinh người, thực không phải tầm thường, chúng tôi đều không khỏi lo lắng cánh cửa lò kiên cố kia sẽ bị phá hỏng.
Tôi giơ đuốc lên xem xét xung quanh một lượt, trong gian đốt xác không có cửa nào khác, chỉ có một lối đi duy nhất thẳng đuồn đuột, bèn gọi mọi người: “Tuy rằng chúng ta đã đánh gấu ở núi Đông, giết lừa ở núi Tây, nhưng hảo hán phải nhịn được cái thiệt thòi trước mắt, địch tiến thời ta lui, chạy trước đã.” Nói đoạn liền dẫn cả bọn chạy thẳng vào thông đạo ấy, mặt đất dưới chân là dốc láng xi măng, chắc thiết kế để tiện đẩy xe chở xác người, cuối lối đi lại có một cánh cửa sắt nặng nề đóng kín mít, bên trong không có chốt lẫy nào để mở hết.
Chúng tôi vận sức đẩy cánh cửa sắt chắn lối đi ấy, nhưng chỉ như châu chấu đá xe, không sao khiến nó nhúc nhích nổi. Tôi và Tuyền béo uể oải nói: “Đứa nào thiết kế ra chỗ chết tiệt này vậy? Sao cửa kiếc gì chỉ toàn mở được từ bên ngoài thôi là sao!”
Tòa kiến trúc một tầng ngầm, ba tầng trên mặt đất này gần như là một cái hộp kín ghép bằng gạch đá xi măng và các tấm sắt, nơi duy nhất không bị chặn là miệng ống khói, nhưng cũng không thể đi lối ấy được. Nếu giờ mà không tìm được lối ra nữa, thì chỉ còn nước chờ chết ở trong này thôi vậy. Cả bọn không biết phải làm sao, đành quay lại chỗ gian đốt xác tiếp tục tìm kiếm lối ra, nhưng bốn vách tường đều cực kỳ kiên cố, sợ rằng có đem đại pháo đến đây bắn cũng chẳng thủng được, huống hồ trong tay chúng tôi chỉ có mỗi một khẩu súng cổ lỗ sĩ.
Lúc này, âm thanh trong lò đốt xác đã tắt, tôi rón ra rón rén bước đến gần, áp tai vào cửa lò lắng nghe động tĩnh, bên trong dường như có vật gì rất lớn đang cọ vào vách lò. Tôi vẫy tay ra hiệu cho những người còn lại không được lên tiếng, rồi kéo cả bọn lại một góc tường rì rầm bàn bạc.
Hoàn cảnh trước mắt tuy rất đáng lo ngại, nhưng không có nguy hiểm gì trực tiếp, chúng tôi vẫn còn đủ thời gian thương lượng xem làm sao mới thoát ra khỏi tòa nhà quái quỷ này. Tôi bảo với ba người kia: “Trong lò thiêu đúng là có cái gì đó, hình như là dã thú, tôi đoán chừng có thể là một con trăn khổng lồ một mắt. Phỏng chừng lúc tôi leo lên ống khói đã làm kinh động đến nó, nó mới bò xuống tính nuốt người, giờ bị khốn bên trong cái lò kia rồi. Vách bên trong lò toàn là cặn dầu với muội than, nếu không cạo sạch thì dù ba đầu sáu tay cũng đừng hòng leo lên được.”
Bố mẹ Đinh Tư Điềm đi bộ đội giải ngũ về, đều được phân đến Viện Bảo tàng Tự nhiên công tác, nên cô cũng hiểu biết tập tính của rất nhiều sinh vật, vừa nghe tôi nói bên trong cái lò rất có thể là một con trăn khổng lồ, bèn lắc đầu nói: “Chắc là không phải đâu, môi trường không phù hợp. Ở vùng nằm giữa thảo nguyên và sa mạc này không thể có trăn khổng lồ được.”
Lão Dương Bì chen miệng vào: “Lão đã bảo rồi mà các cô các cậu không chịu tin. Đấy là Long vương gia đó, lần này chúng ta gây họa tày trời rồi. Không chỉ ăn con cháu của Ngài, lại còn nhốt cả Ngài trong cái lò này nữa, sợ rằng cái vỏ sắt này cũng không ngăn được...”
Tôi thầm nhủ lão Dương Bì này đúng là đồ nông dân cổ hủ, trình độ giác ngộ cách mạng quá thấp, nói thế nào cũng không chịu nghe, thật chẳng khác nào đàn gảy tai trâu hay hát opera cho lừa, chỉ phí công vô ích. Ông lão đã nhất quyết nghĩ thế, thì tôi cũng chẳng còn hơi đâu mà đi giải thích làm gì, tình hình trước mắt thật chẳng khác nào kiến bò chảo nóng, không thể không tính toán đến trường hợp xấu nhất. Bây giờ chạy lên chạy xuống cũng chưa chắc tìm được lối ra, nhưng thế nào thì cũng không thể cứ trơ mắt ra chờ chết được, tôi phải tính sao đây?
Nghĩ tới đây, tôi lại càng nóng ruột, liền bực bội nói với lão Dương Bì: “Làm gì có Long vương với cả Long bá gì ở đây chứ? Đến một cộng một bằng hai ông còn chẳng biết, sao lại cứ tin mấy cái truyền thuyết vô căn cứ ấy thế?”
Đinh Tư Điềm vội lên tiếng khuyên giải: “Bát Nhất, bạn không nên nói ông lão Dương Bì thế chứ, đây không phải ông mê tín, mà chỉ là tình cảm giai cấp mộc mạc thôi. Thanh niên trí thức chúng ta về nông thôn tham gia lao động sản xuất là để cho giai cấp bần hạ trung nông tái giáo dục không phải là đến để giáo dục giai cấp bần hạ trung nông. Bố mình từng nói, trong lịch sử Trung Quốc, khổ nhất chính là nông dân, cả đời bị bóc lột áp bức, bán mặt cho đất bán lưng cho giời, nhưng vĩ đại nhất, chịu đựng giỏi nhất, nhẫn nại nhất cũng chính là nông dân, nếu không có nông dân thì cũng chẳng có lịch sử Trung Quốc đâu.”
Tôi bị Đinh Tư Điềm nói cho một hơi dài, lập tức bình tĩnh lại, cũng cảm thấy tuy rằng mình chưa nói gì quá đáng, nhưng đúng là không nên có thái độ này với ông lão Dương Bì. Tục ngữ chẳng phải cũng có câu, “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” đó hay sao. Có điều, trước mặt Đinh Tư Điềm tôi cũng không tiện nhận sai, bèn ậm ừ cho qua, rồi nói với mọi người: “Mấy hôm nay không thực hiện phê và tự phê rồi, trở về nhất định sẽ bù lại.” Tuyền béo đứng bên cạnh lập tức thừa cơ móc máy: “Sau khi quay về cậu còn phải tự kiểm điểm lại mình, nghiêm túc học tập văn kiện, theo kịp tình thế, phê phán tư tưởng cánh hữu ở sâu thẳm trong lòng cậu, tự giác cải tạo thế giới quan giai cấp tư sản của cậu đi, đồng thời phải tự giác khai báo các vấn đề lịch sử, vấn đề xuất thân và cả quá trình cậu nảy sinh tư tưởng danh lợi muốn thoát ly khỏi đội ngũ cách mạng nữa. Cậu đừng tưởng cậu không khai báo đầy đủ thì tổ chức không biết đấy, tình hình cậu như thế nào tổ chức đều nắm rõ như lòng bàn tay cả, giờ cho cậu một cơ hội để tự mình thành thật khai báo, cũng chính là cho cậu một cơ hội nhận được sự khoan hồng, tốt nhất cậu nên biết điều mà dừng cương ngựa trước vực thẳm, ngàn vạn lần chớ nên đoạn tuyệt với nhân dân, kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta biết rằng...”
Tôi vội ngắt lời cậu ta: “Cái thằng béo nhà cậu mà không đi làm tay sai phản động thì thật lãng phí cả một tấm thân phì nộn, chúng ta đang bị nhốt trong cái quan tài bằng xi măng sắt thép kín bưng thế này mà cậu vẫn còn tâm tư bới móc tôi được à? Sư cha nhà cậu, tôi nói cái gì mà cậu bảo tôi đoạn tuyệt với nhân dân?”
Tuyền béo nói: “Vui vẻ được thì cứ vui, thủ lợi được thì cứ phải tranh chủ, buồn bực sốt ruột có ích gì, không phải cũng chẳng thoát ra được sao? Theo tôi thấy, chúng ta phải chuẩn bị chiến đấu trường kỳ đi thôi, phỏng chừng một hai ngày nữa lão Nghê thấy chúng ta không về, thế nào chẳng phái người đi tìm? Đợi khi nào họ tìm thấy thì chúng ta sẽ thoát thôi mà.”
Đinh Tư Điềm nói: “Sợ là sợ anh ta muốn giấu giếm trách nhiệm cho ông lão Dương Bì, lại cố gắng tranh thủ cho chúng ta thêm mấy ngày thời gian. Nếu đúng thế, chúng ta không ăn không uống, liệu có thể cầm cự được bao lâu đây? Mà phải mất bao lâu thì họ mới tìm được đến chỗ này chứ?”
Tôi nghe Đinh Tư Điềm nói đến chuyện không ăn không uống, đột nhiên trong óc lóe lên một ý, bèn nói với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Tôi vừa nghĩ ra chiêu này rất độc, cậu còn nhớ chuyện chúng ta nướng lợn sữa trong lò gạch không, hay là chúng ta lên tầng hai ném một mồi lửa xuống, đốt bùng cái lò thiêu xác này lên, mặc kệ bên trong đang nhốt thứ gì, cho nó cháy mẹ nó thành than luôn.”
Lời này vừa thốt ra, ai nấy đều gật gù khen hay. Thật đúng là người trong cuộc thì mê muội, mãi cũng chẳng nghĩ ra cách đơn giản này, chỉ cần tìm cách đốt lò thiêu xác lên thôi, chẳng những có thể thiêu chết thứ bên trong ấy, mà còn có thể lợi dụng ngọn lửa làm sạch cặn dầu trong ống khói. Như thế thì có thể leo ống khói ra bên ngoài, chỉ cần một người thoát ra được, vậy là có thể mở cửa sắt từ phía bên ngoài được rồi.
Cả bọn đang định triển khai hành động thì ngọn đuốc trong tay Tuyền béo cũng cháy hết. Để sử dụng nguồn sáng một cách tiết kiệm nhất, mặc dù đã chuẩn bị mười mấy cây đuốc, nhưng khi nào cây này cháy hết chúng tôi mới đốt cây khác lên. Nghĩ ra cách thoát thân, ai nấy đều cực kỳ hưng phấn, quên cả việc tiếp lửa cho ngọn đuốc tiếp theo, Đinh Tư Điềm vội vàng lấy hộp diêm ra định quẹt lửa. Nhưng đúng vào lúc đó, chợt nghe trong bóng tối vang lên tiếng “sột sà sột soạt” như thể có người đang bước đi, âm thanh dường như phát ra từ chỗ cửa lò đốt xác.
Trong tòa nhà này ngoại trừ bốn người sống chúng tôi ra đâu còn ai khác nữa? Thậm chí còn chẳng thấy con chuột nào, tôi tưởng lão Dương Bì đã lần mò sang phía bên ấy, liền vội đưa tay ra rờ khắp xung quanh. Lão Dương Bì, Tuyền béo, Đinh Tư Điềm, không thiếu ai hết, trong bóng tối sao đột nhiên mọc đâu ra một người nữa? Hay là mọc ra thêm một... con ma?
Âm thanh khe khẽ vang lên trong bóng tối khiến cả bọn chúng tôi đều dựng hết cả tóc gáy, cái kẻ đột nhiên lù lù mọc ra ấy rốt cuộc là ai? Hắn ta ở trước cửa lò đốt xác định làm gì? Trong tôi bỗng dâng lên một dự cảm cực kỳ chẳng lành, lẽ nào có người muốn mở cái cửa lò ấy ra? Nếu đúng là thế, tôi thật không dám tưởng tượng ra hậu quả sẽ như thế nào nữa. Nhưng trong căn hầm tối đen như mực, chúng tôi đều chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng thể nào có hành động ngăn lại. Tôi đành thấp giọng bảo Đinh Tư Điềm mau quẹt diêm đốt đuốc lên, nhưng lúc này cô cũng vô cùng căng thẳng, quẹt hai ba cái liền vẫn không thấy cháy, lại càng thêm hoảng loạn, dồn sức mắm môi mắm lợi quẹt mạnh, không ngờ lại dùng sức quá độ, làm mấy que diêm còn sót lại trong hộp đều rơi vung vãi hết xuống đất. Lúc này, bỗng nghe trên cánh cửa lò thiêu xác vang lên tiếng “cách cách” gọn lỏn, chốt cửa đã bị mở ra rồi.
Tác giả :
Thiên Hạ Bá Xướng