Ma Thổi Đèn
Quyển 5 - Chương 22: Ngọn đèn lẻ loi
Cả bọn tụ lại trước bức tường, thấy sau hai lớp gạch chẳng có thông đạo, đều không khỏi lấy làm thất vọng, nhưng ai nấy đều muốn xem rốt cuộc phía sau bức tường này chôn giấu thứ gì, vậy là bèn lấy bảo đao Khang Hy móc ngọn đèn giơ vào bên trong. Bấy giờ mới nhìn rõ thì ra trong tường chôn một khối sắt lớn, đen sì sì lạnh lẽo. Bốn chúng tôi đều hết sức kinh ngạc, lẽ nào sau hai tầng gạch xây kín mít lại còn thêm một lớp tường bằng sắt nữa ư?
Tôi thò tay rờ lên trên, đầu ngón tay lập tức cảm nhận một thứ cảm giác nặng nề lạnh buốt, dự cảm bất thường khiến toàn thân tôi giật bắn lên. Tôi vội vàng định thần lại, rồi cẩn thận sờ tay thêm lần nữa, phát hiện ra lớp tường bằng sắt này còn có mấy hàng chữ gồ lên, phải giơ đèn rồi dí sát mắt vào mới nhìn rõ được. Bốn người lần lượt ghé mắt vào nhìn, đó không phải chữ tiếng Trung, cũng không phải chữ số, mà cũng tuyệt đối không phải thứ chữ Nhật ngoằn ngoèo như vẽ bùa hay chữ Hán Nhật.
Cả bọn đều hết sức hoang mang, vách tường như thể đúc bằng sắt này xem chừng là một lớp vỏ, còn được chôn giấu bên trong tòa nhà, không hiểu rốt cuộc là rộng chừng nào, dày bao nhiêu, chữ khắc trên đó là gì? Có lẽ nếu đọc được thì có thể vạch trần được bí mật bên trong cũng nên nhưng lúc này ngọn đèn dầu trong tay đã chớp chớp lên mấy cái, rồi tắt phụt liền sau đó.
Đèn dầu vừa tắt, trong tòa nhà hoàn toàn bị bít kín tức thì trở nên tối mù tối mịt, năm ngón tay giơ lên trước mặt cũng không thấy rõ. Tôi và ba người còn lại chỉ còn biết nghe tiếng thở của nhau, trong bóng tối, Đinh Tư Điềm chạm vào tay tôi. Thấy bàn tay cô lạnh buốt, tôi biết cô đã sợ hãi lắm rồi, bèn có ý an ủi mấy câu, để cô bớt phần nào lo lắng.
Nhưng vừa nghĩ đến chuyện sau khi cả bọn vào tòa nhà cổ quái này, cánh cửa sắt kia đột nhiên hạ xuống, trên cửa sổ hiện ra bàn tay người trắng ởn, rồi cả khối sắt giấu đằng sau bức tường gạch này nữa, tôi thực không sao nghĩ ra lý do nào có thể khiến người ta yên tâm để nói với cô. Những hiện tượng không hợp lẽ thường này còn có thể nói lên điều gì chứ? Rõ ràng đây là một tòa “nhà ma”, việc đến nước này rồi có muốn không tin cũng không được. Có điều, câu nói này không chỉ tôi không muốn nói ra, mà trong tình huống này, chắc rằng cũng chẳng có ai muốn nghe hết.
Tôi lấy hộp diêm còn một nửa trong túi ra quẹt lên một que, trong hoàn cảnh tối tăm tuyệt đối thế này, dù chỉ có một chút ánh sáng cũng đủ khiến người ta cảm thấy vẫn còn hy vọng. Tôi mượn ánh lửa đưa mắt nhìn ba người còn lại, mọi người vẫn còn khá trấn định. Trong hộp chỉ còn khoản hơn hai chục que diêm, dùng hết rồi thì sẽ không còn ánh sáng nữa, vì vậy nếu không đến lúc cần thiết thì không thể sử dụng.
Lão Dương Bì nhớ lại mấy chữ vừa trông thấy trên vách sắt, nhưng ông già lại mù chữ, bèn hỏi chúng tôi: “Trên khối sắt ấy in cái gì thế? Mấy cậu mấy cô đều là thanh niên trí thức của Mao chủ tịch phái đến, thế có nhận ra được không?”
Que diêm đã cháy hết, bốn bề lại chìm vào bóng tối vô biên vô tận, tôi vứt que diêm đã thành tro tàn trên tay đi, vắt óc cố tái hiện lại những chữ lúc nãy trông thấy trong đầu. Dường như là chữ Tây thì phải, ngoại ngữ thì tôi chỉ học một ít tiếng Nga, có điều cũng chỉ là trình độ hạng gà, về sau Liên Xô xét lại thì còn hoàn toàn bỏ luôn. Nhưng bố mẹ Đinh Tư Điềm từng du học ở Liên Xô, nên trình độ tiếng Nga của cô rất khá. Còn nếu mấy chứ tiếng nước ngoài trên tấm sắt đó mà là tiếng Anh tiếng Mỹ thì chúng tôi đành chịu. Từ năm 64, đã có một số trường cũng dạy tiếng Anh, nhưng chẳng theo hệ thống gì, mà chỉ học một số câu ngắn, chẳng hạn như: vạn thọ vô cương, vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế..., thời đó trường chúng tôi học đều không có môn này.
Nhưng Đinh Tư Điềm lại nói một cách khẳng định, đó tuyệt đối không phải tiếng Nga, tiếng Nga có một số chữ cái rất khác với chữ cái tiếng Anh, điểm này thì cô vẫn nhìn ra được. Lúc bấy giờ, đương lúc quan hệ Trung Xô rất căng thẳng, ý thức chuẩn bị chiến tranh của ai nấy đều rất mạnh mẽ, vừa nhắc đến ngoại ngữ, thậm chí còn hoài nghi bên trong bức tường sắt có bom, nhưng nghĩ kỹ hơn, lại cảm thấy chuyện này không có khả năng lắm.
Không phải Liên Xô thì có khả năng là Đế quốc Mỹ rồi, hồi trước trong nhà tôi cũng có một ít chiến lợi phẩm thu được trên chiến trường kháng Mỹ viện Triều, có bình rượu Tây, hộp thuốc, thìa bằng thép không gỉ…, đều là những thứ tạp nhạp, vì vậy trình độ tiếng Anh của tôi chỉ dừng lại ở ba chữ “USA” mà thôi.
Tuyền béo đột nhiên nảy ra ý tưởng lạ: “Cái thời Thế chiến thứ Hai ấy, Nhật Bản với Đức là đồng minh, mấy cái chữ này có thể là tiếng Đức không? Cũng có khả năng là vật tư của Mỹ mà quân đội Nhật cướp được trên chiến trường Thái Bình Dương?”
Tôi nói với Tuyền béo: “Tiếng Đức thế nào cậu có biết không?” Tuyền béo nói: “Thì tiếng Mỹ chúng ta cũng có biết đâu, vì vậy tôi nghĩ chỉ cần không phải là tiếng Nga và tiếng Nhật, thì nó là tiếng nào cũng chẳng quan trọng nữa, đằng nào thì chúng ta cũng có biết quái đâu.”
Lời của Tuyền béo đã cho tôi một số gợi ý, nhưng bên trong tòa nhà của người Nhật xây lại có chôn giấu một khối sắt có in chữ Tây, khối sắt này dùng để làm gì? Tại sao lại chôn bên trong tường? Hoàn toàn chẳng có đầu mối gì, càng nghĩ càng thấy rối bung rối bét lên.
Lúc này Đinh Tư Điềm lại nói với tôi: “Đốt thêm một que diêm được không? Chúng ta xem lại lần nữa.” Tôi cũng đang có ý này, liền chụm đầu vào chỗ cái hốc trên tường, lấy ra một que diêm quẹt lên, rồi lại dùng bàn tay khum khum che, để phòng ngọn tửa yếu ớt bị hơi thở của mọi người làm tắt phụt đi. Ánh sáng vừa lóe lên, vách sắt bên trong liền lập tức hiển hiện lên trước mắt.
Lần này tuy ánh sáng rất yếu ớt, nhưng mọi người đều quan sát rất kỹ càng, cuối cùng cũng có thêm một phát hiện, vừa nãy chỉ để ý đến những chữ kỳ quái trên tấm sắt mà không lưu ý thấy rằng phía sau hai lớp gạch này không phải là nguyên một tấm sắt khổng lồ, mà là một cái nắp có thể kéo mở ra được, giống như một cánh cửa sắt thấp tè vậy. Vừa nãy Tuyền béo gạt bừa cả đống gạch xuống, vẫn còn vài viên chưa bị hất ra hẳn, phần rìa mép của cái nắp cũng không lộ hẳn ra ngoài, cả phần tay cầm đúc liền với nó cũng bị mấy viên gạch còn sót che mất.
Phát hiện này khiến cả bọn đều thở mạnh, que diêm tắt phụt. Tuyền béo lần mò trong bóng tối dỡ hết những viên gạch còn lại. Trong khi ấy, Đinh Tư Điềm hỏi tôi: “Bát Nhất này, thì ra đây là một cái nắp có thể đóng mở được, trông như một cánh cửa sắt ấy nhỉ, nhưng nếu là cửa thì có vẻ hơi nhỏ một chút, phải khom người mới chui vào được. Nhưng nếu không phải là cửa thì là cái gì, có tác dụng gì nhỉ?”
Lão Dương Bì chen miệng vào: “Tư Điềm ơi là Tư Điềm, cháu là con gái mà sao tò mò thế vậy? Lão già đây sống hơn nửa đời người rồi cũng chưa gặp phải thứ gì kỳ quái như thế, lão thấy phía sau bức tường sắt này nhất định không phải đất lành, bằng không sao mà lại giấu kỹ như thế? Mở nó ra chỉ sợ sẽ thả lũ ác quỷ ra mất cũng không chừng? Tạo nghiệt, tạo nghiệt đó, không hiểu đời trước đã đắc tội với thần tiên ở đâu...”
Tôi bèn lựa lời khuyên giải lão Dương Bì, nói rằng trên đời này vốn chẳng có ma quỷ gì hết, toàn là do con người tự tưởng tượng ra đấy thôi, những điều xảy ra trong tòa nhà này tuy rất kỳ quái, nhưng cháu tin rằng vạn sự trên đời đều có căn nguyên, chẳng qua chúng ta mới chỉ nhìn thấy một góc mà chưa thấy toàn cục, vì vậy mới là người trong cuộc mê chứ không phải người ngoài cuộc sáng, chúng ta không thể cứ nhắm mắt chờ chết ở đây được, cháu thấy cầu thần khấn Phật cũng chẳng có ích gì đâu, đợi lát nữa nếu mở được cái nắp bằng sắt này ra, ngộ nhỡ có xảy ra chuyện gì thì để cháu với Tuyền béo đảm đương hết.
Lão Dương Bì nói: “Lão đã già ngần này tuổi đầu rồi, còn sợ gì chứ, chỉ lo cho con bé Tư Điềm, ai dà... cả đời này lão đều an phận thủ thường, tuy không cắt tóc cạo đầu nhưng cũng coi như là để tóc tu hành, sao chuyện không may cứ đổ hết lên đầu lão thế này...” Ông nói được nửa chừng liền không nói nữa, tôi đoán ông già nghĩ đến chuyện cho dù có trở về được, thì cũng không có cách nào ăn nói với cấp trên về đám bò ngựa bị mất tích, trong lòng hẳn là đang cay đắng lắm. Tôi phải làm sao mới nghĩ ra cách giúp ông già và Đinh Tư Điềm bớt phần trách nhiệm này đi đây?
Trong lúc bọn tôi nói chuyện, Tuyền béo đã dỡ hết số gạch lỏng lẻo, giờ chỉ còn lại phần tường được trét xi măng đặc kín. Tôi hỏi cậu ta: “Cái nắp này có mở ra được không?” Tuyền béo đưa tay sờ thử rồi gật gật đầu: “Chắc tám chín phần là mở được, không có chốt khóa, cũng không hàn chặt vào.”
Tôi rút thanh đao ra, dặn Đinh Tư Điềm chuẩn bị quẹt diêm chiếu sáng để nhìn rõ xem phía sau cái nắp bằng sắt này rốt cuộc là chứ gì. Thấy mọi thứ đều đã sẵn sắng, tôi liền vỗ vỗ lên vai Tuyền béo, cậu ta nhận được tín hiệu, bèn giơ chân đạp lên tường lấy sức, hai tay kéo mạnh tay nắm ở mép cái nắp nặng trình trịch. Trong bóng tối vang lên những tiếng “cạch cạch cạch” nặng nề, liền ngay sau đó, một mùi nồng nặc xộc lên. Thứ mùi này chỉ ngửi một chút đã thấy buồn nôn, muốn khó ngửi thế nào thì có khó ngửi thế ấy, giống như thể khói than và dầu mỡ trộn lại với nhau xông thẳng vào lỗ mũi vậy. Bọn chúng tôi vội vàng bịt chặt mũi lại.
Tôi lắng nghe động tĩnh, vội thấp giọng nói với Đinh Tư Điềm: “Thắp sáng.” Đinh Tư Điềm lập tức quẹt một que diêm, ánh lửa lóe lên, phía đằng sau cái nắp vừa được kéo nhích ra, là một tầng gạch đá dày hơn một mét, sâu bên trong nữa là một giếng thẳng hình trụ hướng lên phía trên, trên không thấy trời, dưới không thấy đất. Mặt phía bên trong của ống hình trụ này đều là một lớp muội than dày cộm đen sì, tựa như khói hun quanh năm đóng két lại. Tôi lấy khăn quàng cổ của Đinh Tư Điềm bịt chặt mũi, chui vào xem thử, chỉ thấy bên dưới tối om om chẳng trông thấy gì cả, bên trên thì có một mảng mờ mờ ánh sao mông lung, tựa hồ như trên nóc nhà có một ô cửa sổ trời. Giếng thẳng này rất hẹp, nếu dùng tay chân chống vào vách bên trong, phỏng chừng có thể nhích dần lên đến vị trí cửa sổ trời phía trên kia.
Tôi vừa rút ra, Tuyền béo cũng chui vào ngó thử, lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm liền hỏi tôi phía sau cái nắp bằng sắt ấy là nơi nào. Tôi không chắc chắn lắm, nhưng cũng trả lời: “Tôi thấy hình như... là ống khói của một cái lò rất lớn.” Lão Dương Bì chưa từng thấy cái lò nào lớn như thế cả nên có vẻ không tin lắm, tôi bèn giải thích thêm: “Năm đó cháu và Tuyền béo cùng với Tư Điềm đi khắp đất nước, có một lần mải tham quan chiến khu cách mạng, trải nghiệm tinh thần cách mạng đến nỗi cả ngày chẳng ăn uống gì, lúc về đến nơi tập kết thì cũng đã quá giờ cơm mất rồi. Nhưng hôm sau bọn cháu còn phải làm cách mạng nữa, nên không thể để bụng đói được, vậy là Tuyền béo bèn đi trộm một con lợn con trong chuồng của bà con nông dân, cháu phụ trách bỏ con lợn ấy vào lò gạch đang đốt, định làm món lợn sữa quay. Khổ nỗi hồi ấy có biết là nhiệt độ trong lò thế nào đâu, kết quả là làm con lợn béo múp míp cháy hết thành than, về sau bà con dân làng kéo nhau đến đuổi bắt, bọn cháu liền giở kế địch tiến ta lùi, trốn vào bên trong ống khói của một lò gạch bỏ hoang đợi đến khi trời sáng mới không bị quần chúng cách mạng truy cứu tội danh trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa đấy.”
Chuyện lần đó khiến chúng tôi có ấn tượng trực quan rất sâu sắc với các loại ống khói và lò lửa, cả đời này chắc cũng không thể nào quên được. Vừa nãy tôi lấy tay quẹt một chút lên ống khói đằng sau cái nắp sắt ấy, thử vê vê, thấy dinh dính như là khói dầu. Bên dưới ống này khẳng định là một cái lò lửa khổng lồ, bao nhiêu năm rồi không sử dụng, tại sao vẫn còn dính nhơm nhớp thế này? Rồi lại cả thứ mùi kinh tởm khiến người ta muốn nôn mửa đó nữa...
Một ý nghĩ chẳng lành nổi lên trong đầu tôi, đây rất có thể là lò đốt xác dùng khi hỏa táng. Dù không phải để đốt xác người, thì ít nhất cũng từng thiêu đốt vô số động vật, nhiệt độ cao và khói nồng đưa dầu mỡ động vật lên ống khói, sau khi nguội đi đông cứng lại liền hóa thành chất nhơm nhớp như bây giờ. Bởi thế, trải qua nhiều năm mà lớp mỡ này vẫn không mất đi, cái nắp sau bức tường ở lầu hai này cũng không giống như nắp lò, mà chỉ là cửa lối thông dùng để làm sạch ống khói phòng ngừa tắc nghẽn mà thôi. Chỉ có những lò hỏa táng kiểu cũ mới cần làm vậy, vì mỡ bám trong ống khói phải dùng nhân công mới làm sạch được. Nghe nói sau khi dùng khí độc sát hại hàng loạt người Do Thái, bọn Đức Quốc xã thường dùng lò thiêu để xử lý xác chết, có phải người Nhật cũng nhập khẩu thiết bị này của Đức để hủy thi diệt tích không nhỉ? Điều chủ yếu nhất thì chúng tôi vẫn chưa làm rõ được, nếu đây đúng là một cái lò thiêu lớn, vậy thì tại sao phải ngụy trang kỹ lưỡng, rồi bít kín mít lại như thế? Sợ rằng nguyên nhân bên trong tuyệt đối không chỉ đơn giản là để che tai che mắt người đời thôi đâu.
Vừa nghĩ rằng đây có thể là cái lò đã thiêu vô số cái xác, tôi suýt chút nữa thì đã ọe hết đống thịt chuột nướng ăn hồi tối ra, vội vàng quệt hết chỗ dầu mỡ đen sì dính trên tay vào quần áo. Nhưng muốn thoát khỏi chốn này, nhất thiết phải có người trèo lên qua đường ống khói của cái lò đốt xác, mà lại không thể dùng diêm chiếu sáng để đề phòng trong ống khói chẳng may còn sót lại vật gì dễ cháy, bằng không thì đúng là tự châm lửa đốt mình. Còn một cách nữa là lần mò xuống hầm ngầm, có điều dưới ấy chắc là một cái lò lớn bằng sắt thép, chưa chắc đã có đường ra, hơn nữa bằng vào mấy que diêm còn lại mà đi xuống hầm ngầm thì cũng không được khả thi cho lắm.
Tôi nói ý định này với mấy người còn lại, Tuyền béo lập tức phản đối: “Không được, thế này quá là manh động, tôi bảo chứ, leo lên khó lắm đấy. Tuy nói là sớm muộn gì chúng ta cũng phải thoát ra khỏi cái lò này, nhưng cảm giác ra khỏi đây vẫn còn sống với bị cháy thành than khác nhau nhiều lắm đấy nhé. Cái đường này vốn không phải để cho người sống dùng mà, với lại bên trong ống khói tích một lớp mỡ dày tướng như thế, leo lên chắc chắn sẽ trơn tuột rơi xuống. Mấy người có lẽ thấy chẳng sao hết, cùng lắm là ngã vào bụng lò, dù chết hay tàn tật gì thì cũng chẳng sao, nhưng ngộ nhỡ tôi đây kẹt ở trên đó, muốn lên không được muốn xuống cũng chẳng xong, chết cứng ở đấy thì chẳng phải là khổ sở lắm sao? Chết cái kiểu uất ức ấy tôi đây không chịu nổi đâu, mà sợ rằng từ cổ chí kim đều chưa có tiền lệ nào như thế cả, Tuyền béo tôi đây cũng không muốn phá cái kỷ lục thế giới này đâu.”
Tôi lắc đầu nói: “Cậu cứ yên chí, đâu có đó, thịt chó có mắm tôm. Nhất thiết cần phải giải quyết vấn đề trước mắt, giờ cũng không còn cách nào khác cả đâu. Không phải tôi muốn thể hiện chủ nghĩa anh hùng cá nhân, nhưng tôi thấy việc đã đến nước này thì chỉ còn cách mạo hiểm thử một lần thôi. Mọi người cứ ở đây đợi, để tôi đơn thân độc mã leo len trên ấy, rồi tìm cách mở cửa sắt từ bên ngoài cho cả bọn thoát ra, chẳng may mà rơi xuống... thì coi như tôi đi trước một bước vậy, chúng ta hẹn gặp ở kiếp lai sinh.”
Đinh Tư Điềm vội bám chặt cánh tay tôi khuyên giải: “Bạn đừng đi, ống khói của lò thiêu xác làm sao mà leo lên được? Dù không ngã chết thì muội than với khói dầu đóng két bên trong cũng đủ khiến người ta sặc chết rồi, hay là chúng ta nghĩ cách khác đi.”
Tôi cũng chỉ cậy vào một chút nhiệt huyết bừng bừng nhất thời, sợ rằng do dự một chút rồi sẽ lại không dám mạo hiểm nữa, người mạnh là do cương quyết, ngựa khỏe là bởi tay roi. Đã đến thời khắc quyết định, không thể rụt rè như đàn bà được, vậy là tôi mặc cho Đinh Tư Điềm khuyên ngăn, nhất quyết chui vào, lấy khăn quàng bịt chặt mũi miệng, ngó đầu ngước nhìn lên trên. Từ chỗ này lên đến lối ra, chỉ cách khoảng một tầng rưỡi, không xa lắm, thêm nữa là tôi cũng khá tự tin với khả năng leo trèo của mình, bèn nghiến răng lách mình chui vào trong ống khói.
Ống khói này tuy lớn, nhưng đấy chỉ là nói một cách tương đối thôi, chứ thực tế thì nhỏ hơn ống khói ở lò hỏa táng nhiều, trên đầu có ánh sao mờ mịt mông lung. Nhìn thấy miệng ống khói như cái cửa sổ trời ở bên trên, tôi lại có thêm may phần tự tin, bèn dùng vỏ đao cạo lên vách, nhanh chóng làm sạch một vòng muội than và dầu mỡ, rồi đạp chân lên trên để thử lực ma sát. Bên trong ống khói này khá là hẹp, nếu chống lưng rồi bò nhích dần lên thì cũng không phải khó khăn cho lắm.
Khốn nỗi có những chuyện thoạt nhìn tưởng dễ đến lúc làm mới thấy khó, mới cạo được một tầng cặn dầu, trong ống khói đã sặc sụa cay sè đến nỗi tôi không mở nổi mắt ra nữa, mũi bịt chặt rồi mà vẫn thấy choáng váng kinh khủng, vả lại vách bên trong cứ trơn tuồn tuột, có sức cũng không giở ra hết được. Tôi phải vừa chống người vào tường để không rơi xuống, vừa dùng vỏ đao cạo lớp cặn dầu, thực sự là vô cùng gian nan, mới nhích lên được nửa bước thì cánh tay và cả bắp chân đã muốn run lên lẩy bẩy rồi.
Tôi phỏng chừng mình không thể tiếp tục, đành buộc lòng chuẩn bị bỏ cuộc, tính rằng ngẩng đầu lên nhìn một cái rồi tuột xuống, chẳng ngờ vừa ngước mắt lên, liền trông thấy ở miệng ống khói từ lúc nào đã xuất hiện một quầng sáng màu đỏ sậm. Mới đầu tôi tưởng mình hoa mắt, bèn nhắm mắt lại lắc mạnh đầu mấy cái, rồi ngước lên nhìn lại lần nữa, chỉ thấy một đốm sáng như ngọn đuốc, chớp lóa biến ảo tựa như ngọn lửa ma trơi đang phiêu hốt lơ lửng phía trên đầu.
Thấy cảnh đó, tôi bỗng sực nhớ thường nghe người già kể, trong đêm tối tăm, nếu không có chút đèn lửa nào, bỗng đột nhiên thấy một quầng sáng lẻ loi thì đấy tuyệt trăm phần trăm là lửa ma chứ không phải ánh đèn, chính thế nên mới có câu: “Trăng sáng chớ độc hành, đèn lẻ ắt quỷ ma.” Ý nghĩ ấy vừa lóe lên trong đầu, đốm lửa ma trên miệng ống khói liền bay xuống dưới, tôi thầm hoảng hốt, mả cha nhà nó, thế này không phải là ném đá xuống giếng à, sao chuyện tà quái gì cũng đổ hết lên đầu chúng tôi thế này? Tay chân đang chống đỡ cơ thể trượt đi, cả người tôi liền mất trọng tâm, rơi tụt xuống dưới.
Tôi thò tay rờ lên trên, đầu ngón tay lập tức cảm nhận một thứ cảm giác nặng nề lạnh buốt, dự cảm bất thường khiến toàn thân tôi giật bắn lên. Tôi vội vàng định thần lại, rồi cẩn thận sờ tay thêm lần nữa, phát hiện ra lớp tường bằng sắt này còn có mấy hàng chữ gồ lên, phải giơ đèn rồi dí sát mắt vào mới nhìn rõ được. Bốn người lần lượt ghé mắt vào nhìn, đó không phải chữ tiếng Trung, cũng không phải chữ số, mà cũng tuyệt đối không phải thứ chữ Nhật ngoằn ngoèo như vẽ bùa hay chữ Hán Nhật.
Cả bọn đều hết sức hoang mang, vách tường như thể đúc bằng sắt này xem chừng là một lớp vỏ, còn được chôn giấu bên trong tòa nhà, không hiểu rốt cuộc là rộng chừng nào, dày bao nhiêu, chữ khắc trên đó là gì? Có lẽ nếu đọc được thì có thể vạch trần được bí mật bên trong cũng nên nhưng lúc này ngọn đèn dầu trong tay đã chớp chớp lên mấy cái, rồi tắt phụt liền sau đó.
Đèn dầu vừa tắt, trong tòa nhà hoàn toàn bị bít kín tức thì trở nên tối mù tối mịt, năm ngón tay giơ lên trước mặt cũng không thấy rõ. Tôi và ba người còn lại chỉ còn biết nghe tiếng thở của nhau, trong bóng tối, Đinh Tư Điềm chạm vào tay tôi. Thấy bàn tay cô lạnh buốt, tôi biết cô đã sợ hãi lắm rồi, bèn có ý an ủi mấy câu, để cô bớt phần nào lo lắng.
Nhưng vừa nghĩ đến chuyện sau khi cả bọn vào tòa nhà cổ quái này, cánh cửa sắt kia đột nhiên hạ xuống, trên cửa sổ hiện ra bàn tay người trắng ởn, rồi cả khối sắt giấu đằng sau bức tường gạch này nữa, tôi thực không sao nghĩ ra lý do nào có thể khiến người ta yên tâm để nói với cô. Những hiện tượng không hợp lẽ thường này còn có thể nói lên điều gì chứ? Rõ ràng đây là một tòa “nhà ma”, việc đến nước này rồi có muốn không tin cũng không được. Có điều, câu nói này không chỉ tôi không muốn nói ra, mà trong tình huống này, chắc rằng cũng chẳng có ai muốn nghe hết.
Tôi lấy hộp diêm còn một nửa trong túi ra quẹt lên một que, trong hoàn cảnh tối tăm tuyệt đối thế này, dù chỉ có một chút ánh sáng cũng đủ khiến người ta cảm thấy vẫn còn hy vọng. Tôi mượn ánh lửa đưa mắt nhìn ba người còn lại, mọi người vẫn còn khá trấn định. Trong hộp chỉ còn khoản hơn hai chục que diêm, dùng hết rồi thì sẽ không còn ánh sáng nữa, vì vậy nếu không đến lúc cần thiết thì không thể sử dụng.
Lão Dương Bì nhớ lại mấy chữ vừa trông thấy trên vách sắt, nhưng ông già lại mù chữ, bèn hỏi chúng tôi: “Trên khối sắt ấy in cái gì thế? Mấy cậu mấy cô đều là thanh niên trí thức của Mao chủ tịch phái đến, thế có nhận ra được không?”
Que diêm đã cháy hết, bốn bề lại chìm vào bóng tối vô biên vô tận, tôi vứt que diêm đã thành tro tàn trên tay đi, vắt óc cố tái hiện lại những chữ lúc nãy trông thấy trong đầu. Dường như là chữ Tây thì phải, ngoại ngữ thì tôi chỉ học một ít tiếng Nga, có điều cũng chỉ là trình độ hạng gà, về sau Liên Xô xét lại thì còn hoàn toàn bỏ luôn. Nhưng bố mẹ Đinh Tư Điềm từng du học ở Liên Xô, nên trình độ tiếng Nga của cô rất khá. Còn nếu mấy chứ tiếng nước ngoài trên tấm sắt đó mà là tiếng Anh tiếng Mỹ thì chúng tôi đành chịu. Từ năm 64, đã có một số trường cũng dạy tiếng Anh, nhưng chẳng theo hệ thống gì, mà chỉ học một số câu ngắn, chẳng hạn như: vạn thọ vô cương, vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế..., thời đó trường chúng tôi học đều không có môn này.
Nhưng Đinh Tư Điềm lại nói một cách khẳng định, đó tuyệt đối không phải tiếng Nga, tiếng Nga có một số chữ cái rất khác với chữ cái tiếng Anh, điểm này thì cô vẫn nhìn ra được. Lúc bấy giờ, đương lúc quan hệ Trung Xô rất căng thẳng, ý thức chuẩn bị chiến tranh của ai nấy đều rất mạnh mẽ, vừa nhắc đến ngoại ngữ, thậm chí còn hoài nghi bên trong bức tường sắt có bom, nhưng nghĩ kỹ hơn, lại cảm thấy chuyện này không có khả năng lắm.
Không phải Liên Xô thì có khả năng là Đế quốc Mỹ rồi, hồi trước trong nhà tôi cũng có một ít chiến lợi phẩm thu được trên chiến trường kháng Mỹ viện Triều, có bình rượu Tây, hộp thuốc, thìa bằng thép không gỉ…, đều là những thứ tạp nhạp, vì vậy trình độ tiếng Anh của tôi chỉ dừng lại ở ba chữ “USA” mà thôi.
Tuyền béo đột nhiên nảy ra ý tưởng lạ: “Cái thời Thế chiến thứ Hai ấy, Nhật Bản với Đức là đồng minh, mấy cái chữ này có thể là tiếng Đức không? Cũng có khả năng là vật tư của Mỹ mà quân đội Nhật cướp được trên chiến trường Thái Bình Dương?”
Tôi nói với Tuyền béo: “Tiếng Đức thế nào cậu có biết không?” Tuyền béo nói: “Thì tiếng Mỹ chúng ta cũng có biết đâu, vì vậy tôi nghĩ chỉ cần không phải là tiếng Nga và tiếng Nhật, thì nó là tiếng nào cũng chẳng quan trọng nữa, đằng nào thì chúng ta cũng có biết quái đâu.”
Lời của Tuyền béo đã cho tôi một số gợi ý, nhưng bên trong tòa nhà của người Nhật xây lại có chôn giấu một khối sắt có in chữ Tây, khối sắt này dùng để làm gì? Tại sao lại chôn bên trong tường? Hoàn toàn chẳng có đầu mối gì, càng nghĩ càng thấy rối bung rối bét lên.
Lúc này Đinh Tư Điềm lại nói với tôi: “Đốt thêm một que diêm được không? Chúng ta xem lại lần nữa.” Tôi cũng đang có ý này, liền chụm đầu vào chỗ cái hốc trên tường, lấy ra một que diêm quẹt lên, rồi lại dùng bàn tay khum khum che, để phòng ngọn tửa yếu ớt bị hơi thở của mọi người làm tắt phụt đi. Ánh sáng vừa lóe lên, vách sắt bên trong liền lập tức hiển hiện lên trước mắt.
Lần này tuy ánh sáng rất yếu ớt, nhưng mọi người đều quan sát rất kỹ càng, cuối cùng cũng có thêm một phát hiện, vừa nãy chỉ để ý đến những chữ kỳ quái trên tấm sắt mà không lưu ý thấy rằng phía sau hai lớp gạch này không phải là nguyên một tấm sắt khổng lồ, mà là một cái nắp có thể kéo mở ra được, giống như một cánh cửa sắt thấp tè vậy. Vừa nãy Tuyền béo gạt bừa cả đống gạch xuống, vẫn còn vài viên chưa bị hất ra hẳn, phần rìa mép của cái nắp cũng không lộ hẳn ra ngoài, cả phần tay cầm đúc liền với nó cũng bị mấy viên gạch còn sót che mất.
Phát hiện này khiến cả bọn đều thở mạnh, que diêm tắt phụt. Tuyền béo lần mò trong bóng tối dỡ hết những viên gạch còn lại. Trong khi ấy, Đinh Tư Điềm hỏi tôi: “Bát Nhất này, thì ra đây là một cái nắp có thể đóng mở được, trông như một cánh cửa sắt ấy nhỉ, nhưng nếu là cửa thì có vẻ hơi nhỏ một chút, phải khom người mới chui vào được. Nhưng nếu không phải là cửa thì là cái gì, có tác dụng gì nhỉ?”
Lão Dương Bì chen miệng vào: “Tư Điềm ơi là Tư Điềm, cháu là con gái mà sao tò mò thế vậy? Lão già đây sống hơn nửa đời người rồi cũng chưa gặp phải thứ gì kỳ quái như thế, lão thấy phía sau bức tường sắt này nhất định không phải đất lành, bằng không sao mà lại giấu kỹ như thế? Mở nó ra chỉ sợ sẽ thả lũ ác quỷ ra mất cũng không chừng? Tạo nghiệt, tạo nghiệt đó, không hiểu đời trước đã đắc tội với thần tiên ở đâu...”
Tôi bèn lựa lời khuyên giải lão Dương Bì, nói rằng trên đời này vốn chẳng có ma quỷ gì hết, toàn là do con người tự tưởng tượng ra đấy thôi, những điều xảy ra trong tòa nhà này tuy rất kỳ quái, nhưng cháu tin rằng vạn sự trên đời đều có căn nguyên, chẳng qua chúng ta mới chỉ nhìn thấy một góc mà chưa thấy toàn cục, vì vậy mới là người trong cuộc mê chứ không phải người ngoài cuộc sáng, chúng ta không thể cứ nhắm mắt chờ chết ở đây được, cháu thấy cầu thần khấn Phật cũng chẳng có ích gì đâu, đợi lát nữa nếu mở được cái nắp bằng sắt này ra, ngộ nhỡ có xảy ra chuyện gì thì để cháu với Tuyền béo đảm đương hết.
Lão Dương Bì nói: “Lão đã già ngần này tuổi đầu rồi, còn sợ gì chứ, chỉ lo cho con bé Tư Điềm, ai dà... cả đời này lão đều an phận thủ thường, tuy không cắt tóc cạo đầu nhưng cũng coi như là để tóc tu hành, sao chuyện không may cứ đổ hết lên đầu lão thế này...” Ông nói được nửa chừng liền không nói nữa, tôi đoán ông già nghĩ đến chuyện cho dù có trở về được, thì cũng không có cách nào ăn nói với cấp trên về đám bò ngựa bị mất tích, trong lòng hẳn là đang cay đắng lắm. Tôi phải làm sao mới nghĩ ra cách giúp ông già và Đinh Tư Điềm bớt phần trách nhiệm này đi đây?
Trong lúc bọn tôi nói chuyện, Tuyền béo đã dỡ hết số gạch lỏng lẻo, giờ chỉ còn lại phần tường được trét xi măng đặc kín. Tôi hỏi cậu ta: “Cái nắp này có mở ra được không?” Tuyền béo đưa tay sờ thử rồi gật gật đầu: “Chắc tám chín phần là mở được, không có chốt khóa, cũng không hàn chặt vào.”
Tôi rút thanh đao ra, dặn Đinh Tư Điềm chuẩn bị quẹt diêm chiếu sáng để nhìn rõ xem phía sau cái nắp bằng sắt này rốt cuộc là chứ gì. Thấy mọi thứ đều đã sẵn sắng, tôi liền vỗ vỗ lên vai Tuyền béo, cậu ta nhận được tín hiệu, bèn giơ chân đạp lên tường lấy sức, hai tay kéo mạnh tay nắm ở mép cái nắp nặng trình trịch. Trong bóng tối vang lên những tiếng “cạch cạch cạch” nặng nề, liền ngay sau đó, một mùi nồng nặc xộc lên. Thứ mùi này chỉ ngửi một chút đã thấy buồn nôn, muốn khó ngửi thế nào thì có khó ngửi thế ấy, giống như thể khói than và dầu mỡ trộn lại với nhau xông thẳng vào lỗ mũi vậy. Bọn chúng tôi vội vàng bịt chặt mũi lại.
Tôi lắng nghe động tĩnh, vội thấp giọng nói với Đinh Tư Điềm: “Thắp sáng.” Đinh Tư Điềm lập tức quẹt một que diêm, ánh lửa lóe lên, phía đằng sau cái nắp vừa được kéo nhích ra, là một tầng gạch đá dày hơn một mét, sâu bên trong nữa là một giếng thẳng hình trụ hướng lên phía trên, trên không thấy trời, dưới không thấy đất. Mặt phía bên trong của ống hình trụ này đều là một lớp muội than dày cộm đen sì, tựa như khói hun quanh năm đóng két lại. Tôi lấy khăn quàng cổ của Đinh Tư Điềm bịt chặt mũi, chui vào xem thử, chỉ thấy bên dưới tối om om chẳng trông thấy gì cả, bên trên thì có một mảng mờ mờ ánh sao mông lung, tựa hồ như trên nóc nhà có một ô cửa sổ trời. Giếng thẳng này rất hẹp, nếu dùng tay chân chống vào vách bên trong, phỏng chừng có thể nhích dần lên đến vị trí cửa sổ trời phía trên kia.
Tôi vừa rút ra, Tuyền béo cũng chui vào ngó thử, lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm liền hỏi tôi phía sau cái nắp bằng sắt ấy là nơi nào. Tôi không chắc chắn lắm, nhưng cũng trả lời: “Tôi thấy hình như... là ống khói của một cái lò rất lớn.” Lão Dương Bì chưa từng thấy cái lò nào lớn như thế cả nên có vẻ không tin lắm, tôi bèn giải thích thêm: “Năm đó cháu và Tuyền béo cùng với Tư Điềm đi khắp đất nước, có một lần mải tham quan chiến khu cách mạng, trải nghiệm tinh thần cách mạng đến nỗi cả ngày chẳng ăn uống gì, lúc về đến nơi tập kết thì cũng đã quá giờ cơm mất rồi. Nhưng hôm sau bọn cháu còn phải làm cách mạng nữa, nên không thể để bụng đói được, vậy là Tuyền béo bèn đi trộm một con lợn con trong chuồng của bà con nông dân, cháu phụ trách bỏ con lợn ấy vào lò gạch đang đốt, định làm món lợn sữa quay. Khổ nỗi hồi ấy có biết là nhiệt độ trong lò thế nào đâu, kết quả là làm con lợn béo múp míp cháy hết thành than, về sau bà con dân làng kéo nhau đến đuổi bắt, bọn cháu liền giở kế địch tiến ta lùi, trốn vào bên trong ống khói của một lò gạch bỏ hoang đợi đến khi trời sáng mới không bị quần chúng cách mạng truy cứu tội danh trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa đấy.”
Chuyện lần đó khiến chúng tôi có ấn tượng trực quan rất sâu sắc với các loại ống khói và lò lửa, cả đời này chắc cũng không thể nào quên được. Vừa nãy tôi lấy tay quẹt một chút lên ống khói đằng sau cái nắp sắt ấy, thử vê vê, thấy dinh dính như là khói dầu. Bên dưới ống này khẳng định là một cái lò lửa khổng lồ, bao nhiêu năm rồi không sử dụng, tại sao vẫn còn dính nhơm nhớp thế này? Rồi lại cả thứ mùi kinh tởm khiến người ta muốn nôn mửa đó nữa...
Một ý nghĩ chẳng lành nổi lên trong đầu tôi, đây rất có thể là lò đốt xác dùng khi hỏa táng. Dù không phải để đốt xác người, thì ít nhất cũng từng thiêu đốt vô số động vật, nhiệt độ cao và khói nồng đưa dầu mỡ động vật lên ống khói, sau khi nguội đi đông cứng lại liền hóa thành chất nhơm nhớp như bây giờ. Bởi thế, trải qua nhiều năm mà lớp mỡ này vẫn không mất đi, cái nắp sau bức tường ở lầu hai này cũng không giống như nắp lò, mà chỉ là cửa lối thông dùng để làm sạch ống khói phòng ngừa tắc nghẽn mà thôi. Chỉ có những lò hỏa táng kiểu cũ mới cần làm vậy, vì mỡ bám trong ống khói phải dùng nhân công mới làm sạch được. Nghe nói sau khi dùng khí độc sát hại hàng loạt người Do Thái, bọn Đức Quốc xã thường dùng lò thiêu để xử lý xác chết, có phải người Nhật cũng nhập khẩu thiết bị này của Đức để hủy thi diệt tích không nhỉ? Điều chủ yếu nhất thì chúng tôi vẫn chưa làm rõ được, nếu đây đúng là một cái lò thiêu lớn, vậy thì tại sao phải ngụy trang kỹ lưỡng, rồi bít kín mít lại như thế? Sợ rằng nguyên nhân bên trong tuyệt đối không chỉ đơn giản là để che tai che mắt người đời thôi đâu.
Vừa nghĩ rằng đây có thể là cái lò đã thiêu vô số cái xác, tôi suýt chút nữa thì đã ọe hết đống thịt chuột nướng ăn hồi tối ra, vội vàng quệt hết chỗ dầu mỡ đen sì dính trên tay vào quần áo. Nhưng muốn thoát khỏi chốn này, nhất thiết phải có người trèo lên qua đường ống khói của cái lò đốt xác, mà lại không thể dùng diêm chiếu sáng để đề phòng trong ống khói chẳng may còn sót lại vật gì dễ cháy, bằng không thì đúng là tự châm lửa đốt mình. Còn một cách nữa là lần mò xuống hầm ngầm, có điều dưới ấy chắc là một cái lò lớn bằng sắt thép, chưa chắc đã có đường ra, hơn nữa bằng vào mấy que diêm còn lại mà đi xuống hầm ngầm thì cũng không được khả thi cho lắm.
Tôi nói ý định này với mấy người còn lại, Tuyền béo lập tức phản đối: “Không được, thế này quá là manh động, tôi bảo chứ, leo lên khó lắm đấy. Tuy nói là sớm muộn gì chúng ta cũng phải thoát ra khỏi cái lò này, nhưng cảm giác ra khỏi đây vẫn còn sống với bị cháy thành than khác nhau nhiều lắm đấy nhé. Cái đường này vốn không phải để cho người sống dùng mà, với lại bên trong ống khói tích một lớp mỡ dày tướng như thế, leo lên chắc chắn sẽ trơn tuột rơi xuống. Mấy người có lẽ thấy chẳng sao hết, cùng lắm là ngã vào bụng lò, dù chết hay tàn tật gì thì cũng chẳng sao, nhưng ngộ nhỡ tôi đây kẹt ở trên đó, muốn lên không được muốn xuống cũng chẳng xong, chết cứng ở đấy thì chẳng phải là khổ sở lắm sao? Chết cái kiểu uất ức ấy tôi đây không chịu nổi đâu, mà sợ rằng từ cổ chí kim đều chưa có tiền lệ nào như thế cả, Tuyền béo tôi đây cũng không muốn phá cái kỷ lục thế giới này đâu.”
Tôi lắc đầu nói: “Cậu cứ yên chí, đâu có đó, thịt chó có mắm tôm. Nhất thiết cần phải giải quyết vấn đề trước mắt, giờ cũng không còn cách nào khác cả đâu. Không phải tôi muốn thể hiện chủ nghĩa anh hùng cá nhân, nhưng tôi thấy việc đã đến nước này thì chỉ còn cách mạo hiểm thử một lần thôi. Mọi người cứ ở đây đợi, để tôi đơn thân độc mã leo len trên ấy, rồi tìm cách mở cửa sắt từ bên ngoài cho cả bọn thoát ra, chẳng may mà rơi xuống... thì coi như tôi đi trước một bước vậy, chúng ta hẹn gặp ở kiếp lai sinh.”
Đinh Tư Điềm vội bám chặt cánh tay tôi khuyên giải: “Bạn đừng đi, ống khói của lò thiêu xác làm sao mà leo lên được? Dù không ngã chết thì muội than với khói dầu đóng két bên trong cũng đủ khiến người ta sặc chết rồi, hay là chúng ta nghĩ cách khác đi.”
Tôi cũng chỉ cậy vào một chút nhiệt huyết bừng bừng nhất thời, sợ rằng do dự một chút rồi sẽ lại không dám mạo hiểm nữa, người mạnh là do cương quyết, ngựa khỏe là bởi tay roi. Đã đến thời khắc quyết định, không thể rụt rè như đàn bà được, vậy là tôi mặc cho Đinh Tư Điềm khuyên ngăn, nhất quyết chui vào, lấy khăn quàng bịt chặt mũi miệng, ngó đầu ngước nhìn lên trên. Từ chỗ này lên đến lối ra, chỉ cách khoảng một tầng rưỡi, không xa lắm, thêm nữa là tôi cũng khá tự tin với khả năng leo trèo của mình, bèn nghiến răng lách mình chui vào trong ống khói.
Ống khói này tuy lớn, nhưng đấy chỉ là nói một cách tương đối thôi, chứ thực tế thì nhỏ hơn ống khói ở lò hỏa táng nhiều, trên đầu có ánh sao mờ mịt mông lung. Nhìn thấy miệng ống khói như cái cửa sổ trời ở bên trên, tôi lại có thêm may phần tự tin, bèn dùng vỏ đao cạo lên vách, nhanh chóng làm sạch một vòng muội than và dầu mỡ, rồi đạp chân lên trên để thử lực ma sát. Bên trong ống khói này khá là hẹp, nếu chống lưng rồi bò nhích dần lên thì cũng không phải khó khăn cho lắm.
Khốn nỗi có những chuyện thoạt nhìn tưởng dễ đến lúc làm mới thấy khó, mới cạo được một tầng cặn dầu, trong ống khói đã sặc sụa cay sè đến nỗi tôi không mở nổi mắt ra nữa, mũi bịt chặt rồi mà vẫn thấy choáng váng kinh khủng, vả lại vách bên trong cứ trơn tuồn tuột, có sức cũng không giở ra hết được. Tôi phải vừa chống người vào tường để không rơi xuống, vừa dùng vỏ đao cạo lớp cặn dầu, thực sự là vô cùng gian nan, mới nhích lên được nửa bước thì cánh tay và cả bắp chân đã muốn run lên lẩy bẩy rồi.
Tôi phỏng chừng mình không thể tiếp tục, đành buộc lòng chuẩn bị bỏ cuộc, tính rằng ngẩng đầu lên nhìn một cái rồi tuột xuống, chẳng ngờ vừa ngước mắt lên, liền trông thấy ở miệng ống khói từ lúc nào đã xuất hiện một quầng sáng màu đỏ sậm. Mới đầu tôi tưởng mình hoa mắt, bèn nhắm mắt lại lắc mạnh đầu mấy cái, rồi ngước lên nhìn lại lần nữa, chỉ thấy một đốm sáng như ngọn đuốc, chớp lóa biến ảo tựa như ngọn lửa ma trơi đang phiêu hốt lơ lửng phía trên đầu.
Thấy cảnh đó, tôi bỗng sực nhớ thường nghe người già kể, trong đêm tối tăm, nếu không có chút đèn lửa nào, bỗng đột nhiên thấy một quầng sáng lẻ loi thì đấy tuyệt trăm phần trăm là lửa ma chứ không phải ánh đèn, chính thế nên mới có câu: “Trăng sáng chớ độc hành, đèn lẻ ắt quỷ ma.” Ý nghĩ ấy vừa lóe lên trong đầu, đốm lửa ma trên miệng ống khói liền bay xuống dưới, tôi thầm hoảng hốt, mả cha nhà nó, thế này không phải là ném đá xuống giếng à, sao chuyện tà quái gì cũng đổ hết lên đầu chúng tôi thế này? Tay chân đang chống đỡ cơ thể trượt đi, cả người tôi liền mất trọng tâm, rơi tụt xuống dưới.
Tác giả :
Thiên Hạ Bá Xướng