Luật Sư Nhí
Chương 13
Sau một cuộc chia tay dài dòng, Theodore trở lại mặt đất. Cậu gần như phi trên những bậc thang để lên tầng hai, rồi lao lên ban công, gặp Ike lúc đó đang ngồi ở hàng ghế đầu. Cậu trườn tới bên ông. Đã gần 5 giờ chiều.
Nhân chứng hiện giờ là nhân viên hãng bảo hiểm, người đã lập hợp đồng bảo hiểm triệu đô cho ông bà Duffy hơn hai năm trước. Clifford Nance đang từ từ dẫn dắt người này trình bày về các điều khoản liên quan đến cặp vợ chồng. Ông ta thận trọng nhấn mạnh họ có hai hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, một cho bà Myra Duffy và một cho ông Pete Duffy. Cả hai đều ở mức một triệu đô. Cả hai đều thay thế cho điều khoản lúc đó là sẽ thanh toán năm trăm nghìn đô la trong trường hợp một trong hai người chết. Không có gì bất thường ở giao dịch này. Nhân viên bảo hiểm chứng thực đây là hợp đồng khá điển hình - một cặp vợ chồng có thể khôn ngoan nâng mức bảo hiểm để bảo hộ cho nhau trong trường hợp xảy ra tử vong bất ngờ. Cả ông và bà Duffỳ hiểu rõ việc họ làm và không hề ngần ngại nâng mức bảo hiểm.
Cho đến khi luật sư Clifford Nance hoàn tất phần thẩm vấn trực tiếp, con số bảo hiểm một triệu đô la nghe như không còn chút gì đáng ngờ nữa. Jack Hogan tung ra vài đòn trong phần thẩm vấn chéo, nhưng không đòn nào trúng đích. Khi người nhân viên bảo hiểm được thẩm vấn xong, Thẩm phán Gantry quyết định cho kết thúc phiên xử ngày hôm đó.
Theodore quan sát bồi thẩm đoàn sửa soạn rời phòng xử trong lúc mọi người vẫn chờ; rồi cậu quan sát đội bên bị túm tụm quanh Pete Duffy, nở những nụ cười tự mãn, thậm chí bắt tay nhau mừng cho một ngày hiệu quả nữa trước tòa. Họ đều rất tự tin. Omar Cheepe không ở đó.
“Ta không muốn nói chuyện ở quanh đây,” Ike hạ giọng. “Cháu chạy qua văn phòng được không?”
“Được chứ ạ.”
“Ngay bây giờ?”
“Cháu sẽ đi ngay sau bác.”
Mười phút sau hai bác cháu đã có mặt ở văn phòng Ike với cánh cửa khóa chặt. Ike mở chiếc tủ lạnh nhỏ đặt ngay sau bàn làm việc “Ta có Budweiser và Sprite.”
“Budweiser ạ,” Theodore nói. Ike đưa cho cậu một lon Sprite rồi giật nắp lon Bud cho mình.
“Cháu không có nhiều lựa chọn” - ông nói, rồi nhấp một ngụm.
“Cháu cũng đoán vậy.”
“Trước tiên, cháu có thể không làm gì. Mai là thứ Sáu, có vẻ bên bị sẽ nghỉ ngơi vào giữa chiều. Có tin đồn Pete Duffy sẽ ra thẩm vấn, và sau cùng được tha bổng. Thậm chí, tới cuối chiều là đến phần bồi thẩm đoàn ra quyết định. Nếu cháu không làm gì, thì bồi thẩm đoàn sẽ lui về phòng bồi thẩm, cân nhắc phán quyết của mình. Họ có thể cho ông ta có tội, hoặc không, hoặc số phiếu bằng nhau và không thể đạt được phán quyết. Một bồi thẩm đoàn không tuyên án.”
Theodore hiểu hết những điều này. Cậu đã theo sát nhiều vụ xử hơn Ike trong vòng năm năm qua.
Ông bác tiếp tục: “Thứ hai, cháu có thể đến gặp nhân chứng bí ẩn đó, thuyết phục anh ta xuất đầu lộ diện ngay lập tức. Ta không chắc Thẩm phán Gantry sẽ làm gì khi đối mặt với tình huống thẩm vấn kiểu này. Ta chỉ biết chắc ông ấy chưa bao giờ rơi vào tình huống như vậy, nhưng ông ấy là một thẩm phán tốt và sẽ biết làm điều đúng đắn.”
“Anh chàng này không có ý định xuất đầu lộ diện. Anh ta sợ chết đi được.”
“OK, điều này dẫn cháu đến lựa chọn thứ ba. Cháu có thể báo cho thẩm phán biết mà không tiết lộ danh tính của nhân chứng…”
“Cháu có biết tên anh ta đâu.”
“Nhưng cháu biết anh ta là ai, phải không?”
“Vâng, phải.”
“Cháu biết anh ta sống ở đâu không?”
“Một khu chung chung. Cháu không rõ địa chỉ.”
“Cháu biết anh ta làm ở đâu không?”
“Có thể ạ.”
Ike vừa nhấp một ngụm nữa vừa nhìn cậu cháu. Ông lấy mu tay quệt mép. “Như ta vừa nói, không tiết lộ danh tính anh ta, chỉ giải thích với thẩm phán rằng có một nhân chứng quan trọng không có mặt trong phiên xét xử và sự vắng mặt của anh ta có thể dẫn đến lời tuyên án sai. Tất nhiên, thẩm phán sẽ cần biết chi tiết: Anh ta là ai? Anh ta làm ở đâu? Tại sao anh ta lại là nhân chứng? Chính xác thì anh ta đã nhìn thấy gì? Vân vân. Ta nghi là thẩm phán Gantry sẽ có cả nghìn câu hỏi mà nếu cháu không trả lời, ông ấy có thể sẽ nổi đóa.”
“Cháu chả thích bất kỳ cái nào trong ba sự chọn lựa này,” Theodore nói.
“Ta cũng vậy.”
“Vậy cháu phải làm gì đây ạ, Ike?”
“Cứ mặc kệ nó thế, Theodore. Đừng nhúng mũi vào cái mớ bùng nhùng này. Đó không phải chỗ cho trẻ con. Đó cũng không phải chỗ cho người lớn. Bồi thẩm đoàn sẽ đưa ra một quyết định sai, nhưng dựa trên chứng cứ, cháu không thể trách họ được. Không phải lúc nào hệ thống này cũng hiệu quả, cháu hiểu mà. Hãy nhìn những con người vô tội đã phải lên ghế điện. Hãy nhìn những kẻ có tội được tha bổng. Đâu cũng có sai sót, Theodore ạ. Hãy mặc kệ nó thế.”
“Nhưng sai lầm này vẫn chưa xảy ra, vẫn có thể ngăn chặn nó.”
“Ta không chắc liệu có ngăn chặn được nó hay không. Rất có thể Thẩm phán Gantry sẽ không cho dừng một phiên tòa lớn gần như sắp kết thúc chỉ vì nghe nói có một nhân chứng tiềm năng. Như vậy là đòi hỏi quá nhiều, Theodore.”
Rất có thể như thế, Theodore buộc lòng phải thừa nhận. “Cháu nghĩ bác nói đúng.”
“Tất nhiên ta nói đúng, Theodore. Cháu chỉ là một cậu nhóc. Đừng xía vào làm gì.”
“OK, Ike.”
Hai bác cháu nhìn nhau, im lặng một lúc lâu, người này chờ người kia nói tiếp. Cuối cùng, Ike lên tiếng, “Hãy hứa với ta cháu sẽ không làm điều gì dại dột.”
“Chẳng hạn thế nào ạ?”
“Như tìm gặp Thẩm phán. Ta biết hai người là bạn.” Lại im lặng.
“Hãy hứa đi, Theodore.”
“Cháu hứa sẽ không làm gì trước khi trao đổi với bác.”
“Được rồi.”
Theodore đứng bật dậy. “Cháu phải đi đây. Cháu có nhiều bài lắm.”
“Tiếng Tây Ban Nha sao rồi?”
“Tuyệt ạ.”
“Ta nghe nói giáo viên của cháu thực sự đặc biệt. Quý cô, tên gì ấy nhỉ?”
“Cô Monique. Cô ấy rất giỏi. Sao bác lại biết…?”
“Ta vẫn để ý, Theodore. Ta không phải gã ẩn dật dở người như lắm kẻ vẫn nghĩ đâu. Họ đã đưa tiếng Trung vào trường học chưa vậy?”
“Có lẽ ở cấp trung học phổ thông ạ.”
“Ta nghĩ cháu nên bắt đầu học tiếng Trung, tự học. Đó là ngôn ngữ của tương lai đấy, Theodore.”
Một lần nữa, Theodore lại khó chịu vì ông bác tự tiện cho lời khuyên về những việc không đâu hoặc dù không được yêu cầu hỏi. “Cháu sẽ xem xem thế nào, Ike. Còn ngay lúc này cháu hơi quá tải.”
“Mai có thể ta sẽ lại theo dõi phiên tòa,” Ike nói. “Hôm nay ta thấy cũng hay hay. Nhắn tin nhé.” “Vâng, hẳn rồi, Ike.” o O o
Boone & Boone khá yên ắng khi Theodore xuất hiện, muộn hơn 6 giờ mấy phút. Elsa, Vince và Dorothy đã về từ lâu. Bà Boone đã ở nhà, chắc chắn lại đang lướt qua vài trang của một cuốn tiểu thuyết dở tệ khác. Câu lạc bộ đọc sách của bà sẽ tập trung lúc 7 giờ, tại nhà bà Esther Guthridge, ăn tối, uống rượu vang và thảo luận về mọi thứ trên trời dưới bể trừ cuốn sách của tháng. Câu lạc bộ có tất cả mười phụ nữ, họ thay phiên nhau chọn đầu sách. Theodore không thể nhớ cuốn sách mẹ cậu thích gần đây nhất là cuốn nào, kể cả đó là cuốn bà đề cử. Tháng nào bà cũng bị bắt gặp đang ca thán về cuốn sách mà mình sắp phải đọc. Có vẻ như đây là một cách khá lạ lùng để điều hành câu lạc bộ, ít nhất là theo suy nghĩ của Theodore.
Ông Woods Boone đang nhét đồ vào cặp táp thì Theodore bước vào văn phòng trên tầng hai.
Theodore thường thắc mắc vì sao ngày nào bố cũng tống đầy hồ sơ và giấy tờ vào cặp, rồi tha tất về nhà như thể ông sẽ làm việc đến tận nửa đêm. Mà ông thì có làm vậy đâu. Ông không bao giờ làm việc tại nhà, không bao giờ đụng đến chiếc cặp, mà luôn đặt nó dưới chân bàn trong sảnh gần cửa trước. Và nó sẽ nằm đó cả đêm, cho đến sáng sớm hôm sau khi ông Boone rời nhà đi ăn sáng, rồi đến văn phòng, nơi ông lại lôi tất tật ra, quăng mọi thứ trở lại cái bàn làm việc bừa bộn kinh khủng của mình. Theodore ngờ rằng mấy thứ trong chiếc cặp ấy ngày nào cũng giống ngày nào - vẫn những cuốn sách ấy, những hồ sơ ấy, những giấy tờ ấy.
Theodore cũng để ý thấy các luật sư hiếm khi đi đâu mà không mang theo cặp. Có lẽ trừ đi ăn trưa. Mẹ cậu cũng lôi cặp về nhà, nhưng thỉnh thoảng còn mở ra đọc vài ba thứ trong đó.
“Ở trường ổn cả chứ?” ông Boone lại hỏi.
“Tuyệt ạ.”
“Vậy tốt. Này con, Theodore, tối nay mẹ đến câu lạc bộ đọc sách rồi. Bố sẽ ghé qua chỗ Thẩm phán Plankmore một lúc. Ông già ấy đang héo hắt dần, bố cần ngồi với ông ấy vài giờ. Chắc chẳng bao lâu sẽ có đám ma.”
“Vâng, bố. Không vấn đề gì đâu.”
Thẩm phán Plankmore ít nhất đã chín mươi tuổi, đang chết dần chết mòn vì nhiều nguyên nhân. Ông là một huyền thoại trong giới luật ở Strattenburg, hầu hết các luật sư đều ngưỡng mộ ông.
“Vẫn còn ít spaghetti trong lò vi sóng cho con hâm lại.”
“Con sẽ ổn mà, bố. Đừng lo. Có lẽ con sẽ ngồi học ở đây khoảng một tiếng rồi mới về. Con sẽ lo cho Judge.”
“Con chắc chứ?”
“Không vấn đề gì mà.”
Theodore trở về văn phòng mình, lấy đồ trong ba lô ra, và khi cậu đang cố tập trung vào bài tập Hóa thì có tiếng gõ nhè nhẹ ở cửa sau. Là Julio, ngày thứ hai liên tiếp.
“Mình ra ngoài nói chuyện được không?” cậu bé hỏi, vô cùng căng thẳng.
“Cứ vào trong này đi,” Theodore nói. “Mọi người về cả rồi. Mình có thể nói trong này cũng được.”
“Cậu chắc chứ?”
“Chắc. Chuyện sao rồi?”
Julio ngồi xuống. Theodore đóng cửa.
“Mình vừa nói chuyện với anh họ mình một giờ trước. Anh ấy rất lo lắng. Hôm nay cảnh sát đến sân golf. Anh ấy nghĩ cậu đã báo với họ.”
“Thôi nào, Julio. Mình chưa kể với ai cả. Mình thề đấy.”
“Vậy sao cảnh sát lại đến đó?”
“Mình không biết. Họ có muốn nói chuyện với anh cậu không?”
“Mình nghĩ là không. Anh ấy lặn mất khi trông thấy xe cảnh sát.”
“Cảnh sát có mặc sắc phục không?”
“Mình nghĩ là có.”
“Họ có lái chiếc xe mà đương nhiên là xe cảnh sát không?”
“Mình nghĩ là có.”
“Nghe này, Julio, mình đã hứa với cậu. Mình không kể với cảnh sát. Và nếu muốn nói chuyện với anh họ cậu về vụ giết người, thì họ sẽ không mặc sắc phục đến đó, họ cũng không đi trong chiếc xe sơn chữ CẢNH SÁT trên cửa đâu. Không đời nào. Họ sẽ cử thám tử, mặc áo choàng, đeo cà vạt và đi xe không biển hiệu.”
“Cậu chắc chứ?”
“Ừ, mình chắc luôn.”
“OK.”
“Mình đoán anh họ cậu hoảng hồn khi trông thấy cảnh sát, phải không?” “Ai nhập cư trái phép mà chả thế”.
“Ý mình là ở điểm đó đấy. Bảo anh cậu cứ thoải mái đi.”
“Thoải mái? Khó mà thoải mái cho được khi ngày nào trong đời cậu cũng có thể bị bắt.”
“Cũng phải.”
Julio vẫn căng thẳng, mặt cậu vẫn đảo quanh căn phòng nhỏ như thể ai đó có thể đang lắng nghe. Một khoảng lặng dài bối rối trong lúc người này chờ người kia nói gì đó. Cuối cùng, Julio lên tiếng, “Còn cái này nữa.” “Gì vậy?”
Tay Julio run run khi mở nút áo sơ mi lôi ra một túi ni lông, loại kéo khóa. Cậu cẩn thận đặt lên bàn Theodore như thể đó là một món quà cậu không bao giờ muốn động đến. Trong túi có hai vật gì đó, màu trắng, có lót bông và hơi rách.
Đôi găng đánh golf.
“Anh ấy đưa cho mình cái này,” cậu nói. “Hai chiếc găng tay đánh golf đeo trên tay người đàn ông anh ấy đã thấy đi vào ngôi nhà có người phụ nữ bị giết. Một chiếc trái, một chiếc phải. Chiếc tay phải còn mới. Chiếc tay trái đã dùng rồi.”
Theodore trố mắt nhìn đôi găng tay trong túi ni lông, nhưng không nhúc nhích nổi, một lúc sau cậu mới cất được lời. “Anh ấy tìm thấy ở…?”
“Sau khi ra khỏi nhà, người đó tháo găng tay ra rồi bỏ vào túi đựng đồ chơi golf của mình. Lát sau, tại điểm phát bóng số mười bốn, ông ta bỏ đôi găng vào thùng rác ngay cạnh bình nước lạnh. Công việc của anh mình là dọn thùng rác hai lần một ngày. Anh ấy đã thấy cái ông đó, và nghĩ thật lạ một đôi găng tốt như vậy sao ông ta lại bỏ đi.”
“Ông ta có thấy anh ấy không?”
“Mình nghĩ là không. Nếu thấy thì chắc ông ta đã không bỏ lại đôi găng.”
“Và đấy đúng là người đàn ông đang bị xử tại tòa?”
“Ừ, mình nghĩ vậy. Anh họ mình khá đoan chắc. Anh ấy đã thấy mặt ông ta trên ti vi.”
“Sao anh ấy lại giữ lại đôi găng?”
“Mấy người như anh ấy vẫn hay ngó nghiêng thùng rác lục kiếm đồ mà. Anh họ mình lấy được đôi găng, sau mấy hôm thì bỗng nghi ngờ. Mình đoán vì có nhiều tin đồn khắp khu vực sân golf, người ta nói đến người phụ nữ bị sát hại. Nên anh ấy mới giấu đôi găng tay đi. Giờ thì anh ấy sợ và tưởng cảnh sát đang truy tìm mình. Nhỡ họ tìm thấy anh ấy với đôi găng tay, biết đâu đấy? Anh ấy sợ sẽ gặp rắc rối.”
“Cảnh sát có truy tìm anh ấy đâu.”
“Để mình báo với anh ấy như vậy.”
Im lặng một hồi lâu, rồi Theodore chỉ chỉ vào đôi găng tay, vẫn sợ phải chạm vào nó. “Giờ mình làm gì với cái của này?”
“Mình không giữ đâu đấy.”
“Thế mình mới phải lo.”
“Cậu biết phải làm gì mà, phải không Theodore?”
“Mình chưa biết phải làm sao. Ngay lúc này, mình đang tự hỏi làm sao mình lại rơi vào cái mớ bòng bong này.”
“Cậu không thể mang chúng đến đồn cảnh sát được sao?”
Theodore cắn môi, ngăn mình không thốt ra một đôi câu nhạo báng, hoặc cộc cằn, hoặc cả hai. Làm sao có thể mong chờ Julio hiểu được hết vấn đề? Được chứ, Julio, mình chỉ việc tạt qua đồn cảnh sát, trao cho cảnh sát viên tiếp dân túi ni lông đựng hai chiếc găng tay, giải thích chúng là của người đàn ông đáng kính hiện đang hầu tòa về tội giết vợ, và chắc chắn ông ta đã giết vợ vì cháu đây, Theodore Boone, biết rõ sự thật ấy, bởi nhờ một lý do nào đó cháu đây đã được nói chuyện với nhân chứng quan trọng mà không ai biết đến, và đề nghị Cô Cảnh Sát hãy chuyển những thứ này cho điều tra viên phòng Án mạng, nhưng đừng nói cho chú ấy biết những thứ này từ đâu ra.
Tội nghiệp Julio.
“Không, như vậy đâu được, Julio. Cảnh sát sẽ đặt ra rất nhiều câu hỏi và anh cậu sẽ gặp rắc rối. Tốt nhất là cậu phải giữ mấy chiếc găng tay này, còn mình sẽ giả vờ chưa bao giờ trông thấy chúng.”
“Theodore, không đời nào. Giờ chúng thuộc về cậu.” Nói đến đấy, Julio đứng bật dậy, tóm lấy nắm đấm cửa, một chân đã thập thò ra ngoài trong lúc cậu ngoái cổ lại nói, “mà cậu cũng đã hứa không kể rồi nhé, Theodore.”
Theodore ở ngay sau cậu ta. “Nhớ rồi.”
“Cậu hứa rồi đấy nhé.”
“Hứa.”
Julio biến mất vào bóng tối.
Nhân chứng hiện giờ là nhân viên hãng bảo hiểm, người đã lập hợp đồng bảo hiểm triệu đô cho ông bà Duffy hơn hai năm trước. Clifford Nance đang từ từ dẫn dắt người này trình bày về các điều khoản liên quan đến cặp vợ chồng. Ông ta thận trọng nhấn mạnh họ có hai hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, một cho bà Myra Duffy và một cho ông Pete Duffy. Cả hai đều ở mức một triệu đô. Cả hai đều thay thế cho điều khoản lúc đó là sẽ thanh toán năm trăm nghìn đô la trong trường hợp một trong hai người chết. Không có gì bất thường ở giao dịch này. Nhân viên bảo hiểm chứng thực đây là hợp đồng khá điển hình - một cặp vợ chồng có thể khôn ngoan nâng mức bảo hiểm để bảo hộ cho nhau trong trường hợp xảy ra tử vong bất ngờ. Cả ông và bà Duffỳ hiểu rõ việc họ làm và không hề ngần ngại nâng mức bảo hiểm.
Cho đến khi luật sư Clifford Nance hoàn tất phần thẩm vấn trực tiếp, con số bảo hiểm một triệu đô la nghe như không còn chút gì đáng ngờ nữa. Jack Hogan tung ra vài đòn trong phần thẩm vấn chéo, nhưng không đòn nào trúng đích. Khi người nhân viên bảo hiểm được thẩm vấn xong, Thẩm phán Gantry quyết định cho kết thúc phiên xử ngày hôm đó.
Theodore quan sát bồi thẩm đoàn sửa soạn rời phòng xử trong lúc mọi người vẫn chờ; rồi cậu quan sát đội bên bị túm tụm quanh Pete Duffy, nở những nụ cười tự mãn, thậm chí bắt tay nhau mừng cho một ngày hiệu quả nữa trước tòa. Họ đều rất tự tin. Omar Cheepe không ở đó.
“Ta không muốn nói chuyện ở quanh đây,” Ike hạ giọng. “Cháu chạy qua văn phòng được không?”
“Được chứ ạ.”
“Ngay bây giờ?”
“Cháu sẽ đi ngay sau bác.”
Mười phút sau hai bác cháu đã có mặt ở văn phòng Ike với cánh cửa khóa chặt. Ike mở chiếc tủ lạnh nhỏ đặt ngay sau bàn làm việc “Ta có Budweiser và Sprite.”
“Budweiser ạ,” Theodore nói. Ike đưa cho cậu một lon Sprite rồi giật nắp lon Bud cho mình.
“Cháu không có nhiều lựa chọn” - ông nói, rồi nhấp một ngụm.
“Cháu cũng đoán vậy.”
“Trước tiên, cháu có thể không làm gì. Mai là thứ Sáu, có vẻ bên bị sẽ nghỉ ngơi vào giữa chiều. Có tin đồn Pete Duffy sẽ ra thẩm vấn, và sau cùng được tha bổng. Thậm chí, tới cuối chiều là đến phần bồi thẩm đoàn ra quyết định. Nếu cháu không làm gì, thì bồi thẩm đoàn sẽ lui về phòng bồi thẩm, cân nhắc phán quyết của mình. Họ có thể cho ông ta có tội, hoặc không, hoặc số phiếu bằng nhau và không thể đạt được phán quyết. Một bồi thẩm đoàn không tuyên án.”
Theodore hiểu hết những điều này. Cậu đã theo sát nhiều vụ xử hơn Ike trong vòng năm năm qua.
Ông bác tiếp tục: “Thứ hai, cháu có thể đến gặp nhân chứng bí ẩn đó, thuyết phục anh ta xuất đầu lộ diện ngay lập tức. Ta không chắc Thẩm phán Gantry sẽ làm gì khi đối mặt với tình huống thẩm vấn kiểu này. Ta chỉ biết chắc ông ấy chưa bao giờ rơi vào tình huống như vậy, nhưng ông ấy là một thẩm phán tốt và sẽ biết làm điều đúng đắn.”
“Anh chàng này không có ý định xuất đầu lộ diện. Anh ta sợ chết đi được.”
“OK, điều này dẫn cháu đến lựa chọn thứ ba. Cháu có thể báo cho thẩm phán biết mà không tiết lộ danh tính của nhân chứng…”
“Cháu có biết tên anh ta đâu.”
“Nhưng cháu biết anh ta là ai, phải không?”
“Vâng, phải.”
“Cháu biết anh ta sống ở đâu không?”
“Một khu chung chung. Cháu không rõ địa chỉ.”
“Cháu biết anh ta làm ở đâu không?”
“Có thể ạ.”
Ike vừa nhấp một ngụm nữa vừa nhìn cậu cháu. Ông lấy mu tay quệt mép. “Như ta vừa nói, không tiết lộ danh tính anh ta, chỉ giải thích với thẩm phán rằng có một nhân chứng quan trọng không có mặt trong phiên xét xử và sự vắng mặt của anh ta có thể dẫn đến lời tuyên án sai. Tất nhiên, thẩm phán sẽ cần biết chi tiết: Anh ta là ai? Anh ta làm ở đâu? Tại sao anh ta lại là nhân chứng? Chính xác thì anh ta đã nhìn thấy gì? Vân vân. Ta nghi là thẩm phán Gantry sẽ có cả nghìn câu hỏi mà nếu cháu không trả lời, ông ấy có thể sẽ nổi đóa.”
“Cháu chả thích bất kỳ cái nào trong ba sự chọn lựa này,” Theodore nói.
“Ta cũng vậy.”
“Vậy cháu phải làm gì đây ạ, Ike?”
“Cứ mặc kệ nó thế, Theodore. Đừng nhúng mũi vào cái mớ bùng nhùng này. Đó không phải chỗ cho trẻ con. Đó cũng không phải chỗ cho người lớn. Bồi thẩm đoàn sẽ đưa ra một quyết định sai, nhưng dựa trên chứng cứ, cháu không thể trách họ được. Không phải lúc nào hệ thống này cũng hiệu quả, cháu hiểu mà. Hãy nhìn những con người vô tội đã phải lên ghế điện. Hãy nhìn những kẻ có tội được tha bổng. Đâu cũng có sai sót, Theodore ạ. Hãy mặc kệ nó thế.”
“Nhưng sai lầm này vẫn chưa xảy ra, vẫn có thể ngăn chặn nó.”
“Ta không chắc liệu có ngăn chặn được nó hay không. Rất có thể Thẩm phán Gantry sẽ không cho dừng một phiên tòa lớn gần như sắp kết thúc chỉ vì nghe nói có một nhân chứng tiềm năng. Như vậy là đòi hỏi quá nhiều, Theodore.”
Rất có thể như thế, Theodore buộc lòng phải thừa nhận. “Cháu nghĩ bác nói đúng.”
“Tất nhiên ta nói đúng, Theodore. Cháu chỉ là một cậu nhóc. Đừng xía vào làm gì.”
“OK, Ike.”
Hai bác cháu nhìn nhau, im lặng một lúc lâu, người này chờ người kia nói tiếp. Cuối cùng, Ike lên tiếng, “Hãy hứa với ta cháu sẽ không làm điều gì dại dột.”
“Chẳng hạn thế nào ạ?”
“Như tìm gặp Thẩm phán. Ta biết hai người là bạn.” Lại im lặng.
“Hãy hứa đi, Theodore.”
“Cháu hứa sẽ không làm gì trước khi trao đổi với bác.”
“Được rồi.”
Theodore đứng bật dậy. “Cháu phải đi đây. Cháu có nhiều bài lắm.”
“Tiếng Tây Ban Nha sao rồi?”
“Tuyệt ạ.”
“Ta nghe nói giáo viên của cháu thực sự đặc biệt. Quý cô, tên gì ấy nhỉ?”
“Cô Monique. Cô ấy rất giỏi. Sao bác lại biết…?”
“Ta vẫn để ý, Theodore. Ta không phải gã ẩn dật dở người như lắm kẻ vẫn nghĩ đâu. Họ đã đưa tiếng Trung vào trường học chưa vậy?”
“Có lẽ ở cấp trung học phổ thông ạ.”
“Ta nghĩ cháu nên bắt đầu học tiếng Trung, tự học. Đó là ngôn ngữ của tương lai đấy, Theodore.”
Một lần nữa, Theodore lại khó chịu vì ông bác tự tiện cho lời khuyên về những việc không đâu hoặc dù không được yêu cầu hỏi. “Cháu sẽ xem xem thế nào, Ike. Còn ngay lúc này cháu hơi quá tải.”
“Mai có thể ta sẽ lại theo dõi phiên tòa,” Ike nói. “Hôm nay ta thấy cũng hay hay. Nhắn tin nhé.” “Vâng, hẳn rồi, Ike.” o O o
Boone & Boone khá yên ắng khi Theodore xuất hiện, muộn hơn 6 giờ mấy phút. Elsa, Vince và Dorothy đã về từ lâu. Bà Boone đã ở nhà, chắc chắn lại đang lướt qua vài trang của một cuốn tiểu thuyết dở tệ khác. Câu lạc bộ đọc sách của bà sẽ tập trung lúc 7 giờ, tại nhà bà Esther Guthridge, ăn tối, uống rượu vang và thảo luận về mọi thứ trên trời dưới bể trừ cuốn sách của tháng. Câu lạc bộ có tất cả mười phụ nữ, họ thay phiên nhau chọn đầu sách. Theodore không thể nhớ cuốn sách mẹ cậu thích gần đây nhất là cuốn nào, kể cả đó là cuốn bà đề cử. Tháng nào bà cũng bị bắt gặp đang ca thán về cuốn sách mà mình sắp phải đọc. Có vẻ như đây là một cách khá lạ lùng để điều hành câu lạc bộ, ít nhất là theo suy nghĩ của Theodore.
Ông Woods Boone đang nhét đồ vào cặp táp thì Theodore bước vào văn phòng trên tầng hai.
Theodore thường thắc mắc vì sao ngày nào bố cũng tống đầy hồ sơ và giấy tờ vào cặp, rồi tha tất về nhà như thể ông sẽ làm việc đến tận nửa đêm. Mà ông thì có làm vậy đâu. Ông không bao giờ làm việc tại nhà, không bao giờ đụng đến chiếc cặp, mà luôn đặt nó dưới chân bàn trong sảnh gần cửa trước. Và nó sẽ nằm đó cả đêm, cho đến sáng sớm hôm sau khi ông Boone rời nhà đi ăn sáng, rồi đến văn phòng, nơi ông lại lôi tất tật ra, quăng mọi thứ trở lại cái bàn làm việc bừa bộn kinh khủng của mình. Theodore ngờ rằng mấy thứ trong chiếc cặp ấy ngày nào cũng giống ngày nào - vẫn những cuốn sách ấy, những hồ sơ ấy, những giấy tờ ấy.
Theodore cũng để ý thấy các luật sư hiếm khi đi đâu mà không mang theo cặp. Có lẽ trừ đi ăn trưa. Mẹ cậu cũng lôi cặp về nhà, nhưng thỉnh thoảng còn mở ra đọc vài ba thứ trong đó.
“Ở trường ổn cả chứ?” ông Boone lại hỏi.
“Tuyệt ạ.”
“Vậy tốt. Này con, Theodore, tối nay mẹ đến câu lạc bộ đọc sách rồi. Bố sẽ ghé qua chỗ Thẩm phán Plankmore một lúc. Ông già ấy đang héo hắt dần, bố cần ngồi với ông ấy vài giờ. Chắc chẳng bao lâu sẽ có đám ma.”
“Vâng, bố. Không vấn đề gì đâu.”
Thẩm phán Plankmore ít nhất đã chín mươi tuổi, đang chết dần chết mòn vì nhiều nguyên nhân. Ông là một huyền thoại trong giới luật ở Strattenburg, hầu hết các luật sư đều ngưỡng mộ ông.
“Vẫn còn ít spaghetti trong lò vi sóng cho con hâm lại.”
“Con sẽ ổn mà, bố. Đừng lo. Có lẽ con sẽ ngồi học ở đây khoảng một tiếng rồi mới về. Con sẽ lo cho Judge.”
“Con chắc chứ?”
“Không vấn đề gì mà.”
Theodore trở về văn phòng mình, lấy đồ trong ba lô ra, và khi cậu đang cố tập trung vào bài tập Hóa thì có tiếng gõ nhè nhẹ ở cửa sau. Là Julio, ngày thứ hai liên tiếp.
“Mình ra ngoài nói chuyện được không?” cậu bé hỏi, vô cùng căng thẳng.
“Cứ vào trong này đi,” Theodore nói. “Mọi người về cả rồi. Mình có thể nói trong này cũng được.”
“Cậu chắc chứ?”
“Chắc. Chuyện sao rồi?”
Julio ngồi xuống. Theodore đóng cửa.
“Mình vừa nói chuyện với anh họ mình một giờ trước. Anh ấy rất lo lắng. Hôm nay cảnh sát đến sân golf. Anh ấy nghĩ cậu đã báo với họ.”
“Thôi nào, Julio. Mình chưa kể với ai cả. Mình thề đấy.”
“Vậy sao cảnh sát lại đến đó?”
“Mình không biết. Họ có muốn nói chuyện với anh cậu không?”
“Mình nghĩ là không. Anh ấy lặn mất khi trông thấy xe cảnh sát.”
“Cảnh sát có mặc sắc phục không?”
“Mình nghĩ là có.”
“Họ có lái chiếc xe mà đương nhiên là xe cảnh sát không?”
“Mình nghĩ là có.”
“Nghe này, Julio, mình đã hứa với cậu. Mình không kể với cảnh sát. Và nếu muốn nói chuyện với anh họ cậu về vụ giết người, thì họ sẽ không mặc sắc phục đến đó, họ cũng không đi trong chiếc xe sơn chữ CẢNH SÁT trên cửa đâu. Không đời nào. Họ sẽ cử thám tử, mặc áo choàng, đeo cà vạt và đi xe không biển hiệu.”
“Cậu chắc chứ?”
“Ừ, mình chắc luôn.”
“OK.”
“Mình đoán anh họ cậu hoảng hồn khi trông thấy cảnh sát, phải không?” “Ai nhập cư trái phép mà chả thế”.
“Ý mình là ở điểm đó đấy. Bảo anh cậu cứ thoải mái đi.”
“Thoải mái? Khó mà thoải mái cho được khi ngày nào trong đời cậu cũng có thể bị bắt.”
“Cũng phải.”
Julio vẫn căng thẳng, mặt cậu vẫn đảo quanh căn phòng nhỏ như thể ai đó có thể đang lắng nghe. Một khoảng lặng dài bối rối trong lúc người này chờ người kia nói gì đó. Cuối cùng, Julio lên tiếng, “Còn cái này nữa.” “Gì vậy?”
Tay Julio run run khi mở nút áo sơ mi lôi ra một túi ni lông, loại kéo khóa. Cậu cẩn thận đặt lên bàn Theodore như thể đó là một món quà cậu không bao giờ muốn động đến. Trong túi có hai vật gì đó, màu trắng, có lót bông và hơi rách.
Đôi găng đánh golf.
“Anh ấy đưa cho mình cái này,” cậu nói. “Hai chiếc găng tay đánh golf đeo trên tay người đàn ông anh ấy đã thấy đi vào ngôi nhà có người phụ nữ bị giết. Một chiếc trái, một chiếc phải. Chiếc tay phải còn mới. Chiếc tay trái đã dùng rồi.”
Theodore trố mắt nhìn đôi găng tay trong túi ni lông, nhưng không nhúc nhích nổi, một lúc sau cậu mới cất được lời. “Anh ấy tìm thấy ở…?”
“Sau khi ra khỏi nhà, người đó tháo găng tay ra rồi bỏ vào túi đựng đồ chơi golf của mình. Lát sau, tại điểm phát bóng số mười bốn, ông ta bỏ đôi găng vào thùng rác ngay cạnh bình nước lạnh. Công việc của anh mình là dọn thùng rác hai lần một ngày. Anh ấy đã thấy cái ông đó, và nghĩ thật lạ một đôi găng tốt như vậy sao ông ta lại bỏ đi.”
“Ông ta có thấy anh ấy không?”
“Mình nghĩ là không. Nếu thấy thì chắc ông ta đã không bỏ lại đôi găng.”
“Và đấy đúng là người đàn ông đang bị xử tại tòa?”
“Ừ, mình nghĩ vậy. Anh họ mình khá đoan chắc. Anh ấy đã thấy mặt ông ta trên ti vi.”
“Sao anh ấy lại giữ lại đôi găng?”
“Mấy người như anh ấy vẫn hay ngó nghiêng thùng rác lục kiếm đồ mà. Anh họ mình lấy được đôi găng, sau mấy hôm thì bỗng nghi ngờ. Mình đoán vì có nhiều tin đồn khắp khu vực sân golf, người ta nói đến người phụ nữ bị sát hại. Nên anh ấy mới giấu đôi găng tay đi. Giờ thì anh ấy sợ và tưởng cảnh sát đang truy tìm mình. Nhỡ họ tìm thấy anh ấy với đôi găng tay, biết đâu đấy? Anh ấy sợ sẽ gặp rắc rối.”
“Cảnh sát có truy tìm anh ấy đâu.”
“Để mình báo với anh ấy như vậy.”
Im lặng một hồi lâu, rồi Theodore chỉ chỉ vào đôi găng tay, vẫn sợ phải chạm vào nó. “Giờ mình làm gì với cái của này?”
“Mình không giữ đâu đấy.”
“Thế mình mới phải lo.”
“Cậu biết phải làm gì mà, phải không Theodore?”
“Mình chưa biết phải làm sao. Ngay lúc này, mình đang tự hỏi làm sao mình lại rơi vào cái mớ bòng bong này.”
“Cậu không thể mang chúng đến đồn cảnh sát được sao?”
Theodore cắn môi, ngăn mình không thốt ra một đôi câu nhạo báng, hoặc cộc cằn, hoặc cả hai. Làm sao có thể mong chờ Julio hiểu được hết vấn đề? Được chứ, Julio, mình chỉ việc tạt qua đồn cảnh sát, trao cho cảnh sát viên tiếp dân túi ni lông đựng hai chiếc găng tay, giải thích chúng là của người đàn ông đáng kính hiện đang hầu tòa về tội giết vợ, và chắc chắn ông ta đã giết vợ vì cháu đây, Theodore Boone, biết rõ sự thật ấy, bởi nhờ một lý do nào đó cháu đây đã được nói chuyện với nhân chứng quan trọng mà không ai biết đến, và đề nghị Cô Cảnh Sát hãy chuyển những thứ này cho điều tra viên phòng Án mạng, nhưng đừng nói cho chú ấy biết những thứ này từ đâu ra.
Tội nghiệp Julio.
“Không, như vậy đâu được, Julio. Cảnh sát sẽ đặt ra rất nhiều câu hỏi và anh cậu sẽ gặp rắc rối. Tốt nhất là cậu phải giữ mấy chiếc găng tay này, còn mình sẽ giả vờ chưa bao giờ trông thấy chúng.”
“Theodore, không đời nào. Giờ chúng thuộc về cậu.” Nói đến đấy, Julio đứng bật dậy, tóm lấy nắm đấm cửa, một chân đã thập thò ra ngoài trong lúc cậu ngoái cổ lại nói, “mà cậu cũng đã hứa không kể rồi nhé, Theodore.”
Theodore ở ngay sau cậu ta. “Nhớ rồi.”
“Cậu hứa rồi đấy nhé.”
“Hứa.”
Julio biến mất vào bóng tối.
Tác giả :
John Grisham