Lời Nguyền Lỗ Ban
Quyển 3 - Chương 22: Ngói mai rùa
- Vốn dĩ nơi tôi định dẫn mọi người tới là một vùng đất tế lễ cổ xưa. – Tùng Đắc Kim bỗng phấn chấn hẳn lên – Tổ tiên tôi từng nói ở đó mọc đầy nhân sâm, linh chi, trùng thảo, trăn ma*, là vùng bảo địa!
* Một loại nấm nhỏ mọc ô trên cây phỉ (cây trăn), hơi giống nấm hương, do có hương thơm của gỗ cây phỉ nên loại nấm này mùi vị rất thơm ngon, số lượng rất ít nên rất quý hiếm, đặc biệt là loại nấm rừng mọc tự nhiên.
- Vậy không chừng đấy chính là vùng đất tế lễ của tổ tiên người Mãn, cũng là một lối vào khác của bảo cục phong thuỷ! – Lỗ Nhất Khí có vẻ như an ủi gã.
- Cũng đúng! Chúng ta đã phải đi một vòng, con đường mà chúng ta vừa đi có hình vòng cung, đầu bên kia của khe núi chắc chắn chỉ cách hẻm rừng (đường mòn trong rừng) mà chúng ta đã đi khi chưa đổi đường chẳng bao xa! – Phó Lợi Khai vẻ như đột nhiên bừng tỉnh, bộ dạng đầy hối hận và tiếc nuối. Song chẳng ai thèm để ý tới gã. Mọi người đều biết, trong cánh rừng già Đông Bắc này, lời lẽ của phường lái gỗ là khó tin nhất.
Trời đã sập tối, của Lỗ Nhất Khí cuối cùng cũng đã bình ổn trở lại. Không hiểu tại sao, sau khi biết được mình đang ở trong cục tướng kỳ tuyệt Long bàn ngao đỉnh, tâm tư rối bời của cậu lập tức lắng dịu ngay xuống.
Đường đi trong khe núi vẫn khói sương mờ mịt, lại thêm trời chiều nhá nhem, tầm nhìn càng thêm hạn hẹp. Song dù cho con đường trước mặt có hiểm trở đến đâu, họ vẫn phải kiên định dấn bước.
Có cả thảy sáu con đường. Ngoài con đường họ vừa đi theo để leo lên núi, còn lại năm con đường. Không thể lần lượt đi hết cả năm, như vậy có tới mùa quýt sang năm cũng chưa tìm được nơi cần đến.
Họ quyết định chia hai đường đi tiếp. Nhậm Hoả Cuồng, Phó Lợi Khai, Tùng Đắc Kim đi theo một ngả; Lỗ Nhất Khí, lão mù và Quỷ Nhãn Tam đi theo một ngả. Còn Thuỷ Băng Hoa, mọi người để cô ta tự quyết định, thích đi theo nhóm nào thì đi, hoặc cũng có thể ẩn mình trên núi đợi bọn họ trở ra.
Trước khi ai theo đường nấy, Quỷ Nhãn Tam đề xuất nên dùng ám hiệu để có thể nhận ra đối phương trong sương mù. Gã Tùng Đắc Kim khù khờ lại đưa ra được một ý kiến khá hay:
- Chẳng cần ám hiệu gì đâu! Nhìn thấy nhau thì xướng tên mình lên là xong!
Phó Lợi Khai và Nhậm Hoả Cuồng chẳng nói gì thêm, lập tức quay người bước theo Tùng Đắc Kim, tiến vào trong màn sương dày đặc.
Đám Lỗ Nhất Khí sắp xếp trình tự trước sau xong xuôi mới tiến vào một con đường. Lúc này, con mắt cú đêm của Quỷ Nhãn Tam đã trở nên vô dụng, nên thính giác nhạy bén của lão mù trở thành công cụ tìm kiếm và phòng bị đắc lực nhất. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa lần lượt đi phía sau lão mù. Lỗ Nhất Khí cầm ngang khẩu súng trường Mauser trong tay, lên đạn sẵn sàng, tay phải đặt sẵn vào cò súng, gác thân súng lên trên cánh tay trái; bàn tay trái còn nắm chặt một quả lựu đạn trứng vịt, ngón giữa ngoắc sẵn vào chốt an toàn. Thuỷ Băng Hoa đi sát sau lưng Lỗ Nhất Khí, một tay rất tự nhiên túm lấy vạt áo cậu. Quỷ Nhãn Tam đi cuối cùng.
Không gian mịt mù hỗn độn nơi đây chợt khơi dậy trong Quỷ Nhãn Tam một cảm giác đã lâu lắm rồi không xuất hiện, cảm giác đã từng đeo đuổi hắn khi bị nhốt kín trong mộ thất chìm dưới rừng rậm thâm u trước khi luyện thành tựu dạ nhãn. Dường như trong bóng tối có vô số đôi mắt ma quái đang nhìn hắn chằm chằm.
Con đường tuy quanh co lắt léo, song lại không dài, khoảng ba, bốn trăm bước đã kết thúc. Trước mặt họ chính là vùng đất phẳng dài hẹp trong lòng thung lũng
- Cẩn thận, có rãnh! – Quỷ Nhãn Tam lên tiếng nhắc nhở. Không gian đã mở rộng, sương mù cũng khó tụ, bởi vậy tuy trong khe núi tối tăm xoè bàn tay không thấy ngón, nhưng con mắt của Quỷ Nhãn Tam vẫn nhìn rõ mồn một.
Lỗ Nhất Khí ngồi thụp xuống bên cạnh khe rãnh, đặt súng trường và lựu đạn xuống, lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư trong túi ra, dùng ba ngón tay đỡ lấy, bàn tay còn lại khum khum che chắn, như vậy có thể soi sáng trước mặt mình, mà người ở phía xa cũng không phát hiện ra.
Đây là một rãnh băng không rộng, chính là nơi lõm xuống ở bên rìa “mai rùa” mà họ đã quan sát được khi còn trên núi. Song rãnh băng trông rất quái lạ, vẻ như không phải do nước đọng đóng băng mà thành. Lớp băng ở phía gần Lỗ Nhất Khí rất mỏng, song càng sang bờ bên kia càng dày, khiến bề mặt băng lượn thành hình vòng cung. Đến rìa “mai rùa” thậm chí còn đóng kết thành vô số cột băng, nhũ băng với hình thù kỳ quái.
- Mặt băng này là do hơi nước bốc lên đông lại mà thành! – Lỗ Nhất Khí đã được học về sự hình thành của hiện tượng này ở trường Tây học.
- Nhìn độ dày của băng, hơi nước dưới mé cạnh! – Quỷ Nhãn Tam nói cụt lủn đến khó hiểu, nhưng cũng chẳng thèm giải thích thêm, chỉ tung một bước dài nhảy qua rãnh băng, rút phắt cây xẻng lưỡi cày, đập thẳng cánh vào đám cột băng, nhũ băng ken kín bên cạnh “mai rùa”.
Tiếng va đập vang khắp khe núi, trộn lẫn với dư âm vọng lại từ vách đá, văng vẳng mãi không thôi.
- Nghê Tam! Dừng tay! Đừng phí sức phá băng, xem xét dưới chân ngươi đi! – Lão mù dường như đã nghe tháy có âm thanh bất thường vang lên từ chỗ đặt chân của Quỷ Nhãn Tam.
Quỷ Nhãn Tam bèn quay xuống đào bới dưới chân, cứ đào xuống vài tấc, lại đưa ngón tay vê vê đất bùn, đưa lên mũi ngửi, thi thoảng lại thè cả lưỡi ra liếm. Đây là kỹ pháp của gia tộc trộm mộ. Tầng đất nện quanh mộ cổ thường cứng hơn so với chất đất bình thường, không dễ thấm hút nước, bởi vậy có thể căn cứ vào màu sắc, độ cứng và hàm lượng muối của bùn đất đào ra để phán đoán sơ bộ về tình hình bên dưới.
Lỗ Nhất Khí nheo nheo đôi mắt, dùng tâm thái tự nhiên để cảm nhận về mọi thứ xung quanh, hy vọng có thể phát hiện ra điều gì đó.
Quỷ Nhãn Tam đào xuống chưa đầy hai thước thì dừng lại, nằm rạp xuống đất, đưa tay thọc sâu xuống hố.
- A! Gỗ? Là gỗ rất cứng!
Lỗ Nhất Khí đứng dậy, tung người nhảy qua rãnh băng, đưa viên đá huỳnh quang Ba Tư xuống lỗ soi, quả nhiên phía dưới là gỗ.
- Không phải đâu anh Tam. Anh lấy một miếng lên xem sao!
May thay cây xẻng do Nhậm Hoả Cuồng rèn ra cực kỳ cứng rắn, nên sau mấy nhát bổ mạnh đến toé lửa, một miếng gỗ nhỏ đã bật ra. Quỷ Nhãn Tam nhặt lấy đưa cho Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí hết săm soi lại sờ nắn, rồi lẩm bẩm:
- Đúng là gỗ thật, lại còn là gỗ hoá thạch! Anh Tam, có đào rộng thêm được không?
Quỷ Nhãn Tam thẳng tay múa xẻng, một loáng sau đã lộ ra một bề mặt gỗ hoá thạch rộng chừng mặt bàn.
Bề mặt được ghép bằng những miếng gỗ hoá thạch hình lục lăng diện tích chừng năm thước vuông, tuy không tiếp tục đào bới đám bùn đất xung quanh, song chỉ nhìn vào quy luật sắp xếp của các miếng gỗ, có thể thấy rằng toàn bộ bề mặt ghép nối được kéo dài về phía trung tâm “mai rùa”.
- Mai rùa? – Cục tướng ngao đỉnh và mảnh gỗ hình lục lăng dễ dàng gợi lên một liên tưởng trong đầu Lỗ Nhất Khí.
- Mái ngói! – Quỷ Nhãn Tam thẳng thừng phủ nhận suy đoán của Lỗ Nhất Khí. Hắn đã được học công phu Phô thạch của Lỗ gia, nên gần như thuộc làu tất cả mọi phương pháp lợp ngói. Huống gì cách ghép các miếng gỗ lục lăng ở đây chính là kỹ pháp chính tông của Lỗ gia.
- Mái ngói? – Thuỷ Băng Hoa đang đứng bên cạnh rõ ràng có vẻ kích động.
- Đúng vậy! Là mái ngói ghép từ các mảnh gỗ hoá thạch hình lục lăng, chị… – Lỗ Nhất Khí nhìn Thuỷ Băng Hoa, chờ đợi cô ta nói tiếp.
- Mái ngói đều lợp phía trên nóc nhà, tại sao mái ngói ở đây lại nằm dưới đất? Lẽ nào là mộ cổ? – Lão mù nói xen vào.
- Có lẽ là mái nhà! – Giọng nói của Thuỷ Băng Hoa bỗng phiêu diêu như gió thoảng – Mọi người nhìn địa hình nơi đây mà xem, nếu muốn xây nhà trong thung lũng, nhất thiết phải tương ứng với địa hình, đặc biệt nếu muốn xây dựng công trình kiến trúc có diện tích rộng lớn thì không đủ không gian, chỉ có thể thuận theo thế núi ở hai bên. Mặt khác, muốn ngăn chặn cây đổ đá lăn từ trên núi xuống, cần phải đào rãnh quanh nhà, như vậy vừa bảo vệ được công trình, cũng thuận lợi cho việc thoát nước bẩn.
- Toàn bộ mai rùa đều là mái nhà? – Quỷ Nhãn Tam không nén nổi tò mò hỏi.
Thuỷ Băng Hoa không để tâm tới Quỷ Nhãn Tam, nói tiếp:
- Dựa vào hình thế mà xây dựng, nên công trình trong thung lũng chỉ có thể xây lớn mà không thể xây, bởi lẽ cửa khe chính là cửa thông gió, bên trong lại bị phân cắt bởi những con đường nhỏ trong vách đá chật hẹp khiến gió thổi càng mạnh, nếu xây cao sẽ mau chóng bị sức gió phá huỷ. Không tin mọi người thử nhìn xem, cây cối trong thung lũng chẳng có cây nào cao quá đầu người!
- Bởi vậy ngôi nhà này hoặc là cực thấp, hoặc là có một bộ phận được xây chìm dưới đất? – Lỗ Nhất Khí tiếp lời Thuỷ Băng Hoa.
Giọng nói của Thuỷ Băng Hoa vẫn khẽ khàng như gió, song ngữ điệu có chút hân hoan:
- Cậu thật thông minh, tuy nhiên điều này còn liên quan tới thời gian. Khi công trình này mới được xây dựng, phần nhô lên khỏi mặt đất hẳn không hề thấp. Song lâu dần, bùn đất ở hai bên vách núi liên tục chảy xuống, dần dần phủ kín những bộ phận lộ ra ngoài.
- Năm tháng dài lâu, bùn đất chảy xuống về cơ bản sẽ được phân bố đồng đều. Bởi vậy, rãnh sâu bảo vệ quanh ngôi nhà tuy cũng bị bùn đất chảy vào, song dù sao vẫn có khác biệt so với địa hình xung quanh, nên giờ đây vẫn còn lại một vòng rãnh nông. – Lỗ Nhất Khí tiếp lời.
Thuỷ Băng Hoa bèn nói:
- Phải! Khe rãnh này năm xưa có lẽ sâu hơn rất nhiều. Khi đó, nơi đây tuy cũng là cách cục Bàn long, song là rồng bay trên vực, chứ không phải là cách cục Ngao đỉnh, nhiều nhất cũng chỉ là cách cục Lưu tào**. Sở dĩ ngày nay biến thành cục tướng Long bàn ngao đỉnh, là do kiến trúc nhân tạo đã làm thay đổi địa mạo. Đương nhiên, bên trong toà kiến trúc cũng cần phải có bảo bối thần kỳ trấn giữ thì cục tướng mới có thể biến hoá thành.
** Có nghĩa là máng nước chảy. (Nd)
Lỗ Nhất Khí liền bổ sung thêm:
- Từ thời Đường Tống trở về sau, Phong thuỷ học đã hình thành một phái độc lập ở phương bắc, kiến giải khác hẳn với phái Loan đầu của Dương Công***phái Giang Tây cực thịnh đương thời. Phái Loan đầu lấy lý luận hình thế làm căn cứ, còn phái này lại chủ trương “hình thế có thể dựa vào, cũng có thể biến đổi”. Tương truyền kiến giải của phái này xuất phát từ những kỹ nghệ cao siêu của một số thợ mộc, bởi vậy có tên là phái Công thế.
*** Dương Quân Tùng, đại sư phong thuỷ phái Loan đầu. (Nd)
- Tôi hiểu cậu nói vậy là có ý gì, song tôi hoàn toàn không phải là truyền nhân của môn phái nào. Tôi chỉ là một người đàn bà bất hạnh, song tại một nơi tôi không nên đến, tôi đã gặp được một ông lão giúp tôi phán đoán số mệnh nửa đời sau. Ông lão đã dạy tôi một số thứ, nói rằng tôi có thể vận dụng những thứ này để giúp đỡ cho vận mệnh nửa đời sau của mình! – Thuỷ Băng Hoa nói đến đây, giọng điệu đã có phần cứng cỏi.
Lỗ Nhất Khí hiểu rằng, giờ đây không phải lúc để tìm hiểu về lai lịch của người phụ nữ này, mà nên tiếp tục chủ đề lúc nãy, như vậy mới có thể mang những thứ mà cậu đã biết và những thứ cô ta biết kết hợp với nhau như vậy sẽ thuận lợi hơn trong việc phân tích ám cấu cất giữ bảo bối. Cậu nói tiếp:
- Nếu quả thực phía dưới kia là ám cấu cất giấu bảo bối, để phòng ngừa gió thổi khiến bảo khí thất tán, thì lối vào cần phải quanh co uốn lượn, như vậy mới có thể tàng phong tụ khí. Lối vào của công trình cũng phải được đóng kín che kỹ, đề phòng gió thổi xuyên qua, tạo thành thế gió lùa khí tán! – Nói tới đây, trong tâm Lỗ Nhất Khí đột ngột bùng lên một nỗi hoang mang bất thường, mí mắt bên phải giật liền mấy cái.
- Không chỉ có vậy, nếu đây thực sự là nơi ẩn tàng bảo bối, còn cần phải đón được mặt trời mặt trăng lên xuống, hấp thu tinh hoa nhật nguyệt, bởi vậy phần cửa của công trình hẳn có hướng nam lệch đông. Khi mặt trời mặt trăng mới mọc, sẽ chiếu sáng từ phía tây đến giữa thung lũng; khi mặt trời mặt trăng lặn xuống, sẽ chiếu sáng cho phía đông; vào lúc giữa trưa, mặt trời sẽ soi sáng quá nửa thung lũng. Bởi vậy, vị trí luôn có tinh hoa nhật nguyệt soi rọi chính là phía đông bắc, gần như tương ứng với phần tim của quần thể núi hình người đàn bà, cũng nhiều khả năng là nơi cất giấu bảo bối nhất! – Thuỷ Băng Hoa nói xong, tự nhiên đưa mắt liếc nhìn mảnh trăng lưỡi liềm lờ mờ phản chiếu trên mặt băng trong rãnh.
- Cũng giống với Kim gia trại, mặt trời chuyển động theo hình núi, từ lúc mọc tới lúc lặn, tất cả mọi ngôi nhà đều được chiếu sáng. Góc nhà đối với vách tường, cách âm cực tốt, không thể nghe thấy động tĩnh từ nhà bên anh. Song ở phía vách tường có góc nhà chĩa vào, không biết sẽ có hiệu quả gì! – Nghe Thuỷ Băng Hoa phân tích, Lỗ Nhất Khí đột nhiên nhớ tới kết cấu nhà gỗ trong Kim gia trại. Không hiểu tại sao, trong lòng cậu mỗi lúc một hoang mang, từ mí mắt đến huyệt Thái dương co giật rùng rùng. Cảm giác mách bảo cậu rằng có một thứ gì đó đang tiến lại gần, song nó trong suốt hệt như không khí, không thể cảm nhận ra hình dạng.
Thuỷ Băng Hoa cười khẽ hai tiếng rồi nói:
- Cậu cũng có chỗ không hiểu ư? Những căn nhà đó là kiểu “một nhà kín, một nhà rõ”. Căn nhà cậu ở là cách âm, còn căn nhà bên cạnh có thể nghe tường tận mọi âm thanh phát ra từ căn nhà của cậu. Cậu cho rằng những tin tức mà Kim gia trại thu thập đều được moi ra nhờ thức ăn và cơ thể đàn bà ư? Bọn thợ rừng đều là một phường gian trả, muốn có được thông tin quan trọng đều phải nhờ vào nghe lén. Khi cậu vừa tới Kim gia trại, đã lọt ngay vào tầm ngắm của tôi rồi.
Ngay giữa ban ngày ban mặt mà nhất cử nhất động của bản thân đều bị người khác theo dõi sát sao, thì giờ đây, bên dưới chân núi tối tăm, bên trong thung lũng hoang vu vắng lặng, chẳng phải lại càng dễ dàng bị người ta ngấm ngầm theo dõi? Nghĩ tới đây, Lỗ Nhất Khí đột nhiên tim đập thình thình, cơn co giật tại mí mắt và huyệt Thái dương như đông cứng lại. Thình lình, cảm giác bị vật lạ áp sát vụt lên thật rõ ràng.
- Á! Cái gì kia? – Thuỷ Băng Hoa bỗng kêu lên thất thanh.
Vừa nghe tiếng kêu, Quỷ Nhãn Tam lập tức giơ ngang cây xẻng chắn trước cơ thể, tay còn lại chụp mạnh vào bả vai Lỗ Nhất Khí, ấn cậu thụp xuống.
Lão mù không nhìn thấy gì, song cùng với tiếng kêu của Thuỷ Băng Hoa, dường như lão đã nghe thấy một âm thanh khác lạ. Cây gậy trên tay lão rùng khẽ một cái đâm chếch xuống rãnh băng dưới chân.
Lỗ Nhất Khí bất ngờ bị Quỷ Nhãn Tam ấn mạnh viên đá huỳnh quang Ba Tư bật khỏi tay rơi xuống, lăn tới bên mép rãnh băng.
Thuỷ Băng Hoa đã nhìn thấy rõ hơn, mảnh trăng lưỡi liềm đang ẩn trong một vật gì như khối bông màu lục âm trầm, khối bông giống như sương khói, giống như sa mỏng, lại giống như cỏ mềm dật dờ trong nước, rất đỗi mềm mại, phiêu diêu.
Đầu gậy đã đâm trúng khối tơ bông mềm mại, không một âm thanh. Khối tơ bông vẫn ở nguyên tại chỗ, không hề nhúc nhích, tiếp tục phất phơ như cũ. Vừa đâm trúng, lão mù lập tức rút ngay gậy về, song cây gậy của lão cũng không thể nhúc nhích lấy một ly. Đây là điều lão không hề ngờ tới, nên không phản ứng kịp, bàn tay đang nắm chặt cây gậy trượt thẳng đi một khúc.
Lão mù lập tức vận lực rút cây gậy ra lần nữa, song lực đạo đang giữ chặt đầu gậy đột nhiên tiêu biến sạch trơn. Lão mù đã vận hết lực đạo toàn thân, bất ngờ bị hẫng lập tức ngã bật ngửa. Song phản ứng của lão tặc vương nhanh nhẹn phi thường, hai chân gắng sức thu về, cơ thể như gập làm đôi. Nửa thân trên ấn xuống hai chân, hai chân vận lực một cái, cả người đã bật thẳng trở lại. Song lực ngã về sau vẫn chưa tiêu hết, hai mũi chân trượt trên mặt đất ba, bốn bước mới trụ vững thân hình.
Lỗ Nhất Khí nhặt lại viên đá huỳnh quang Ba Tư, quan sát mảnh trăng lưỡi liềm đang nhấp nháy bên trong đám tơ bông dập dờn.
Mảnh trăng cũng đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, ngay lập tức đám tơ bông bềnh bồng trồi lên, từ từ nở bung thành một hình người.
* Một loại nấm nhỏ mọc ô trên cây phỉ (cây trăn), hơi giống nấm hương, do có hương thơm của gỗ cây phỉ nên loại nấm này mùi vị rất thơm ngon, số lượng rất ít nên rất quý hiếm, đặc biệt là loại nấm rừng mọc tự nhiên.
- Vậy không chừng đấy chính là vùng đất tế lễ của tổ tiên người Mãn, cũng là một lối vào khác của bảo cục phong thuỷ! – Lỗ Nhất Khí có vẻ như an ủi gã.
- Cũng đúng! Chúng ta đã phải đi một vòng, con đường mà chúng ta vừa đi có hình vòng cung, đầu bên kia của khe núi chắc chắn chỉ cách hẻm rừng (đường mòn trong rừng) mà chúng ta đã đi khi chưa đổi đường chẳng bao xa! – Phó Lợi Khai vẻ như đột nhiên bừng tỉnh, bộ dạng đầy hối hận và tiếc nuối. Song chẳng ai thèm để ý tới gã. Mọi người đều biết, trong cánh rừng già Đông Bắc này, lời lẽ của phường lái gỗ là khó tin nhất.
Trời đã sập tối, của Lỗ Nhất Khí cuối cùng cũng đã bình ổn trở lại. Không hiểu tại sao, sau khi biết được mình đang ở trong cục tướng kỳ tuyệt Long bàn ngao đỉnh, tâm tư rối bời của cậu lập tức lắng dịu ngay xuống.
Đường đi trong khe núi vẫn khói sương mờ mịt, lại thêm trời chiều nhá nhem, tầm nhìn càng thêm hạn hẹp. Song dù cho con đường trước mặt có hiểm trở đến đâu, họ vẫn phải kiên định dấn bước.
Có cả thảy sáu con đường. Ngoài con đường họ vừa đi theo để leo lên núi, còn lại năm con đường. Không thể lần lượt đi hết cả năm, như vậy có tới mùa quýt sang năm cũng chưa tìm được nơi cần đến.
Họ quyết định chia hai đường đi tiếp. Nhậm Hoả Cuồng, Phó Lợi Khai, Tùng Đắc Kim đi theo một ngả; Lỗ Nhất Khí, lão mù và Quỷ Nhãn Tam đi theo một ngả. Còn Thuỷ Băng Hoa, mọi người để cô ta tự quyết định, thích đi theo nhóm nào thì đi, hoặc cũng có thể ẩn mình trên núi đợi bọn họ trở ra.
Trước khi ai theo đường nấy, Quỷ Nhãn Tam đề xuất nên dùng ám hiệu để có thể nhận ra đối phương trong sương mù. Gã Tùng Đắc Kim khù khờ lại đưa ra được một ý kiến khá hay:
- Chẳng cần ám hiệu gì đâu! Nhìn thấy nhau thì xướng tên mình lên là xong!
Phó Lợi Khai và Nhậm Hoả Cuồng chẳng nói gì thêm, lập tức quay người bước theo Tùng Đắc Kim, tiến vào trong màn sương dày đặc.
Đám Lỗ Nhất Khí sắp xếp trình tự trước sau xong xuôi mới tiến vào một con đường. Lúc này, con mắt cú đêm của Quỷ Nhãn Tam đã trở nên vô dụng, nên thính giác nhạy bén của lão mù trở thành công cụ tìm kiếm và phòng bị đắc lực nhất. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa lần lượt đi phía sau lão mù. Lỗ Nhất Khí cầm ngang khẩu súng trường Mauser trong tay, lên đạn sẵn sàng, tay phải đặt sẵn vào cò súng, gác thân súng lên trên cánh tay trái; bàn tay trái còn nắm chặt một quả lựu đạn trứng vịt, ngón giữa ngoắc sẵn vào chốt an toàn. Thuỷ Băng Hoa đi sát sau lưng Lỗ Nhất Khí, một tay rất tự nhiên túm lấy vạt áo cậu. Quỷ Nhãn Tam đi cuối cùng.
Không gian mịt mù hỗn độn nơi đây chợt khơi dậy trong Quỷ Nhãn Tam một cảm giác đã lâu lắm rồi không xuất hiện, cảm giác đã từng đeo đuổi hắn khi bị nhốt kín trong mộ thất chìm dưới rừng rậm thâm u trước khi luyện thành tựu dạ nhãn. Dường như trong bóng tối có vô số đôi mắt ma quái đang nhìn hắn chằm chằm.
Con đường tuy quanh co lắt léo, song lại không dài, khoảng ba, bốn trăm bước đã kết thúc. Trước mặt họ chính là vùng đất phẳng dài hẹp trong lòng thung lũng
- Cẩn thận, có rãnh! – Quỷ Nhãn Tam lên tiếng nhắc nhở. Không gian đã mở rộng, sương mù cũng khó tụ, bởi vậy tuy trong khe núi tối tăm xoè bàn tay không thấy ngón, nhưng con mắt của Quỷ Nhãn Tam vẫn nhìn rõ mồn một.
Lỗ Nhất Khí ngồi thụp xuống bên cạnh khe rãnh, đặt súng trường và lựu đạn xuống, lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư trong túi ra, dùng ba ngón tay đỡ lấy, bàn tay còn lại khum khum che chắn, như vậy có thể soi sáng trước mặt mình, mà người ở phía xa cũng không phát hiện ra.
Đây là một rãnh băng không rộng, chính là nơi lõm xuống ở bên rìa “mai rùa” mà họ đã quan sát được khi còn trên núi. Song rãnh băng trông rất quái lạ, vẻ như không phải do nước đọng đóng băng mà thành. Lớp băng ở phía gần Lỗ Nhất Khí rất mỏng, song càng sang bờ bên kia càng dày, khiến bề mặt băng lượn thành hình vòng cung. Đến rìa “mai rùa” thậm chí còn đóng kết thành vô số cột băng, nhũ băng với hình thù kỳ quái.
- Mặt băng này là do hơi nước bốc lên đông lại mà thành! – Lỗ Nhất Khí đã được học về sự hình thành của hiện tượng này ở trường Tây học.
- Nhìn độ dày của băng, hơi nước dưới mé cạnh! – Quỷ Nhãn Tam nói cụt lủn đến khó hiểu, nhưng cũng chẳng thèm giải thích thêm, chỉ tung một bước dài nhảy qua rãnh băng, rút phắt cây xẻng lưỡi cày, đập thẳng cánh vào đám cột băng, nhũ băng ken kín bên cạnh “mai rùa”.
Tiếng va đập vang khắp khe núi, trộn lẫn với dư âm vọng lại từ vách đá, văng vẳng mãi không thôi.
- Nghê Tam! Dừng tay! Đừng phí sức phá băng, xem xét dưới chân ngươi đi! – Lão mù dường như đã nghe tháy có âm thanh bất thường vang lên từ chỗ đặt chân của Quỷ Nhãn Tam.
Quỷ Nhãn Tam bèn quay xuống đào bới dưới chân, cứ đào xuống vài tấc, lại đưa ngón tay vê vê đất bùn, đưa lên mũi ngửi, thi thoảng lại thè cả lưỡi ra liếm. Đây là kỹ pháp của gia tộc trộm mộ. Tầng đất nện quanh mộ cổ thường cứng hơn so với chất đất bình thường, không dễ thấm hút nước, bởi vậy có thể căn cứ vào màu sắc, độ cứng và hàm lượng muối của bùn đất đào ra để phán đoán sơ bộ về tình hình bên dưới.
Lỗ Nhất Khí nheo nheo đôi mắt, dùng tâm thái tự nhiên để cảm nhận về mọi thứ xung quanh, hy vọng có thể phát hiện ra điều gì đó.
Quỷ Nhãn Tam đào xuống chưa đầy hai thước thì dừng lại, nằm rạp xuống đất, đưa tay thọc sâu xuống hố.
- A! Gỗ? Là gỗ rất cứng!
Lỗ Nhất Khí đứng dậy, tung người nhảy qua rãnh băng, đưa viên đá huỳnh quang Ba Tư xuống lỗ soi, quả nhiên phía dưới là gỗ.
- Không phải đâu anh Tam. Anh lấy một miếng lên xem sao!
May thay cây xẻng do Nhậm Hoả Cuồng rèn ra cực kỳ cứng rắn, nên sau mấy nhát bổ mạnh đến toé lửa, một miếng gỗ nhỏ đã bật ra. Quỷ Nhãn Tam nhặt lấy đưa cho Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí hết săm soi lại sờ nắn, rồi lẩm bẩm:
- Đúng là gỗ thật, lại còn là gỗ hoá thạch! Anh Tam, có đào rộng thêm được không?
Quỷ Nhãn Tam thẳng tay múa xẻng, một loáng sau đã lộ ra một bề mặt gỗ hoá thạch rộng chừng mặt bàn.
Bề mặt được ghép bằng những miếng gỗ hoá thạch hình lục lăng diện tích chừng năm thước vuông, tuy không tiếp tục đào bới đám bùn đất xung quanh, song chỉ nhìn vào quy luật sắp xếp của các miếng gỗ, có thể thấy rằng toàn bộ bề mặt ghép nối được kéo dài về phía trung tâm “mai rùa”.
- Mai rùa? – Cục tướng ngao đỉnh và mảnh gỗ hình lục lăng dễ dàng gợi lên một liên tưởng trong đầu Lỗ Nhất Khí.
- Mái ngói! – Quỷ Nhãn Tam thẳng thừng phủ nhận suy đoán của Lỗ Nhất Khí. Hắn đã được học công phu Phô thạch của Lỗ gia, nên gần như thuộc làu tất cả mọi phương pháp lợp ngói. Huống gì cách ghép các miếng gỗ lục lăng ở đây chính là kỹ pháp chính tông của Lỗ gia.
- Mái ngói? – Thuỷ Băng Hoa đang đứng bên cạnh rõ ràng có vẻ kích động.
- Đúng vậy! Là mái ngói ghép từ các mảnh gỗ hoá thạch hình lục lăng, chị… – Lỗ Nhất Khí nhìn Thuỷ Băng Hoa, chờ đợi cô ta nói tiếp.
- Mái ngói đều lợp phía trên nóc nhà, tại sao mái ngói ở đây lại nằm dưới đất? Lẽ nào là mộ cổ? – Lão mù nói xen vào.
- Có lẽ là mái nhà! – Giọng nói của Thuỷ Băng Hoa bỗng phiêu diêu như gió thoảng – Mọi người nhìn địa hình nơi đây mà xem, nếu muốn xây nhà trong thung lũng, nhất thiết phải tương ứng với địa hình, đặc biệt nếu muốn xây dựng công trình kiến trúc có diện tích rộng lớn thì không đủ không gian, chỉ có thể thuận theo thế núi ở hai bên. Mặt khác, muốn ngăn chặn cây đổ đá lăn từ trên núi xuống, cần phải đào rãnh quanh nhà, như vậy vừa bảo vệ được công trình, cũng thuận lợi cho việc thoát nước bẩn.
- Toàn bộ mai rùa đều là mái nhà? – Quỷ Nhãn Tam không nén nổi tò mò hỏi.
Thuỷ Băng Hoa không để tâm tới Quỷ Nhãn Tam, nói tiếp:
- Dựa vào hình thế mà xây dựng, nên công trình trong thung lũng chỉ có thể xây lớn mà không thể xây, bởi lẽ cửa khe chính là cửa thông gió, bên trong lại bị phân cắt bởi những con đường nhỏ trong vách đá chật hẹp khiến gió thổi càng mạnh, nếu xây cao sẽ mau chóng bị sức gió phá huỷ. Không tin mọi người thử nhìn xem, cây cối trong thung lũng chẳng có cây nào cao quá đầu người!
- Bởi vậy ngôi nhà này hoặc là cực thấp, hoặc là có một bộ phận được xây chìm dưới đất? – Lỗ Nhất Khí tiếp lời Thuỷ Băng Hoa.
Giọng nói của Thuỷ Băng Hoa vẫn khẽ khàng như gió, song ngữ điệu có chút hân hoan:
- Cậu thật thông minh, tuy nhiên điều này còn liên quan tới thời gian. Khi công trình này mới được xây dựng, phần nhô lên khỏi mặt đất hẳn không hề thấp. Song lâu dần, bùn đất ở hai bên vách núi liên tục chảy xuống, dần dần phủ kín những bộ phận lộ ra ngoài.
- Năm tháng dài lâu, bùn đất chảy xuống về cơ bản sẽ được phân bố đồng đều. Bởi vậy, rãnh sâu bảo vệ quanh ngôi nhà tuy cũng bị bùn đất chảy vào, song dù sao vẫn có khác biệt so với địa hình xung quanh, nên giờ đây vẫn còn lại một vòng rãnh nông. – Lỗ Nhất Khí tiếp lời.
Thuỷ Băng Hoa bèn nói:
- Phải! Khe rãnh này năm xưa có lẽ sâu hơn rất nhiều. Khi đó, nơi đây tuy cũng là cách cục Bàn long, song là rồng bay trên vực, chứ không phải là cách cục Ngao đỉnh, nhiều nhất cũng chỉ là cách cục Lưu tào**. Sở dĩ ngày nay biến thành cục tướng Long bàn ngao đỉnh, là do kiến trúc nhân tạo đã làm thay đổi địa mạo. Đương nhiên, bên trong toà kiến trúc cũng cần phải có bảo bối thần kỳ trấn giữ thì cục tướng mới có thể biến hoá thành.
** Có nghĩa là máng nước chảy. (Nd)
Lỗ Nhất Khí liền bổ sung thêm:
- Từ thời Đường Tống trở về sau, Phong thuỷ học đã hình thành một phái độc lập ở phương bắc, kiến giải khác hẳn với phái Loan đầu của Dương Công***phái Giang Tây cực thịnh đương thời. Phái Loan đầu lấy lý luận hình thế làm căn cứ, còn phái này lại chủ trương “hình thế có thể dựa vào, cũng có thể biến đổi”. Tương truyền kiến giải của phái này xuất phát từ những kỹ nghệ cao siêu của một số thợ mộc, bởi vậy có tên là phái Công thế.
*** Dương Quân Tùng, đại sư phong thuỷ phái Loan đầu. (Nd)
- Tôi hiểu cậu nói vậy là có ý gì, song tôi hoàn toàn không phải là truyền nhân của môn phái nào. Tôi chỉ là một người đàn bà bất hạnh, song tại một nơi tôi không nên đến, tôi đã gặp được một ông lão giúp tôi phán đoán số mệnh nửa đời sau. Ông lão đã dạy tôi một số thứ, nói rằng tôi có thể vận dụng những thứ này để giúp đỡ cho vận mệnh nửa đời sau của mình! – Thuỷ Băng Hoa nói đến đây, giọng điệu đã có phần cứng cỏi.
Lỗ Nhất Khí hiểu rằng, giờ đây không phải lúc để tìm hiểu về lai lịch của người phụ nữ này, mà nên tiếp tục chủ đề lúc nãy, như vậy mới có thể mang những thứ mà cậu đã biết và những thứ cô ta biết kết hợp với nhau như vậy sẽ thuận lợi hơn trong việc phân tích ám cấu cất giữ bảo bối. Cậu nói tiếp:
- Nếu quả thực phía dưới kia là ám cấu cất giấu bảo bối, để phòng ngừa gió thổi khiến bảo khí thất tán, thì lối vào cần phải quanh co uốn lượn, như vậy mới có thể tàng phong tụ khí. Lối vào của công trình cũng phải được đóng kín che kỹ, đề phòng gió thổi xuyên qua, tạo thành thế gió lùa khí tán! – Nói tới đây, trong tâm Lỗ Nhất Khí đột ngột bùng lên một nỗi hoang mang bất thường, mí mắt bên phải giật liền mấy cái.
- Không chỉ có vậy, nếu đây thực sự là nơi ẩn tàng bảo bối, còn cần phải đón được mặt trời mặt trăng lên xuống, hấp thu tinh hoa nhật nguyệt, bởi vậy phần cửa của công trình hẳn có hướng nam lệch đông. Khi mặt trời mặt trăng mới mọc, sẽ chiếu sáng từ phía tây đến giữa thung lũng; khi mặt trời mặt trăng lặn xuống, sẽ chiếu sáng cho phía đông; vào lúc giữa trưa, mặt trời sẽ soi sáng quá nửa thung lũng. Bởi vậy, vị trí luôn có tinh hoa nhật nguyệt soi rọi chính là phía đông bắc, gần như tương ứng với phần tim của quần thể núi hình người đàn bà, cũng nhiều khả năng là nơi cất giấu bảo bối nhất! – Thuỷ Băng Hoa nói xong, tự nhiên đưa mắt liếc nhìn mảnh trăng lưỡi liềm lờ mờ phản chiếu trên mặt băng trong rãnh.
- Cũng giống với Kim gia trại, mặt trời chuyển động theo hình núi, từ lúc mọc tới lúc lặn, tất cả mọi ngôi nhà đều được chiếu sáng. Góc nhà đối với vách tường, cách âm cực tốt, không thể nghe thấy động tĩnh từ nhà bên anh. Song ở phía vách tường có góc nhà chĩa vào, không biết sẽ có hiệu quả gì! – Nghe Thuỷ Băng Hoa phân tích, Lỗ Nhất Khí đột nhiên nhớ tới kết cấu nhà gỗ trong Kim gia trại. Không hiểu tại sao, trong lòng cậu mỗi lúc một hoang mang, từ mí mắt đến huyệt Thái dương co giật rùng rùng. Cảm giác mách bảo cậu rằng có một thứ gì đó đang tiến lại gần, song nó trong suốt hệt như không khí, không thể cảm nhận ra hình dạng.
Thuỷ Băng Hoa cười khẽ hai tiếng rồi nói:
- Cậu cũng có chỗ không hiểu ư? Những căn nhà đó là kiểu “một nhà kín, một nhà rõ”. Căn nhà cậu ở là cách âm, còn căn nhà bên cạnh có thể nghe tường tận mọi âm thanh phát ra từ căn nhà của cậu. Cậu cho rằng những tin tức mà Kim gia trại thu thập đều được moi ra nhờ thức ăn và cơ thể đàn bà ư? Bọn thợ rừng đều là một phường gian trả, muốn có được thông tin quan trọng đều phải nhờ vào nghe lén. Khi cậu vừa tới Kim gia trại, đã lọt ngay vào tầm ngắm của tôi rồi.
Ngay giữa ban ngày ban mặt mà nhất cử nhất động của bản thân đều bị người khác theo dõi sát sao, thì giờ đây, bên dưới chân núi tối tăm, bên trong thung lũng hoang vu vắng lặng, chẳng phải lại càng dễ dàng bị người ta ngấm ngầm theo dõi? Nghĩ tới đây, Lỗ Nhất Khí đột nhiên tim đập thình thình, cơn co giật tại mí mắt và huyệt Thái dương như đông cứng lại. Thình lình, cảm giác bị vật lạ áp sát vụt lên thật rõ ràng.
- Á! Cái gì kia? – Thuỷ Băng Hoa bỗng kêu lên thất thanh.
Vừa nghe tiếng kêu, Quỷ Nhãn Tam lập tức giơ ngang cây xẻng chắn trước cơ thể, tay còn lại chụp mạnh vào bả vai Lỗ Nhất Khí, ấn cậu thụp xuống.
Lão mù không nhìn thấy gì, song cùng với tiếng kêu của Thuỷ Băng Hoa, dường như lão đã nghe thấy một âm thanh khác lạ. Cây gậy trên tay lão rùng khẽ một cái đâm chếch xuống rãnh băng dưới chân.
Lỗ Nhất Khí bất ngờ bị Quỷ Nhãn Tam ấn mạnh viên đá huỳnh quang Ba Tư bật khỏi tay rơi xuống, lăn tới bên mép rãnh băng.
Thuỷ Băng Hoa đã nhìn thấy rõ hơn, mảnh trăng lưỡi liềm đang ẩn trong một vật gì như khối bông màu lục âm trầm, khối bông giống như sương khói, giống như sa mỏng, lại giống như cỏ mềm dật dờ trong nước, rất đỗi mềm mại, phiêu diêu.
Đầu gậy đã đâm trúng khối tơ bông mềm mại, không một âm thanh. Khối tơ bông vẫn ở nguyên tại chỗ, không hề nhúc nhích, tiếp tục phất phơ như cũ. Vừa đâm trúng, lão mù lập tức rút ngay gậy về, song cây gậy của lão cũng không thể nhúc nhích lấy một ly. Đây là điều lão không hề ngờ tới, nên không phản ứng kịp, bàn tay đang nắm chặt cây gậy trượt thẳng đi một khúc.
Lão mù lập tức vận lực rút cây gậy ra lần nữa, song lực đạo đang giữ chặt đầu gậy đột nhiên tiêu biến sạch trơn. Lão mù đã vận hết lực đạo toàn thân, bất ngờ bị hẫng lập tức ngã bật ngửa. Song phản ứng của lão tặc vương nhanh nhẹn phi thường, hai chân gắng sức thu về, cơ thể như gập làm đôi. Nửa thân trên ấn xuống hai chân, hai chân vận lực một cái, cả người đã bật thẳng trở lại. Song lực ngã về sau vẫn chưa tiêu hết, hai mũi chân trượt trên mặt đất ba, bốn bước mới trụ vững thân hình.
Lỗ Nhất Khí nhặt lại viên đá huỳnh quang Ba Tư, quan sát mảnh trăng lưỡi liềm đang nhấp nháy bên trong đám tơ bông dập dờn.
Mảnh trăng cũng đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, ngay lập tức đám tơ bông bềnh bồng trồi lên, từ từ nở bung thành một hình người.
Tác giả :
Viên Thái Cực