Lá Cờ Ma
Chương 34: Bí mật “con mắt thứ ba(2)
Mộ thất bên trong cũng được trang bị hệ thống đèn liên hoàn vạn năm. Ông lão Vệ Bất Hồi tìm thấy ngay nút khởi động, những ngọn đèn sáng bừng trong tích tắc.
Đồ nghề thám hiểm của ông lão Vệ Bất Hồi đơn giản hơn của Vệ Tiên nhiều, chỉ là một chiếc gậy kim loại. Sau mấy tiếng gõ "boong, boong" xuống nền đất, ông lão ngẩng đầu lên rồi thình lình nhảy lùi lại phía sau nửa bước, ngoái đầu nhìn Hạ Hầu Anh, chính xác hơn thì ông lão nhìn những ký hiệu trên quần áo của Hạ Hầu Anh.
"Là nỗi khiếp sợ", Hạ Hầu Anh nói, "ám thị được tạo bởi những ký hiệu trên bốn bức tường trong gian mộ thất này chính là nỗi khiếp sợ đấy!"
Tôi cũng có cảm giác ấy khi những ngọn đèn vừa được thắp lửa, nhưng nó chỉ nhè nhẹ cồn lên trong lòng. Hằn nhiên là nhờ tác dụng quan trọng của những ký hiệu ám thị trên quần áo của Hạ Hầu Anh.
Ông lão Vệ Bất Hồi cười hì hì: "Xem chừng lão già này lo sợ hão huyền rồi". Ông lão đắn đo một hồi trước gian mộ thất trống trơn rồi bảo: "Gian mộ thất này có lẽ không chôn giấu bẫy nào, hai người cẩn thận theo sau ta nhé!"
Hạ Hầu Anh gật đầu: "Không có bẫy ngầm cũng là điều rất bình thường thôi. Khả năng tác động của những kí hiệu ám thị vẽ ẩn trên bốn bức tường khá mạnh, ngay cả những người được bảo vệ liên tục bằng ám thị định tâm an thần của cháu như bác và anh vẫn cảm biết, người bình thường khi bước vào đây, dù không thắp lửa để nhìn thấy những ký hiệu chằng chịt đó, nhưng vẫn bị chúng làm cho hồn xiêu phách lạc mà phải lùi bước, cộng thêm với những ám hiệu chết chóc ở mộ đạo phía bên ngoài thì sớm muộn gì họ cũng biến thành hồn ma cho dẫu đã quay trở lại với thế giới trên mặt đất".
Gian mộ thất rộng chừng bốn, năm mét vuông này trông giống như một mảnh ruộng không có hình thù rõ rệt, bên trong không bày biện bất cứ vật trang trí nào, phía đối diện lại có một cổng vòm nữa.
"Hai người nhìn này!", ông lão Vệ Bất Hồi chỉ tay xuống dưới đất.
Tôi nhìn theo hướng tay ông lão chỉ va nhận thấy nền nhà lát đá cẩm thạch từ chỗ chúng tôi đứng tới cổng vòm ở phía đối diện rải rác những vệt màu đen sậm. Vết tích rất mờ nhạt nên phải quan sát thật kĩ mới trông rõ.
"Là vệt máu của Tôn Huy Tổ", tôi buột miệng.
Ông lão Vệ Bất Hồi gật đầu: "Máu thấm vào đá cẩm thạch, nhưng không có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy các bẫy ngầm đã bị khởi động".
"Chúng ta đi thôi bác. Ở mộ đạo phía ngoài là ám hiệu chết chóc, trong đây là ám hiệu khiếp sợ, bác cháu mình đi qua cái cổng vòm phía trước mặt, có lẽ sẽ gặp phải một ám hiệu khác", Hạ Hầu Anh nói.
Nghe Hạ Hầu Anh nói thế, trước khi tiếp tục tiến lên phía trước, ông lão Vệ Bất Hồi làm một động tác giống hệt tôi: nhìn đăm đăm vào bộ quần áo của Hạ Hầu Anh.
Ba người chúng tôi đã tới trước cổng vòm thứ hai. Ông lão Vệ Bất Hồi không bước ngay vào bên trong mộ thất, tôi và Hạ Hầu Anh đứng khựng lại ngay bên cạnh.
Bên trong là một gian mộ thất, nhưng nói đúng hơn thì nó là một mộ đạo gấp khúc.
Trên nền đá vẫn rải rác những vệt máu khiến tôi bất giác tưởng tượng ra cảnh Tôn Huy Tổ mình dầm dề máu cuống cuồng hoảng loạn chạy ra ngoài.
Có lẽ nút khởi động hệ thống đèn liên hoàn vạn năm ở cổng vòm thứ nhất đã cùng lúc thắp sáng tất cả đèn trong các gian mộ thất. Có điều, mộ đạo này ngoắt ngoéo quá nên không thể nhìn thấy điểm cuối của nó.
“Bác ơi, cháu thấy hình như cũng không có dấu hiệu nào cho thấy các bẫy ngầm đã bị khởi động, chẳng lẽ mộ đạo này cũng không có bẫy ngầm nào hả bác?”
Ông lão Vệ Bất Hồi ngồi xổm xuống, hai mắt dán chặt xuống nề nhà một hồi lâu, ông gõ gõ cây gậy kim loại mấy lần rồi đứng lên và nói: “Có đấy, nhưng chưa từng được khởi động”, vẻ mặt ông lão hơi nghiêm trọng.
“Chưa từng khởi động, tại sao lại như thế được nhỉ, chẳng lẽ Tôn Huy Tổ năm xưa chưa từng chạm đến các cơ quan đó ạ?”, lần này là Hạ Hầu Anh lên tiếng hỏi.
“Cơ chế khởi động của những bẫy ngầm được chôn giấu ở đây tương đối khác lạ. Loại bẫy này không thể được khởi động bằng cách đi bộ bình thường hoặc chạy nhanh được mà phải đứng yên một chỗ”.
“Thế thì đúng rồi!”, câu nói của Hạ Hầu Anh khiến tôi và ông lão Vệ Bất Hồi sửng sốt.
“Bác và anh không nhận thấy cảm giác của hai người lúc này đã khác trước rồi sao ạ?”
Ban nãy, lúc tiến lên phía trước, tôi thấy trong lòng có những cảm giác hơi khang khác, nhưng nhờ những ký hiệu hộ thân của Hạ Hầu Anh nên cảm giác khang khác đó chỉ như một làn gió thoảng. Giờ nghe Hạ Hầu Anh nói, tôi vừa đưa mắt nhìn về phía mộ đạo trước mặt, vừa từ từ cảm nhận trong lòng.
Đúng là có cảm giác khác so với cảm giác sợ hãi ban nãy thật. Nhưng nếu bảo tôi phải diễn tả nó bằng môt từ ngữ nào đó, tôi không biết phải dùng từ gì. Tôi ngó sang ông lão Vệ Bất Hồi. Ông lão cũng chung tâm trạng với tôi.
“Bác và anh chỉ bị tác động một chút thôi nên rất khó nhận ra. Những ký hiệu ám thị ở phía trước khiến con người ta cảm thấy chán nản”.
“Chán nản à?”, tôi thử so sánh với cảm giác trong lòng mình. Quả nhiên không sai.
“Ta biết rồi”, ông lão Vệ Bất Hồi lên tiếng, giọng trầm đục, “người bình thường khi chán nản cùng cực thường ngồi xổm xuống, ôm đầu khóc lóc thảm thiết, nếu là người tinh thần dẻo dai sẽ ngồi trong tư thế ấy một lúc, mà hễ ngồi như thế sẽ làm các bẫy ngầm lập tức khởi động”.
Hạ Hầu Anh gật đầu đồng tình: “Những ám thị không thể khiến người ta chết ngay tức khắc nhưng nếu kết hợp với các cơ quan, nơi này sẽ biến thành tử địa không người sống sót”.
“Nhưng tại sao năn xưa, bốn anh em nhà họ Tôn lại bình an vô sự nhỉ?”, câu hỏi vừa buột khỏi miệng, tôi đã có ngay đáp án.
“Là nhờ….”, Hạ Hầu Anh chưa nói hết câu tôi đã tiếp: “Lá cờ”.
“Đúng rồi đấy anh ạ. Em nhìn qua nửa lá cờ đó biết rằng, nếu ký hiệu trên đó kết hợp hoàn chỉnh với những ký hiệu trên nửa lá cờ bị mất thì chúng sẽ tạo hiệu quả giống như những ký hiệu em vẽ trên quần áo, có thể tác động tới những người ở quanh lá cờ. Nhưng lá cờ đó lại kèm cả ám hiệu gây khiếp sợ cho những người đứng ở xa nên khả năng tác động của nó không mạnh bằng khả năng tác động của những ám thị em tạo ra”.
Nhắc tới nửa lá cờ, đầu óc tôi bất giác lại hiện lên một câu hỏi không thể kìm nén được và bật ra ngoài: “Năm xưa, bốn anh em nhà họ Tôn vác lá cờ đi khắp nơi để tìm kiếm vị trí của ngôi mộ cổ này, khi tới khu vực gần với vị trí ngôi mộ cổ, họ nhận thấy có điểm báo; hơn nữa ám hiệu khiếp sợ của lá cờ đột nhiên bùng phát mạnh hơn bình thường cả chục lần, em giải thích hiện tượng này thế nào?”
Hạ Hầu Anh tư lự hồi lâu rồi nói: “Em cũng không mấy chắc chắn về nguyên lý hoạt động của nó, bởi lẽ có nhiều thứ lắm, em chỉ biết một vài điều chứ không thể biết tất cả. Nhưng…”, Hạ Hầu Anh chỉ tay về mộ đạo phía trước, tiếp tục: “Lát nữa đi tiếp, bác và anh phải có sự chuẩn bị tâm lý trước đấy nhé, vì nỗi chán chường sẽ tăng lên nhiều so với lúc chúng ta đứng ở đây và nhìn vào nó. Bác và anh phải nhớ đừng đứng ngây ra để làm khởi động các hệ thống đấy nhé!”
“Ồ?”
“Nếu chỉ là một vài ký hiệu ám thị đơn giản thì về cơ bản, chúng chỉ phát huy tác dụng khi bị nhìn thằng bằng mắt thường. Khi nhiều ký hiệu được xếp đặt san sát nhau theo một quy luật đặc biệt nào đó, chúng sẽ tự phát huy tác dụng. Nguyên lý này hơi giống với nguyên lý của những trận pháo ở thời Trung Quốc cổ đại. Nhưng anh đừng vơ đũa cả nắm chúng với những trận chiến của quân đội thời cổ, vì đó là hai việc hoàn toàn khác nhau”.
“Anh biết điều này mà. Còn nhớ, năm xưa anh từng bị vây khốn tới mức suýt bỏ mạng trong hang người trong ngọn núi Thần Nông, chẳng phải vì Khốn Long Mặt Trận của Tiêu Tú Vân hay sao?”
Hạ Hầu Anh hơi bất ngờ: “Xem ra anh cũng đi nhiều biết rộng đấy nhỉ! Nếu phải dùng một từ ngữ gần nghĩa nhất để lý giải theo khoa học hiện đại bây giờ thì đó chính là lực trường. Những ký hiệu này có thể tạo ra một lực trường tâm lý ở bên ngoài hình vẽ của chúng, có thể tác động tới những người ở cách trung tâm lực trường một khoảng nhất định. Nếu hai lực trường như thé gặp nhau có thể sẽ trung hòa và không xảy ra chuyện gì, hoặc cũng có thể…”
Hạ Hầu Anh không nói tiếp nhưng tôi đã hiểu những lời dang dở của cô ấy. Sự việc bất ngờ xảy ra năm xưa là kết quả của việc hai lực trường tâm lý tạo ra từ lá cờ và từ ngôi mộ cổ dưới lòng đất gặp nhau. Chỉ có điều, vì sao sau khi hai trường lực tâm lý này gặp nhau, trong khoảnh khắc lại tạo ra một lực trường có khả năng gây ra nỗi kinh hoàng lớn đến thế cho con người rồi ngay sau đó lại trở về trạng thái ban đầu, câu hỏi này e rằng những con người như chúng ta không thể giải thích rõ được nếu chỉ dựa vào những suy đoán đơn giản. Chí ít, chúng ta cũng phải hiểu nguyên lý tạo ra những ký hiệu đó.
“Đi nào, nhớ đừng dừng lại đấy!”
Chúng tôi bước những bước gấp gáp theo sau ông lão Vệ Bất Hồi và đi hết con đường khúc khuỷu với tốc độ của những người thi đi bộ. Vì đã chuẩn bị tâm lý trước nên nỗi chán nản tăng lên chút đỉnh trong lòng không mang lại quá nhiều phiền phức cho chúng tôi. Qua một lối rẽ chuyển tiếp, chúng tôi lại thấy một cổng vòm. Ông lão Vệ Bất Hồi ra hiệu và thế là ba chúng tôi đứng song song nhau ngay dưới cổng vòm.
Không gian phía trước mặt là một hình tam giác dài và hẹp, nằm giữa mộ thất và mộ đạo. Chiếc cổng vòm chúng tôi đang đứng là nơi rộng nhất, càng về phía trước đường càng hẹp, ở đỉnh tam giác là một chiếc cổng vòm khác, hẹp đến nỗi chỉ đủ một người đi lọt.
Trong gian mộ thất này, tôi trông thấy ba bộ xương trắng. Và cả những mũi tên bằng sắt ngắn củn. Giống như những múi tên găm lên thi thể của Tôn Huy Tổ.
Ba bộ xương trắn đó dĩ nhiên là ba người còn lại trong số bốn anh em nhà họ Tôn.
“Tức giận”, Hạ Hầu Anh nói.
Cả tôi và ông lão Vệ Bất Hồi đều hiểu ý của Hạ Hầu Anh. Những ký hiệu trong gian mộ thất phía trước mặt chúng tôi tạo ra ám thị khiến con người tức giận.
Thực ra tôi đã cảm thấy bực bội trong lòng trước khi Hạ Hầu Anh nói ra điều ấy.
Tôi trông thấy một mảnh vải chưa bị mục nát nằm giữa ba bộ xương trắng. Mảnh vải được làm bằng chất liệu thần kì như thế chỉ có thể là nửa lá cờ còn lại.
“Chỉ dựa vào chút bản lĩnh học được từ ta, bốn anh em nhà họ Tôn đương nhiên không thể vượt qua gian mộ thất này. Ở chốn này, chỉ cần đi lệch nửa bước chân sẽ khiến các bẫy ngầm khởi động ngay”, ông lão Vệ Bất Hồi cất lời.
“Nhưng cháu thấy những phiến đá cẩm thạch trên bốn bức tường rất nhẵn, vậy những mũi tên này được bắn ra từ đâu hả bác?”
“Anh chàng ngốc ạ, có rất nhiều chỗ đều là những phiến đá rời, chúng sẽ xoay lật lại khi các bẫy ngầm vừa khởi động”.
Tôi cười hinh hích. Ngay cả “Vua trộm mộ” Vệ Bất Hồi nếu không có ám thị định tâm an thần của Hạ Hầu Anh bảo vệ, khi bước chân tới đây sẽ cảm thấy phẫn nộ khi công tâm, đâu còn tâm trí nào phân biệt chỗ nào đi được, chỗ nào không, kết cục vẫn cứ bị tên găm tua tủa. Bốn anh em nhà họ Tôn tuy có lá cờ làm bùa hộ mệnh, nhưng vì không am tường các bẫy ngầm nên rốt cuộc đều phải về với hoàng tuyền, không chỗ vùi xác. Thậm chí, trước lúc chết, họ tức tối tới mức xé rách lá cờ.
Ông lão Vệ Bất Hồi đang lúi húi tìm thứ gì đó trong ba lô. Tôi ngắm nghía gian mộ thất phía trước mặt, bất chợt nảy ra một ý nghĩ: “Từ lúc bước vào đây tới giờ, hình dạng của những gian mộ thất gần giống với một chữ Hán, chí ít thì con đường ngoằn ngoèo ban nãy và gian mộ thất hình tam giác trước mặt hợp lại với nhau sẽ tạo thành một nét móc câu, bác và em có cảm thấy như vậy không?”
Ông lão Vệ Bất Hồi ngừng tay, ngẩng đầu nhìn tôi.
“Anh cũng nhận ra rồi à?”, nói rồi Hạ Hầu Anh giơ ngón tay lên viết một chữ Hán trên không trung.
Gian mộ thất đầu tiên trông giống như một mảnh ruộng không có hình thù rõ rệt, thực ra là một nét chấm; gian mộ thất tiếp theo cong cong uốn lượn là nét móc câu; chữ Hán mà Hạ Hầu Anh vừa viết lên không trung là một chữ “tâm” theo thể chữ Hành.
Đồ nghề thám hiểm của ông lão Vệ Bất Hồi đơn giản hơn của Vệ Tiên nhiều, chỉ là một chiếc gậy kim loại. Sau mấy tiếng gõ "boong, boong" xuống nền đất, ông lão ngẩng đầu lên rồi thình lình nhảy lùi lại phía sau nửa bước, ngoái đầu nhìn Hạ Hầu Anh, chính xác hơn thì ông lão nhìn những ký hiệu trên quần áo của Hạ Hầu Anh.
"Là nỗi khiếp sợ", Hạ Hầu Anh nói, "ám thị được tạo bởi những ký hiệu trên bốn bức tường trong gian mộ thất này chính là nỗi khiếp sợ đấy!"
Tôi cũng có cảm giác ấy khi những ngọn đèn vừa được thắp lửa, nhưng nó chỉ nhè nhẹ cồn lên trong lòng. Hằn nhiên là nhờ tác dụng quan trọng của những ký hiệu ám thị trên quần áo của Hạ Hầu Anh.
Ông lão Vệ Bất Hồi cười hì hì: "Xem chừng lão già này lo sợ hão huyền rồi". Ông lão đắn đo một hồi trước gian mộ thất trống trơn rồi bảo: "Gian mộ thất này có lẽ không chôn giấu bẫy nào, hai người cẩn thận theo sau ta nhé!"
Hạ Hầu Anh gật đầu: "Không có bẫy ngầm cũng là điều rất bình thường thôi. Khả năng tác động của những kí hiệu ám thị vẽ ẩn trên bốn bức tường khá mạnh, ngay cả những người được bảo vệ liên tục bằng ám thị định tâm an thần của cháu như bác và anh vẫn cảm biết, người bình thường khi bước vào đây, dù không thắp lửa để nhìn thấy những ký hiệu chằng chịt đó, nhưng vẫn bị chúng làm cho hồn xiêu phách lạc mà phải lùi bước, cộng thêm với những ám hiệu chết chóc ở mộ đạo phía bên ngoài thì sớm muộn gì họ cũng biến thành hồn ma cho dẫu đã quay trở lại với thế giới trên mặt đất".
Gian mộ thất rộng chừng bốn, năm mét vuông này trông giống như một mảnh ruộng không có hình thù rõ rệt, bên trong không bày biện bất cứ vật trang trí nào, phía đối diện lại có một cổng vòm nữa.
"Hai người nhìn này!", ông lão Vệ Bất Hồi chỉ tay xuống dưới đất.
Tôi nhìn theo hướng tay ông lão chỉ va nhận thấy nền nhà lát đá cẩm thạch từ chỗ chúng tôi đứng tới cổng vòm ở phía đối diện rải rác những vệt màu đen sậm. Vết tích rất mờ nhạt nên phải quan sát thật kĩ mới trông rõ.
"Là vệt máu của Tôn Huy Tổ", tôi buột miệng.
Ông lão Vệ Bất Hồi gật đầu: "Máu thấm vào đá cẩm thạch, nhưng không có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy các bẫy ngầm đã bị khởi động".
"Chúng ta đi thôi bác. Ở mộ đạo phía ngoài là ám hiệu chết chóc, trong đây là ám hiệu khiếp sợ, bác cháu mình đi qua cái cổng vòm phía trước mặt, có lẽ sẽ gặp phải một ám hiệu khác", Hạ Hầu Anh nói.
Nghe Hạ Hầu Anh nói thế, trước khi tiếp tục tiến lên phía trước, ông lão Vệ Bất Hồi làm một động tác giống hệt tôi: nhìn đăm đăm vào bộ quần áo của Hạ Hầu Anh.
Ba người chúng tôi đã tới trước cổng vòm thứ hai. Ông lão Vệ Bất Hồi không bước ngay vào bên trong mộ thất, tôi và Hạ Hầu Anh đứng khựng lại ngay bên cạnh.
Bên trong là một gian mộ thất, nhưng nói đúng hơn thì nó là một mộ đạo gấp khúc.
Trên nền đá vẫn rải rác những vệt máu khiến tôi bất giác tưởng tượng ra cảnh Tôn Huy Tổ mình dầm dề máu cuống cuồng hoảng loạn chạy ra ngoài.
Có lẽ nút khởi động hệ thống đèn liên hoàn vạn năm ở cổng vòm thứ nhất đã cùng lúc thắp sáng tất cả đèn trong các gian mộ thất. Có điều, mộ đạo này ngoắt ngoéo quá nên không thể nhìn thấy điểm cuối của nó.
“Bác ơi, cháu thấy hình như cũng không có dấu hiệu nào cho thấy các bẫy ngầm đã bị khởi động, chẳng lẽ mộ đạo này cũng không có bẫy ngầm nào hả bác?”
Ông lão Vệ Bất Hồi ngồi xổm xuống, hai mắt dán chặt xuống nề nhà một hồi lâu, ông gõ gõ cây gậy kim loại mấy lần rồi đứng lên và nói: “Có đấy, nhưng chưa từng được khởi động”, vẻ mặt ông lão hơi nghiêm trọng.
“Chưa từng khởi động, tại sao lại như thế được nhỉ, chẳng lẽ Tôn Huy Tổ năm xưa chưa từng chạm đến các cơ quan đó ạ?”, lần này là Hạ Hầu Anh lên tiếng hỏi.
“Cơ chế khởi động của những bẫy ngầm được chôn giấu ở đây tương đối khác lạ. Loại bẫy này không thể được khởi động bằng cách đi bộ bình thường hoặc chạy nhanh được mà phải đứng yên một chỗ”.
“Thế thì đúng rồi!”, câu nói của Hạ Hầu Anh khiến tôi và ông lão Vệ Bất Hồi sửng sốt.
“Bác và anh không nhận thấy cảm giác của hai người lúc này đã khác trước rồi sao ạ?”
Ban nãy, lúc tiến lên phía trước, tôi thấy trong lòng có những cảm giác hơi khang khác, nhưng nhờ những ký hiệu hộ thân của Hạ Hầu Anh nên cảm giác khang khác đó chỉ như một làn gió thoảng. Giờ nghe Hạ Hầu Anh nói, tôi vừa đưa mắt nhìn về phía mộ đạo trước mặt, vừa từ từ cảm nhận trong lòng.
Đúng là có cảm giác khác so với cảm giác sợ hãi ban nãy thật. Nhưng nếu bảo tôi phải diễn tả nó bằng môt từ ngữ nào đó, tôi không biết phải dùng từ gì. Tôi ngó sang ông lão Vệ Bất Hồi. Ông lão cũng chung tâm trạng với tôi.
“Bác và anh chỉ bị tác động một chút thôi nên rất khó nhận ra. Những ký hiệu ám thị ở phía trước khiến con người ta cảm thấy chán nản”.
“Chán nản à?”, tôi thử so sánh với cảm giác trong lòng mình. Quả nhiên không sai.
“Ta biết rồi”, ông lão Vệ Bất Hồi lên tiếng, giọng trầm đục, “người bình thường khi chán nản cùng cực thường ngồi xổm xuống, ôm đầu khóc lóc thảm thiết, nếu là người tinh thần dẻo dai sẽ ngồi trong tư thế ấy một lúc, mà hễ ngồi như thế sẽ làm các bẫy ngầm lập tức khởi động”.
Hạ Hầu Anh gật đầu đồng tình: “Những ám thị không thể khiến người ta chết ngay tức khắc nhưng nếu kết hợp với các cơ quan, nơi này sẽ biến thành tử địa không người sống sót”.
“Nhưng tại sao năn xưa, bốn anh em nhà họ Tôn lại bình an vô sự nhỉ?”, câu hỏi vừa buột khỏi miệng, tôi đã có ngay đáp án.
“Là nhờ….”, Hạ Hầu Anh chưa nói hết câu tôi đã tiếp: “Lá cờ”.
“Đúng rồi đấy anh ạ. Em nhìn qua nửa lá cờ đó biết rằng, nếu ký hiệu trên đó kết hợp hoàn chỉnh với những ký hiệu trên nửa lá cờ bị mất thì chúng sẽ tạo hiệu quả giống như những ký hiệu em vẽ trên quần áo, có thể tác động tới những người ở quanh lá cờ. Nhưng lá cờ đó lại kèm cả ám hiệu gây khiếp sợ cho những người đứng ở xa nên khả năng tác động của nó không mạnh bằng khả năng tác động của những ám thị em tạo ra”.
Nhắc tới nửa lá cờ, đầu óc tôi bất giác lại hiện lên một câu hỏi không thể kìm nén được và bật ra ngoài: “Năm xưa, bốn anh em nhà họ Tôn vác lá cờ đi khắp nơi để tìm kiếm vị trí của ngôi mộ cổ này, khi tới khu vực gần với vị trí ngôi mộ cổ, họ nhận thấy có điểm báo; hơn nữa ám hiệu khiếp sợ của lá cờ đột nhiên bùng phát mạnh hơn bình thường cả chục lần, em giải thích hiện tượng này thế nào?”
Hạ Hầu Anh tư lự hồi lâu rồi nói: “Em cũng không mấy chắc chắn về nguyên lý hoạt động của nó, bởi lẽ có nhiều thứ lắm, em chỉ biết một vài điều chứ không thể biết tất cả. Nhưng…”, Hạ Hầu Anh chỉ tay về mộ đạo phía trước, tiếp tục: “Lát nữa đi tiếp, bác và anh phải có sự chuẩn bị tâm lý trước đấy nhé, vì nỗi chán chường sẽ tăng lên nhiều so với lúc chúng ta đứng ở đây và nhìn vào nó. Bác và anh phải nhớ đừng đứng ngây ra để làm khởi động các hệ thống đấy nhé!”
“Ồ?”
“Nếu chỉ là một vài ký hiệu ám thị đơn giản thì về cơ bản, chúng chỉ phát huy tác dụng khi bị nhìn thằng bằng mắt thường. Khi nhiều ký hiệu được xếp đặt san sát nhau theo một quy luật đặc biệt nào đó, chúng sẽ tự phát huy tác dụng. Nguyên lý này hơi giống với nguyên lý của những trận pháo ở thời Trung Quốc cổ đại. Nhưng anh đừng vơ đũa cả nắm chúng với những trận chiến của quân đội thời cổ, vì đó là hai việc hoàn toàn khác nhau”.
“Anh biết điều này mà. Còn nhớ, năm xưa anh từng bị vây khốn tới mức suýt bỏ mạng trong hang người trong ngọn núi Thần Nông, chẳng phải vì Khốn Long Mặt Trận của Tiêu Tú Vân hay sao?”
Hạ Hầu Anh hơi bất ngờ: “Xem ra anh cũng đi nhiều biết rộng đấy nhỉ! Nếu phải dùng một từ ngữ gần nghĩa nhất để lý giải theo khoa học hiện đại bây giờ thì đó chính là lực trường. Những ký hiệu này có thể tạo ra một lực trường tâm lý ở bên ngoài hình vẽ của chúng, có thể tác động tới những người ở cách trung tâm lực trường một khoảng nhất định. Nếu hai lực trường như thé gặp nhau có thể sẽ trung hòa và không xảy ra chuyện gì, hoặc cũng có thể…”
Hạ Hầu Anh không nói tiếp nhưng tôi đã hiểu những lời dang dở của cô ấy. Sự việc bất ngờ xảy ra năm xưa là kết quả của việc hai lực trường tâm lý tạo ra từ lá cờ và từ ngôi mộ cổ dưới lòng đất gặp nhau. Chỉ có điều, vì sao sau khi hai trường lực tâm lý này gặp nhau, trong khoảnh khắc lại tạo ra một lực trường có khả năng gây ra nỗi kinh hoàng lớn đến thế cho con người rồi ngay sau đó lại trở về trạng thái ban đầu, câu hỏi này e rằng những con người như chúng ta không thể giải thích rõ được nếu chỉ dựa vào những suy đoán đơn giản. Chí ít, chúng ta cũng phải hiểu nguyên lý tạo ra những ký hiệu đó.
“Đi nào, nhớ đừng dừng lại đấy!”
Chúng tôi bước những bước gấp gáp theo sau ông lão Vệ Bất Hồi và đi hết con đường khúc khuỷu với tốc độ của những người thi đi bộ. Vì đã chuẩn bị tâm lý trước nên nỗi chán nản tăng lên chút đỉnh trong lòng không mang lại quá nhiều phiền phức cho chúng tôi. Qua một lối rẽ chuyển tiếp, chúng tôi lại thấy một cổng vòm. Ông lão Vệ Bất Hồi ra hiệu và thế là ba chúng tôi đứng song song nhau ngay dưới cổng vòm.
Không gian phía trước mặt là một hình tam giác dài và hẹp, nằm giữa mộ thất và mộ đạo. Chiếc cổng vòm chúng tôi đang đứng là nơi rộng nhất, càng về phía trước đường càng hẹp, ở đỉnh tam giác là một chiếc cổng vòm khác, hẹp đến nỗi chỉ đủ một người đi lọt.
Trong gian mộ thất này, tôi trông thấy ba bộ xương trắng. Và cả những mũi tên bằng sắt ngắn củn. Giống như những múi tên găm lên thi thể của Tôn Huy Tổ.
Ba bộ xương trắn đó dĩ nhiên là ba người còn lại trong số bốn anh em nhà họ Tôn.
“Tức giận”, Hạ Hầu Anh nói.
Cả tôi và ông lão Vệ Bất Hồi đều hiểu ý của Hạ Hầu Anh. Những ký hiệu trong gian mộ thất phía trước mặt chúng tôi tạo ra ám thị khiến con người tức giận.
Thực ra tôi đã cảm thấy bực bội trong lòng trước khi Hạ Hầu Anh nói ra điều ấy.
Tôi trông thấy một mảnh vải chưa bị mục nát nằm giữa ba bộ xương trắng. Mảnh vải được làm bằng chất liệu thần kì như thế chỉ có thể là nửa lá cờ còn lại.
“Chỉ dựa vào chút bản lĩnh học được từ ta, bốn anh em nhà họ Tôn đương nhiên không thể vượt qua gian mộ thất này. Ở chốn này, chỉ cần đi lệch nửa bước chân sẽ khiến các bẫy ngầm khởi động ngay”, ông lão Vệ Bất Hồi cất lời.
“Nhưng cháu thấy những phiến đá cẩm thạch trên bốn bức tường rất nhẵn, vậy những mũi tên này được bắn ra từ đâu hả bác?”
“Anh chàng ngốc ạ, có rất nhiều chỗ đều là những phiến đá rời, chúng sẽ xoay lật lại khi các bẫy ngầm vừa khởi động”.
Tôi cười hinh hích. Ngay cả “Vua trộm mộ” Vệ Bất Hồi nếu không có ám thị định tâm an thần của Hạ Hầu Anh bảo vệ, khi bước chân tới đây sẽ cảm thấy phẫn nộ khi công tâm, đâu còn tâm trí nào phân biệt chỗ nào đi được, chỗ nào không, kết cục vẫn cứ bị tên găm tua tủa. Bốn anh em nhà họ Tôn tuy có lá cờ làm bùa hộ mệnh, nhưng vì không am tường các bẫy ngầm nên rốt cuộc đều phải về với hoàng tuyền, không chỗ vùi xác. Thậm chí, trước lúc chết, họ tức tối tới mức xé rách lá cờ.
Ông lão Vệ Bất Hồi đang lúi húi tìm thứ gì đó trong ba lô. Tôi ngắm nghía gian mộ thất phía trước mặt, bất chợt nảy ra một ý nghĩ: “Từ lúc bước vào đây tới giờ, hình dạng của những gian mộ thất gần giống với một chữ Hán, chí ít thì con đường ngoằn ngoèo ban nãy và gian mộ thất hình tam giác trước mặt hợp lại với nhau sẽ tạo thành một nét móc câu, bác và em có cảm thấy như vậy không?”
Ông lão Vệ Bất Hồi ngừng tay, ngẩng đầu nhìn tôi.
“Anh cũng nhận ra rồi à?”, nói rồi Hạ Hầu Anh giơ ngón tay lên viết một chữ Hán trên không trung.
Gian mộ thất đầu tiên trông giống như một mảnh ruộng không có hình thù rõ rệt, thực ra là một nét chấm; gian mộ thất tiếp theo cong cong uốn lượn là nét móc câu; chữ Hán mà Hạ Hầu Anh vừa viết lên không trung là một chữ “tâm” theo thể chữ Hành.
Tác giả :
Na Đa