Lá Cờ Ma
Chương 2
Tôi tiện tay giở lại mấy trang phía trước của bức ảnh. Ảnh những công trình kiến trúc khác đều được chụp cận cảnh, độ lớn của bức ảnh chỉ bằng một nửa trang sách, nhưng bức ảnh chụp bốn tòa nhà ba tầng này lại được chụp từ xa và to bằng một trang sách. Tôi lại giở trang ngay sau bức ảnh, trên đó hiện lên bốn bức ảnh chụp cận cảnh tòa nhà ba tầng, kích thước tương đối nhỏ và một số thông tin bằng chữ viết. Chắc hẳn lúc biên tập, biên tập viên cũng cảm thấy bức ảnh này thật kì lạ nên đã đặc biệt lưu tâm đến nó.
Tôi lật trở lại trang có bức ảnh lớn và tập trung quan sát nó một cách tỉ mỉ. Thứ tự sắp xếp của bốn tòa nhà rất lạ, mỗi tòa nhà cách nhau một quãng nhất định, hai tòa nhà phía trước, một tòa nhà phía sau và một tòa nhà phía sau cùng. Tôi cảm thấy thứ tự sắp xếp như vậy không ổn, bèn giở phần giới thiệu bằng chữ viết ở trang sau, quả nhiên có đoạn: “Khi bốn anh em nhà họ Tôn chung tay xây dựng bốn tòa nhà, họ đã lấy tòa nhà của người anh cả làm tòa nhà trung tâm, ba tòa nhà còn lại được bố trí quanh tòa nhà trung tâm theo hình “chữ phẩm[1]”, mỗi tòa nhà cách nhau khoảng năm, sáu trăm mét”. Tôi lật lại trang trước, đối chiếu với bức ảnh, đúng là hình chữ phẩm thật. Tôi bất giác chau mày. Dãy nhà này năm xưa không phải là khu tô giới, thế thì vì sao máy bay Nhật ném bom các khu vực xung quanh mà lại để chừa một vùng mù[2] lớn như vậy?
[1] Chữ phẩm: tiếng Trung viết là 品
[2] Vùng mù: nơi mà ra-đa không phát hiện ra được.
Không phải, dãy nhà này không phải là một vùng mù, nó được người ta cố ý lưu giữ lại nên không ném bom, liệu có đúng thế không?
Khỉ thật, ngay cả khi người ta ứng dụng kĩ thuật dẫn hướng chính xác của Mỹ hiện nay, cũng không thể bảo vệ bốn tòa nhà ba tầng này nguyên vẹn như thế được. Cứ cho là quân Nhật năm xưa có lòng từ bi, không muốn ném bom bốn tòa nhà này đi nữa, chúng cũng không thể làm một cách chuẩn xác và tuyệt vời như thế này được.
Phần giới thiệu bằng chữ viết có nhắc đến nguyên nhân vì sao bốn tòa nhà ba tầng lại được bảo vệ nguyên vẹn, về cơ bản nó khá thống nhất với thông tin đã đăng tải trên báo “Tân Dân buổi tối”: “Người nước ngoài giương lá cờ nước ngoài, máy bay Nhật trông thấy lá cờ nên thôi không ném bom nữa”.
Có rất nhiều sự việc khi ai đó đã đưa ra câu trả lời thì hầu hết những người khác sẽ không tiếp tục đi sâu tìm hiểu nữa, tình hình diễn ra trước mắt chính là một ví dụ như thế. Nhưng với một phóng viên phải viết bài thể hiện sự điều tra ở mức độ sâu sắc hơn như tôi thì tôi không thể cho phép mình để thói lười biếng trong suy nghĩ tiếp diễn mãi.
Có điều, càng suy nghĩ tôi càng thấy có quá nhiều điểm nghi vấn mà bản thân không tìm ra một lời giải nào.
Câu hỏi đầu tiên, lá cờ ấy là quốc kì của nước nào? Tiếp nữa, vì sao những người nước ngoài ấy không ở trong khu tô giới? Có bao nhiêu người nước ngoài và bao nhiêu lá cờ? Nếu những lá cờ được giương lên từ cả bốn tòa nhà, thì nhiều người nước ngoài như vậy, họ tập trung tại dãy nhà ba tầng bằng cách nào?
Cứ cho là những giả thuyết nêu trên đều có thực, nhưng làm sao phi công trên máy bay có thể để ý tới lá cờ nhỏ xíu ở bên dưới? Mà dẫu phi công để ý tới lá cờ đi nữa thì trong hoàn cảnh chiến tranh như thế, với bản tính kiêu căng ngạo mạn và khát máu, dã tâm gây chiến sục sôi của quân xâm lược Nhật, liệu phi công của Nhật có vì lá cờ bé tẹo ấy mà để yên cho cả bốn tòa nhà?
Cứ cho là lũ phi công Nhật quyết tâm không ném bom bốn tòa nhà, nhưng điều lạ lùng hơn cả là làm thế nào chúng có thể phá nát những công trình kiến trúc xung quanh bốn tòa nhà mà không mảy may làm ảnh hưởng tới bốn tòa nhà đó, và cả bốn tòa nhà vẫn nguyên vẹn? Không lẽ vào thời khắc đó, lũ phi công Nhật có thể khống chế phạm vi ném bom chính xác trong vòng mười mét chỉ bằng sự quan sát của mắt thường?
Những câu hỏi không có lời giải đáp này quay cuồng trong đầu óc tôi hồi lâu. Rồi đột nhiên nụ cười của tôi tắt ngấm, một cảnh tượng vượt ra ngoài sức tưởng tượng, một kì tích khó lý giải chẳng phải là lý do tốt nhất để người ta phải giữ gìn và bảo tồn dãy nhà ba tầng hay sao? Chỉ cần xào xáo thêm một chút thì bất kể độc giả nào khi đọc bài viết cũng sẽ đồng tình với quan điểm, bốn tòa nhà đứng sừng sững, không đổ gục trong mưa bom bão đạn của quân xâm lược Nhật như một huyền thoại năm xưa, lẽ nào không gìn giữ nổi phân nửa trong hòa bình ngày nay? Chỉ cần như thế, người ta sẽ thôi không quan tâm tới việc dáng vẻ bề ngoài của bốn tòa nhà này hết sức bình thường, không có gì đặc biệt, và người xây dựng nó, bốn anh em nhà họ Tôn tuy lắm tiền nhiều của nhưng cũng không thuộc loại nhân vật tiếng tăm hiển hách gì.
Tôi hoàn tất những việc cần làm: phô tô, scan bức ảnh, trả sách rồi vui vẻ bước ra khỏi Thư viện Thượng Hải. Nội dung chính của bài báo đã có, bố cục ra sao cũng đã hiện ra trong đầu, việc tiếp theo chỉ là tìm gặp và phỏng vấn những người đã từng sống trong “khu ba tầng” và từng trải qua trận oanh tạc năm xưa, nghe họ kể chi tiết về huyền thoại đã xảy ra ngày ấy. Đến đây thì nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành. Theo ghi chép trong tài liệu, năm xưa, khi bốn anh em nhà họ Tôn mua lại bốn mảnh đất này có thỏa thuận rõ với những người chủ cũ, sau khi xây xong bốn tòa nhà sẽ dành một số gian phòng nhất định cho họ về ở, vì thế, cũng có một vài người dân thường lại quay trở về nơi ở cũ sau khi “khu ba tầng” được xây xong. Hành động này chứng tỏ, tuy anh em nhà họ Tôn làm ăn buôn bán trong lĩnh vực gì không ai biết, song họ vẫn có phong thái của “nhà tư bản đỏ[3]”.
[3] Nhà tư bản đỏ: là từ để chỉ những nhà tư bản yêu nước cống hiến cho lợi ích quốc gia, vì hòa bình dân tộc thống nhất đất nước.
Buổi chiều, tôi tới đầu ngõ ngõ 85 đường Dụ Thông và dễ dàng tìm thấy một trong hai tòa nhà ba tầng hiện còn lại. Trước khi đi vào ngõ, tôi đứng ở cổng chụp một bức ảnh. Tôi cần một bức ảnh chụp của thời điểm hiện tại để so sánh với bức ảnh chụp cách đây 67 năm khi đăng bài viết.
Bây giờ, đứng ngay trước tòa nhà, tôi mới thấy trạng thái của nó giống hệt hình ảnh bốn tòa nhà hiện lên trong bức ảnh chụp cận cảnh được in trong cuốn sách ở Thư viện Thượng Hải, chỉ trừ bức tường xám xịt bên ngoài khiến người ta cảm nhận được sự già nua, cũ kĩ của nó. Thật thế, nó là một tòa nhà ba tầng hết sức bình thường, không có một nét độc đáo nào về mặt kiến trúc hay nghệ thuật thẩm mĩ. Tòa nhà ba tầng này chỉ có một điểm đặc biệt duy nhất, đó là mỗi tầng nhà của nó được xây rất cao, độ cao của tòa nhà tương đương với một tòa nhà năm tầng bây giờ. Nếu không tìm được bức ảnh của sáu mươi bảy năm về trước làm điểm dẫn thì tôi thực sự không thể tìm ra bất kì lý do nào để thuyết phục người ta đừng nên phá bỏ nó.
“Tổ dân phố khu nhà ba tầng” nằm ở tầng một của tòa nhà ba tầng này. Bác tổ trưởng Chu không có mặt ở văn phòng nên bác tổ phó Dương tiếp tôi. Bác Dương hồ hởi giới thiệu với tôi về tòa nhà, chỉ có điều những gì bác nói tôi đều biết cả. Phải hơn nửa tiếng sau, tôi mới có cơ hội ngắt lời bác, hỏi bác xem còn khoảng bao nhiêu cư dân cũ hiện nay còn sinh sống trong “khu ba tầng”.
“Ý anh muốn nói là những người bắt đầu sống ở đây từ khi nó mới xây cho tới tận bây giờ?”, bác Dương nhíu mày hỏi tôi.
Bác ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo, những cư dân cũ như thế hiện còn rất ít. Người dân trong khu hiện giờ phần lớn là những gia đình mới chuyển đến ở từ trước hoặc sau “Cách mạng văn hóa[4]”, những gia đình cũ người thì chuyển đi, người thì đã khuất, bởi lẽ từ ngày ấy đến nay đã qua hơn sáu mươi năm thăng trầm.
[4] Cách mạng văn hóa, hay còn gọi là Đại cách mạng văn hóa giai cấp vô sản, là một giai đoạn lịch sử xã hội hỗn loạn và tình trạng vô chính phủ diễn ra trong vòng mười năm, từ năm 1966 đến năm 1976 ở Trung Quốc, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của đời sống, chính trị, văn hóa, xã hội của Trung Quốc. Ngoài ra, cuộc cách mạng này đã làm thay đổi quan niệm xã hội, chính trị và đạo đức của quốc gia này một cách sâu sắc và toàn diện.
“Ở tòa nhà này thì không còn ai đâu anh ạ, nhưng ở tòa nhà phía sau thì còn hai người đấy, lão Trương gàn dở ở tầng hai và Tô lão tiên sinh Tô Dật Tài ở tầng ba, cả hai đều ngoài tám mươi rồi.”
Tôi chú ý tới sự thay đổi thoáng qua trong cách gọi tên của bác tổ phó Dương. Cả hai ông lão đều ngoại bát tuần, vậy mà bác Dương lại dùng hai cách xưng hô khác nhau. Hình như bác không mấy tôn trọng lão Trương gàn dở thì phải.
“Tô lão tiên sinh thật đúng là một người có lòng từ bi rộng mở, không thể kể hết những việc thiện mà ông lão đã làm trong suốt bao nhiêu năm qua, dù những việc ấy ông lão làm trước người khác hay làm sau người khác. Nghe nói, ông lão đã quyên góp cho Công trình hi vọng[5] mấy trăm nghìn Nhân dân tệ. Năm ngoái, anh con rể nhà ông Lý bị ung thư gan, lão Tô cũng âm thầm tăng ba mươi nghìn tệ. Còn lão Trương gàn dở ấy à, không có được thiện tâm như thế. Lão ta thích sống cô độc, chẳng mấy khi quan tâm tới người khác”. Bác tổ phó Dương bắt đầu giới thiệu với tôi về hai ông lão.
[5] “Công trình hi vọng” là cách gọi khác của “Quỹ phát triển thanh thiếu niên Trung Quốc” ra đời vào năm 1989. Từ khi mới thành lập cho đến nay, “Công trình hi vọng” đã giúp cho hàng vạn trẻ em thất học có cơ hội trở lại trường học.
“Lão Trương gàn dở tên đầy đủ là gì ạ?”, tôi không thể để nguyên cách xưng hô này trong bài viết, nếu phải trực tiếp hỏi ông lão thích sống lẻ loi ấy tên của ông lão, thà rằng tôi hỏi luôn bác tổ phó Dương cho rõ ràng.
“Lão ta tên là Trương Khinh. Nói thật lòng nhé, tôi thấy hai ông lão này cũng thật kì quái, từ bao nhiêu năm nay, hai ông lão ấy đều sống một mình, không người nào thành gia lập thất, vả lại người dân trong khu chưa bao giờ nhìn thấy cha mẹ, họ hàng thân thích của hai ông lão, hai ông ấy cứ lủi thủi một mình. Hơn nữa, họ cũng không hề hé răng chuyện ngày xưa, không biết hôm nay, hai ông lão có kể cho anh không”.
Quý tộc độc thân tuổi ngoài tám mươi ư? Tôi bất giác sững người. Một việc hiếm thấy, vậy mà ở đây lại xuất hiện hai con người như thế. Họ chưa bao giờ nhắc tới quá khứ ngày xưa… bức ảnh của sáu mươi bảy năm về trước lại lướt qua trong trí óc tôi.
Tôi cố gắng kìm nén mối nghi hoặc trong lòng, đứng dậy nói lời cáo biệt với bác tổ phó Dương. Chưa tiếp xúc chưa thể nói gì được, biết đâu hai ông lão lại vui vẻ tiết lộ điều gì đó với một anh phóng viên như tôi thì sao.
“Anh phải đi thêm một đoạn khá xa nữa vào trong ngõ mới nhìn thấy tòa nhà cần tìm thấy”, bác tổ phó Dương nhắc nhở tôi.
Tôi lật trở lại trang có bức ảnh lớn và tập trung quan sát nó một cách tỉ mỉ. Thứ tự sắp xếp của bốn tòa nhà rất lạ, mỗi tòa nhà cách nhau một quãng nhất định, hai tòa nhà phía trước, một tòa nhà phía sau và một tòa nhà phía sau cùng. Tôi cảm thấy thứ tự sắp xếp như vậy không ổn, bèn giở phần giới thiệu bằng chữ viết ở trang sau, quả nhiên có đoạn: “Khi bốn anh em nhà họ Tôn chung tay xây dựng bốn tòa nhà, họ đã lấy tòa nhà của người anh cả làm tòa nhà trung tâm, ba tòa nhà còn lại được bố trí quanh tòa nhà trung tâm theo hình “chữ phẩm[1]”, mỗi tòa nhà cách nhau khoảng năm, sáu trăm mét”. Tôi lật lại trang trước, đối chiếu với bức ảnh, đúng là hình chữ phẩm thật. Tôi bất giác chau mày. Dãy nhà này năm xưa không phải là khu tô giới, thế thì vì sao máy bay Nhật ném bom các khu vực xung quanh mà lại để chừa một vùng mù[2] lớn như vậy?
[1] Chữ phẩm: tiếng Trung viết là 品
[2] Vùng mù: nơi mà ra-đa không phát hiện ra được.
Không phải, dãy nhà này không phải là một vùng mù, nó được người ta cố ý lưu giữ lại nên không ném bom, liệu có đúng thế không?
Khỉ thật, ngay cả khi người ta ứng dụng kĩ thuật dẫn hướng chính xác của Mỹ hiện nay, cũng không thể bảo vệ bốn tòa nhà ba tầng này nguyên vẹn như thế được. Cứ cho là quân Nhật năm xưa có lòng từ bi, không muốn ném bom bốn tòa nhà này đi nữa, chúng cũng không thể làm một cách chuẩn xác và tuyệt vời như thế này được.
Phần giới thiệu bằng chữ viết có nhắc đến nguyên nhân vì sao bốn tòa nhà ba tầng lại được bảo vệ nguyên vẹn, về cơ bản nó khá thống nhất với thông tin đã đăng tải trên báo “Tân Dân buổi tối”: “Người nước ngoài giương lá cờ nước ngoài, máy bay Nhật trông thấy lá cờ nên thôi không ném bom nữa”.
Có rất nhiều sự việc khi ai đó đã đưa ra câu trả lời thì hầu hết những người khác sẽ không tiếp tục đi sâu tìm hiểu nữa, tình hình diễn ra trước mắt chính là một ví dụ như thế. Nhưng với một phóng viên phải viết bài thể hiện sự điều tra ở mức độ sâu sắc hơn như tôi thì tôi không thể cho phép mình để thói lười biếng trong suy nghĩ tiếp diễn mãi.
Có điều, càng suy nghĩ tôi càng thấy có quá nhiều điểm nghi vấn mà bản thân không tìm ra một lời giải nào.
Câu hỏi đầu tiên, lá cờ ấy là quốc kì của nước nào? Tiếp nữa, vì sao những người nước ngoài ấy không ở trong khu tô giới? Có bao nhiêu người nước ngoài và bao nhiêu lá cờ? Nếu những lá cờ được giương lên từ cả bốn tòa nhà, thì nhiều người nước ngoài như vậy, họ tập trung tại dãy nhà ba tầng bằng cách nào?
Cứ cho là những giả thuyết nêu trên đều có thực, nhưng làm sao phi công trên máy bay có thể để ý tới lá cờ nhỏ xíu ở bên dưới? Mà dẫu phi công để ý tới lá cờ đi nữa thì trong hoàn cảnh chiến tranh như thế, với bản tính kiêu căng ngạo mạn và khát máu, dã tâm gây chiến sục sôi của quân xâm lược Nhật, liệu phi công của Nhật có vì lá cờ bé tẹo ấy mà để yên cho cả bốn tòa nhà?
Cứ cho là lũ phi công Nhật quyết tâm không ném bom bốn tòa nhà, nhưng điều lạ lùng hơn cả là làm thế nào chúng có thể phá nát những công trình kiến trúc xung quanh bốn tòa nhà mà không mảy may làm ảnh hưởng tới bốn tòa nhà đó, và cả bốn tòa nhà vẫn nguyên vẹn? Không lẽ vào thời khắc đó, lũ phi công Nhật có thể khống chế phạm vi ném bom chính xác trong vòng mười mét chỉ bằng sự quan sát của mắt thường?
Những câu hỏi không có lời giải đáp này quay cuồng trong đầu óc tôi hồi lâu. Rồi đột nhiên nụ cười của tôi tắt ngấm, một cảnh tượng vượt ra ngoài sức tưởng tượng, một kì tích khó lý giải chẳng phải là lý do tốt nhất để người ta phải giữ gìn và bảo tồn dãy nhà ba tầng hay sao? Chỉ cần xào xáo thêm một chút thì bất kể độc giả nào khi đọc bài viết cũng sẽ đồng tình với quan điểm, bốn tòa nhà đứng sừng sững, không đổ gục trong mưa bom bão đạn của quân xâm lược Nhật như một huyền thoại năm xưa, lẽ nào không gìn giữ nổi phân nửa trong hòa bình ngày nay? Chỉ cần như thế, người ta sẽ thôi không quan tâm tới việc dáng vẻ bề ngoài của bốn tòa nhà này hết sức bình thường, không có gì đặc biệt, và người xây dựng nó, bốn anh em nhà họ Tôn tuy lắm tiền nhiều của nhưng cũng không thuộc loại nhân vật tiếng tăm hiển hách gì.
Tôi hoàn tất những việc cần làm: phô tô, scan bức ảnh, trả sách rồi vui vẻ bước ra khỏi Thư viện Thượng Hải. Nội dung chính của bài báo đã có, bố cục ra sao cũng đã hiện ra trong đầu, việc tiếp theo chỉ là tìm gặp và phỏng vấn những người đã từng sống trong “khu ba tầng” và từng trải qua trận oanh tạc năm xưa, nghe họ kể chi tiết về huyền thoại đã xảy ra ngày ấy. Đến đây thì nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành. Theo ghi chép trong tài liệu, năm xưa, khi bốn anh em nhà họ Tôn mua lại bốn mảnh đất này có thỏa thuận rõ với những người chủ cũ, sau khi xây xong bốn tòa nhà sẽ dành một số gian phòng nhất định cho họ về ở, vì thế, cũng có một vài người dân thường lại quay trở về nơi ở cũ sau khi “khu ba tầng” được xây xong. Hành động này chứng tỏ, tuy anh em nhà họ Tôn làm ăn buôn bán trong lĩnh vực gì không ai biết, song họ vẫn có phong thái của “nhà tư bản đỏ[3]”.
[3] Nhà tư bản đỏ: là từ để chỉ những nhà tư bản yêu nước cống hiến cho lợi ích quốc gia, vì hòa bình dân tộc thống nhất đất nước.
Buổi chiều, tôi tới đầu ngõ ngõ 85 đường Dụ Thông và dễ dàng tìm thấy một trong hai tòa nhà ba tầng hiện còn lại. Trước khi đi vào ngõ, tôi đứng ở cổng chụp một bức ảnh. Tôi cần một bức ảnh chụp của thời điểm hiện tại để so sánh với bức ảnh chụp cách đây 67 năm khi đăng bài viết.
Bây giờ, đứng ngay trước tòa nhà, tôi mới thấy trạng thái của nó giống hệt hình ảnh bốn tòa nhà hiện lên trong bức ảnh chụp cận cảnh được in trong cuốn sách ở Thư viện Thượng Hải, chỉ trừ bức tường xám xịt bên ngoài khiến người ta cảm nhận được sự già nua, cũ kĩ của nó. Thật thế, nó là một tòa nhà ba tầng hết sức bình thường, không có một nét độc đáo nào về mặt kiến trúc hay nghệ thuật thẩm mĩ. Tòa nhà ba tầng này chỉ có một điểm đặc biệt duy nhất, đó là mỗi tầng nhà của nó được xây rất cao, độ cao của tòa nhà tương đương với một tòa nhà năm tầng bây giờ. Nếu không tìm được bức ảnh của sáu mươi bảy năm về trước làm điểm dẫn thì tôi thực sự không thể tìm ra bất kì lý do nào để thuyết phục người ta đừng nên phá bỏ nó.
“Tổ dân phố khu nhà ba tầng” nằm ở tầng một của tòa nhà ba tầng này. Bác tổ trưởng Chu không có mặt ở văn phòng nên bác tổ phó Dương tiếp tôi. Bác Dương hồ hởi giới thiệu với tôi về tòa nhà, chỉ có điều những gì bác nói tôi đều biết cả. Phải hơn nửa tiếng sau, tôi mới có cơ hội ngắt lời bác, hỏi bác xem còn khoảng bao nhiêu cư dân cũ hiện nay còn sinh sống trong “khu ba tầng”.
“Ý anh muốn nói là những người bắt đầu sống ở đây từ khi nó mới xây cho tới tận bây giờ?”, bác Dương nhíu mày hỏi tôi.
Bác ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo, những cư dân cũ như thế hiện còn rất ít. Người dân trong khu hiện giờ phần lớn là những gia đình mới chuyển đến ở từ trước hoặc sau “Cách mạng văn hóa[4]”, những gia đình cũ người thì chuyển đi, người thì đã khuất, bởi lẽ từ ngày ấy đến nay đã qua hơn sáu mươi năm thăng trầm.
[4] Cách mạng văn hóa, hay còn gọi là Đại cách mạng văn hóa giai cấp vô sản, là một giai đoạn lịch sử xã hội hỗn loạn và tình trạng vô chính phủ diễn ra trong vòng mười năm, từ năm 1966 đến năm 1976 ở Trung Quốc, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của đời sống, chính trị, văn hóa, xã hội của Trung Quốc. Ngoài ra, cuộc cách mạng này đã làm thay đổi quan niệm xã hội, chính trị và đạo đức của quốc gia này một cách sâu sắc và toàn diện.
“Ở tòa nhà này thì không còn ai đâu anh ạ, nhưng ở tòa nhà phía sau thì còn hai người đấy, lão Trương gàn dở ở tầng hai và Tô lão tiên sinh Tô Dật Tài ở tầng ba, cả hai đều ngoài tám mươi rồi.”
Tôi chú ý tới sự thay đổi thoáng qua trong cách gọi tên của bác tổ phó Dương. Cả hai ông lão đều ngoại bát tuần, vậy mà bác Dương lại dùng hai cách xưng hô khác nhau. Hình như bác không mấy tôn trọng lão Trương gàn dở thì phải.
“Tô lão tiên sinh thật đúng là một người có lòng từ bi rộng mở, không thể kể hết những việc thiện mà ông lão đã làm trong suốt bao nhiêu năm qua, dù những việc ấy ông lão làm trước người khác hay làm sau người khác. Nghe nói, ông lão đã quyên góp cho Công trình hi vọng[5] mấy trăm nghìn Nhân dân tệ. Năm ngoái, anh con rể nhà ông Lý bị ung thư gan, lão Tô cũng âm thầm tăng ba mươi nghìn tệ. Còn lão Trương gàn dở ấy à, không có được thiện tâm như thế. Lão ta thích sống cô độc, chẳng mấy khi quan tâm tới người khác”. Bác tổ phó Dương bắt đầu giới thiệu với tôi về hai ông lão.
[5] “Công trình hi vọng” là cách gọi khác của “Quỹ phát triển thanh thiếu niên Trung Quốc” ra đời vào năm 1989. Từ khi mới thành lập cho đến nay, “Công trình hi vọng” đã giúp cho hàng vạn trẻ em thất học có cơ hội trở lại trường học.
“Lão Trương gàn dở tên đầy đủ là gì ạ?”, tôi không thể để nguyên cách xưng hô này trong bài viết, nếu phải trực tiếp hỏi ông lão thích sống lẻ loi ấy tên của ông lão, thà rằng tôi hỏi luôn bác tổ phó Dương cho rõ ràng.
“Lão ta tên là Trương Khinh. Nói thật lòng nhé, tôi thấy hai ông lão này cũng thật kì quái, từ bao nhiêu năm nay, hai ông lão ấy đều sống một mình, không người nào thành gia lập thất, vả lại người dân trong khu chưa bao giờ nhìn thấy cha mẹ, họ hàng thân thích của hai ông lão, hai ông ấy cứ lủi thủi một mình. Hơn nữa, họ cũng không hề hé răng chuyện ngày xưa, không biết hôm nay, hai ông lão có kể cho anh không”.
Quý tộc độc thân tuổi ngoài tám mươi ư? Tôi bất giác sững người. Một việc hiếm thấy, vậy mà ở đây lại xuất hiện hai con người như thế. Họ chưa bao giờ nhắc tới quá khứ ngày xưa… bức ảnh của sáu mươi bảy năm về trước lại lướt qua trong trí óc tôi.
Tôi cố gắng kìm nén mối nghi hoặc trong lòng, đứng dậy nói lời cáo biệt với bác tổ phó Dương. Chưa tiếp xúc chưa thể nói gì được, biết đâu hai ông lão lại vui vẻ tiết lộ điều gì đó với một anh phóng viên như tôi thì sao.
“Anh phải đi thêm một đoạn khá xa nữa vào trong ngõ mới nhìn thấy tòa nhà cần tìm thấy”, bác tổ phó Dương nhắc nhở tôi.
Tác giả :
Na Đa