Kim Ngọc Kỳ Ngoại
Chương 110 Xuất Thế, Hạ Tuyết
Biên tập: Ginny.
Thai song sinh bình thường đã rất khó sinh, huống chi An Thị còn bị sinh non, biết tin phụ thân qua đời, An Thị đau thương không chống đỡ nổi, lòng tràn lên từng cơn tự trách, khi phụ thân còn sống không tận hiếu tâm, hối hận chất chồng trong ngực, nào còn sức để sinh hai bé.
Bà đỡ phải đút hết mấy chén thuốc bổ, giằng co tới tận nửa đêm mà đứa bé trong bụng vẫn chưa có dấu hiệu ra đời.
Cứ như vậy tới tận khuya.
Diệp lão gia tử là người xưa nay không tin Thần Phật, vậy mà cũng đến Phật đường tụng kinh niệm Phật suốt cả một ngày để cầu phúc cho con dâu và tôn nhi.
Diệp Nham Bách nắm chặt tay An Thị, nhận ra phu nhân mỗi lúc một suy yếu, hơi thở cũng dần mỏng đi, ông lo đến độ hai mắt đỏ bừng, chỉ hận không thể lấy thân mình chịu thay nỗi đau này cho An Thị.
Từ xưa đã có câu nữ tử khi sinh gần như bước nửa bước vào Quỷ môn quan, Diệp Nham Bách hối hận không để đâu cho hết, ông sao lại để phu nhân mình sinh con ở cái tuổi này, thật ra có người nối dõi tông đường hay không ông nào có để tâm đâu, ông chỉ sợ An Thị áy náy rồi tự trách.
Sinh lão bệnh tử là thứ mà người thường không ai quản được.
Đến cả Diệp Trọng Cẩm sống qua hai đời khi đối mặt với loại chuyện này cũng không bình tĩnh nổi huống hồ là một Diệp Nham Bách cả đời ngâm mình trong sách thánh hiền.
Diệp Trọng Cẩm không thích An gia, nhưng hai lão của An gia đối đãi với y thật lòng thật dạ, giờ đây An lão thái gia qua đời, trong lòng y dù ít dù nhiều cũng cảm thấy khó chịu. Y rất muốn đến An gia thăm lão thái thái, mẫu thân y lại đang trong tình trạng nguy kịch như vậy, hết lần này đến lần khác không chuyện nào y có thể giúp ích được, chỉ biết ngồi một chỗ sốt ruột mà thôi.
Cố Sâm rất hiểu tính tình người thiếu niên trong lòng mình, hắn biết Diệp Trọng Cẩm tuy tuổi còn nhỏ, nhưng cái thói quen đem những người mình quan tâm nhét dưới cánh chim mình thì không phải chỉ đời này mới có.
Cho nên, y cứ luôn tự mình làm khó mình như vậy.
Cố Sâm ôm người vào trong ngực, dịu dàng nói: “A Cẩm nếu thấy mệt thì cứ ngủ trong lòng trẫm một lúc, đừng cố chịu đựng, tổn hại thân thể.”
Diệp Trọng Cẩm ngước mắt nhìn hắn: “Ngài sáng sớm mai còn phải tảo triều, hay là về trước nghỉ ngơi đi.”
“Vẫn còn sớm, trẫm không vội.” Cố Sâm vừa nói vừa vuốt ve mái tóc dài mềm của y: “Huống hồ A Cẩm như thế này, trẫm làm sao nỡ lòng rời xa được.”
“Ta không sao.”
Cố Sâm nhéo nhéo má y, xúc cảm mềm mại trên tay quá mức tốt đẹp, hai mắt hắn cũng dần hiện ý cười: “Trẫm muốn đợi cùng A Cẩm, chỉ cần có thể nhìn thấy A Cẩm, chạm vào A Cẩm, trẫm đã thấy mỹ mãn.”
Diệp Trọng Cẩm nhắm mắt, tựa đầu vào ngực hắn, yếu ớt nhoẻn cười.
Một lúc thật lâu sau, dường như đã hồi đủ nguyên khí rồi, y bỗng hỏi Cố Sâm: “Ngài từng nói, ta là phúc tinh của ngài có phải không?”
Cố Sâm ngẩn ra một đỗi, sau đó gật đầu xác nhận: “Đương nhiên.”
Diệp Trọng Cẩm nghiêng đầu nở nụ cười: “Ca ca cũng nói ta mang đến cho Diệp gia niềm vui lớn, nếu các người đã nói như vậy, ta tạm tin tưởng vậy.”
Nói xong y xoay người bước tới cửa phòng sinh.
Cố Sâm bước theo hai bước, nhưng chỉ hai bước đã dừng chân, hắn chuyển mắt nhìn sang gương mặt lạnh lùng của Diệp Trọng Huy, nhìn thấy trong mắt đối phương cũng hiện lên sự kinh ngạc như mình.
Hai người liếc nhau một cái rồi mỗi người lại quay về vị trí cũ.
Diệp Trọng Cẩm bước vào phòng sinh, Diệp Nham Bách vừa thấy y, khàn giọng nói: “A Cẩm, đây không phải là chỗ con nên vào, con ra ngoài trước đi, để mẫu thân con yên tâm sinh đệ muội.”
Diệp Trọng Cẩm lắc đầu, bước tới bên giường cầm lấy tay An Thị, nhỏ giọng hỏi nàng: “Mẫu thân, A Cẩm rất sợ, có phải mẫu thân muốn bỏ A Cẩm lại rồi không?”
An Thị gian nan mở mắt, trông thấy tâm can bảo bối của mình, nước mắt tuôn rơi.
“A Cẩm của ta…”
Diệp Trọng Cẩm lại hỏi: “Mẫu thân chỉ cần ông ngoại, không còn cần A Cẩm nữa rồi, cũng không cần cha và ca ca, có phải vậy không?”
Y vừa dứt câu, mũi Diệp Nham Bách đã chua xót không chịu được, ông quay đầu đi, không tài nào nhìn nổi nữa, cũng không tài nào nghe nổi nữa rồi.
Lòng An Thị như bị ai dày xé, suy yếu nói: “Sao có thể, mẫu thân làm sao nỡ bỏ lại A Cẩm, chỉ là… mẫu thân thật sự bất lực…”
Thời đại này nữ tử khi sinh vô cùng nguy hiểm, chỉ cần sơ sẩy chút thôi là sẽ liên lụy đến tính mạng.
Diệp Trọng Cẩm thấy An Thị như vậy, hiểu ra người mẫu thân này của mình không còn một chút ý chí chiến đấu nào, y siết chặt tay nàng: “Mẫu thân, mẫu thân nghĩ xem, nếu hiện tại trong bụng của mẫu thân là A Cẩm, mẫu thân mà buông xuôi thì A Cẩm sẽ mất mạng, như vậy, mẫu thân vẫn muốn buông ư?”
An Thị sững người, nàng nhớ lại tình cảnh năm ấy khi mình sinh con trai thứ, đứa bé đó ở trong bụng nàng đã không còn hơi thở, nàng còn cho rằng sinh ra cũng chỉ là thai chết, nào ngờ A Cẩm của nàng vậy mà vẫn sống như một kỳ tích.
Đứa con sinh non nhỏ bé của nàng, da mặt nhăn nhúm đỏ hồng, trông như con khỉ nhỏ, chẳng đẹp đẽ chút nào, nhưng đứa bé đó lại chính là bảo bối trong tim nàng, trải qua muôn vàn khó khăn nuôi lớn đến từng này.
A Cẩm của nàng, từ nhỏ đã nếm không biết bao nhiêu cay đắng, tuy luôn oán giận thuốc đắng, nhưng chưa một lần nói rằng con muốn buông xuôi.
An Thị đột nhiên dấy lên hy vọng, nàng gắng sức nói: “Mang cho ta một miếng nhân sâm.”
Diệp Nham Bách vội vàng sang người cắt cho phu nhân một lát nhỏ, đặt nhân sâm vào miệng nàng, cùng bà đỡ khích lệ nàng dùng sức.
Diệp Trọng Cẩm vẫn nắm chặt tay An Thị, câu được câu không trò chuyện cùng nàng, không cho nàng mất đi ý thức.
Khi phương đông bắt đầu lóe lên quầng sáng bạc, tiếng khóc của trẻ con vừa sinh vang dội truyền ra, qua thêm nửa canh giờ nữa, chào đón tiếng khóc của đứa trẻ thứ hai ra đời.
Tiếng khóc vang dội nháy mắt như phá tan bầu không khí lo lắng đang bao trùm tướng phủ.
Trong phòng sinh, bà đỡ mừng rỡ hô lên hai chữ “Sinh rồi!”, An Thị tháo xuống gánh nặng trong lòng, mệt mỏi thiếp đi.
Bà đỡ mặt mày rạng rỡ cười nói: “Chúc mừng thừa tướng, chúc mừng phu nhân, là hai vị tiểu công tử, tuy cân nặng hơi thiếu thiếu một chút, nhưng nhìn chung đều khỏe mạnh bình an, tiếng khóc thật là mạnh mẽ.”
Diệp Nham Bách không có phản ứng gì, trông có vẻ đã chẳng còn nhớ nhung gì tới áo bông nhỏ luôn treo trên miệng trước kia, trong lòng chỉ còn cảm giác vui mừng sau một đợt vật lộn với Quỷ môn quan.
Ông nói một tiếng: “Thưởng!” rồi ôm An Thị về phòng nghỉ ngơi, trước đó vẫn không quên phân phó hạ nhân: “Mang một chậu nước nóng cho ta.”
Diệp Trọng Cẩm nhấc mắt nhìn sang bà đỡ: “Ma ma mời vừa nói gì?”
Bà đỡ thu lại nụ cười, thận trọng đáp: “Hồi nhị công tử, phu nhân sinh hạ hai vị tiểu công tử.”
Dạo trước Diệp nhị công tử trảm đinh chặt sắt nói rằng mẫu thân mình có khả năng mang thai long phượng, việc này truyền khắp kinh thành, ai ai cũng nói y thông linh khí, là kim ngọc đồng tử chuyển thế.
Bây giờ ra đời lại là hai bé trai, chuyện này truyền ra khó tránh khỏi sẽ bị người ta chê cười.
Diệp Trọng Cẩm phủi miệng mình một cái, đúng là có hơi mất mặt thật.
Thôi thôi, nói sao cũng là đệ đệ mình.
Y bước tới, nhìn hai đứa trẻ sơ sinh vừa chào đời, bật cười một tiếng, nhấc tay chọt nhẹ lên chóp mũi bé con, bĩu môi oán: “Như ông cụ non vậy, quá xấu, không hề có dáng vẻ của đệ đệ ta.”
Diệp Trọng Huy và Cố Sâm đúng lúc tiến vào nghe được câu ấy.
Diệp Trọng Huy nói: “A Cẩm khi còn bé cũng giống y như vậy đó.”
Diệp Trọng Cẩm nhướng mày, dùng ánh mắt không tin tưởng nhìn huynh trưởng.
Cố Sâm cũng không tin: “Không thể nào, A Cẩm từ bé trông đã giống hệt tiên đồng.”
Diệp Trọng Cẩm liên tục gật gù, quá đúng luôn á.
Diệp Trọng Huy liếc hai người kia một cái, khóe môi chậm rãi nhếch lên: “Thời điểm bệ hạ gặp A Cẩm, A Cẩm đã ba tuổi rồi.”
Thẳng thắng mà bóng gió rằng, ngài nghĩ ngài biết hết mọi chuyện về A Cẩm sao?
Cố Sâm nghẹn lại.
Hắn đến gần hai đứa trẻ mới sinh nhìn thử, hai nhóc con vì chưa đủ tháng nên nhìn qua hơi nhỏ, song thật sự không hề khó nhìn.
“Đã đặt tên chưa?”
Diệp Trọng Cẩm cẩn thận nắm bàn tay nhỏ của một bé, nói: “Trước đó phụ thân tưởng là một trai một gái, nên đặt là Trọng Hạo và Trọng Hân.” [1]
[1] Hạo: 昊 trời, rộng lớn mênh mông. Hân: 昕 hừng đông.
Cố Sâm trầm ngâm một lúc, nói: “Chữ Hân này, có bình minh lúc hửng sáng, mang cả ý mặt trời lúc mới lên, bé trai dùng cũng không phải là không thể.”
Diệp Trọng Cẩm cong khóe môi: “Ta cũng có ý này, nhóc ra trước gọi là Hạo Hạo, nhóc ra sau đặt là Hân Hân, vừa thuận miệng, mà ngụ ý cũng tốt, ca ca thấy sao?”
Diệp Trọng Huy có khi nào không chiều theo ý y đâu, hỏi hắn hắn cũng chỉ đáp: “Được.”
Ba người bọn họ chỉ dăm ba câu như vậy đã quyết định luôn nhũ danh của cặp song sinh vừa chào đời.
Hôm An Thế Hải phát tang, trời đổ tuyết lớn, mặt đất kinh kỳ như trải một tầng sắc trắng lóa mắt.
Diệp Trọng Cẩm và Diệp Trọng Huy đến An gia nhìn ông ngoại mình lần cuối.
An Thế Hải hưởng thọ sáu mươi ba, trải qua bốn triều đế vương, tổ tiên An gia nhận ân huệ của tiền triều, kỳ phụ làm tới quan bái thái sư, cả triều trên dưới chỉ do một câu của thái sư định đoạt, vinh sủng không ai bì kịp.
Sau Cố Thị mưu nghịch, Thái Tông hoàng đế binh lâm thành hạ, An thái sư xuôi theo đại thế, dẫn đầu nhóm quan viên tiền triều quy phục Cố Thị, kinh thành nhờ đó tránh được một trận tai họa. Hành động này sử sách xưa nay khen chê không đồng nhất, văn nhân học tử hay lấy điển cố An thái sư năm đó quy thuận triều đình châm chọc An gia vì muốn bảo toàn vinh hoa phú quý mà làm ra chuyện bội chủ phản quốc.
Chớp mắt, mới đó đã hơn ba mươi năm.
Chân tướng thuở đầu từ lâu đã không còn ai thèm bận lòng để ý, chỉ còn lưu lại trên sử sách qua vài nét bút rời rạc ngắn ngủi.
An lão phu nhân đã dần tỉnh lại trong nỗi đau tang chồng, bà sống đến từng tuổi này, chuyện sinh tử nhìn thoáng hơn nhiều so với đám tiểu bối.
Lão phu nhân kéo tay Diệp Trọng Cẩm, giọng nói vẫn ôn hòa như trước: “Mẫu thân con sao rồi? Mấy hôm trước bà có cho người mang ít thuốc bổ qua đó, nó có uống đúng giờ không?”
Diệp Trọng Cẩm ngoan ngoãn đáp: “Mẫu thân uống hết rồi ạ, chỉ là vừa sinh hai tiểu đệ đệ, thân thể còn hơi yếu, mấy hôm nữa mới về thăm bà ngoại được.”
Hai đời y gặp qua vô số người, An lão phu nhân là người thích làm việc thiện nhất, mỗi lần nói chuyện với bà, y luôn bất tri bất giác tĩnh tâm trở lại.
An lão phu nhân cười tới cong cong khóe mắt: “Sinh con rất tổn hại nguyên khí, phải điều dưỡng cẩn thận, đừng cho mẫu thân con rời giường vội, lòng hiếu thảo của mẫu thân con, bà vẫn biết mà.”
Nói đến đây, bà thở dài: “Con cũng khuyên mẫu thân con chớ nên tự trách, lúc đó trong bụng nó còn cốt nhục đang mang tám tháng, chúng ta làm sao dám để nó biết bệnh tình của ông lão, muốn trách chỉ trách ông trời không rủ lòng thương, không cho phụ tử nó cơ hội nhìn mặt nhau lần cuối.”
Viền mắt An lão thái thái đỏ lên, nhưng chỉ trong nháy mắt, bà vội vàng lảng sang chuyện khác: “Sinh tiền ngoại tổ phụ con để lại cho bốn huynh đệ con chút lễ mọn, không quý trọng gì lắm đâu, nhưng là tấm lòng của ông ấy, các con nhận đi, coi như giữ lại chút tưởng niệm cũng được.”
Diệp Trọng Cẩm đáp: “A Cẩm thay ca ca và hai đệ đệ cảm tạ ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu, bất luận là gì, chúng con đều nhận.”
An lão phu nhân hòa ái mỉm cười, tầm mắt chuyển tới tử tôn An gia mặc đồ tang bên kia, An Khải Minh đang quỳ trên một tấm bồ đoàn, bên cạnh là một thư đồng nhỏ giọng thì thầm gì đó, ánh mắt An lão thái thái bỗng hiện lên nét sầu lo, dường như bà có gì muốn nói, sau cùng lại thôi.
Diệp Trọng Cẩm cũng nhận thấy, bèn hỏi: “Bà ngoại muốn nói gì với A Cẩm sao?”
An lão phu nhân miễn cưỡng nặn ra nụ cười: “Không có gì, bà đột nhiên nhớ tới một ít chuyện cũ thôi. Đến tuổi như bà, thường hay bất chợt nhớ lại những chuyện đã qua ấy mà.”
Điểm này Diệp Trọng Cẩm hiểu, y cười nói: “Nếu bà ngoại thấy ở trong nhà quá buồn chán thì bà ngoại đến tướng phủ đi, làm bạn với mẫu thân vài hôm cho khuây khỏa.”
An lão phu nhân xoa mặt cháu trai, lắc đầu: “Thôi thôi, bộ xương già này của bà tới tới lui lui không tiện lắm. Huống chi ông ấy đi rồi, bà còn phải thay ông ấy trông coi cái nhà này nữa.”
Diệp Trọng Cẩm trầm mặc, trong lòng không hiểu vì sao dâng lên nỗi buồn lạ lẫm.
An lão phu nhân lại dặn dò y thêm một hồi: “Mấy món đồ cổ và tranh chữ ông ngoại con để lại, con nhất định phải nhận đấy.”
Hai huynh đệ tiễn An lão phu nhân về phòng nghỉ ngơi, bầu trời vẫn lả tả tuyết rơi, mặt đất trải một lớp bông tuyết trắng xóa. Diệp Trọng Cẩm cởi áo choàng trên người mình khoác lên vai lão phu nhân, An lão phu nhân định từ chối, nhưng thấy đôi mắt đầy lo lắng của cháu trai, cuối cùng vẫn nhận tấm lòng thơm thảo ấy.
Ra khỏi viện, Diệp Trọng Huy cởi áo hồ cừu trên người khoác qua cho y: “Ngoại tổ mẫu là người nhìn thấu mọi chuyện, A Cẩm đừng lo lắng quá.”
Diệp Trọng Cẩm nói: “Người càng thông suốt thì càng cô độc.”
Diệp Trọng Huy nắm lấy tay y, nhẹ giọng nói: “Nhân sinh vốn là như vậy mà, tương phùng, rồi chia ly, cho nên, càng phải trân trọng người trước mắt.”
Diệp Trọng Cẩm mím môi, cười đáp: “Ca ca, câu này ai nói cũng hợp tình hợp lý, nhưng từ miệng ca ca thốt ra thì có gì đó sai sai.”
Y theo thói quen pha trò chọc cười người khác, Diệp Trọng Huy không tính toán với y, giúp y thắt lại dây buộc áo choàng.
“Đừng để cảm lạnh.”
Diệp Trọng Cẩm vươn tay, đón được một bông tuyết, bông tuyết chạm vào lòng bàn tay thoáng chốc tan thành nước lạnh.
Y không thích những ngày tuyết rơi.
Đời trước cũng trong ngày trời hạ tuyết, y bị người nhà bán vào cung, sau cùng, y chết cũng là dưới màn trời tuyết rơi trắng xóa.
Đời này thì lại khác, mỗi lần tuyết rơi, cha mẹ và ca ca cứ như lâm phải đại địch, sợ y lạnh, sợ y sinh bệnh, dáng vẻ lo lắng ấy trông như bọn họ còn ghét tuyết hơn y.
Kể từ đó, y lại dần thích tuyết.
Hai huynh đệ tiếp tục rảo bước, khi đến một ngã rẻ, họ gặp một thiếu niên ngồi trên luân y.
Phía sau An Khải Minh vẫn là thư đồng nọ, đứa bé kia nhìn hai vị công tử vừa xuất hiện, trong mắt không giấu được kinh diễm, hành lễ với hai huynh đệ: “Tham kiến hai vị công tử.”
An Khải Minh cũng gật đầu chào hỏi: “Hằng Chi biểu ca, A Cẩm biểu đệ.”
Diệp Trọng Cẩm nhìn đôi chủ tớ này, ngẫm nghĩ một hồi chợt nhớ ra cảnh tượng cái lần mà mình và Cố Sâm ở trà lâu trông thấy. Tiểu thư đồng kia biết võ công, còn A Khải Minh, y không cách gì nhìn ra sâu cạn.
Diệp Trọng Cẩm quen thói tùy tâm tùy tính đột nhiên nổi lòng nghi ngờ, y cười hỏi: “Các vị muốn đi đâu sao?”
An Khải Minh đáp: “Thân thể không khỏe, muốn về phòng nghỉ ngơi.”
Lời vừa dứt, liếc qua Diệp Trọng Huy một cái, nhưng rất nhanh đã dời đi tầm mắt.
Diệp Trọng Cẩm nói: “Vừa khéo, ta biết chút y thuật, có thể bắt mạch thử, chi bằng để ta xem giúp Minh biểu ca một lần thử xem, biểu ca thấy sao?”
An Khải Minh từ chối: “Bệnh nhẹ thôi, không cần phiền tới A Cẩm biểu đệ nhọc lòng.”
“Không phiền không phiền, bệnh nhẹ cũng không thể xem thường, nhỡ sau này bệnh trở nặng thêm, biết đâu lại nguy hại đến tính mạng đấy, thận trọng vẫn hơn.”
Nói xong làm dấu tay xin mời.
“Đã vậy, làm phiền biểu đệ.”
An Khải Minh buông mắt, giao ấm giữ nhiệt trong tay cho thư đồng rồi xắn tay áo lên, để lộ ra cổ tay trắng nõn.
Diệp Trọng Cẩm nghiêm túc bắt mạch, thật ra y chỉ biết chút vỏ ngoài, hù dọa bịp bợm người thường thì được, gặp phải người trong nghề, người ta chỉ cần liếc mắt một cái là nhìn ra sơ hở đầy mình của y ngay.
Tiếp xúc mạch đập dưới cổ tay, Diệp Trọng Cẩm nói: “Không đáng ngại, do thương nhớ quá độ, tĩnh dưỡng mấy ngày là được.”
An Khải Minh nói một câu “Đa tạ.” rồi dẫn thư đồng đi trước.
Diệp Trọng Cẩm cười khẽ một tiếng, vừa rồi, trong mắt của cậu thư đồng kia hiện lên vẻ giễu cợt rất rõ, quả nhiên không phải là một thư đồng bình thường.
===========
Hết chương 110.
Thai song sinh bình thường đã rất khó sinh, huống chi An Thị còn bị sinh non, biết tin phụ thân qua đời, An Thị đau thương không chống đỡ nổi, lòng tràn lên từng cơn tự trách, khi phụ thân còn sống không tận hiếu tâm, hối hận chất chồng trong ngực, nào còn sức để sinh hai bé.
Bà đỡ phải đút hết mấy chén thuốc bổ, giằng co tới tận nửa đêm mà đứa bé trong bụng vẫn chưa có dấu hiệu ra đời.
Cứ như vậy tới tận khuya.
Diệp lão gia tử là người xưa nay không tin Thần Phật, vậy mà cũng đến Phật đường tụng kinh niệm Phật suốt cả một ngày để cầu phúc cho con dâu và tôn nhi.
Diệp Nham Bách nắm chặt tay An Thị, nhận ra phu nhân mỗi lúc một suy yếu, hơi thở cũng dần mỏng đi, ông lo đến độ hai mắt đỏ bừng, chỉ hận không thể lấy thân mình chịu thay nỗi đau này cho An Thị.
Từ xưa đã có câu nữ tử khi sinh gần như bước nửa bước vào Quỷ môn quan, Diệp Nham Bách hối hận không để đâu cho hết, ông sao lại để phu nhân mình sinh con ở cái tuổi này, thật ra có người nối dõi tông đường hay không ông nào có để tâm đâu, ông chỉ sợ An Thị áy náy rồi tự trách.
Sinh lão bệnh tử là thứ mà người thường không ai quản được.
Đến cả Diệp Trọng Cẩm sống qua hai đời khi đối mặt với loại chuyện này cũng không bình tĩnh nổi huống hồ là một Diệp Nham Bách cả đời ngâm mình trong sách thánh hiền.
Diệp Trọng Cẩm không thích An gia, nhưng hai lão của An gia đối đãi với y thật lòng thật dạ, giờ đây An lão thái gia qua đời, trong lòng y dù ít dù nhiều cũng cảm thấy khó chịu. Y rất muốn đến An gia thăm lão thái thái, mẫu thân y lại đang trong tình trạng nguy kịch như vậy, hết lần này đến lần khác không chuyện nào y có thể giúp ích được, chỉ biết ngồi một chỗ sốt ruột mà thôi.
Cố Sâm rất hiểu tính tình người thiếu niên trong lòng mình, hắn biết Diệp Trọng Cẩm tuy tuổi còn nhỏ, nhưng cái thói quen đem những người mình quan tâm nhét dưới cánh chim mình thì không phải chỉ đời này mới có.
Cho nên, y cứ luôn tự mình làm khó mình như vậy.
Cố Sâm ôm người vào trong ngực, dịu dàng nói: “A Cẩm nếu thấy mệt thì cứ ngủ trong lòng trẫm một lúc, đừng cố chịu đựng, tổn hại thân thể.”
Diệp Trọng Cẩm ngước mắt nhìn hắn: “Ngài sáng sớm mai còn phải tảo triều, hay là về trước nghỉ ngơi đi.”
“Vẫn còn sớm, trẫm không vội.” Cố Sâm vừa nói vừa vuốt ve mái tóc dài mềm của y: “Huống hồ A Cẩm như thế này, trẫm làm sao nỡ lòng rời xa được.”
“Ta không sao.”
Cố Sâm nhéo nhéo má y, xúc cảm mềm mại trên tay quá mức tốt đẹp, hai mắt hắn cũng dần hiện ý cười: “Trẫm muốn đợi cùng A Cẩm, chỉ cần có thể nhìn thấy A Cẩm, chạm vào A Cẩm, trẫm đã thấy mỹ mãn.”
Diệp Trọng Cẩm nhắm mắt, tựa đầu vào ngực hắn, yếu ớt nhoẻn cười.
Một lúc thật lâu sau, dường như đã hồi đủ nguyên khí rồi, y bỗng hỏi Cố Sâm: “Ngài từng nói, ta là phúc tinh của ngài có phải không?”
Cố Sâm ngẩn ra một đỗi, sau đó gật đầu xác nhận: “Đương nhiên.”
Diệp Trọng Cẩm nghiêng đầu nở nụ cười: “Ca ca cũng nói ta mang đến cho Diệp gia niềm vui lớn, nếu các người đã nói như vậy, ta tạm tin tưởng vậy.”
Nói xong y xoay người bước tới cửa phòng sinh.
Cố Sâm bước theo hai bước, nhưng chỉ hai bước đã dừng chân, hắn chuyển mắt nhìn sang gương mặt lạnh lùng của Diệp Trọng Huy, nhìn thấy trong mắt đối phương cũng hiện lên sự kinh ngạc như mình.
Hai người liếc nhau một cái rồi mỗi người lại quay về vị trí cũ.
Diệp Trọng Cẩm bước vào phòng sinh, Diệp Nham Bách vừa thấy y, khàn giọng nói: “A Cẩm, đây không phải là chỗ con nên vào, con ra ngoài trước đi, để mẫu thân con yên tâm sinh đệ muội.”
Diệp Trọng Cẩm lắc đầu, bước tới bên giường cầm lấy tay An Thị, nhỏ giọng hỏi nàng: “Mẫu thân, A Cẩm rất sợ, có phải mẫu thân muốn bỏ A Cẩm lại rồi không?”
An Thị gian nan mở mắt, trông thấy tâm can bảo bối của mình, nước mắt tuôn rơi.
“A Cẩm của ta…”
Diệp Trọng Cẩm lại hỏi: “Mẫu thân chỉ cần ông ngoại, không còn cần A Cẩm nữa rồi, cũng không cần cha và ca ca, có phải vậy không?”
Y vừa dứt câu, mũi Diệp Nham Bách đã chua xót không chịu được, ông quay đầu đi, không tài nào nhìn nổi nữa, cũng không tài nào nghe nổi nữa rồi.
Lòng An Thị như bị ai dày xé, suy yếu nói: “Sao có thể, mẫu thân làm sao nỡ bỏ lại A Cẩm, chỉ là… mẫu thân thật sự bất lực…”
Thời đại này nữ tử khi sinh vô cùng nguy hiểm, chỉ cần sơ sẩy chút thôi là sẽ liên lụy đến tính mạng.
Diệp Trọng Cẩm thấy An Thị như vậy, hiểu ra người mẫu thân này của mình không còn một chút ý chí chiến đấu nào, y siết chặt tay nàng: “Mẫu thân, mẫu thân nghĩ xem, nếu hiện tại trong bụng của mẫu thân là A Cẩm, mẫu thân mà buông xuôi thì A Cẩm sẽ mất mạng, như vậy, mẫu thân vẫn muốn buông ư?”
An Thị sững người, nàng nhớ lại tình cảnh năm ấy khi mình sinh con trai thứ, đứa bé đó ở trong bụng nàng đã không còn hơi thở, nàng còn cho rằng sinh ra cũng chỉ là thai chết, nào ngờ A Cẩm của nàng vậy mà vẫn sống như một kỳ tích.
Đứa con sinh non nhỏ bé của nàng, da mặt nhăn nhúm đỏ hồng, trông như con khỉ nhỏ, chẳng đẹp đẽ chút nào, nhưng đứa bé đó lại chính là bảo bối trong tim nàng, trải qua muôn vàn khó khăn nuôi lớn đến từng này.
A Cẩm của nàng, từ nhỏ đã nếm không biết bao nhiêu cay đắng, tuy luôn oán giận thuốc đắng, nhưng chưa một lần nói rằng con muốn buông xuôi.
An Thị đột nhiên dấy lên hy vọng, nàng gắng sức nói: “Mang cho ta một miếng nhân sâm.”
Diệp Nham Bách vội vàng sang người cắt cho phu nhân một lát nhỏ, đặt nhân sâm vào miệng nàng, cùng bà đỡ khích lệ nàng dùng sức.
Diệp Trọng Cẩm vẫn nắm chặt tay An Thị, câu được câu không trò chuyện cùng nàng, không cho nàng mất đi ý thức.
Khi phương đông bắt đầu lóe lên quầng sáng bạc, tiếng khóc của trẻ con vừa sinh vang dội truyền ra, qua thêm nửa canh giờ nữa, chào đón tiếng khóc của đứa trẻ thứ hai ra đời.
Tiếng khóc vang dội nháy mắt như phá tan bầu không khí lo lắng đang bao trùm tướng phủ.
Trong phòng sinh, bà đỡ mừng rỡ hô lên hai chữ “Sinh rồi!”, An Thị tháo xuống gánh nặng trong lòng, mệt mỏi thiếp đi.
Bà đỡ mặt mày rạng rỡ cười nói: “Chúc mừng thừa tướng, chúc mừng phu nhân, là hai vị tiểu công tử, tuy cân nặng hơi thiếu thiếu một chút, nhưng nhìn chung đều khỏe mạnh bình an, tiếng khóc thật là mạnh mẽ.”
Diệp Nham Bách không có phản ứng gì, trông có vẻ đã chẳng còn nhớ nhung gì tới áo bông nhỏ luôn treo trên miệng trước kia, trong lòng chỉ còn cảm giác vui mừng sau một đợt vật lộn với Quỷ môn quan.
Ông nói một tiếng: “Thưởng!” rồi ôm An Thị về phòng nghỉ ngơi, trước đó vẫn không quên phân phó hạ nhân: “Mang một chậu nước nóng cho ta.”
Diệp Trọng Cẩm nhấc mắt nhìn sang bà đỡ: “Ma ma mời vừa nói gì?”
Bà đỡ thu lại nụ cười, thận trọng đáp: “Hồi nhị công tử, phu nhân sinh hạ hai vị tiểu công tử.”
Dạo trước Diệp nhị công tử trảm đinh chặt sắt nói rằng mẫu thân mình có khả năng mang thai long phượng, việc này truyền khắp kinh thành, ai ai cũng nói y thông linh khí, là kim ngọc đồng tử chuyển thế.
Bây giờ ra đời lại là hai bé trai, chuyện này truyền ra khó tránh khỏi sẽ bị người ta chê cười.
Diệp Trọng Cẩm phủi miệng mình một cái, đúng là có hơi mất mặt thật.
Thôi thôi, nói sao cũng là đệ đệ mình.
Y bước tới, nhìn hai đứa trẻ sơ sinh vừa chào đời, bật cười một tiếng, nhấc tay chọt nhẹ lên chóp mũi bé con, bĩu môi oán: “Như ông cụ non vậy, quá xấu, không hề có dáng vẻ của đệ đệ ta.”
Diệp Trọng Huy và Cố Sâm đúng lúc tiến vào nghe được câu ấy.
Diệp Trọng Huy nói: “A Cẩm khi còn bé cũng giống y như vậy đó.”
Diệp Trọng Cẩm nhướng mày, dùng ánh mắt không tin tưởng nhìn huynh trưởng.
Cố Sâm cũng không tin: “Không thể nào, A Cẩm từ bé trông đã giống hệt tiên đồng.”
Diệp Trọng Cẩm liên tục gật gù, quá đúng luôn á.
Diệp Trọng Huy liếc hai người kia một cái, khóe môi chậm rãi nhếch lên: “Thời điểm bệ hạ gặp A Cẩm, A Cẩm đã ba tuổi rồi.”
Thẳng thắng mà bóng gió rằng, ngài nghĩ ngài biết hết mọi chuyện về A Cẩm sao?
Cố Sâm nghẹn lại.
Hắn đến gần hai đứa trẻ mới sinh nhìn thử, hai nhóc con vì chưa đủ tháng nên nhìn qua hơi nhỏ, song thật sự không hề khó nhìn.
“Đã đặt tên chưa?”
Diệp Trọng Cẩm cẩn thận nắm bàn tay nhỏ của một bé, nói: “Trước đó phụ thân tưởng là một trai một gái, nên đặt là Trọng Hạo và Trọng Hân.” [1]
[1] Hạo: 昊 trời, rộng lớn mênh mông. Hân: 昕 hừng đông.
Cố Sâm trầm ngâm một lúc, nói: “Chữ Hân này, có bình minh lúc hửng sáng, mang cả ý mặt trời lúc mới lên, bé trai dùng cũng không phải là không thể.”
Diệp Trọng Cẩm cong khóe môi: “Ta cũng có ý này, nhóc ra trước gọi là Hạo Hạo, nhóc ra sau đặt là Hân Hân, vừa thuận miệng, mà ngụ ý cũng tốt, ca ca thấy sao?”
Diệp Trọng Huy có khi nào không chiều theo ý y đâu, hỏi hắn hắn cũng chỉ đáp: “Được.”
Ba người bọn họ chỉ dăm ba câu như vậy đã quyết định luôn nhũ danh của cặp song sinh vừa chào đời.
Hôm An Thế Hải phát tang, trời đổ tuyết lớn, mặt đất kinh kỳ như trải một tầng sắc trắng lóa mắt.
Diệp Trọng Cẩm và Diệp Trọng Huy đến An gia nhìn ông ngoại mình lần cuối.
An Thế Hải hưởng thọ sáu mươi ba, trải qua bốn triều đế vương, tổ tiên An gia nhận ân huệ của tiền triều, kỳ phụ làm tới quan bái thái sư, cả triều trên dưới chỉ do một câu của thái sư định đoạt, vinh sủng không ai bì kịp.
Sau Cố Thị mưu nghịch, Thái Tông hoàng đế binh lâm thành hạ, An thái sư xuôi theo đại thế, dẫn đầu nhóm quan viên tiền triều quy phục Cố Thị, kinh thành nhờ đó tránh được một trận tai họa. Hành động này sử sách xưa nay khen chê không đồng nhất, văn nhân học tử hay lấy điển cố An thái sư năm đó quy thuận triều đình châm chọc An gia vì muốn bảo toàn vinh hoa phú quý mà làm ra chuyện bội chủ phản quốc.
Chớp mắt, mới đó đã hơn ba mươi năm.
Chân tướng thuở đầu từ lâu đã không còn ai thèm bận lòng để ý, chỉ còn lưu lại trên sử sách qua vài nét bút rời rạc ngắn ngủi.
An lão phu nhân đã dần tỉnh lại trong nỗi đau tang chồng, bà sống đến từng tuổi này, chuyện sinh tử nhìn thoáng hơn nhiều so với đám tiểu bối.
Lão phu nhân kéo tay Diệp Trọng Cẩm, giọng nói vẫn ôn hòa như trước: “Mẫu thân con sao rồi? Mấy hôm trước bà có cho người mang ít thuốc bổ qua đó, nó có uống đúng giờ không?”
Diệp Trọng Cẩm ngoan ngoãn đáp: “Mẫu thân uống hết rồi ạ, chỉ là vừa sinh hai tiểu đệ đệ, thân thể còn hơi yếu, mấy hôm nữa mới về thăm bà ngoại được.”
Hai đời y gặp qua vô số người, An lão phu nhân là người thích làm việc thiện nhất, mỗi lần nói chuyện với bà, y luôn bất tri bất giác tĩnh tâm trở lại.
An lão phu nhân cười tới cong cong khóe mắt: “Sinh con rất tổn hại nguyên khí, phải điều dưỡng cẩn thận, đừng cho mẫu thân con rời giường vội, lòng hiếu thảo của mẫu thân con, bà vẫn biết mà.”
Nói đến đây, bà thở dài: “Con cũng khuyên mẫu thân con chớ nên tự trách, lúc đó trong bụng nó còn cốt nhục đang mang tám tháng, chúng ta làm sao dám để nó biết bệnh tình của ông lão, muốn trách chỉ trách ông trời không rủ lòng thương, không cho phụ tử nó cơ hội nhìn mặt nhau lần cuối.”
Viền mắt An lão thái thái đỏ lên, nhưng chỉ trong nháy mắt, bà vội vàng lảng sang chuyện khác: “Sinh tiền ngoại tổ phụ con để lại cho bốn huynh đệ con chút lễ mọn, không quý trọng gì lắm đâu, nhưng là tấm lòng của ông ấy, các con nhận đi, coi như giữ lại chút tưởng niệm cũng được.”
Diệp Trọng Cẩm đáp: “A Cẩm thay ca ca và hai đệ đệ cảm tạ ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu, bất luận là gì, chúng con đều nhận.”
An lão phu nhân hòa ái mỉm cười, tầm mắt chuyển tới tử tôn An gia mặc đồ tang bên kia, An Khải Minh đang quỳ trên một tấm bồ đoàn, bên cạnh là một thư đồng nhỏ giọng thì thầm gì đó, ánh mắt An lão thái thái bỗng hiện lên nét sầu lo, dường như bà có gì muốn nói, sau cùng lại thôi.
Diệp Trọng Cẩm cũng nhận thấy, bèn hỏi: “Bà ngoại muốn nói gì với A Cẩm sao?”
An lão phu nhân miễn cưỡng nặn ra nụ cười: “Không có gì, bà đột nhiên nhớ tới một ít chuyện cũ thôi. Đến tuổi như bà, thường hay bất chợt nhớ lại những chuyện đã qua ấy mà.”
Điểm này Diệp Trọng Cẩm hiểu, y cười nói: “Nếu bà ngoại thấy ở trong nhà quá buồn chán thì bà ngoại đến tướng phủ đi, làm bạn với mẫu thân vài hôm cho khuây khỏa.”
An lão phu nhân xoa mặt cháu trai, lắc đầu: “Thôi thôi, bộ xương già này của bà tới tới lui lui không tiện lắm. Huống chi ông ấy đi rồi, bà còn phải thay ông ấy trông coi cái nhà này nữa.”
Diệp Trọng Cẩm trầm mặc, trong lòng không hiểu vì sao dâng lên nỗi buồn lạ lẫm.
An lão phu nhân lại dặn dò y thêm một hồi: “Mấy món đồ cổ và tranh chữ ông ngoại con để lại, con nhất định phải nhận đấy.”
Hai huynh đệ tiễn An lão phu nhân về phòng nghỉ ngơi, bầu trời vẫn lả tả tuyết rơi, mặt đất trải một lớp bông tuyết trắng xóa. Diệp Trọng Cẩm cởi áo choàng trên người mình khoác lên vai lão phu nhân, An lão phu nhân định từ chối, nhưng thấy đôi mắt đầy lo lắng của cháu trai, cuối cùng vẫn nhận tấm lòng thơm thảo ấy.
Ra khỏi viện, Diệp Trọng Huy cởi áo hồ cừu trên người khoác qua cho y: “Ngoại tổ mẫu là người nhìn thấu mọi chuyện, A Cẩm đừng lo lắng quá.”
Diệp Trọng Cẩm nói: “Người càng thông suốt thì càng cô độc.”
Diệp Trọng Huy nắm lấy tay y, nhẹ giọng nói: “Nhân sinh vốn là như vậy mà, tương phùng, rồi chia ly, cho nên, càng phải trân trọng người trước mắt.”
Diệp Trọng Cẩm mím môi, cười đáp: “Ca ca, câu này ai nói cũng hợp tình hợp lý, nhưng từ miệng ca ca thốt ra thì có gì đó sai sai.”
Y theo thói quen pha trò chọc cười người khác, Diệp Trọng Huy không tính toán với y, giúp y thắt lại dây buộc áo choàng.
“Đừng để cảm lạnh.”
Diệp Trọng Cẩm vươn tay, đón được một bông tuyết, bông tuyết chạm vào lòng bàn tay thoáng chốc tan thành nước lạnh.
Y không thích những ngày tuyết rơi.
Đời trước cũng trong ngày trời hạ tuyết, y bị người nhà bán vào cung, sau cùng, y chết cũng là dưới màn trời tuyết rơi trắng xóa.
Đời này thì lại khác, mỗi lần tuyết rơi, cha mẹ và ca ca cứ như lâm phải đại địch, sợ y lạnh, sợ y sinh bệnh, dáng vẻ lo lắng ấy trông như bọn họ còn ghét tuyết hơn y.
Kể từ đó, y lại dần thích tuyết.
Hai huynh đệ tiếp tục rảo bước, khi đến một ngã rẻ, họ gặp một thiếu niên ngồi trên luân y.
Phía sau An Khải Minh vẫn là thư đồng nọ, đứa bé kia nhìn hai vị công tử vừa xuất hiện, trong mắt không giấu được kinh diễm, hành lễ với hai huynh đệ: “Tham kiến hai vị công tử.”
An Khải Minh cũng gật đầu chào hỏi: “Hằng Chi biểu ca, A Cẩm biểu đệ.”
Diệp Trọng Cẩm nhìn đôi chủ tớ này, ngẫm nghĩ một hồi chợt nhớ ra cảnh tượng cái lần mà mình và Cố Sâm ở trà lâu trông thấy. Tiểu thư đồng kia biết võ công, còn A Khải Minh, y không cách gì nhìn ra sâu cạn.
Diệp Trọng Cẩm quen thói tùy tâm tùy tính đột nhiên nổi lòng nghi ngờ, y cười hỏi: “Các vị muốn đi đâu sao?”
An Khải Minh đáp: “Thân thể không khỏe, muốn về phòng nghỉ ngơi.”
Lời vừa dứt, liếc qua Diệp Trọng Huy một cái, nhưng rất nhanh đã dời đi tầm mắt.
Diệp Trọng Cẩm nói: “Vừa khéo, ta biết chút y thuật, có thể bắt mạch thử, chi bằng để ta xem giúp Minh biểu ca một lần thử xem, biểu ca thấy sao?”
An Khải Minh từ chối: “Bệnh nhẹ thôi, không cần phiền tới A Cẩm biểu đệ nhọc lòng.”
“Không phiền không phiền, bệnh nhẹ cũng không thể xem thường, nhỡ sau này bệnh trở nặng thêm, biết đâu lại nguy hại đến tính mạng đấy, thận trọng vẫn hơn.”
Nói xong làm dấu tay xin mời.
“Đã vậy, làm phiền biểu đệ.”
An Khải Minh buông mắt, giao ấm giữ nhiệt trong tay cho thư đồng rồi xắn tay áo lên, để lộ ra cổ tay trắng nõn.
Diệp Trọng Cẩm nghiêm túc bắt mạch, thật ra y chỉ biết chút vỏ ngoài, hù dọa bịp bợm người thường thì được, gặp phải người trong nghề, người ta chỉ cần liếc mắt một cái là nhìn ra sơ hở đầy mình của y ngay.
Tiếp xúc mạch đập dưới cổ tay, Diệp Trọng Cẩm nói: “Không đáng ngại, do thương nhớ quá độ, tĩnh dưỡng mấy ngày là được.”
An Khải Minh nói một câu “Đa tạ.” rồi dẫn thư đồng đi trước.
Diệp Trọng Cẩm cười khẽ một tiếng, vừa rồi, trong mắt của cậu thư đồng kia hiện lên vẻ giễu cợt rất rõ, quả nhiên không phải là một thư đồng bình thường.
===========
Hết chương 110.
Tác giả :
Tịch Tịch Lý