Kim Cương Bất Hoại
Chương 40: Xác chết đội mồ
Mọi người nơm nớp lo sợ im phắc! Không ai dám rỉ răng nói một câu nào.
Tiếng muỗi bay cũng nghe thấy, cô nhỏ Câu Hồn vẫn tiếp tục nói mê, giọng nói có vẻ hối hả, thúc giục :
- Cung Đình ơi! Không giỡn với bồ đâu! Trụ Ma xuất toàn lực âm binh tấn công đêm nay! Thây ma đội mồ chui lên... ghê sợ lắm! Hôi thúi lắm! Đừng ngửi hơi thúi đó! Chết! Chết! Chạy trước đi mau! Cõng thằng Bỉnh Nhi đi cùng cho vui. Thằng nhỏ đó ngộ lắm, Bụng dạ nó tốt lắm! Đừng để nó chết uổng...
Phong Vân và nàng Thiết Như Hoa nghe Câu Hồn nói vậy, hai người hình như hoảng ngộ một điều gì. Cả hai mặt tái xanh, cắt không còn được hạt máu.
Phong Vân quận chúa tâu với Đông Cung thái tử rằng :
- Câu Hồn nói đúng vì Kim Điện sứ giả Trương Tuấn Phong này cũng mang tin lại rất đúng. Trụ Ma Thiên Vương xuất âm binh đánh trận này là trận quyết liệt. Nó sẽ khiển từ các bãi tha ma, thây chết sình thúi đứng dậy về tấn công chúng ta. Nó sẽ tung làn mây độc khí, không một sinh vật nào sống sót chống nổi khí độc đó. Kẻ bị mê man còn bị thây ma trét bùn dơ, máu huyết vô miệng mũi cho chết ngộp. Kẻ khác bị “cấy” trùng cùi vô óc làm điên hoảng chạy như lũ quỷ sứ âm ty lên trần gian! Qua một đêm khủng khiếp, sáng mặt trời mọc chỉ còn một vùng hoang địa điêu tàn không bóng một sinh vật sống. Đây là sở trường của Trụ Ma Thiên Vương, chúng ta nên nghe lời Câu Hồn tạm lánh đi mau, nếu không thì nguy hiểm lắm.
Lời trình tấu của Phong Vân quận chúa rất minh bạch. Thái tử buồn bã hỏi :
- Sự nguy hiểm tới, ta chỉ biết lo thân ta chạy trốn, còn bách tính là dân thì sao? Bỏ mặc họ trong cơn chết chóc phũ phàng sao đành?
Bình Giang vương phu nhân khuyên giải :
- Điện hạ có lòng nhân đức, trời phật cảm thông. Trụ Ma xuất âm binh chỉ nhằm tung độc khí đánh phá bản doanh này, dân chúng Nhữ Nam ở xa nơi đây ít lo quân Hắc Y áp bức, khí độc không lan tràn tới nơi đó được. Cấm quân đều là thiết kỵ, di chuyển mau chóng, chưa dễ gì Trụ Ma bắt kịp. Vậy Điện hạ không nên vì tiểu tiết mà quên đại sự. Tôi xin lĩnh mệnh Điện hạ cắt đặt công cuộc phò giá.
Tiếng cô nhỏ Câu Hồn lại ọ ẹ vang lên hối hả :
- Mau lên! Mau lên! Chạy về phía Đông Bắc rẽ ngang hướng gió. Mau lên mới kịp. Đoàn ma thi của Trụ Ma chạy mau lắm, cứ mỗi quân ma kéo cả chục thây ma đi theo. Qua mồ mả nào thì xác chết đội mồ chui lên nhập bọn, tử khí kéo thành luống gió lốc... mau lên! Cung Đình cõng tớ đi, mùi tanh hôi hết chịu nổi rồi!
Cao Kỳ Nhất Phong vội hộ vệ Thái tử, cả hai leo lên ngựa Bạch Tuyết Long Câu. Văn Tú Tài cưỡi Thanh Phong Mã chạy kế bên.
Còn những người khác lục tục lên xe, lên ngựa chạy theo tốp thứ hai. Nàng Chi Mai tay xách chiếu ná bảo Đan Tâm rằng :
- Giặc đến ta đánh! Anh đánh kiếm, em bắn tên, thế nào cũng giết được một số rồi phá vòng vây sợ gì?
Đan Tâm bảo :
- Không được đâu, đầu sọ thây ma, em có bắn trúng tên cắm như lông nhím, nó vẫn chạy tới bắt em đem đi. Chừng đó anh có chém đứt đầu nó thì nỏ cũng cõng em chạy đi xa mất rồi. Thôi, ba mươi sáu kế, chúng ta lên ngựa chạy theo Thái tử là thượng sách. Trông xem Cung Đình đã cõng Câu Hồn, Bỉnh Nhi cõng lão Tam chạy như bay kia kìa. Võ công họ gấp mười mình mà còn tẩu nhanh như gió, chúng mình dại gì mà ở lại chớ?
Nàng Chi mai đưa mắt nhìn xuống một vườn rau bên lộ, nàng xuống ngựa nói rằng :
- Em sống quen trong rừng rú, tà ma quỷ quái có nhiều loại, nào ma cà rồng hai mũi đỏ đêm đi hút máu dơ, nào ma trành, ma lọ ma xó, ma thây bó chiếu góc nhà, ông sọ, ma ngải... em đâu có sợ? Ma nào cũng sợ “tỏi”, sợ “hành”. Sẵn đây có nhiều cây hành cây tỏi, em hái một mớ thí nghiệm anh coi!
Đan Tâm không biết làm thế nào cũng đành theo nàng Chi Mai lần xuống ruộng bới hành tỏi bỏ bọc một mớ lớn.
Song Trâm nữ hiệp là người lắm cơ mưu. Bà tin vào tài nghệ nên rất bình tĩnh bảo lão Nhiếp Thủ đương vác bình rượu trên vai chưa muốn rời doanh trại mà rằng :
- Ô hay! Ông là Điện Tiền hộ vệ sứ mà lại bỏ mặc Đông Cung, ở đây với bình rượu, không coi trách nhiệm của mình ra sao ư? Tôi nói thiệt Thái tử mà gặp sự nguy hiểm thì tôi “mượn” ông cái đầu chứ tôi không mượn hai bàn tay đâu.
Lão Nhiếp Thủ bỏ chiếc bình sứ xuống đất nham nhở nói :
- Nữ hiệp muốn phi kiếm mượn thủ cấp lão phu thì còn miệng đâu để uống rượu. Chơi trò gì thì được, chứ cái trò ấy lão phu không hài lòng chút nào cả.
Thiết Như Hoa hộ vệ hai nàng Thái Cơ và Bảo Liên, dừng ngựa lại nói :
- Bảo vệ Đông Cung tánh khỏi nguy khốn rồi uống cả hồ ngự tửu cũng có. Tại sao lão bối lại tham bình rượu trước mắt mà bỏ ao rượu sau lưng! Bỏ quên trách nhiệm là điều xấu lắm!
- Ừ nhỉ! Tắm dưới ao rượu! Ý kiến hay, ta chưa được tận hưởng thú đó. Được rồi, chờ ta đi theo hộ vệ Thái tử với.
Thiết Như Hoa đeo chiếc mặt nạ bạc lóng lánh trên mặt, cài bảo kiếm sau lưng trông uy nghi dưới ánh đuốc, Kim Diện sứ giả cũng đi theo với nhóm đó.
Phong Vân quận chúa, lúc này đã bận võ phục búi tóc chặt, đầu đội hà tử quan, thân chỉ huy đoàn thiết kỵ, cờ nào đội đó từ từ ngựa tháo nhạc, người ngậm tăm, chia thành chín toán, như chín con rồng đen dài rút lui khỏi bản doanh.
Trước khi rút lui, Song Trâm nữ hiệp đã sai người chất hỏa pháo và cỏ khô, hỏa liệu quanh doanh. Trước khi quân giặc tràn vào làm đổ ngọn đèn lưu ly phát sinh hỏa hoạn mau chóng. Như vậy cũng phá một phần nào kế hoạch tập kích ban đêm của đối phương. Đồng thời cũng phái người di tản dân chúng ra xa khỏi vùng hàng chục dặm để tránh độc khí.
Bà thấy hai người Đan Tâm và nàng Chi Mai cứ lúi húi mãi nơi vườn rau mới hỏi :
- Hai người làm gì đấy? Tại sao không lên ngựa còn chần chờ, làn gió độc đến làm sao chạy kịp?
Nàng Chi Mai giơ nắm hành tỏi xông hơi cay xè nói rằng :
- Ma quỷ độc đến đâu cũng kiêng nể giống thảo mộc này. Tiếc thay không có chỉ ngũ sắc! Tôi định dùng những nhánh hành tỏi thí nghiệm xem sao? Nếu hơi độc bay đến, chúng tôi sẽ leo lên mình ngựa chạy ngay.
Đan Tâm hỏi :
- Tại sao chỉ ngũ sắc tà ma lại sợ?
- Anh hỏi các hồn ma thì biết. Em còn sống phây phây trả lời sao được. Ma quỷ chỉ tụ họp trong tăm tối, khí âm lạnh lẽo không có hình bóng, ngũ sắc lòe loẹt ngăn cản sự tụ hội của khí ấm. Mùi tanh, tỏi cũng khiến khí âm khó tụ kết nên âm binh phải xa lánh. Đúng vậy chăng?
Đan Tâm còn nô đùa, giỡn cợt :
- Loại ma sợ chỉ ngũ sắc của em là loại ma ngày xưa lén lút trên rừng thiêng âm u không ánh sáng. Anh sợ loại ma của bọn Hắc Y. Nó là loại ma sống, mà chạy chân nghe rầm rập. Nó khát máu thực sự! Nó thích giết người thực sự! Nó thối tha không một mùi vị thảo mộc nào có thể làm át được mùi thối tha của chúng! Nó tệ hại hơn trùng độc rắn rết, bọ cạp, nó sống với xác chết nữa.
Đương nói, Đan Tâm ngửng đầu nhìn về phía Tây nam có đám khói đen dầy đặc cuồn cuộn bay tới. Gió mới đầu còn làm lay động cành lá, sau rít lên như sắp nổi cuồng phong bão tố. Bốn bề mây ám mù mịt tối đen, văng vẳng nghe tiếng vong hồn than khóc như có nhiều đám tang ở bốn bề, rên rỉ.
Bầu không khí thoang thoảng có mùi máu tanh lợm giọng. Hai con ngựa ô truy cứ lồng lộng hí vang muốn rứt cương chạy đi. Cực chẳng đã, Đan Tâm đành phải hối Chi Mai leo lên mình ngựa rời khỏi khu vực nguy hiểm.
Chắc chắn là tên cầm đầu đám ma thi quỷ dữ là Trụ Ma Thiên Vương, một trong bốn thủ lãnh lợi hại nhất của tổ chức áo đen. Hắn đinh ninh là Thái tử, cùng đám cấm binh phen này sẽ chết trong trận tà ma quỷ quái của hắn.
Khi còn cách mục tiêu độ nửa dặm đường, tên Trụ Ma cầm cây gậy đen trỏ thẳng lên trời, gió mạnh thổi sát mặt đất khiến đá cũng phải bay. Vùng độc khí đen ngòm như một bàn tay khổng lồ chụp xuống khu doanh trại.
Song Trâm nữ hiệp là người duy nhất ở lại để quan sát trận thế ma yêu biến chuyển ra sao. Bà đã vận cương khí bao bọc cùng mình để khỏi bị khí độc lạnh buốt xâm chiếm châu thân. Đã nhiều phen bà định phóng phi kiếm và phi trâm tấn công vùng hắc khí, nhưng không nhận rõ vị trí tên đầu yêu đứng chỗ nào thì khó đả thương trúng nó đặng.
Chừng tới khi vùng khí độc áp tới gần, bà lờ mờ trông thấy Trụ Ma bận bào đen, cưỡi con trâu nước đen xì, bao quanh hắn một số đông bóng đen nhảy nhót.
Những thây ma lạnh ngắt này, đứa thì khiên hòm móc ở mả các bãi tha ma mộ địa lên. Thây ma kéo thây ma, những bộ xương rã rời thịt nát, ruột gan lòng thòng vịn nhau mà đi. Lại thêm giống súc vật như heo chó bò chết lâu ngày cũng lủi lủi cắn nhầu những bộ lòng dài lòng thòng đó, lốc nhốc chạy theo.
Sự thực đoàn ma thi không đi, mà trái lại hình như bị gió mạnh cuốn trôi đi. Xúm xít với nhau.
Một tiềm năng kỳ lạ quyện lấy nhau, như sức mạnh vô hình của cả ngàn vong hồn lôi cuốn khối vật chất thối tha đó đi theo ý muốn của tên đầu yêu.
Trông xa thì hỗn độn, nhưng thiệt tình, lũ ma diễn thế trận Thiên Ma Lãnh Khí ở trang chót cuốn Lạc Hồn thủ pháp kỳ thư.
Để thêm vào cơn lốc vũ bão của đám hắc vân, tên Trụ Ma miệng lâm râm đọc bài chú, chốc chốc lại thò tay vào túi vải vung ra một loại bột màu vàng. Tức thời gió lại rít lên từng cơn rất mạnh, làm bụi vàng bay tới đâu, chạm vào cỏ thì úa rụng liền, không một sinh vật nào chạm vào mà còn sinh khí.
Trâu, bò, heo, chó ngã lăn ra. Xác chết đông lạnh. Vùng tử khí khi lại lớn lên thành gió, thành bão cuốn tất cả những vật đã chết đi theo. Thực là địa ngục A Tỳ đã hiện lên nhân gian. Sự kinh khủng không sao tả siết, thật là ghê sợ!
Chi Mai thấy ngựa lồng dữ quá liền lấy khóm hành, khóm tỏi buộc quanh cổ con ô truy để nó không bị độc khí làm choáng váng. Đúng như nàng dự đoán, hơi thảo mộc này đánh át một phần lãnh khí, nhờ vậy, Chi Mai nhìn rõ những vật xung quanh và không bị khí độc chờm sát tới cận.
Nàng bảo Đan Tâm rằng :
- Tôi rất lấy làm lo sợ cho bà Song Trâm. Một mình bà ta làm sao chống cự lại được độc khí, độc phong? Chúng mình bỏ đi tất cả để bà đơn phương độc mã ở lại đoạn hậu, nếu xảy ra chuyện gì ân hận lắm! Bà đã đối xử với chúng ta rất tốt, chúng ta ám trợ cho bà, chừng nào thực nguy cấp ra roi chạy dài còn kịp chán!
Nói chưa dứt lời, hai người ngoảnh đầu lại trông rõ nữ hiệp xòe tay đánh một chưởng làm đổ ngọn đèn lưu ly đặt trên đống hỏa liệu, ngọn lửa cháy bùng lên.
Trong chớp mắt, gió to, lửa bốc mạnh khiến vòng rào quanh doanh trại cháy lan nhanh như một vòng đai lửa lớn. Lũ “lãnh ma” bị ánh sáng soi rõ đôi mắt chỉ là hai hốc sâu hoắm đen ngòm trên bộ mặt trắng bệch, nên chúng kêu ré lùi lại...
Tuy lửa sáng chói như vậy mà cũng khó nhận ra chân hình người bóng vật. Bà Song Trâm, cùng một lúc, tận lực bình sinh phóng một lúc cả trâm vàng lẫn kiếm bạc về phía tên đầu yêu đang quát tháo.
Phi trâm và phi kiếm rít xé không khí soèn soẹt, đâm thẳng vào giữa vùng khí đen, hào quang vàng trắng lấp lánh rất đẹp mắt. Trụ Ma Thiên Vương dù tài giỏi nghiêng trời lệch đất cũng khó đỡ nổi một lúc lưỡng kiếm thêm một ngọn trâm vàng lợi hại.
Hắn múa cây gậy đen lên gạt làn kiếm quang, nhưng mũi trâm đã găm trúng bả vai hắn khiến hắn té nhào từ trên con trâu nước xuống. Bầy quỷ nhảy ào ào như đàn châu chấu tràn ngập các doanh trại.
Loạt đầu tiên bị chặt cụt đầu. Những tên ma cụt đầu đó cúi xuống lấy tay nhặt đầu, nhặt sọ chúng và ném về phía bà Song Trâm. Thực là quái đản khủng khiếp. Nhiều đầu lâu, thây ma nằm vắt ngang hàng rào, bị lửa nướng cháy nổ kêu lép bép.
Bà Song Trâm lùi vào giữa doanh trại, phần vì độc khí và các hòm thây ma, đầu lâu xương người, thịt người cứ ném ào ào về phía bà, mùi hôi tanh nồng nặc không sao chịu nổi. Hắc khí trùm lên làm lửa tắt ngấm. Tên Trụ Ma đã rút cây trâm ra khỏi vai, hình như hắn lúc đó không biết sự đau đớn của xác thịt. Cánh tay hắn bị chém đứt gần rời lủng lẳng mà không thấy chảy máu. hắn ném cây gậy đen và túi vải đựng bột màu vàng về phía nữ hiệp.
Gậy đen múa tít giao chiến cùng kiếm bạc trên không trung. Lưỡi kiếm chém trúng túi bột độc. Động tác này thực không có lợi cho bà Song Trâm vì bột đó làm tắt hết lửa. Gió thổi ào ào thêm mạnh. Vùng khói đen càng dày đặc thêm lên. Khí lạnh tỏa ra nhanh chóng. Làn kiếm quang yếu lực dần dần.
May thay mấy quả pháo bén ngòi nổ tưng bừng sáng. Tiếng nổ vang động làm lũ ma thi rùng rùng lùi lại phía sau. Chính trong lúc này nàng Chi Mai đã lắp tên dùng ná bắn trúng sọ mấy tên lãnh ma. Nhưng chẳng ăn nhằm gì cả chúng vẫn trơ trơ nhào tới. Đan Tâm muốn cùng Chi Mai quay ngựa trở lại tiếp cứu bà Song Trâm, nhưng thấy tụi thây mà cứ nhăn nhở tung hoành nên không dám. Nhà cửa cháy dở dang bị chúng đạp phá đổ vỡ rầm rầm. Chúng phát tiếng kêu làm sởn gai ốc!
Chi Mai lấy nhanh tỏi cắm vào đầu mũi tên nhắm một bóng ma, phóng một mũi tên xem sao? Mũi tên găm trúng thân hình gầy chỉ còn da bọc xương của tên lãnh ma cao nghêu, xông xáo gần nàng nhất.
Tức thời thây ma lạnh té gục xuống, từ vết thương trúng tên một làn khói đen nghi ngút bốc lên thay vì là máu chảy ra, thân hình giãy giụa, co quắp rồi lụi tàn dần thành nắm bụi đất gió cuốn bay đi. Tử khí kết hợp thành “chủng ma”. Nhưng thể khí này vốn dĩ tanh tưởi, không kết tụ được với mùi hôi hành tỏi thường có tình chất tỏa rộng và làm át hơi khí khác vì đặc tính phát sanh vụ trụ tuyến của nó.
Thấy linh nghiệm, Chi Mai cứ tiếp tục làm như vậy, bắn trúng thêm năm bảy tên quỷ hú ré lớn nhất, thân hình kinh tởm lần lượt tan rã biến mất giữa vùng hắc khí đen ngòm.
Ở phía trong, bà Song Trâm lui vào tòa đại sảnh xây bằng đá xanh. Bà dẫn dụ được một đám đông thây ma chạy theo vô căn nhà lớn đó.
Chừng tới khi bà nhảy trổ lên nóc và bay vụt về phía Đan Tâm và Chi Mai đương ngồi trên mình ngựa lắp tên giương nỏ bắn ngã những tên lãnh ma cuồng tín ở chung quanh ngôi nhà.
Chân bà vừa chấm đất thì tòa đại sảnh phát nổ. Hỏa pháo chất trong tòa nhà bén ngòi cùng phát cháy một lúc nên đã gây tiếng nổ dữ dội như vậy. Nhiều thây ma bị hơi nổ xé tan thành mảnh vụn hoặc bị kẹt dưới mái tường bị sụp đổ xuống.
Từ lâu bà Song Trâm nín thở như người ngụp lặn dưới đáy nước sâu. Thấy không khí nơi hai người đứng tương đối quang đãng, bà mới thở phào một hơi và hít dài :
- Nếu không có hai em còn chờ ta ở đây thì phen này ta nguy mất! Coi chừng “hắc bổng” của giống tà ma đánh hơi tới nơi.
Đứng gần những khóm hành, tỏi lủng lẳng quanh cổ ngựa, nữ hiệp chỉ cho Đan Tâm trông thấy cây gậy đen quay tít từ trong vùng hắc khí vọt nhằm ba người đánh xuống.
Đan Tâm rút nhanh mộc kiếm đối địch. Chiếc gậy ba lần đánh bổ xuống đều bị Đan Tâm gạt văng xa tít. Chi Mai cầm búi hành ném trúng mắc vào một đầu gậy. Các nhánh hành tỏi bị dập nát càng xông mùi hăng hắc trong vầng khí tanh tưởi dễ khiến nôn ọe.
Nếu nhóm ba người sợ ngửi phải mùi tanh như thế nào thì bọn ma thi cũng sợ hít phải mùi hành, tỏi như vậy. Chúng nhốn nháo rút lui, làn khói đen không sao chồm đụng tới chỗ ba người. Cây gậy đen cũng bị rớt nằm tòn ten trên mặt tường xiêu.
Thừa dịp này, ba người chạy nhanh về phía Đông bắc. Bà Song Trâm phi thân như đạo cầu vồng vụt sáng. Đan Tâm và Chi Mai phóng ngựa chạy nước đại, nhắm theo sau ánh trăng nhấp nhoáng.
Càng ra xa khu vực doanh trại, không khí an lành hơn. Hai người thở mạnh thấy trong người thư thái dễ chịu. Ống đựng tên đeo sau lưng Chi Mai không còn một mũi nào hết.
Đan Tâm hằn học có vẻ tiếc :
- Nếu biết nghe em, chúng ta triệt để dùng hai loại gia vị hành tỏi này mà trừ yêu thì hôm nay có lẽ phá xong được trận Thiên Ma Lãnh Khí của Trụ Ma Vương rồi. Ai ngờ vật tầm thường như nhánh hành, nhánh tỏi đặt đúng chỗ lại đắc dụng đến thế.
Chi Mai cười đáp :
- Song lẽ, nếu chúng ta vô ý đụng nhằm phải một hạt cát vàng của Trụ Ma thì chúng ta cũng biến thành Ma thi theo chúng về mộ địa! Đây chỉ là trường hợp bất ngờ chúng ta thấy có hiệu quả, có lẽ những mùi hành tỏi lạ hoắc đối với ma thi. Nhưng nếu đem sử dụng quy mô Trụ Ma biết được, nó thay đổi phương sách thì tụi mình chẳng thành công dễ dàng được. May mắn hai ta ở lại trợ giúp bà Song Trâm thoát nguy. Đó là điều đắc ý nhất.
Đan Tâm khen phải :
- Thiệt tình lúc đó ta cũng hoảng vía, mất trí vì ghê sợ lũ yêu ma đó, thế mà em vẫn bình tĩnh bắn chúng ngã, đáng phục quá chừng!
Chi Mai xì một tiếng :
- “Chào mào khen khỉ đỏ đít”. Đó chỉ là sống ở rừng núi người sơn cước chúng em quen chống chọi với lam sơn chướng khí ma thiêng nước độc có chút kinh nghiệm, nên vững chí mà thôi.
Ngoảnh nhìn lại phía sau, vùng khí đen đã thu nhỏ dần. Trời quang mây tạnh, tiếng ma kêu quỷ hú cũng không còn nghe thấy lao xao nữa.
Hai người vẫn thúc ngựa chạy nhanh để cố bắt kịp các toán người tháo lui từ trước.
Tới quá nửa đêm thấy xa xa phía trước mặt đoàn cẩm binh thiết kỳ đã rong đuốc hộ vệ Đông Cung thái tử tiến nhanh.
Chín toán kỵ mà đi hàng một kéo dài, trông xa như chín con rắn lửa ngoằn ngoèo qua đồi vượt núi. Bà Song Trâm đã bắt gặp Phong Vân nói cho nàng hay bà đã chặn đánh là Trụ Ma bị thương. Nguy hiểm đã qua bây giờ có thể an nhiên rong đèn, đốt đuốc trong đêm tối, tránh mọi phục quân cản trở.
Khi thấy Đan Tâm và Chi Mai phi ngựa chạy tới, mọi người hoan hô khích lệ, Thái tử mừng quá cởi ngay hoàng bào ban cho Chi Mai khoác lên thân mình đỡ lạnh dưới sương đêm.
Thái tử hoan hỉ nói :
- Ta có những trang hiệp khách can đảm tài giỏi nhường này bọn Hắc Y chẳng thể thủ thắng tung hoành được.
Nghe bà Song Trâm kể cho biết những thây mà miệng thở khói đen hôi tanh nồng nặc, vác hòm đựng xác sình thúi, nhặt đầu lâu và ném vô trong doanh trại, các nàng Bảo Liên và Thái Cơ lấy hai tay bịt tai, bịt mắt, run rẩy không dám nghe nữa.
Trương Bỉnh Nhi đương ngồi bên cạnh Lão Tam cũng mặt mày tái xanh, chui tọt vào trong. Câu Hồn vẫn ngủ im hơi, Cung Đình đương ăn nốt con gà luộc to tướng đương xé thịt dở dang.
Thiết Như Hoa và Kim Diện sứ giả tiên phong do thám mở đường.
Văn Tú Tài tay phẩy quạt khiến con thanh phong mã đi song hành với ngựa Cao Tú Sĩ, hai người chuyện trò thân mật lắm.
Khi mọi người nghe tới câu chuyện Chi Mai bắn ngã thây ma bằng củ hành, củ tỏi, ai cũng lộ vẻ mặt ngạc nhiên, duy chỉ có Cung Đình thò cổ ra khỏi mui xe la lối :
- Chị Chi Mai còn hai món đó không, cho tôi mỗi thức một vài nhánh ăn chơi với thịt thăn gà xé phay cho đúng vị của nó. “Ăn chó không giếng, ăn gà không hành” nó làm sao ấy!
Đan Tâm lắc đầu bảo :
- Xông pha từ tối, món đó rơi lả tả hết rồi! Chỉ còn mùi nó dính khắp thân mình ngựa mà thôi, rất tiếc, không còn sót lại cọng nào hết.
- Hoài của! Nếu vậy thì thôi, nhắc đến chỉ thêm thèm. Cho ngựa đi lại bên xe, tôi hít vài hương tưởng tượng như có mùi vị đó, gặm nốt cánh gà này cũng được.
Mọi người thấy Cung Đình tham ăn, cõng Câu Hồn chạy nhanh thế mà vẫn còn thủ được con gà luộc lớn đem theo thì chịu y hết sức.
Cung Đình gọi bà Song Trâm nói rằng :
- Nè bà chị! Cho em xin lại hai cây ngân kiếm, nếu phải tay em phi kiếm đêm nay thì Trụ Ma có ba đầu cũng rụng nhào hết mà...
Bà Song Trâm gật đầu nói :
- Để ta trả lại cho sư đệ đôi ngân kiếm. Ta sử dụng không đắc lực cho lắm. Có lẽ ta dùng kim trâm quen tay hơn.
Cung Đình giơ tay ra tiếp lấy đôi kiếm bạc nhỏ xíu đưa lên mũi ngửi. Bỗng hắn nhăn nhó nôn ọe la trời như bọng :
- Ối a! Tanh quá mẹ ôi! Phi kiếm chém rụng nhiều đầu thây ma quá nên sặc sụa mùi tanh kinh tởm. Em hết ăn được thịt gà nữa rồi... Ối chao, phải nhai cả thúng hành tỏi gừng tiêu ớt mấy ngày mới khỏi mùi lợm giọng buồn nôn. Chém làm chi vật thối tha như vậy? Sư tỷ ơi!
Mọi người nghe Cung Đình la lối phải bật cười.
Lão Nhiếp Thủ lấy bầu rượu trong bọc đưa cho Cung Đình bảo rằng :
- Lấy chút rượu trong bầu này mà tẩy uế... cho hết mùi xú khí.
Cung Đình đổ rượu lau rửa lưỡi kiếm và tiện tay tu vài ngụm rượu khoái trá. Đoàn quân trảy tới sáng, dừng lại thổi cơm ăn trước bình minh.
Khi ánh mặt trời le lói chiếu xuống đồng ruộng, mọi người không còn kinh sợ phải đương đầu với các thây ma nữa! Nhưng bỗng nhiên Thiết Như Hoa chạy về báo tin có hai cánh quân lạ xuất hiện. Mỗi toán đông một ngàn người.
Bà Song Trâm liền chia quân thành hai toán. Một toán do bà thống lĩnh, một toán do Phong Vân quận chúa chỉ huy kéo ra nghênh chiến.
Đây có lẽ là cánh quân thuộc quyền Ngũ Đạo tướng quân với mục đích vây bọc đoàn binh Thái tử bắt buộc về kinh để cho đoàn âm binh tiến lên tiêu diệt không còn một người sống sót.
Cánh phía tả do một viên tướng mặt đen xử thanh đại đao dài như Yểm Nguyệt Long Đao của Quan Vũ nhà Hậu Hán.
Hắn quát lớn nạt nộ rằng :
- Lũ chuột định chạy trốn đi đâu cho thoát khỏi ta? Bản chức vâng lệnh quan Ngũ Đạo tướng quân bắt lũ bay nhốt vào tù xa đem đi trảm.
Bên này chia đàn ngựa thành hàng ngang, cánh quân phía hữu đã nổi trống trận ầm ầm kéo đến. Giữa đám kiêu binh xông ra một viên tướng cưỡi ngựa lông vàng, mặt to bạnh như cái thúng, đầu tóc lơ thơ vài sợi tóc loe hoe, miệng rộng môi dầy thâm như hai miếng thịt trâu ôi, hò hét :
- Lũ bọ xít kia! Mau xuống ngựa chịu trói bằng không ta sẽ đập nhát tụi bay cho vào hũ mắm.
Viên tướng mặt vàng như nghệ đó cầm một cây trùy đồng có gai cán dài, nom điệu bộ cũng oai phong lẫm liệt lắm.
Bà Song Trâm quay lại hỏi Thủy Liên Đài rằng :
- Thủy cô nương ắt hẳn nhận biết hai thằng cha này là hạng người nào?
- Đó là danh tướng xứ Hồ Bắc, một người cầm đại đao là Quách Vô Nghi lãnh chức Kỵ Đô Úy và người cầm trùy là Tưởng Bất Túc lãnh chức Cấm thành Phó đốc quân, không hiểu hai tên này mang binh bản bộ đến đây chặn đường chúng ta là nghĩa lý gì? Hoàng thành có biến rồi chăng?
Bà Song Trâm cho ngựa kiệu bước một ra trước hàng trận, cầm roi ngựa trỏ mặt hai viên hổ tướng đương diễu võ dương oai nói rằng :
- Ta là Bình Giang Nữ Vương, phụng chỉ Đông Cung thái tử hồi triều, hai ông là tướng của triều đình sao không xuống ngựa cung bái Điện hạ mà lại có cử chỉ mạn thượng như vậy?
Quách Bất Nghi cắp dao vô nách, vuốt râu ha hả cười vang :
- Mụ là ai lại dám tự xưng vương? Vương bá gì mà ăn mặc lôi thôi lếch thếch, chức tước đâu mà “lạm phát” quá như vậy? Bình Giang hầu thì có chứ làm gì có chức vị nào là Bình Giang vương trong danh bộ triều đình?
Thủy Liên Đài tức giận phóng ngựa xông ra cả mắng :
- Quách Bất Nghi! Tiểu tốt vô danh đừng hỗn láo. Cả tên mặt mẹt Tưởng Bất Túc kia nữa, Điện hạ và Thiên tuế uy nghi ngự nơi kia, hai bay ăn lộc triều đình mà lại dám phản vua, phản chúa phải không? Không sợ “ba họ” tru di hay sao?
Tưởng Bất Túc bị gọi tên trước ba quân, tức khí chửi lại :
- Ta là danh tướng triều đình đâu thèm nói chuyện với lũ “bọ gậy”. Thái tử mi nói là Thái tử nào? Thiên tuế mi nói là Thiên tuế nào? Chính hai ta phụng mạng Thái tử và Thiên tuế lại đây để bắt giết bọn phản thần hại nước đem về đâm cổ cắt tiết! Mi lại dám mở miệng đem danh hiệu Thái tử và Thiên tuế ra dọa nạt ta sao đặng?
Thủy Liên Đài và bọn người nữ hiệp ngỡ ngàng như trên cung trăng rớt xuống. Không hiểu tại sao ở trước mắt quân ngu như heo này lại có đến hai Thái tử, hai Thiên tuế? Bên nào thực, bên nào giả? Bọn Quách Bất Nghi và Tưởng Bất Túc này bị lầm lộn rồi?
Thái tử muốn minh bạch mọi sự liền sóng cương cùng Phong Vân tiến lên phía trước, gọi hai tướng bảo rằng :
- Hai tướng quân không nhận biết ta sao?
Cả hai viên tướng họ Quách và Tưởng đều lắc đầu đáp lại :
- Không! Ta không biết bọn ngươi là ai dám giả mạo xưng danh con vua. Hiện triều đình có đủ cả Vua Tống, Thái tử, Thân vương, Thiên tuế thiết đại lễ cho văn võ bá quan triều kiến Thánh chỉ tuyên bố rõ ràng là có một bọn mưu đồ soán nghịch ban chiếu giả tái lập Lý Lăng vương, giải chức Thân vương gây náo loạn trong nước. Đức vua đã khỏi bệnh cùng Thái tử phân giải rõ ràng về việc phản loạn đó. Hai ta được Ngũ Đạo tướng quân ra lệnh dẹp dư đảng của bọn giặc Lý Lăng còn sót lại. Muốn tránh mọi sự đổ máu vô ích, bọn phản loạn nên xuống ngựa quy hàng cho ta bắt trói đem về dâng nộp Hoàng đế để Ngài cùng Thân vương xét xử. May ra tránh được tội trảm, giảm xuống còn tội lưu cũng là sinh phúc cho tụi bay lắm. Còn nếu cứ nhiều lời cãi chày cãi cối kháng cự triều đình, ta xua binh loạn đả thì tất cả chúng bay sẽ thịt nát xương tan, dù có hối tiếc cũng muộn.
Cậy đông quân sĩ dưới quyền hai tướng múa may hò reo vang trời dậy đất, khí thế hăng hái bội phần.
Trái lại bên này, quân thiết kỵ vẫn trầm tĩnh, binh khí tuốt trần, đứng yên không nhúc nhích rất nghiêm chỉnh.
Thái tử không nỡ để đôi bên lâm vào vòng chiến mái đổ thịt rơi vì ngộ nhận, bèn giật cương con ngựa đen bốn vó trắng “Tứ Túc Mai Hoa” trở về phía sau cùng các anh hùng liệt nữ thương nghị.
Quách Bất Nghi gia hạn cho một khắc, không quyết định đầu hàng thì cho quân xáp chiến.
Cao Tú Sĩ bực mình hậm hực :
- Binh với tướng chó gì mà lại hồ đồ, có mắt như đui, giặc không đón đánh mà lại nhè quân tướng nhà mà đón đánh. Để tôi và Đan Tâm ra cho mỗi thằng nếm vài đường gươm cho chúng nó mở to mắt ra.
Bà Song Trâm lắc đầu can ngăn :
- Đoàn quân này tin theo chủ tướng nó lắm. Giao tranh là quân nó xung trận liền. Cuộc chém giết trở nên khốc hại. Nhất định là phần thua về bên chúng, nhưng chém giặc thì ta không tiếc tay, đằng này chém quân nhà đương bị lầm lẫn u mê thì ta không nỡ. Thái tử cũng không muốn cốt nhục tương tàn như vậy. Tiến cũng khó mà lui cũng khó!
Thủy Liên Đài bóp tay than thở :
- Mới nhiếp chính, ba quân biết mặt Thái tử thì ít, biết mặt Thiên tuế thì nhiều, Ngặt vì nỗi Thiên tuế hôm nay lại cải thành nữ nhân mất rồi, khó biện minh quá. Nói rồi đưa mắt nhìn Cao Tú Sĩ có vẻ trách móc. Cao Tú Sĩ hiểu ý là từ này chẳng còn Thiên tuế tức Ngũ Độc Thiên Nhân nữa, chỉ còn Phong Vân quận chúa. Nhưng Hắc Y lợi dụng sơ hở, cải dạng thành Thiên tuế và chiếm lãnh quyền uy đó liền.
Đến lúc nãy mọi người mới nhận thấy Hắc Y Đạo có những ngón đòn cực kỳ hiểm độc. Chưa biết hắn đã sai phái ai cải dạng thành Thái tử và ai cải dạng làm Ngũ Độc Thiên Nhân? Rất có thể chính hắn đã hóa trang, cải hình biến dạng thành một trong hai người.
Phe bên này chưa kịp về kinh, hắn đã phò giúp Thân vương Tạ Bưu về trước, thế cờ chỉ chậm một nước mà biến cục hoàn toàn. Nếu thực Hắc Y Đạo đã thân hành ra mặt điều hành vụ dịch giả thành chân, mập mờ đánh lận con đen này thì thực là Thái tử ở vào thế kẹt.
Cao Tú Sĩ và Đan Tâm đều chủ trương đánh rốc ngay vào hai cánh quân giết chết hai tướng rồi hỏa tốc chạy về kinh tìm vào phủ Thân vương, mang Tạ Bưu ra vấn tội.
Nhưng bà Song Trâm lo răng, sau trận đánh giết này, đoàn ma binh từ phía sau kéo đuổi theo kịp, Ngũ Đạo dẫn thêm binh tiếp ứng, vây bọc cấm quân và Thái tử và giữa hai gọng kìm. Đánh nhau, chạy trốn cả đêm qua bây giờ lại đánh nhau rồi lại phải tiếp chiến nữa. Chừng còn lực lượng mà về tới kinh, nếu chẳng may đụng đầu với chính Hắc Y đạo trưởng thì lấy hơi sức đâu mà thủ thắng.
Đấy là chưa kể nhóm anh hùng liệt nữ tuy đông, nhưng còn phải lo bảo vệ Thái tử, Thái Cơ, Bảo Liên và một số người không biết chiến đấu giả tỷ như Câu Hồn và Cung Đình ban ngày công lực phân tán thì làm thế nào?
Vạn nhất tất cả mọi người binh sĩ cũng như nhân dân, triều đình đều nhầm lẫn không biết là Hắc Y đã đánh lộn sòng, cứ tưởng bọn mình là quân phản loạn, thì lấy ai là người trợ giúp tiếp cứu khi lâm nguy.
Dù có giải thích cho hắc bạch phân minh thì lực lượng hiện tại của mình mười phần đã hư tám chín. Đấy là chưa kể trong lúc xông pha mũi tên hòn đạn, Thái tử không được bảo vệ chu toàn thì trách nhiệm sẽ trút vào ai?
Tình thế thực là tế nhị khó khăn! Thời giờ lại gấp rút!
Văn Tú Tài cưỡi con Thanh Phong mã tiến lại phía hai tướng đương đứng chờ ở cửa trận, vòng tay thi lễ.
- Kính chào nhị vị đại tướng quân. Kẻ hạ tiện là Văn Tú Tài có lời kính thưa cùng hai vị.
- Bằng lòng đầu hàng hả? Hay là muốn dùng thuyết khách làm kế hoãn binh?
- Không có ai là Tô Tần, Trương Nghi trong hoàn cảnh này. Đây chỉ là một sự thực xin thưa để hai tướng quân định đoạt. Trong đám chúng tôi có nhiều kẻ muốn đánh hơn là muốn hàng. Hai vị tướng quân lĩnh mệnh chủ soái Ngũ Đạo tướng quân đến bắt chúng tôi, vậy lệnh trên có nói cho biết là có bà Ngũ Đạo tướng quân cùng lệnh ái chủ soái ở trong đám chúng tôi không? Nếu hai quân giao chiến, bà lớn và cô chủ chết đi, hai tướng quân trở về được thưởng hay bị trừng phạt?
- Nhà ngươi nói sao? Có bà Ngũ Đạo tướng quân và cô nương ở trong đám quân bên đó sao? Lấy gì làm bằng chứng?
- Tôi nói dối hai vị thì được ích gì? Ai cũng biết chỉ có Ngũ Đạo tướng quân và cô nhà mới hay dùng ngọc Quỷ đầu trùy bốn cạnh bằng thiết cang màu xanh biếc. Tôi đưa cho hai bị làm bằng sai người cầm về phi báo cho chủ tướng biết, xem có đúng hay không? Chủ soái lệnh hai ông đi bắt giặc và giết giặc chứ có lệnh đi giết vợ con của chính chủ soái đâu? Hai tướng quân nghĩ lại mà coi.
Nói rồi đưa mũi trủy cho Quách Bất Nghi.
Hai tướng cứng lưỡi không biết nói sao. Tưởng Bất Túc đành phái thám mã cưỡi ngựa lưu tinh chạy về đại bản doanh cấp báo.
Văn Tú Tài hiến kế :
- Trong khi chờ đợi chẳng nên giao binh. Mỗi bên lui quân về một đỗi tên.
Hai tướng ưng thuận, dàn quân thực rộng để đối phương không thể lọt vòng rào chạy trốn.
Thái tử và Song Trâm thấy Văn Tú Tài mới uốn ba tấc lưỡi đã hoãn được tình thế căng thẳng, khen ngợi chàng thư sinh trẻ tuổi, Văn Tú Tài cười nói :
- Bây giờ dùng kế tỉa dần đi thôi.
Nói rồi ghé tai Cao Tú Sĩ nói nhỏ.
Cấm quân liền xuống ngựa nghỉ ngơi. Hai bên chờ lệnh Ngũ Đạo tướng quân quyết định. Hai tướng bỗng thấy tự hàng trận cấm quân, có một anh chàng không biết tìm đâu được một thanh đại đao, ngồi trên ngựa trắng quờ quạng tập múa trông rất buồn cười.
Quách Vô Nghi bảo Tưởng Bất Túc rằng :
- Đại huynh trông xem thằng kia nó múa bài đao gì mà tôi trông ngứa mắt quá. Tôi chỉ muốn thúc ngựa ra tặng cho nó một đao như Quan Hầu Tru Nhạn Lương trảm Văn Xú cho đỡ bực mình.
Viên tướng mặt vàng trả lời :
- Phải đấy! Tôi trông cũng ngứa mắt lắm. Huynh ra cho nó một bài học, trong khi chờ đợi, ta cứ thủng thẳng tỉa vài thằng cho bên nó khiếp đảm.
Quách Vô Nghi cắp đao cho ngựa chạy lại gần anh chàng ngông dại nói rằng :
- Ta thấy ngươi múa đao mà tủi cho thanh đao. Mi múa dở quá, tồi tệ quá!
Thiếu niên nọ cười đáp :
- Ta múa đao dở ẹc, nhưng ai mà nhảy vô đấu chọt là hết về với vợ con đấy! Đứng xem nói phách lối thì dễ, nhập cuộc, có khi không còn cái mồm phê bình nữa.
Quách Văn Nghi nổi đóa hét lớn :
- Ta thấy mày kém muốn chỉ bảo cho biết chỗ dốt kém của mày. Lại dám mở miệng đòi đấu chọi. Được rồi, chọi thì chọi cho bay về với tiên tổ.
- Đấu tay đôi không được ai giúp nhé!
- Nhất định là như vậy rồi! Ra giữa quãng trống kia nhất định không ai được can thiệp. Hai người tiến ngựa ra giữa khoảng đất rộng. Quân đôi bên thấy có cuộc đấu đao thảy đều nhổm dậy đứng ra coi xem vồ tay reo hò ầm ầm!
Lẽ tất nhiên tài đánh đao của chiến tướng Quách Vô Nghi phải là tuyệt kỹ rồi. Long đao bay nhấp nhoáng vun vút sức mạnh phi thường. Còn chàng trẻ tuổi thì lúng túng y như thợ rụng mất kim, cầm đao sái phép, bổ củi không ra bổ củi, đập chó không ra đập chó, chọc ngang chọc dọc, múa loạn xà ngầu trông rất tức cười.
Có lần bổ mạnh quá, thành quá trớn chém hụt không khí tí nữa té lộn đầu xuống đất. Lưỡi đao sáng nhoáng của Quách Vô Nghi nhiều lần tạt ngang qua, chỉ một ly “ông cụ” là đầu Cao Tú Sĩ bị rơi xuống mặt cỏ.
Người đứng xem vừa lấy làm thích thú, vừa kinh hãi thay cho anh chàng trẻ tuổi trong vòng đấu. Họ chỉ cho là anh ta may mắn mà tránh né khỏi lưỡi hái tử thần, thực ra trước sau rồi cũng chết bởi tay Quách tướng quân đao pháp đã vững vàng, sức mạnh không kém thần Kim Cương tái thế.
Quả nhiên hai ngựa quân quần vài chục hợp, một tiếng “choang” rùng rợn nổi lên, thanh đao của thanh niên đã bị văng lên trời quay tít nhiều vòng, Cao Tú Sĩ chỉ còn trơ đôi bàn tay không luống cuống ôm đầu cho ngựa chạy vòng tròn để lẩn trốn lưỡi đao oan nghiệt...
Quách Vô Nghi nắm chắc phần thắng trong tay, vừa biểu diễn những đường đao cực kỳ đẹp mắt như “Sát thủ đao”, “Hồi mã quái đao” và sau cùng là miếng “Đà đao” tuyệt luân, lưỡi đao sát yên ngựa để chặt Cao Tú Sĩ đứt làm hai khúc.
“Soẹt”! Lưỡi đao lướt nhanh hơn ánh chớp. Mọi người đều kêu rú lên vì không thấy chàng thanh niên trên mình ngựa nữa.
Văn Tú Tài cố như bị nghẹn họng không thở được, thiếu chút ngất lịm.
- Úi chao! Bị chém trúng “chết” mất rồi! Đâu rồi, ngã ngựa rồi chăng?
Nhưng không phải vậy, anh chàng đã lanh lẹ tụt nấp dưới bụng ngựa. Và rồi lại lấy đà, tót phốc lên yên nhưng thay vì ngồi đàng hoàng ngay ngắn, lần này ngồi quay trở mặt lại phía sau, coi khá ngộ nghĩnh.
Hắn xoa đầu, sờ cổ xem còn nguyên vẹn thân mình không?
Cuộc giao đấu biến thành cuộc trình diễn, một bên như mèo muốn vò, một bên như chuột chạy, xem rất hứng thú.
Người chậm hiểu đến đâu cũng nhìn nhận là Quách Vô Nghi đã dụng tình muốn giết thực sự. Nhưng đối phương quá ư nhanh nhẹn nên tránh né rất tài tình. Lưỡi đao tuy ác liệt, tác oai tác quái, nhưng con ngựa Bạch Tuyết Long Câu hình như cũng rất khôn ngoan, biết né tránh cho chủ nó khỏi bị vong mạng trong đường tơ kẽ tóc.
Quách Vô Nghi trổ tuyệt kỹ. Trước còn hạ tay đao sát cận thấy không ăn thua gì, hắn vờ thúc ngựa lảng ra xa, nhưng bất thình lình đổi tay trái sang tay mặt, chỉ cầm đao ở cuối cán vung mạnh một cái. Lưỡi đao vung theo đường cầu trong như một đạo cầu vồng vẹt tới cổ Cao Tú Sĩ.
Với miếng Nhật Nguyệt Quái Đao này, hắn đã hạ sát không biết bao nhiêu đối thủ tài danh.
Nhưng sau lưng chàng thanh niên như có mắt, lưỡi đao vừa sẹt tới gáy thì người chàng ta cũng như một con lật, theo hướng lưỡi đao lộn đi một vòng và rơi bịch xuống đất.
Người tinh mắt đến đâu cũng không thể phân biệt rằng kẻ bị đao chém trúng hay chưa bị chém trúng. Bên quân Quách Vô Nghi vỗ tay reo vang vì cho là Cao Tú Sĩ bị mất mạng nên nhào rồi.
Văn Tú Tài cuống cuồng, lấy tay nắm lấy Đan Tâm la hoảng :
- Quách Vô Nghi lợi hại có tiếng! Anh để bạn anh chết uổng hay sao?
Đan Tâm nhoẻn miệng cười :
- Anh Cao Kỳ có lâm nguy thì Thiếu Cơ lo! Anh làm gì mà rối rít lên thế? Giá anh là phụ nữ, không sợ nàng Thiếu Cơ ghen hay sao? Coi bộ thằng cha cầm đại đao nặng tổ bố này có chém trúng được anh ấy, còn khuya. Kiếm gỗ của tôi chém nhanh hơn đao của thằng này gấp mười lần mà xét ra cũng chẳng làm rụng được lông chân anh ấy. Vậy việc gì mà sợ xanh cả mặt?
Mọi người ngó lại thì quả nhiên Cao Tú Sĩ lấy tay nắm đuôi ngựa đương kéo anh ta lết trên mặt đất sềnh sệch. Rồi hắn nhỏm dậy được, chạy sau ngựa Bạch Tuyết. Con ngựa chạy mỗi lúc một nhanh làm chân Cao Tú Sĩ không chấm đất phất phơ lộn phèo như diều giấy bay đến nực cười.
Thấy nhiều người cười ồ như vậy thì Quách Vô Nghi lại lầm tưởng là chế nhạo y chém hụt. Lòng tự ái nổi lên làm hoa mắt. Hắn trợn mắt, vểnh râu thúc ngựa, giơ thẳng long đao quyết tâm chém nát địch nhân làm trăm nghìn mảnh mới nguôi cơn tức.
Hắn tế ngựa đuổi theo ngựa kia một quãng khá xa. Ai cũng đoán chắc là nếu bắt kịp, hắn hạ tay đao là kết thúc tính mạng Cao Tú Sĩ. Mọi người dõi theo thấy bỗng nhiên chàng thanh niên buông tay không nắm đuôi ngựa nữa, nằm cong queo trên mặt cỏ. Đúng là con cá nằm sẵn trên thớt để chờ lưỡi đao chặt xuống phân thây.
Quách Vô Nghi phấn khởi, mừng thầm trong bụng hai tay giơ long đao kìm ngựa đứng lại, nhằm giữa cổ Cao Tú Sĩ chém một nhát cực mạnh nhất định không thể sai trệch được.
Lần này mày khó thoát khỏi đầu lìa thân xác!
Cao Tú Sĩ năm thẳng cẳng dưới đất mặt ngửa lên trên không nhúc nhích, chàng nhìn lưỡi đao phản chiếu tia mặt trời sáng như gương lấp lánh...
Văn Tú Tài run bắn người lên, nằn nì bà Song Trâm.
- Phu nhân phi kiếm cứu... cứu...
Nói rồi líu lưỡi không thốt nên lời.
Bà Song Trâm thực tình cũng hơi bối rối. Không hiểu Cao Tú Sĩ định giở trò gì? Thái tử cũng luýnh quýnh!
- Mạng Cao Tú Sĩ nguy mất! Ai cứu hắn hộ ta!
Nói thì chậm. Lưỡi đao đã hạ xuống mất rồi. Nhiều người bưng mắt kêu rú lên vì không muốn mục kích thảm cảnh máu chảy đầu rơi. Quách Vô Nghi sung sướng cười ngất. Quân sĩ bên phía hắn vỗ tay reo hò khen ngợi.
Nhưng đến khi hắn nhấc thanh đao lên thấy cán đao nhẹ bỗng, thay vì hắn cầm thanh Yểm Nguyệt Long Đao, hắn chỉ còn cây bằng sắt trong tay dài ngoằng như thiết côn. Đao và lưỡi đao bị tiền rời khỏi cán đao mất rồi...
Thế là nghĩa lý gì? Chàng thanh niên có pháp thuật chăng?
Thì ra Cao Kỳ Nhất Phương đã dùng lưỡi Song Nhạn Thiên Linh chặt cụt đao của hắn trước khi lưỡi đao phạm nhằm nơi cổ.
Quách Vô Nghi quá chủ quan khinh thường đối thủ. Hắn không biết Cao Tú Sĩ là một kiếm khách “Chưởng môn nhân” Nga Mi. Nếu biết trước như vậy thì đã chẳng dám giao đấu để đối phương chém cụt đao mà vẫn lớ ngớ như người trong mộng.
Chưa biết phải làm thế nào thì con ngựa hắn đương cưỡi bị khụy hai vó trước, hất Quách Vô Nghi té xuống đất. Hắn biết là gặp phải thú dữ chặt đứt cẳng ngựa rồi, tung người đứng dậy, cầm ngang cây côn sắt thủ thế. Nhưng cây sắt dài lại bị lưỡi Song Linh chém gãy thành hai đoản côn. Viên tướng vũ dũng hai tay cầm cây gậy ngắn coi đến nực cười.
Quân sĩ bên Quách Vô Nghi không cười được! Anh nào cũng đứng ngây người như phỗng đá. Quách Vô Nghi chưa kịp giơ hai cây gậy ngắn múa may thì lại thấy gươm báu chém chụt thêm hai nhát nữa chỉ còn là hai thỏi sắt vô dụng trong lòng bàn tay.
Cao Tú Sĩ ra tay như điện. Thiên Linh kiếm của chàng thật phi thường, lưỡi sắc bén và lướt nhanh quá gần như là vô hình kiếm. Đến khi chàng tra gươm vào vỏ nghe đến cách một tiếng, Quách Vô Nghi vẫn không rõ chàng đã ra chiêu thế gì chém cụt cán đao của hắn cả thảy là mấy lần?
Tưởng Bất Túc thấy Quách Vô Nghi chỉ trong nháy mắt đã ngã ngựa, hai tay không còn binh khi biết là nguy cấp. Hắn không nghĩ ngợi gì hết múa cây đồng trùy cán dài như vũ bão xông vào đánh Cao Tú Sĩ để cứu gỡ cho bạn.
Nhưng Đan Tâm lanh lẹ hơn hắn nhiều. Chàng phi ngựa ra chặn lại hét lớn :
- Hai người giao đấu, hẹn không kẻ ngoài can thiệp. Thằng mặt vàng như nghệ này định đánh trộm ai vậy?
Tưởng Bất Túc ngoác cái mồm loe ống nhổ mắng lại :
- Tránh xa ra! Thằng trọc đầu rùa! Ông đập chết cha mày bây giờ!
Đan Tâm vốn nóng tánh, bị lăng nhục tức thời vung thanh mộc kiếm, chỉ thấy chàng khoa tay đến véo, những ngón tay bám chặt cán trùy đồng bị đứt rớt văng tung tóe, đầu trùy đập một cái vào đầu con ngựa vàng nhôm kêu đến bốp một cái.
Thế là tướng quân biến thành người tàn phế cụt tám ngọn phục vị xuống đất. Cao Tú Sĩ ung dung bảo Quách Vô Nghi :
- Túc hạ không phải là đối thủ của bọn ta đâu. Sở dĩ chúng ta không ra tay vì không muốn sát hại nhiều nhân mạng. Mau bảo thuộc hạ tránh cho chúng ta đi, chúng ta không đòi hỏi điều gì hết.
Bọn tì tướng định xổ ra cứu chủ tướng, nhưng Cao Tú Sĩ đã khẽ động tay, mũi nhọn lạnh ngắt đã dí sát yết hầu Quách Vô Nghi.
- Bảo chúng không được động thủ nếu không mi ắt chết trước.
Đan Tâm cũng đã nắm tóc Tưởng Bất Túc lôi đứng dậy, kề gươm vô cổ nạt :
- Súc sanh! Mi mắng ai là trọc đầu rùa? Ông phải cắt hết tóc của mày đi xem trọc đầu bò của mày ra sao?
Cả hai tướng nếu bướng bỉnh thì toi mạng nên đành vâng theo ý muốn của hai tráng sĩ.
Hai tướng ra lệnh cho quân binh dưới quyền rút lui để đoàn cầm quân tiếp tục tiến hành không bị cản trở.
Đám quân sĩ thuộc quyền hai tướng thấy chủ tướng đã bị hại và bị uy hiếp hên hết dám ho he, biết rằng nếu cưỡng lời giao chiến thì cũng sẽ như trứng chọi đã, bị tiêu diệt uổng mạng mà thôi.
Hai tướng bị trói ngồi trên mình ngựa, đầu cúi gục xuống không dám liếc nhìn những người chung quanh.
Bà Song Trâm muốn trổ thần oai áp đảo chúng phải hoàn toàn quy phục, tung phi trâm chém gãy lá cờ chỉ huy của hai cánh quân nọ. Đạo hào quang xẹt ra như tên bắn, lượn quanh lá cờ đại bái một vòng, tên quân cao lớn chỉ còn cầm trong tay cái cán cụt ngủn.
Cờ gãy, tướng bị bắt thật là điềm xui “rắn mất đầu” không còn một chút tinh thần chiến đấu như trước nữa.
Phong Vân vẫy tay ra hiệu, đoàn kỵ mã hộ vệ Thái tử phóng nước đại, hàng ngũ chỉnh tề, trong chớp mắt đã vượt nhiều dặm đường.
Khi Ngũ Đạo tướng quân thân hành kéo đại đội binh mã đến tiếp ứng hai tướng thì đoàn người ngựa Thái tử đã biệt tăm vô tín không biết đi về hướng nào mất rồi?
Nếu đôi bên cứ giao tranh thì quân Ngũ Đạo tướng quân ập đến cứu viện kịp, đoàn cấm quân rất có thể bị nguy vì quả bất địch chúng.
Khoảng giữa trưa, Thái tử họp chư liệt vị anh hùng lại thương nghị, dò xét biết địch tập trung nhiều cánh quân rất lớn đóng dọc đường về kinh, mục đích dồn ép Thái tử vào thế cô lập.
Trong không có lực lượng cứu ứng, ngoài không có lực lượng dựa mạnh nên bà Song Trâm khuyên mọi người nên tạm lui về núi Bạch Khô Lâu sào huyệt cũ của đảng cướp Mỏ Diều làm điểm tựa. Nơi đây có nhiều rừng rậm, có núi đá toàn hang hốc hiểm trở ba bề lại có trường giang bao quanh, thành bãi lau sậy gần như vùng Lương Sơn Bạc của một trăm lẻ tám thủ lãnh thảo khấu chống Tống tiền triều.
Cung Đình bảo Trương Bỉnh Nhi đưa trình Thái tử bản đồ cất giấu kho tàng của đảng cướp lớn này. Nếu tìm ra đặng kho tàng do nhóm người Thái tử sẽ có nhiều vàng bạc mua sắm quân lương để kéo dài những ngày tạm lánh sức mạnh đối phương.
Để cho Ngũ Đạo tướng quân không thể tìm ra dấu vết, mọi người cho ngựa đi theo dòng nước tiến sâu vào núi.
Bà Song Trâm và Thiết Như Hoa khá thông thuộc đường lối địa thế khu vực này nên cuộc lẩn tránh khỏi tai mắt quân áo đen không chút khó khăn.
Dân chúng khắp vùng, từ lâu không mến phục Thân vương nên không hợp tác với bọn quân binh dưới quyền Ngũ Đạo tướng quân, bọn chúng không biết cư xử lấy lòng dân, chỉ hay dùng sức mạnh bóc lột và khủng bố. Vì vậy toán quân của Thái tử càng thêm yên ổn.
Sau hai ngày đường xuyên sơn, đoàn thiết kỵ thấy hiện ra trước mặt một dãy núi rất hiểm trở. Đặc việt có mộ ngọn núi trọc đá vôi, có nhiều hang hố trông xa như cái xương sọ đầu lâu có hai lỗ mắt và hốc mũi đỏ ngòm. Mọi người xuống ngựa nghỉ ngơi và phái một toán binh chia các ngả dò xét địa hình.
Lão Tam vốn tính tham lam, nghe thấy nói là đi tìm kho tàng nhiều ngọc vàng châu báu nên hăm hở muốn theo toán thám binh tiên phong sục sạo Bạch Khô Lâu.
Câu Hồn không muốn Trương Bỉnh Nhi đi theo Lão Tam lên tiếng ngăn cản :
- Muốn chết hay sao mà xông vào nơi tử địa? Chúng ta cùng bọn với mấy tên đầu lĩnh người Tây Liêu và Ngõa Nặc Ô Đồ và Vô Sĩ mà còn chẳng dám xông pha nơi sào huyệt đầy hầm bẫy chết chóc này, các ngươi dại dột lớ dớ đi lăng quăng thì dễ bỏ mạng lắm!
Mọi người nghe cô nhỏ mũi gồ nói vậy kinh sợ hỏi duyên cớ. Bà Song Trâm bảo Cung Đình dỗ dành cô bạn mãi mới biết rằng bọn giặc Mỏ Diều đã luyện chất kịch độc với nham thạch tán vụn đắp lên khu vực dãy núi đá vôi này thành những hòn đá sắc cạnh. Người ngựa len lỏi bị cạnh đá hoặc mũi đã làm xây xước da thịt sẽ chết liền, chung quanh Bạch Khô Lâu xương trắng người và thú vật rải rác khắp hẻm ngõ ngách.
Vì vậy nên mới có tên là rặng núi đầu lâu tuyệt đối không nên khinh thường xông xáo. Chỉ còn một đường lối duy nhất là tìm những ám hiệu chỉ dẫn những lối an toàn mới có thể đột nhập nơi trung tâm khu vực. Tốt hơn nên xuống ngựa để một mình Câu Hồn đi trước dẫn đường. Tuyệt đối không được dùng tay sờ mó vào các vách đá hai bên lối mòn.
Cẩn thận tránh những hòn đá sắc xám hoặc sắc nâu nằm vương vãi trên lộ trình, ngựa nên bọc vó, người đi thêm “hài sào” hoặc lấy vải bố bó cẳng chặt chẽ, đi lần từng bước.
Nghe Câu Hồn giải thích người nào cũng lắc đầu lè lưỡi. Hèn chi mà bao năm binh sĩ triều đình không cách nào tiễu trừ được đảng cướp dữ tợn đó.
Thái tử truyền lệnh cho mọi người làm theo như Câu Hồn căn dặn. Quả nhiên trên đường đi đến núi sọ đầu lâu, mọi người thấy nhiều chỗ ngổn ngang các đống xương người, dãi dầu mưa nắng, đã trở nên một màu trắng bệch. Trông xa cứ ngỡ là đá vôi.
Người ngựa nối đuôi nhau đi hàng một, tới gần chiều mới lên tới cửa hang đầu lâu.
Hai hốc lỗ mắt là hai vọng canh, nhưng quân canh đã bỏ chạy đâu mất. Cửa hang rộng như cái miệng há rộng, nhũ đá lớn trừ trên buông xuống và mũi nhọn đá mài từ dưới chỉa lên trông không khác chi hai hàm răng năng nhọn hoắt. Người yếu bóng vía trông vào trong hang tối om, các tiền cũng chẳng dám bước vô! Thực là một sào huyệt được lựa chọn và thích hợp nhất cho những tay tổ lục lâm giang hồ đại đạo.
Câu Hồ chỉ ba kẽ hở nói rằng :
- Có ba lỗi vô động đá. Đi vào lỗi chính giữa thì bị tụt hầm, rớt xuống khe sâu có đá độc tất chết. Đi phía bên phải thì sẽ sa vào mê lộ, quẩn quanh rồi cũng sa vào đá nhọn chết. Chỉ đi theo cửa vô bên hữu là vào được sào huyệt, ăn thông ra nhiều thung lũng ở giữa đằng sau quả núi.
Mọi người đốt đuốc, mạo hiểm theo Câu Hồn vào thạch động. Đèn đuốc vừa đốt lên, ánh sáng chiếu sáng bên trong, mọi người rợn tóc gáy.
Nhiều đống sọ người trắng hếu chất cao ngất như đống bình vôi có thứ tự, dọc hai bên vách đá.
Không biết lũ cướp hung tợn đã thâu nhặt gom góp tự bao giờ nhiều sọ người chết vô định thành những đống “bảo vật” trấn sơn.
Qua khỏi Khô Lâu lộ, mọi người tiến sâu vào đường đèo phía sau núi khúc khuỷu quanh co, nhưng lối đi tương đối rộng dần và dễ đi hơn.
Bạch Khô Lâu sơn quả là hiểm địa, một người tử thủ có thể chống cự trăm người, chẳng thể vượt qua được.
Ra khỏi quả núi ánh sáng bỗng chan hòa làm mọi người mở bừng mắt trông thấy một vùng bằng phẳng mênh mông. Có ruộng vườn phì nhiêu đầy ngũ cốc, nhiều khu vực nhà cửa tươm tất tường xây mái ngói khang trang.
Cung Đình phải thốt lên lời như sau :
- Hai thằng học trò của tôi, không ngờ nó đã học được đúng phép khai khẩu nơi hoang dã thành nơi ăn chốn ở khá chu đáo. Chỉ vì hai đứa thị tài vô kỷ luật nên tôi mới khu trục nó ra khỏi Châu Hòa Trần. Nếu chúng học võ thành tài thì riêng một giang sơn này tha hồ dọc ngang chọc trời khuấy nước, ai hồ dễ làm gì nơi chúng nó. Tiếc thay!
Câu Hồn chỉ cho mọi người lục soát những kho đụn thấy còn rất nhiều lương thực ngũ cốc tích trữ ở trong tầu ngựa nào cũng đầy ắp. Các giếng nước trong lành hầu như vẫn đầy.
Phong Vân liền cắt đặt cấm binh mỗi người một việc, đóng trại nghỉ quân.
Bộ hạ tìm lôi ra được mấy tên đầu mục và lâu la giữa sào huyệt nằm say khướt cò bợ. Cũng có đứa hút nhiều mê túy thảo nên ngủ lịm bên một số phụ nữ bị chúng bắt cóc vô sơn trại hầu hạ phục dịch chúng. Đa số đều có nhan sắc nhưng vì lo sợ bị bọn chúng đánh đập hành hạ nên người nào cũng có vẻ ốm o gầy mòn.
Tại một khu vực trong tận cùng sơn cốc. Câu Hồn chỉ cho thấy những cây mê túy thảo, hút vào thì say sưa, nhai nuốt thì thần kinh bị kích thích tột độ, ham thích chém giết không biết sợ hãi gì cả.
Việc đầu tiên là lấy hai mảnh bản đồ ghép lại, truy lục nghiên cứu chỗ giấu kho tàng. Hầu hết các liệt vị anh hùng đều chú ý xem xét, định hướng và tìm hiểu đồ hình.
Nhưng chỉ thấy một vài nét gạch nguệch ngoạc, vài mỏm đá vài hình ngôi sao, rất là khó đoán, không biết kẻ vẽ đồ hình muốn mô tả cái gì?
Người nọ truyền tay cho kẻ kia, rốt cuộc chẳng một ai tìm ra một manh mối nào hết về kho tàng của bọn cướp Mỏ Diều cả.
Việc đầu tiên Thái tử đề nghị mọi người cần phải làm gấp là phân công kẻ bảng chỉ dẫn rõ ràng những nơi nào có cạm bẫy và có “độc thạch” nguy hiểm chết người để mọi người tránh xa đừng bước tới.
Việc thứ hai là chia quân cung thủ canh gác những nơi hiểm yếu và báo động khi có biến.
Ngoài việc thủ hiểm, cần phải tìm đường rút lui ra bên ngoài khi đại binh địch vây bọc tận diệt. Nói vậy, dù huy động hàng vạn tinh binh đến nơi này, cứ trông thấy núi đá trùng trùng điệp điệp lại thêm trăm ngàn ngõ ngách thì cũng chỉ là tìm kiếm cây kim trong đám cỏ rậm.
Đồng thời cũng lựa chỗ giam nhốt hai tướng Quách Vô Nghi và Tướng Bất Túc để chờ khi dùng đến.
Tòa đại sảnh nơi đây cũng rất rộng lớn. Thái tử giữ bên mình bà Song Trâm, Phong Vân quận chúa và lão Nhiếp Thủ để bàn định quân cơ. Nhưng muốn lưu giữ lão “trường thủ” này phải có rượu ngon và đồ nhắm tốt. Đó là một việc chưa thể giải quyết ngay được nên lão hậm hực càu nhàu luôn miệng.
Lão rày la Văn Tú Tài :
- Ta chẳng tiếc chi, chỉ tiếc có bình ngự tửu. Nghe lời xúi dại của bây, bỏ lại tưởng được “tắm trong ao rượu”, ai ngờ đến đây để chết khát không có rượu ngon uống, đồ nhắm tốt trong cái núi đá vôi đầy đầu lâu, sọ người và xương sườn, xương ống chân khô, mốc thếch này.
Văn Tú Tài vội vàng an ủi :
- Cụ đừng có nóng! Bất kỳ ở đâu cũng có kỳ trân mỹ vị tại nơi đó. Tôi sẽ bảo anh em đi kiếm rượu cụ xơi. Nếu không có rượu thì cất lấy mà uống. Cùng quá thì sai người đi mua. Biết đâu quanh đây lại không tìm ra giống ếch bụng vàng để làm món nhậu, cụ “khai khẩu” tùy thích.
Lão Tam bàn góp :
- Ở đây có kho tàng. Chúng ta ráng tìm kiếm cho ra, thiếu gì tiền mua rượu tốt. Nhược bằng, cụ thèm uống quá, tôi đi kiếm lúa mạch nấu tạm cho cụ một vò rượu tăm sủi bọt vậy.
Lão Nhiếp Thủ buồn rầu lắc đầu đáp :
- Toàn những lời hứa hão huyền, lão thích cái gì “thực tế” chứ không ưa nghe những lời hứa suông nhạt nhẽo. Lũ cướp quỷ ở đây toàn là những thằng ưa hút sách, lão đã cho “đôi tay” đi mò mẫm lục soát rồi, không còn một giọt “đế” nào hết. Có bao nhiêu, mấy thằng đầu mục “sâu rượu” khốn nạn kia nó đã uống hết trơn ráo trọi và đập vỡ bừa bãi.
Tiếng muỗi bay cũng nghe thấy, cô nhỏ Câu Hồn vẫn tiếp tục nói mê, giọng nói có vẻ hối hả, thúc giục :
- Cung Đình ơi! Không giỡn với bồ đâu! Trụ Ma xuất toàn lực âm binh tấn công đêm nay! Thây ma đội mồ chui lên... ghê sợ lắm! Hôi thúi lắm! Đừng ngửi hơi thúi đó! Chết! Chết! Chạy trước đi mau! Cõng thằng Bỉnh Nhi đi cùng cho vui. Thằng nhỏ đó ngộ lắm, Bụng dạ nó tốt lắm! Đừng để nó chết uổng...
Phong Vân và nàng Thiết Như Hoa nghe Câu Hồn nói vậy, hai người hình như hoảng ngộ một điều gì. Cả hai mặt tái xanh, cắt không còn được hạt máu.
Phong Vân quận chúa tâu với Đông Cung thái tử rằng :
- Câu Hồn nói đúng vì Kim Điện sứ giả Trương Tuấn Phong này cũng mang tin lại rất đúng. Trụ Ma Thiên Vương xuất âm binh đánh trận này là trận quyết liệt. Nó sẽ khiển từ các bãi tha ma, thây chết sình thúi đứng dậy về tấn công chúng ta. Nó sẽ tung làn mây độc khí, không một sinh vật nào sống sót chống nổi khí độc đó. Kẻ bị mê man còn bị thây ma trét bùn dơ, máu huyết vô miệng mũi cho chết ngộp. Kẻ khác bị “cấy” trùng cùi vô óc làm điên hoảng chạy như lũ quỷ sứ âm ty lên trần gian! Qua một đêm khủng khiếp, sáng mặt trời mọc chỉ còn một vùng hoang địa điêu tàn không bóng một sinh vật sống. Đây là sở trường của Trụ Ma Thiên Vương, chúng ta nên nghe lời Câu Hồn tạm lánh đi mau, nếu không thì nguy hiểm lắm.
Lời trình tấu của Phong Vân quận chúa rất minh bạch. Thái tử buồn bã hỏi :
- Sự nguy hiểm tới, ta chỉ biết lo thân ta chạy trốn, còn bách tính là dân thì sao? Bỏ mặc họ trong cơn chết chóc phũ phàng sao đành?
Bình Giang vương phu nhân khuyên giải :
- Điện hạ có lòng nhân đức, trời phật cảm thông. Trụ Ma xuất âm binh chỉ nhằm tung độc khí đánh phá bản doanh này, dân chúng Nhữ Nam ở xa nơi đây ít lo quân Hắc Y áp bức, khí độc không lan tràn tới nơi đó được. Cấm quân đều là thiết kỵ, di chuyển mau chóng, chưa dễ gì Trụ Ma bắt kịp. Vậy Điện hạ không nên vì tiểu tiết mà quên đại sự. Tôi xin lĩnh mệnh Điện hạ cắt đặt công cuộc phò giá.
Tiếng cô nhỏ Câu Hồn lại ọ ẹ vang lên hối hả :
- Mau lên! Mau lên! Chạy về phía Đông Bắc rẽ ngang hướng gió. Mau lên mới kịp. Đoàn ma thi của Trụ Ma chạy mau lắm, cứ mỗi quân ma kéo cả chục thây ma đi theo. Qua mồ mả nào thì xác chết đội mồ chui lên nhập bọn, tử khí kéo thành luống gió lốc... mau lên! Cung Đình cõng tớ đi, mùi tanh hôi hết chịu nổi rồi!
Cao Kỳ Nhất Phong vội hộ vệ Thái tử, cả hai leo lên ngựa Bạch Tuyết Long Câu. Văn Tú Tài cưỡi Thanh Phong Mã chạy kế bên.
Còn những người khác lục tục lên xe, lên ngựa chạy theo tốp thứ hai. Nàng Chi Mai tay xách chiếu ná bảo Đan Tâm rằng :
- Giặc đến ta đánh! Anh đánh kiếm, em bắn tên, thế nào cũng giết được một số rồi phá vòng vây sợ gì?
Đan Tâm bảo :
- Không được đâu, đầu sọ thây ma, em có bắn trúng tên cắm như lông nhím, nó vẫn chạy tới bắt em đem đi. Chừng đó anh có chém đứt đầu nó thì nỏ cũng cõng em chạy đi xa mất rồi. Thôi, ba mươi sáu kế, chúng ta lên ngựa chạy theo Thái tử là thượng sách. Trông xem Cung Đình đã cõng Câu Hồn, Bỉnh Nhi cõng lão Tam chạy như bay kia kìa. Võ công họ gấp mười mình mà còn tẩu nhanh như gió, chúng mình dại gì mà ở lại chớ?
Nàng Chi mai đưa mắt nhìn xuống một vườn rau bên lộ, nàng xuống ngựa nói rằng :
- Em sống quen trong rừng rú, tà ma quỷ quái có nhiều loại, nào ma cà rồng hai mũi đỏ đêm đi hút máu dơ, nào ma trành, ma lọ ma xó, ma thây bó chiếu góc nhà, ông sọ, ma ngải... em đâu có sợ? Ma nào cũng sợ “tỏi”, sợ “hành”. Sẵn đây có nhiều cây hành cây tỏi, em hái một mớ thí nghiệm anh coi!
Đan Tâm không biết làm thế nào cũng đành theo nàng Chi Mai lần xuống ruộng bới hành tỏi bỏ bọc một mớ lớn.
Song Trâm nữ hiệp là người lắm cơ mưu. Bà tin vào tài nghệ nên rất bình tĩnh bảo lão Nhiếp Thủ đương vác bình rượu trên vai chưa muốn rời doanh trại mà rằng :
- Ô hay! Ông là Điện Tiền hộ vệ sứ mà lại bỏ mặc Đông Cung, ở đây với bình rượu, không coi trách nhiệm của mình ra sao ư? Tôi nói thiệt Thái tử mà gặp sự nguy hiểm thì tôi “mượn” ông cái đầu chứ tôi không mượn hai bàn tay đâu.
Lão Nhiếp Thủ bỏ chiếc bình sứ xuống đất nham nhở nói :
- Nữ hiệp muốn phi kiếm mượn thủ cấp lão phu thì còn miệng đâu để uống rượu. Chơi trò gì thì được, chứ cái trò ấy lão phu không hài lòng chút nào cả.
Thiết Như Hoa hộ vệ hai nàng Thái Cơ và Bảo Liên, dừng ngựa lại nói :
- Bảo vệ Đông Cung tánh khỏi nguy khốn rồi uống cả hồ ngự tửu cũng có. Tại sao lão bối lại tham bình rượu trước mắt mà bỏ ao rượu sau lưng! Bỏ quên trách nhiệm là điều xấu lắm!
- Ừ nhỉ! Tắm dưới ao rượu! Ý kiến hay, ta chưa được tận hưởng thú đó. Được rồi, chờ ta đi theo hộ vệ Thái tử với.
Thiết Như Hoa đeo chiếc mặt nạ bạc lóng lánh trên mặt, cài bảo kiếm sau lưng trông uy nghi dưới ánh đuốc, Kim Diện sứ giả cũng đi theo với nhóm đó.
Phong Vân quận chúa, lúc này đã bận võ phục búi tóc chặt, đầu đội hà tử quan, thân chỉ huy đoàn thiết kỵ, cờ nào đội đó từ từ ngựa tháo nhạc, người ngậm tăm, chia thành chín toán, như chín con rồng đen dài rút lui khỏi bản doanh.
Trước khi rút lui, Song Trâm nữ hiệp đã sai người chất hỏa pháo và cỏ khô, hỏa liệu quanh doanh. Trước khi quân giặc tràn vào làm đổ ngọn đèn lưu ly phát sinh hỏa hoạn mau chóng. Như vậy cũng phá một phần nào kế hoạch tập kích ban đêm của đối phương. Đồng thời cũng phái người di tản dân chúng ra xa khỏi vùng hàng chục dặm để tránh độc khí.
Bà thấy hai người Đan Tâm và nàng Chi Mai cứ lúi húi mãi nơi vườn rau mới hỏi :
- Hai người làm gì đấy? Tại sao không lên ngựa còn chần chờ, làn gió độc đến làm sao chạy kịp?
Nàng Chi Mai giơ nắm hành tỏi xông hơi cay xè nói rằng :
- Ma quỷ độc đến đâu cũng kiêng nể giống thảo mộc này. Tiếc thay không có chỉ ngũ sắc! Tôi định dùng những nhánh hành tỏi thí nghiệm xem sao? Nếu hơi độc bay đến, chúng tôi sẽ leo lên mình ngựa chạy ngay.
Đan Tâm hỏi :
- Tại sao chỉ ngũ sắc tà ma lại sợ?
- Anh hỏi các hồn ma thì biết. Em còn sống phây phây trả lời sao được. Ma quỷ chỉ tụ họp trong tăm tối, khí âm lạnh lẽo không có hình bóng, ngũ sắc lòe loẹt ngăn cản sự tụ hội của khí ấm. Mùi tanh, tỏi cũng khiến khí âm khó tụ kết nên âm binh phải xa lánh. Đúng vậy chăng?
Đan Tâm còn nô đùa, giỡn cợt :
- Loại ma sợ chỉ ngũ sắc của em là loại ma ngày xưa lén lút trên rừng thiêng âm u không ánh sáng. Anh sợ loại ma của bọn Hắc Y. Nó là loại ma sống, mà chạy chân nghe rầm rập. Nó khát máu thực sự! Nó thích giết người thực sự! Nó thối tha không một mùi vị thảo mộc nào có thể làm át được mùi thối tha của chúng! Nó tệ hại hơn trùng độc rắn rết, bọ cạp, nó sống với xác chết nữa.
Đương nói, Đan Tâm ngửng đầu nhìn về phía Tây nam có đám khói đen dầy đặc cuồn cuộn bay tới. Gió mới đầu còn làm lay động cành lá, sau rít lên như sắp nổi cuồng phong bão tố. Bốn bề mây ám mù mịt tối đen, văng vẳng nghe tiếng vong hồn than khóc như có nhiều đám tang ở bốn bề, rên rỉ.
Bầu không khí thoang thoảng có mùi máu tanh lợm giọng. Hai con ngựa ô truy cứ lồng lộng hí vang muốn rứt cương chạy đi. Cực chẳng đã, Đan Tâm đành phải hối Chi Mai leo lên mình ngựa rời khỏi khu vực nguy hiểm.
Chắc chắn là tên cầm đầu đám ma thi quỷ dữ là Trụ Ma Thiên Vương, một trong bốn thủ lãnh lợi hại nhất của tổ chức áo đen. Hắn đinh ninh là Thái tử, cùng đám cấm binh phen này sẽ chết trong trận tà ma quỷ quái của hắn.
Khi còn cách mục tiêu độ nửa dặm đường, tên Trụ Ma cầm cây gậy đen trỏ thẳng lên trời, gió mạnh thổi sát mặt đất khiến đá cũng phải bay. Vùng độc khí đen ngòm như một bàn tay khổng lồ chụp xuống khu doanh trại.
Song Trâm nữ hiệp là người duy nhất ở lại để quan sát trận thế ma yêu biến chuyển ra sao. Bà đã vận cương khí bao bọc cùng mình để khỏi bị khí độc lạnh buốt xâm chiếm châu thân. Đã nhiều phen bà định phóng phi kiếm và phi trâm tấn công vùng hắc khí, nhưng không nhận rõ vị trí tên đầu yêu đứng chỗ nào thì khó đả thương trúng nó đặng.
Chừng tới khi vùng khí độc áp tới gần, bà lờ mờ trông thấy Trụ Ma bận bào đen, cưỡi con trâu nước đen xì, bao quanh hắn một số đông bóng đen nhảy nhót.
Những thây ma lạnh ngắt này, đứa thì khiên hòm móc ở mả các bãi tha ma mộ địa lên. Thây ma kéo thây ma, những bộ xương rã rời thịt nát, ruột gan lòng thòng vịn nhau mà đi. Lại thêm giống súc vật như heo chó bò chết lâu ngày cũng lủi lủi cắn nhầu những bộ lòng dài lòng thòng đó, lốc nhốc chạy theo.
Sự thực đoàn ma thi không đi, mà trái lại hình như bị gió mạnh cuốn trôi đi. Xúm xít với nhau.
Một tiềm năng kỳ lạ quyện lấy nhau, như sức mạnh vô hình của cả ngàn vong hồn lôi cuốn khối vật chất thối tha đó đi theo ý muốn của tên đầu yêu.
Trông xa thì hỗn độn, nhưng thiệt tình, lũ ma diễn thế trận Thiên Ma Lãnh Khí ở trang chót cuốn Lạc Hồn thủ pháp kỳ thư.
Để thêm vào cơn lốc vũ bão của đám hắc vân, tên Trụ Ma miệng lâm râm đọc bài chú, chốc chốc lại thò tay vào túi vải vung ra một loại bột màu vàng. Tức thời gió lại rít lên từng cơn rất mạnh, làm bụi vàng bay tới đâu, chạm vào cỏ thì úa rụng liền, không một sinh vật nào chạm vào mà còn sinh khí.
Trâu, bò, heo, chó ngã lăn ra. Xác chết đông lạnh. Vùng tử khí khi lại lớn lên thành gió, thành bão cuốn tất cả những vật đã chết đi theo. Thực là địa ngục A Tỳ đã hiện lên nhân gian. Sự kinh khủng không sao tả siết, thật là ghê sợ!
Chi Mai thấy ngựa lồng dữ quá liền lấy khóm hành, khóm tỏi buộc quanh cổ con ô truy để nó không bị độc khí làm choáng váng. Đúng như nàng dự đoán, hơi thảo mộc này đánh át một phần lãnh khí, nhờ vậy, Chi Mai nhìn rõ những vật xung quanh và không bị khí độc chờm sát tới cận.
Nàng bảo Đan Tâm rằng :
- Tôi rất lấy làm lo sợ cho bà Song Trâm. Một mình bà ta làm sao chống cự lại được độc khí, độc phong? Chúng mình bỏ đi tất cả để bà đơn phương độc mã ở lại đoạn hậu, nếu xảy ra chuyện gì ân hận lắm! Bà đã đối xử với chúng ta rất tốt, chúng ta ám trợ cho bà, chừng nào thực nguy cấp ra roi chạy dài còn kịp chán!
Nói chưa dứt lời, hai người ngoảnh đầu lại trông rõ nữ hiệp xòe tay đánh một chưởng làm đổ ngọn đèn lưu ly đặt trên đống hỏa liệu, ngọn lửa cháy bùng lên.
Trong chớp mắt, gió to, lửa bốc mạnh khiến vòng rào quanh doanh trại cháy lan nhanh như một vòng đai lửa lớn. Lũ “lãnh ma” bị ánh sáng soi rõ đôi mắt chỉ là hai hốc sâu hoắm đen ngòm trên bộ mặt trắng bệch, nên chúng kêu ré lùi lại...
Tuy lửa sáng chói như vậy mà cũng khó nhận ra chân hình người bóng vật. Bà Song Trâm, cùng một lúc, tận lực bình sinh phóng một lúc cả trâm vàng lẫn kiếm bạc về phía tên đầu yêu đang quát tháo.
Phi trâm và phi kiếm rít xé không khí soèn soẹt, đâm thẳng vào giữa vùng khí đen, hào quang vàng trắng lấp lánh rất đẹp mắt. Trụ Ma Thiên Vương dù tài giỏi nghiêng trời lệch đất cũng khó đỡ nổi một lúc lưỡng kiếm thêm một ngọn trâm vàng lợi hại.
Hắn múa cây gậy đen lên gạt làn kiếm quang, nhưng mũi trâm đã găm trúng bả vai hắn khiến hắn té nhào từ trên con trâu nước xuống. Bầy quỷ nhảy ào ào như đàn châu chấu tràn ngập các doanh trại.
Loạt đầu tiên bị chặt cụt đầu. Những tên ma cụt đầu đó cúi xuống lấy tay nhặt đầu, nhặt sọ chúng và ném về phía bà Song Trâm. Thực là quái đản khủng khiếp. Nhiều đầu lâu, thây ma nằm vắt ngang hàng rào, bị lửa nướng cháy nổ kêu lép bép.
Bà Song Trâm lùi vào giữa doanh trại, phần vì độc khí và các hòm thây ma, đầu lâu xương người, thịt người cứ ném ào ào về phía bà, mùi hôi tanh nồng nặc không sao chịu nổi. Hắc khí trùm lên làm lửa tắt ngấm. Tên Trụ Ma đã rút cây trâm ra khỏi vai, hình như hắn lúc đó không biết sự đau đớn của xác thịt. Cánh tay hắn bị chém đứt gần rời lủng lẳng mà không thấy chảy máu. hắn ném cây gậy đen và túi vải đựng bột màu vàng về phía nữ hiệp.
Gậy đen múa tít giao chiến cùng kiếm bạc trên không trung. Lưỡi kiếm chém trúng túi bột độc. Động tác này thực không có lợi cho bà Song Trâm vì bột đó làm tắt hết lửa. Gió thổi ào ào thêm mạnh. Vùng khói đen càng dày đặc thêm lên. Khí lạnh tỏa ra nhanh chóng. Làn kiếm quang yếu lực dần dần.
May thay mấy quả pháo bén ngòi nổ tưng bừng sáng. Tiếng nổ vang động làm lũ ma thi rùng rùng lùi lại phía sau. Chính trong lúc này nàng Chi Mai đã lắp tên dùng ná bắn trúng sọ mấy tên lãnh ma. Nhưng chẳng ăn nhằm gì cả chúng vẫn trơ trơ nhào tới. Đan Tâm muốn cùng Chi Mai quay ngựa trở lại tiếp cứu bà Song Trâm, nhưng thấy tụi thây mà cứ nhăn nhở tung hoành nên không dám. Nhà cửa cháy dở dang bị chúng đạp phá đổ vỡ rầm rầm. Chúng phát tiếng kêu làm sởn gai ốc!
Chi Mai lấy nhanh tỏi cắm vào đầu mũi tên nhắm một bóng ma, phóng một mũi tên xem sao? Mũi tên găm trúng thân hình gầy chỉ còn da bọc xương của tên lãnh ma cao nghêu, xông xáo gần nàng nhất.
Tức thời thây ma lạnh té gục xuống, từ vết thương trúng tên một làn khói đen nghi ngút bốc lên thay vì là máu chảy ra, thân hình giãy giụa, co quắp rồi lụi tàn dần thành nắm bụi đất gió cuốn bay đi. Tử khí kết hợp thành “chủng ma”. Nhưng thể khí này vốn dĩ tanh tưởi, không kết tụ được với mùi hôi hành tỏi thường có tình chất tỏa rộng và làm át hơi khí khác vì đặc tính phát sanh vụ trụ tuyến của nó.
Thấy linh nghiệm, Chi Mai cứ tiếp tục làm như vậy, bắn trúng thêm năm bảy tên quỷ hú ré lớn nhất, thân hình kinh tởm lần lượt tan rã biến mất giữa vùng hắc khí đen ngòm.
Ở phía trong, bà Song Trâm lui vào tòa đại sảnh xây bằng đá xanh. Bà dẫn dụ được một đám đông thây ma chạy theo vô căn nhà lớn đó.
Chừng tới khi bà nhảy trổ lên nóc và bay vụt về phía Đan Tâm và Chi Mai đương ngồi trên mình ngựa lắp tên giương nỏ bắn ngã những tên lãnh ma cuồng tín ở chung quanh ngôi nhà.
Chân bà vừa chấm đất thì tòa đại sảnh phát nổ. Hỏa pháo chất trong tòa nhà bén ngòi cùng phát cháy một lúc nên đã gây tiếng nổ dữ dội như vậy. Nhiều thây ma bị hơi nổ xé tan thành mảnh vụn hoặc bị kẹt dưới mái tường bị sụp đổ xuống.
Từ lâu bà Song Trâm nín thở như người ngụp lặn dưới đáy nước sâu. Thấy không khí nơi hai người đứng tương đối quang đãng, bà mới thở phào một hơi và hít dài :
- Nếu không có hai em còn chờ ta ở đây thì phen này ta nguy mất! Coi chừng “hắc bổng” của giống tà ma đánh hơi tới nơi.
Đứng gần những khóm hành, tỏi lủng lẳng quanh cổ ngựa, nữ hiệp chỉ cho Đan Tâm trông thấy cây gậy đen quay tít từ trong vùng hắc khí vọt nhằm ba người đánh xuống.
Đan Tâm rút nhanh mộc kiếm đối địch. Chiếc gậy ba lần đánh bổ xuống đều bị Đan Tâm gạt văng xa tít. Chi Mai cầm búi hành ném trúng mắc vào một đầu gậy. Các nhánh hành tỏi bị dập nát càng xông mùi hăng hắc trong vầng khí tanh tưởi dễ khiến nôn ọe.
Nếu nhóm ba người sợ ngửi phải mùi tanh như thế nào thì bọn ma thi cũng sợ hít phải mùi hành, tỏi như vậy. Chúng nhốn nháo rút lui, làn khói đen không sao chồm đụng tới chỗ ba người. Cây gậy đen cũng bị rớt nằm tòn ten trên mặt tường xiêu.
Thừa dịp này, ba người chạy nhanh về phía Đông bắc. Bà Song Trâm phi thân như đạo cầu vồng vụt sáng. Đan Tâm và Chi Mai phóng ngựa chạy nước đại, nhắm theo sau ánh trăng nhấp nhoáng.
Càng ra xa khu vực doanh trại, không khí an lành hơn. Hai người thở mạnh thấy trong người thư thái dễ chịu. Ống đựng tên đeo sau lưng Chi Mai không còn một mũi nào hết.
Đan Tâm hằn học có vẻ tiếc :
- Nếu biết nghe em, chúng ta triệt để dùng hai loại gia vị hành tỏi này mà trừ yêu thì hôm nay có lẽ phá xong được trận Thiên Ma Lãnh Khí của Trụ Ma Vương rồi. Ai ngờ vật tầm thường như nhánh hành, nhánh tỏi đặt đúng chỗ lại đắc dụng đến thế.
Chi Mai cười đáp :
- Song lẽ, nếu chúng ta vô ý đụng nhằm phải một hạt cát vàng của Trụ Ma thì chúng ta cũng biến thành Ma thi theo chúng về mộ địa! Đây chỉ là trường hợp bất ngờ chúng ta thấy có hiệu quả, có lẽ những mùi hành tỏi lạ hoắc đối với ma thi. Nhưng nếu đem sử dụng quy mô Trụ Ma biết được, nó thay đổi phương sách thì tụi mình chẳng thành công dễ dàng được. May mắn hai ta ở lại trợ giúp bà Song Trâm thoát nguy. Đó là điều đắc ý nhất.
Đan Tâm khen phải :
- Thiệt tình lúc đó ta cũng hoảng vía, mất trí vì ghê sợ lũ yêu ma đó, thế mà em vẫn bình tĩnh bắn chúng ngã, đáng phục quá chừng!
Chi Mai xì một tiếng :
- “Chào mào khen khỉ đỏ đít”. Đó chỉ là sống ở rừng núi người sơn cước chúng em quen chống chọi với lam sơn chướng khí ma thiêng nước độc có chút kinh nghiệm, nên vững chí mà thôi.
Ngoảnh nhìn lại phía sau, vùng khí đen đã thu nhỏ dần. Trời quang mây tạnh, tiếng ma kêu quỷ hú cũng không còn nghe thấy lao xao nữa.
Hai người vẫn thúc ngựa chạy nhanh để cố bắt kịp các toán người tháo lui từ trước.
Tới quá nửa đêm thấy xa xa phía trước mặt đoàn cẩm binh thiết kỳ đã rong đuốc hộ vệ Đông Cung thái tử tiến nhanh.
Chín toán kỵ mà đi hàng một kéo dài, trông xa như chín con rắn lửa ngoằn ngoèo qua đồi vượt núi. Bà Song Trâm đã bắt gặp Phong Vân nói cho nàng hay bà đã chặn đánh là Trụ Ma bị thương. Nguy hiểm đã qua bây giờ có thể an nhiên rong đèn, đốt đuốc trong đêm tối, tránh mọi phục quân cản trở.
Khi thấy Đan Tâm và Chi Mai phi ngựa chạy tới, mọi người hoan hô khích lệ, Thái tử mừng quá cởi ngay hoàng bào ban cho Chi Mai khoác lên thân mình đỡ lạnh dưới sương đêm.
Thái tử hoan hỉ nói :
- Ta có những trang hiệp khách can đảm tài giỏi nhường này bọn Hắc Y chẳng thể thủ thắng tung hoành được.
Nghe bà Song Trâm kể cho biết những thây mà miệng thở khói đen hôi tanh nồng nặc, vác hòm đựng xác sình thúi, nhặt đầu lâu và ném vô trong doanh trại, các nàng Bảo Liên và Thái Cơ lấy hai tay bịt tai, bịt mắt, run rẩy không dám nghe nữa.
Trương Bỉnh Nhi đương ngồi bên cạnh Lão Tam cũng mặt mày tái xanh, chui tọt vào trong. Câu Hồn vẫn ngủ im hơi, Cung Đình đương ăn nốt con gà luộc to tướng đương xé thịt dở dang.
Thiết Như Hoa và Kim Diện sứ giả tiên phong do thám mở đường.
Văn Tú Tài tay phẩy quạt khiến con thanh phong mã đi song hành với ngựa Cao Tú Sĩ, hai người chuyện trò thân mật lắm.
Khi mọi người nghe tới câu chuyện Chi Mai bắn ngã thây ma bằng củ hành, củ tỏi, ai cũng lộ vẻ mặt ngạc nhiên, duy chỉ có Cung Đình thò cổ ra khỏi mui xe la lối :
- Chị Chi Mai còn hai món đó không, cho tôi mỗi thức một vài nhánh ăn chơi với thịt thăn gà xé phay cho đúng vị của nó. “Ăn chó không giếng, ăn gà không hành” nó làm sao ấy!
Đan Tâm lắc đầu bảo :
- Xông pha từ tối, món đó rơi lả tả hết rồi! Chỉ còn mùi nó dính khắp thân mình ngựa mà thôi, rất tiếc, không còn sót lại cọng nào hết.
- Hoài của! Nếu vậy thì thôi, nhắc đến chỉ thêm thèm. Cho ngựa đi lại bên xe, tôi hít vài hương tưởng tượng như có mùi vị đó, gặm nốt cánh gà này cũng được.
Mọi người thấy Cung Đình tham ăn, cõng Câu Hồn chạy nhanh thế mà vẫn còn thủ được con gà luộc lớn đem theo thì chịu y hết sức.
Cung Đình gọi bà Song Trâm nói rằng :
- Nè bà chị! Cho em xin lại hai cây ngân kiếm, nếu phải tay em phi kiếm đêm nay thì Trụ Ma có ba đầu cũng rụng nhào hết mà...
Bà Song Trâm gật đầu nói :
- Để ta trả lại cho sư đệ đôi ngân kiếm. Ta sử dụng không đắc lực cho lắm. Có lẽ ta dùng kim trâm quen tay hơn.
Cung Đình giơ tay ra tiếp lấy đôi kiếm bạc nhỏ xíu đưa lên mũi ngửi. Bỗng hắn nhăn nhó nôn ọe la trời như bọng :
- Ối a! Tanh quá mẹ ôi! Phi kiếm chém rụng nhiều đầu thây ma quá nên sặc sụa mùi tanh kinh tởm. Em hết ăn được thịt gà nữa rồi... Ối chao, phải nhai cả thúng hành tỏi gừng tiêu ớt mấy ngày mới khỏi mùi lợm giọng buồn nôn. Chém làm chi vật thối tha như vậy? Sư tỷ ơi!
Mọi người nghe Cung Đình la lối phải bật cười.
Lão Nhiếp Thủ lấy bầu rượu trong bọc đưa cho Cung Đình bảo rằng :
- Lấy chút rượu trong bầu này mà tẩy uế... cho hết mùi xú khí.
Cung Đình đổ rượu lau rửa lưỡi kiếm và tiện tay tu vài ngụm rượu khoái trá. Đoàn quân trảy tới sáng, dừng lại thổi cơm ăn trước bình minh.
Khi ánh mặt trời le lói chiếu xuống đồng ruộng, mọi người không còn kinh sợ phải đương đầu với các thây ma nữa! Nhưng bỗng nhiên Thiết Như Hoa chạy về báo tin có hai cánh quân lạ xuất hiện. Mỗi toán đông một ngàn người.
Bà Song Trâm liền chia quân thành hai toán. Một toán do bà thống lĩnh, một toán do Phong Vân quận chúa chỉ huy kéo ra nghênh chiến.
Đây có lẽ là cánh quân thuộc quyền Ngũ Đạo tướng quân với mục đích vây bọc đoàn binh Thái tử bắt buộc về kinh để cho đoàn âm binh tiến lên tiêu diệt không còn một người sống sót.
Cánh phía tả do một viên tướng mặt đen xử thanh đại đao dài như Yểm Nguyệt Long Đao của Quan Vũ nhà Hậu Hán.
Hắn quát lớn nạt nộ rằng :
- Lũ chuột định chạy trốn đi đâu cho thoát khỏi ta? Bản chức vâng lệnh quan Ngũ Đạo tướng quân bắt lũ bay nhốt vào tù xa đem đi trảm.
Bên này chia đàn ngựa thành hàng ngang, cánh quân phía hữu đã nổi trống trận ầm ầm kéo đến. Giữa đám kiêu binh xông ra một viên tướng cưỡi ngựa lông vàng, mặt to bạnh như cái thúng, đầu tóc lơ thơ vài sợi tóc loe hoe, miệng rộng môi dầy thâm như hai miếng thịt trâu ôi, hò hét :
- Lũ bọ xít kia! Mau xuống ngựa chịu trói bằng không ta sẽ đập nhát tụi bay cho vào hũ mắm.
Viên tướng mặt vàng như nghệ đó cầm một cây trùy đồng có gai cán dài, nom điệu bộ cũng oai phong lẫm liệt lắm.
Bà Song Trâm quay lại hỏi Thủy Liên Đài rằng :
- Thủy cô nương ắt hẳn nhận biết hai thằng cha này là hạng người nào?
- Đó là danh tướng xứ Hồ Bắc, một người cầm đại đao là Quách Vô Nghi lãnh chức Kỵ Đô Úy và người cầm trùy là Tưởng Bất Túc lãnh chức Cấm thành Phó đốc quân, không hiểu hai tên này mang binh bản bộ đến đây chặn đường chúng ta là nghĩa lý gì? Hoàng thành có biến rồi chăng?
Bà Song Trâm cho ngựa kiệu bước một ra trước hàng trận, cầm roi ngựa trỏ mặt hai viên hổ tướng đương diễu võ dương oai nói rằng :
- Ta là Bình Giang Nữ Vương, phụng chỉ Đông Cung thái tử hồi triều, hai ông là tướng của triều đình sao không xuống ngựa cung bái Điện hạ mà lại có cử chỉ mạn thượng như vậy?
Quách Bất Nghi cắp dao vô nách, vuốt râu ha hả cười vang :
- Mụ là ai lại dám tự xưng vương? Vương bá gì mà ăn mặc lôi thôi lếch thếch, chức tước đâu mà “lạm phát” quá như vậy? Bình Giang hầu thì có chứ làm gì có chức vị nào là Bình Giang vương trong danh bộ triều đình?
Thủy Liên Đài tức giận phóng ngựa xông ra cả mắng :
- Quách Bất Nghi! Tiểu tốt vô danh đừng hỗn láo. Cả tên mặt mẹt Tưởng Bất Túc kia nữa, Điện hạ và Thiên tuế uy nghi ngự nơi kia, hai bay ăn lộc triều đình mà lại dám phản vua, phản chúa phải không? Không sợ “ba họ” tru di hay sao?
Tưởng Bất Túc bị gọi tên trước ba quân, tức khí chửi lại :
- Ta là danh tướng triều đình đâu thèm nói chuyện với lũ “bọ gậy”. Thái tử mi nói là Thái tử nào? Thiên tuế mi nói là Thiên tuế nào? Chính hai ta phụng mạng Thái tử và Thiên tuế lại đây để bắt giết bọn phản thần hại nước đem về đâm cổ cắt tiết! Mi lại dám mở miệng đem danh hiệu Thái tử và Thiên tuế ra dọa nạt ta sao đặng?
Thủy Liên Đài và bọn người nữ hiệp ngỡ ngàng như trên cung trăng rớt xuống. Không hiểu tại sao ở trước mắt quân ngu như heo này lại có đến hai Thái tử, hai Thiên tuế? Bên nào thực, bên nào giả? Bọn Quách Bất Nghi và Tưởng Bất Túc này bị lầm lộn rồi?
Thái tử muốn minh bạch mọi sự liền sóng cương cùng Phong Vân tiến lên phía trước, gọi hai tướng bảo rằng :
- Hai tướng quân không nhận biết ta sao?
Cả hai viên tướng họ Quách và Tưởng đều lắc đầu đáp lại :
- Không! Ta không biết bọn ngươi là ai dám giả mạo xưng danh con vua. Hiện triều đình có đủ cả Vua Tống, Thái tử, Thân vương, Thiên tuế thiết đại lễ cho văn võ bá quan triều kiến Thánh chỉ tuyên bố rõ ràng là có một bọn mưu đồ soán nghịch ban chiếu giả tái lập Lý Lăng vương, giải chức Thân vương gây náo loạn trong nước. Đức vua đã khỏi bệnh cùng Thái tử phân giải rõ ràng về việc phản loạn đó. Hai ta được Ngũ Đạo tướng quân ra lệnh dẹp dư đảng của bọn giặc Lý Lăng còn sót lại. Muốn tránh mọi sự đổ máu vô ích, bọn phản loạn nên xuống ngựa quy hàng cho ta bắt trói đem về dâng nộp Hoàng đế để Ngài cùng Thân vương xét xử. May ra tránh được tội trảm, giảm xuống còn tội lưu cũng là sinh phúc cho tụi bay lắm. Còn nếu cứ nhiều lời cãi chày cãi cối kháng cự triều đình, ta xua binh loạn đả thì tất cả chúng bay sẽ thịt nát xương tan, dù có hối tiếc cũng muộn.
Cậy đông quân sĩ dưới quyền hai tướng múa may hò reo vang trời dậy đất, khí thế hăng hái bội phần.
Trái lại bên này, quân thiết kỵ vẫn trầm tĩnh, binh khí tuốt trần, đứng yên không nhúc nhích rất nghiêm chỉnh.
Thái tử không nỡ để đôi bên lâm vào vòng chiến mái đổ thịt rơi vì ngộ nhận, bèn giật cương con ngựa đen bốn vó trắng “Tứ Túc Mai Hoa” trở về phía sau cùng các anh hùng liệt nữ thương nghị.
Quách Bất Nghi gia hạn cho một khắc, không quyết định đầu hàng thì cho quân xáp chiến.
Cao Tú Sĩ bực mình hậm hực :
- Binh với tướng chó gì mà lại hồ đồ, có mắt như đui, giặc không đón đánh mà lại nhè quân tướng nhà mà đón đánh. Để tôi và Đan Tâm ra cho mỗi thằng nếm vài đường gươm cho chúng nó mở to mắt ra.
Bà Song Trâm lắc đầu can ngăn :
- Đoàn quân này tin theo chủ tướng nó lắm. Giao tranh là quân nó xung trận liền. Cuộc chém giết trở nên khốc hại. Nhất định là phần thua về bên chúng, nhưng chém giặc thì ta không tiếc tay, đằng này chém quân nhà đương bị lầm lẫn u mê thì ta không nỡ. Thái tử cũng không muốn cốt nhục tương tàn như vậy. Tiến cũng khó mà lui cũng khó!
Thủy Liên Đài bóp tay than thở :
- Mới nhiếp chính, ba quân biết mặt Thái tử thì ít, biết mặt Thiên tuế thì nhiều, Ngặt vì nỗi Thiên tuế hôm nay lại cải thành nữ nhân mất rồi, khó biện minh quá. Nói rồi đưa mắt nhìn Cao Tú Sĩ có vẻ trách móc. Cao Tú Sĩ hiểu ý là từ này chẳng còn Thiên tuế tức Ngũ Độc Thiên Nhân nữa, chỉ còn Phong Vân quận chúa. Nhưng Hắc Y lợi dụng sơ hở, cải dạng thành Thiên tuế và chiếm lãnh quyền uy đó liền.
Đến lúc nãy mọi người mới nhận thấy Hắc Y Đạo có những ngón đòn cực kỳ hiểm độc. Chưa biết hắn đã sai phái ai cải dạng thành Thái tử và ai cải dạng làm Ngũ Độc Thiên Nhân? Rất có thể chính hắn đã hóa trang, cải hình biến dạng thành một trong hai người.
Phe bên này chưa kịp về kinh, hắn đã phò giúp Thân vương Tạ Bưu về trước, thế cờ chỉ chậm một nước mà biến cục hoàn toàn. Nếu thực Hắc Y Đạo đã thân hành ra mặt điều hành vụ dịch giả thành chân, mập mờ đánh lận con đen này thì thực là Thái tử ở vào thế kẹt.
Cao Tú Sĩ và Đan Tâm đều chủ trương đánh rốc ngay vào hai cánh quân giết chết hai tướng rồi hỏa tốc chạy về kinh tìm vào phủ Thân vương, mang Tạ Bưu ra vấn tội.
Nhưng bà Song Trâm lo răng, sau trận đánh giết này, đoàn ma binh từ phía sau kéo đuổi theo kịp, Ngũ Đạo dẫn thêm binh tiếp ứng, vây bọc cấm quân và Thái tử và giữa hai gọng kìm. Đánh nhau, chạy trốn cả đêm qua bây giờ lại đánh nhau rồi lại phải tiếp chiến nữa. Chừng còn lực lượng mà về tới kinh, nếu chẳng may đụng đầu với chính Hắc Y đạo trưởng thì lấy hơi sức đâu mà thủ thắng.
Đấy là chưa kể nhóm anh hùng liệt nữ tuy đông, nhưng còn phải lo bảo vệ Thái tử, Thái Cơ, Bảo Liên và một số người không biết chiến đấu giả tỷ như Câu Hồn và Cung Đình ban ngày công lực phân tán thì làm thế nào?
Vạn nhất tất cả mọi người binh sĩ cũng như nhân dân, triều đình đều nhầm lẫn không biết là Hắc Y đã đánh lộn sòng, cứ tưởng bọn mình là quân phản loạn, thì lấy ai là người trợ giúp tiếp cứu khi lâm nguy.
Dù có giải thích cho hắc bạch phân minh thì lực lượng hiện tại của mình mười phần đã hư tám chín. Đấy là chưa kể trong lúc xông pha mũi tên hòn đạn, Thái tử không được bảo vệ chu toàn thì trách nhiệm sẽ trút vào ai?
Tình thế thực là tế nhị khó khăn! Thời giờ lại gấp rút!
Văn Tú Tài cưỡi con Thanh Phong mã tiến lại phía hai tướng đương đứng chờ ở cửa trận, vòng tay thi lễ.
- Kính chào nhị vị đại tướng quân. Kẻ hạ tiện là Văn Tú Tài có lời kính thưa cùng hai vị.
- Bằng lòng đầu hàng hả? Hay là muốn dùng thuyết khách làm kế hoãn binh?
- Không có ai là Tô Tần, Trương Nghi trong hoàn cảnh này. Đây chỉ là một sự thực xin thưa để hai tướng quân định đoạt. Trong đám chúng tôi có nhiều kẻ muốn đánh hơn là muốn hàng. Hai vị tướng quân lĩnh mệnh chủ soái Ngũ Đạo tướng quân đến bắt chúng tôi, vậy lệnh trên có nói cho biết là có bà Ngũ Đạo tướng quân cùng lệnh ái chủ soái ở trong đám chúng tôi không? Nếu hai quân giao chiến, bà lớn và cô chủ chết đi, hai tướng quân trở về được thưởng hay bị trừng phạt?
- Nhà ngươi nói sao? Có bà Ngũ Đạo tướng quân và cô nương ở trong đám quân bên đó sao? Lấy gì làm bằng chứng?
- Tôi nói dối hai vị thì được ích gì? Ai cũng biết chỉ có Ngũ Đạo tướng quân và cô nhà mới hay dùng ngọc Quỷ đầu trùy bốn cạnh bằng thiết cang màu xanh biếc. Tôi đưa cho hai bị làm bằng sai người cầm về phi báo cho chủ tướng biết, xem có đúng hay không? Chủ soái lệnh hai ông đi bắt giặc và giết giặc chứ có lệnh đi giết vợ con của chính chủ soái đâu? Hai tướng quân nghĩ lại mà coi.
Nói rồi đưa mũi trủy cho Quách Bất Nghi.
Hai tướng cứng lưỡi không biết nói sao. Tưởng Bất Túc đành phái thám mã cưỡi ngựa lưu tinh chạy về đại bản doanh cấp báo.
Văn Tú Tài hiến kế :
- Trong khi chờ đợi chẳng nên giao binh. Mỗi bên lui quân về một đỗi tên.
Hai tướng ưng thuận, dàn quân thực rộng để đối phương không thể lọt vòng rào chạy trốn.
Thái tử và Song Trâm thấy Văn Tú Tài mới uốn ba tấc lưỡi đã hoãn được tình thế căng thẳng, khen ngợi chàng thư sinh trẻ tuổi, Văn Tú Tài cười nói :
- Bây giờ dùng kế tỉa dần đi thôi.
Nói rồi ghé tai Cao Tú Sĩ nói nhỏ.
Cấm quân liền xuống ngựa nghỉ ngơi. Hai bên chờ lệnh Ngũ Đạo tướng quân quyết định. Hai tướng bỗng thấy tự hàng trận cấm quân, có một anh chàng không biết tìm đâu được một thanh đại đao, ngồi trên ngựa trắng quờ quạng tập múa trông rất buồn cười.
Quách Vô Nghi bảo Tưởng Bất Túc rằng :
- Đại huynh trông xem thằng kia nó múa bài đao gì mà tôi trông ngứa mắt quá. Tôi chỉ muốn thúc ngựa ra tặng cho nó một đao như Quan Hầu Tru Nhạn Lương trảm Văn Xú cho đỡ bực mình.
Viên tướng mặt vàng trả lời :
- Phải đấy! Tôi trông cũng ngứa mắt lắm. Huynh ra cho nó một bài học, trong khi chờ đợi, ta cứ thủng thẳng tỉa vài thằng cho bên nó khiếp đảm.
Quách Vô Nghi cắp đao cho ngựa chạy lại gần anh chàng ngông dại nói rằng :
- Ta thấy ngươi múa đao mà tủi cho thanh đao. Mi múa dở quá, tồi tệ quá!
Thiếu niên nọ cười đáp :
- Ta múa đao dở ẹc, nhưng ai mà nhảy vô đấu chọt là hết về với vợ con đấy! Đứng xem nói phách lối thì dễ, nhập cuộc, có khi không còn cái mồm phê bình nữa.
Quách Văn Nghi nổi đóa hét lớn :
- Ta thấy mày kém muốn chỉ bảo cho biết chỗ dốt kém của mày. Lại dám mở miệng đòi đấu chọi. Được rồi, chọi thì chọi cho bay về với tiên tổ.
- Đấu tay đôi không được ai giúp nhé!
- Nhất định là như vậy rồi! Ra giữa quãng trống kia nhất định không ai được can thiệp. Hai người tiến ngựa ra giữa khoảng đất rộng. Quân đôi bên thấy có cuộc đấu đao thảy đều nhổm dậy đứng ra coi xem vồ tay reo hò ầm ầm!
Lẽ tất nhiên tài đánh đao của chiến tướng Quách Vô Nghi phải là tuyệt kỹ rồi. Long đao bay nhấp nhoáng vun vút sức mạnh phi thường. Còn chàng trẻ tuổi thì lúng túng y như thợ rụng mất kim, cầm đao sái phép, bổ củi không ra bổ củi, đập chó không ra đập chó, chọc ngang chọc dọc, múa loạn xà ngầu trông rất tức cười.
Có lần bổ mạnh quá, thành quá trớn chém hụt không khí tí nữa té lộn đầu xuống đất. Lưỡi đao sáng nhoáng của Quách Vô Nghi nhiều lần tạt ngang qua, chỉ một ly “ông cụ” là đầu Cao Tú Sĩ bị rơi xuống mặt cỏ.
Người đứng xem vừa lấy làm thích thú, vừa kinh hãi thay cho anh chàng trẻ tuổi trong vòng đấu. Họ chỉ cho là anh ta may mắn mà tránh né khỏi lưỡi hái tử thần, thực ra trước sau rồi cũng chết bởi tay Quách tướng quân đao pháp đã vững vàng, sức mạnh không kém thần Kim Cương tái thế.
Quả nhiên hai ngựa quân quần vài chục hợp, một tiếng “choang” rùng rợn nổi lên, thanh đao của thanh niên đã bị văng lên trời quay tít nhiều vòng, Cao Tú Sĩ chỉ còn trơ đôi bàn tay không luống cuống ôm đầu cho ngựa chạy vòng tròn để lẩn trốn lưỡi đao oan nghiệt...
Quách Vô Nghi nắm chắc phần thắng trong tay, vừa biểu diễn những đường đao cực kỳ đẹp mắt như “Sát thủ đao”, “Hồi mã quái đao” và sau cùng là miếng “Đà đao” tuyệt luân, lưỡi đao sát yên ngựa để chặt Cao Tú Sĩ đứt làm hai khúc.
“Soẹt”! Lưỡi đao lướt nhanh hơn ánh chớp. Mọi người đều kêu rú lên vì không thấy chàng thanh niên trên mình ngựa nữa.
Văn Tú Tài cố như bị nghẹn họng không thở được, thiếu chút ngất lịm.
- Úi chao! Bị chém trúng “chết” mất rồi! Đâu rồi, ngã ngựa rồi chăng?
Nhưng không phải vậy, anh chàng đã lanh lẹ tụt nấp dưới bụng ngựa. Và rồi lại lấy đà, tót phốc lên yên nhưng thay vì ngồi đàng hoàng ngay ngắn, lần này ngồi quay trở mặt lại phía sau, coi khá ngộ nghĩnh.
Hắn xoa đầu, sờ cổ xem còn nguyên vẹn thân mình không?
Cuộc giao đấu biến thành cuộc trình diễn, một bên như mèo muốn vò, một bên như chuột chạy, xem rất hứng thú.
Người chậm hiểu đến đâu cũng nhìn nhận là Quách Vô Nghi đã dụng tình muốn giết thực sự. Nhưng đối phương quá ư nhanh nhẹn nên tránh né rất tài tình. Lưỡi đao tuy ác liệt, tác oai tác quái, nhưng con ngựa Bạch Tuyết Long Câu hình như cũng rất khôn ngoan, biết né tránh cho chủ nó khỏi bị vong mạng trong đường tơ kẽ tóc.
Quách Vô Nghi trổ tuyệt kỹ. Trước còn hạ tay đao sát cận thấy không ăn thua gì, hắn vờ thúc ngựa lảng ra xa, nhưng bất thình lình đổi tay trái sang tay mặt, chỉ cầm đao ở cuối cán vung mạnh một cái. Lưỡi đao vung theo đường cầu trong như một đạo cầu vồng vẹt tới cổ Cao Tú Sĩ.
Với miếng Nhật Nguyệt Quái Đao này, hắn đã hạ sát không biết bao nhiêu đối thủ tài danh.
Nhưng sau lưng chàng thanh niên như có mắt, lưỡi đao vừa sẹt tới gáy thì người chàng ta cũng như một con lật, theo hướng lưỡi đao lộn đi một vòng và rơi bịch xuống đất.
Người tinh mắt đến đâu cũng không thể phân biệt rằng kẻ bị đao chém trúng hay chưa bị chém trúng. Bên quân Quách Vô Nghi vỗ tay reo vang vì cho là Cao Tú Sĩ bị mất mạng nên nhào rồi.
Văn Tú Tài cuống cuồng, lấy tay nắm lấy Đan Tâm la hoảng :
- Quách Vô Nghi lợi hại có tiếng! Anh để bạn anh chết uổng hay sao?
Đan Tâm nhoẻn miệng cười :
- Anh Cao Kỳ có lâm nguy thì Thiếu Cơ lo! Anh làm gì mà rối rít lên thế? Giá anh là phụ nữ, không sợ nàng Thiếu Cơ ghen hay sao? Coi bộ thằng cha cầm đại đao nặng tổ bố này có chém trúng được anh ấy, còn khuya. Kiếm gỗ của tôi chém nhanh hơn đao của thằng này gấp mười lần mà xét ra cũng chẳng làm rụng được lông chân anh ấy. Vậy việc gì mà sợ xanh cả mặt?
Mọi người ngó lại thì quả nhiên Cao Tú Sĩ lấy tay nắm đuôi ngựa đương kéo anh ta lết trên mặt đất sềnh sệch. Rồi hắn nhỏm dậy được, chạy sau ngựa Bạch Tuyết. Con ngựa chạy mỗi lúc một nhanh làm chân Cao Tú Sĩ không chấm đất phất phơ lộn phèo như diều giấy bay đến nực cười.
Thấy nhiều người cười ồ như vậy thì Quách Vô Nghi lại lầm tưởng là chế nhạo y chém hụt. Lòng tự ái nổi lên làm hoa mắt. Hắn trợn mắt, vểnh râu thúc ngựa, giơ thẳng long đao quyết tâm chém nát địch nhân làm trăm nghìn mảnh mới nguôi cơn tức.
Hắn tế ngựa đuổi theo ngựa kia một quãng khá xa. Ai cũng đoán chắc là nếu bắt kịp, hắn hạ tay đao là kết thúc tính mạng Cao Tú Sĩ. Mọi người dõi theo thấy bỗng nhiên chàng thanh niên buông tay không nắm đuôi ngựa nữa, nằm cong queo trên mặt cỏ. Đúng là con cá nằm sẵn trên thớt để chờ lưỡi đao chặt xuống phân thây.
Quách Vô Nghi phấn khởi, mừng thầm trong bụng hai tay giơ long đao kìm ngựa đứng lại, nhằm giữa cổ Cao Tú Sĩ chém một nhát cực mạnh nhất định không thể sai trệch được.
Lần này mày khó thoát khỏi đầu lìa thân xác!
Cao Tú Sĩ năm thẳng cẳng dưới đất mặt ngửa lên trên không nhúc nhích, chàng nhìn lưỡi đao phản chiếu tia mặt trời sáng như gương lấp lánh...
Văn Tú Tài run bắn người lên, nằn nì bà Song Trâm.
- Phu nhân phi kiếm cứu... cứu...
Nói rồi líu lưỡi không thốt nên lời.
Bà Song Trâm thực tình cũng hơi bối rối. Không hiểu Cao Tú Sĩ định giở trò gì? Thái tử cũng luýnh quýnh!
- Mạng Cao Tú Sĩ nguy mất! Ai cứu hắn hộ ta!
Nói thì chậm. Lưỡi đao đã hạ xuống mất rồi. Nhiều người bưng mắt kêu rú lên vì không muốn mục kích thảm cảnh máu chảy đầu rơi. Quách Vô Nghi sung sướng cười ngất. Quân sĩ bên phía hắn vỗ tay reo hò khen ngợi.
Nhưng đến khi hắn nhấc thanh đao lên thấy cán đao nhẹ bỗng, thay vì hắn cầm thanh Yểm Nguyệt Long Đao, hắn chỉ còn cây bằng sắt trong tay dài ngoằng như thiết côn. Đao và lưỡi đao bị tiền rời khỏi cán đao mất rồi...
Thế là nghĩa lý gì? Chàng thanh niên có pháp thuật chăng?
Thì ra Cao Kỳ Nhất Phương đã dùng lưỡi Song Nhạn Thiên Linh chặt cụt đao của hắn trước khi lưỡi đao phạm nhằm nơi cổ.
Quách Vô Nghi quá chủ quan khinh thường đối thủ. Hắn không biết Cao Tú Sĩ là một kiếm khách “Chưởng môn nhân” Nga Mi. Nếu biết trước như vậy thì đã chẳng dám giao đấu để đối phương chém cụt đao mà vẫn lớ ngớ như người trong mộng.
Chưa biết phải làm thế nào thì con ngựa hắn đương cưỡi bị khụy hai vó trước, hất Quách Vô Nghi té xuống đất. Hắn biết là gặp phải thú dữ chặt đứt cẳng ngựa rồi, tung người đứng dậy, cầm ngang cây côn sắt thủ thế. Nhưng cây sắt dài lại bị lưỡi Song Linh chém gãy thành hai đoản côn. Viên tướng vũ dũng hai tay cầm cây gậy ngắn coi đến nực cười.
Quân sĩ bên Quách Vô Nghi không cười được! Anh nào cũng đứng ngây người như phỗng đá. Quách Vô Nghi chưa kịp giơ hai cây gậy ngắn múa may thì lại thấy gươm báu chém chụt thêm hai nhát nữa chỉ còn là hai thỏi sắt vô dụng trong lòng bàn tay.
Cao Tú Sĩ ra tay như điện. Thiên Linh kiếm của chàng thật phi thường, lưỡi sắc bén và lướt nhanh quá gần như là vô hình kiếm. Đến khi chàng tra gươm vào vỏ nghe đến cách một tiếng, Quách Vô Nghi vẫn không rõ chàng đã ra chiêu thế gì chém cụt cán đao của hắn cả thảy là mấy lần?
Tưởng Bất Túc thấy Quách Vô Nghi chỉ trong nháy mắt đã ngã ngựa, hai tay không còn binh khi biết là nguy cấp. Hắn không nghĩ ngợi gì hết múa cây đồng trùy cán dài như vũ bão xông vào đánh Cao Tú Sĩ để cứu gỡ cho bạn.
Nhưng Đan Tâm lanh lẹ hơn hắn nhiều. Chàng phi ngựa ra chặn lại hét lớn :
- Hai người giao đấu, hẹn không kẻ ngoài can thiệp. Thằng mặt vàng như nghệ này định đánh trộm ai vậy?
Tưởng Bất Túc ngoác cái mồm loe ống nhổ mắng lại :
- Tránh xa ra! Thằng trọc đầu rùa! Ông đập chết cha mày bây giờ!
Đan Tâm vốn nóng tánh, bị lăng nhục tức thời vung thanh mộc kiếm, chỉ thấy chàng khoa tay đến véo, những ngón tay bám chặt cán trùy đồng bị đứt rớt văng tung tóe, đầu trùy đập một cái vào đầu con ngựa vàng nhôm kêu đến bốp một cái.
Thế là tướng quân biến thành người tàn phế cụt tám ngọn phục vị xuống đất. Cao Tú Sĩ ung dung bảo Quách Vô Nghi :
- Túc hạ không phải là đối thủ của bọn ta đâu. Sở dĩ chúng ta không ra tay vì không muốn sát hại nhiều nhân mạng. Mau bảo thuộc hạ tránh cho chúng ta đi, chúng ta không đòi hỏi điều gì hết.
Bọn tì tướng định xổ ra cứu chủ tướng, nhưng Cao Tú Sĩ đã khẽ động tay, mũi nhọn lạnh ngắt đã dí sát yết hầu Quách Vô Nghi.
- Bảo chúng không được động thủ nếu không mi ắt chết trước.
Đan Tâm cũng đã nắm tóc Tưởng Bất Túc lôi đứng dậy, kề gươm vô cổ nạt :
- Súc sanh! Mi mắng ai là trọc đầu rùa? Ông phải cắt hết tóc của mày đi xem trọc đầu bò của mày ra sao?
Cả hai tướng nếu bướng bỉnh thì toi mạng nên đành vâng theo ý muốn của hai tráng sĩ.
Hai tướng ra lệnh cho quân binh dưới quyền rút lui để đoàn cầm quân tiếp tục tiến hành không bị cản trở.
Đám quân sĩ thuộc quyền hai tướng thấy chủ tướng đã bị hại và bị uy hiếp hên hết dám ho he, biết rằng nếu cưỡng lời giao chiến thì cũng sẽ như trứng chọi đã, bị tiêu diệt uổng mạng mà thôi.
Hai tướng bị trói ngồi trên mình ngựa, đầu cúi gục xuống không dám liếc nhìn những người chung quanh.
Bà Song Trâm muốn trổ thần oai áp đảo chúng phải hoàn toàn quy phục, tung phi trâm chém gãy lá cờ chỉ huy của hai cánh quân nọ. Đạo hào quang xẹt ra như tên bắn, lượn quanh lá cờ đại bái một vòng, tên quân cao lớn chỉ còn cầm trong tay cái cán cụt ngủn.
Cờ gãy, tướng bị bắt thật là điềm xui “rắn mất đầu” không còn một chút tinh thần chiến đấu như trước nữa.
Phong Vân vẫy tay ra hiệu, đoàn kỵ mã hộ vệ Thái tử phóng nước đại, hàng ngũ chỉnh tề, trong chớp mắt đã vượt nhiều dặm đường.
Khi Ngũ Đạo tướng quân thân hành kéo đại đội binh mã đến tiếp ứng hai tướng thì đoàn người ngựa Thái tử đã biệt tăm vô tín không biết đi về hướng nào mất rồi?
Nếu đôi bên cứ giao tranh thì quân Ngũ Đạo tướng quân ập đến cứu viện kịp, đoàn cấm quân rất có thể bị nguy vì quả bất địch chúng.
Khoảng giữa trưa, Thái tử họp chư liệt vị anh hùng lại thương nghị, dò xét biết địch tập trung nhiều cánh quân rất lớn đóng dọc đường về kinh, mục đích dồn ép Thái tử vào thế cô lập.
Trong không có lực lượng cứu ứng, ngoài không có lực lượng dựa mạnh nên bà Song Trâm khuyên mọi người nên tạm lui về núi Bạch Khô Lâu sào huyệt cũ của đảng cướp Mỏ Diều làm điểm tựa. Nơi đây có nhiều rừng rậm, có núi đá toàn hang hốc hiểm trở ba bề lại có trường giang bao quanh, thành bãi lau sậy gần như vùng Lương Sơn Bạc của một trăm lẻ tám thủ lãnh thảo khấu chống Tống tiền triều.
Cung Đình bảo Trương Bỉnh Nhi đưa trình Thái tử bản đồ cất giấu kho tàng của đảng cướp lớn này. Nếu tìm ra đặng kho tàng do nhóm người Thái tử sẽ có nhiều vàng bạc mua sắm quân lương để kéo dài những ngày tạm lánh sức mạnh đối phương.
Để cho Ngũ Đạo tướng quân không thể tìm ra dấu vết, mọi người cho ngựa đi theo dòng nước tiến sâu vào núi.
Bà Song Trâm và Thiết Như Hoa khá thông thuộc đường lối địa thế khu vực này nên cuộc lẩn tránh khỏi tai mắt quân áo đen không chút khó khăn.
Dân chúng khắp vùng, từ lâu không mến phục Thân vương nên không hợp tác với bọn quân binh dưới quyền Ngũ Đạo tướng quân, bọn chúng không biết cư xử lấy lòng dân, chỉ hay dùng sức mạnh bóc lột và khủng bố. Vì vậy toán quân của Thái tử càng thêm yên ổn.
Sau hai ngày đường xuyên sơn, đoàn thiết kỵ thấy hiện ra trước mặt một dãy núi rất hiểm trở. Đặc việt có mộ ngọn núi trọc đá vôi, có nhiều hang hố trông xa như cái xương sọ đầu lâu có hai lỗ mắt và hốc mũi đỏ ngòm. Mọi người xuống ngựa nghỉ ngơi và phái một toán binh chia các ngả dò xét địa hình.
Lão Tam vốn tính tham lam, nghe thấy nói là đi tìm kho tàng nhiều ngọc vàng châu báu nên hăm hở muốn theo toán thám binh tiên phong sục sạo Bạch Khô Lâu.
Câu Hồn không muốn Trương Bỉnh Nhi đi theo Lão Tam lên tiếng ngăn cản :
- Muốn chết hay sao mà xông vào nơi tử địa? Chúng ta cùng bọn với mấy tên đầu lĩnh người Tây Liêu và Ngõa Nặc Ô Đồ và Vô Sĩ mà còn chẳng dám xông pha nơi sào huyệt đầy hầm bẫy chết chóc này, các ngươi dại dột lớ dớ đi lăng quăng thì dễ bỏ mạng lắm!
Mọi người nghe cô nhỏ mũi gồ nói vậy kinh sợ hỏi duyên cớ. Bà Song Trâm bảo Cung Đình dỗ dành cô bạn mãi mới biết rằng bọn giặc Mỏ Diều đã luyện chất kịch độc với nham thạch tán vụn đắp lên khu vực dãy núi đá vôi này thành những hòn đá sắc cạnh. Người ngựa len lỏi bị cạnh đá hoặc mũi đã làm xây xước da thịt sẽ chết liền, chung quanh Bạch Khô Lâu xương trắng người và thú vật rải rác khắp hẻm ngõ ngách.
Vì vậy nên mới có tên là rặng núi đầu lâu tuyệt đối không nên khinh thường xông xáo. Chỉ còn một đường lối duy nhất là tìm những ám hiệu chỉ dẫn những lối an toàn mới có thể đột nhập nơi trung tâm khu vực. Tốt hơn nên xuống ngựa để một mình Câu Hồn đi trước dẫn đường. Tuyệt đối không được dùng tay sờ mó vào các vách đá hai bên lối mòn.
Cẩn thận tránh những hòn đá sắc xám hoặc sắc nâu nằm vương vãi trên lộ trình, ngựa nên bọc vó, người đi thêm “hài sào” hoặc lấy vải bố bó cẳng chặt chẽ, đi lần từng bước.
Nghe Câu Hồn giải thích người nào cũng lắc đầu lè lưỡi. Hèn chi mà bao năm binh sĩ triều đình không cách nào tiễu trừ được đảng cướp dữ tợn đó.
Thái tử truyền lệnh cho mọi người làm theo như Câu Hồn căn dặn. Quả nhiên trên đường đi đến núi sọ đầu lâu, mọi người thấy nhiều chỗ ngổn ngang các đống xương người, dãi dầu mưa nắng, đã trở nên một màu trắng bệch. Trông xa cứ ngỡ là đá vôi.
Người ngựa nối đuôi nhau đi hàng một, tới gần chiều mới lên tới cửa hang đầu lâu.
Hai hốc lỗ mắt là hai vọng canh, nhưng quân canh đã bỏ chạy đâu mất. Cửa hang rộng như cái miệng há rộng, nhũ đá lớn trừ trên buông xuống và mũi nhọn đá mài từ dưới chỉa lên trông không khác chi hai hàm răng năng nhọn hoắt. Người yếu bóng vía trông vào trong hang tối om, các tiền cũng chẳng dám bước vô! Thực là một sào huyệt được lựa chọn và thích hợp nhất cho những tay tổ lục lâm giang hồ đại đạo.
Câu Hồ chỉ ba kẽ hở nói rằng :
- Có ba lỗi vô động đá. Đi vào lỗi chính giữa thì bị tụt hầm, rớt xuống khe sâu có đá độc tất chết. Đi phía bên phải thì sẽ sa vào mê lộ, quẩn quanh rồi cũng sa vào đá nhọn chết. Chỉ đi theo cửa vô bên hữu là vào được sào huyệt, ăn thông ra nhiều thung lũng ở giữa đằng sau quả núi.
Mọi người đốt đuốc, mạo hiểm theo Câu Hồn vào thạch động. Đèn đuốc vừa đốt lên, ánh sáng chiếu sáng bên trong, mọi người rợn tóc gáy.
Nhiều đống sọ người trắng hếu chất cao ngất như đống bình vôi có thứ tự, dọc hai bên vách đá.
Không biết lũ cướp hung tợn đã thâu nhặt gom góp tự bao giờ nhiều sọ người chết vô định thành những đống “bảo vật” trấn sơn.
Qua khỏi Khô Lâu lộ, mọi người tiến sâu vào đường đèo phía sau núi khúc khuỷu quanh co, nhưng lối đi tương đối rộng dần và dễ đi hơn.
Bạch Khô Lâu sơn quả là hiểm địa, một người tử thủ có thể chống cự trăm người, chẳng thể vượt qua được.
Ra khỏi quả núi ánh sáng bỗng chan hòa làm mọi người mở bừng mắt trông thấy một vùng bằng phẳng mênh mông. Có ruộng vườn phì nhiêu đầy ngũ cốc, nhiều khu vực nhà cửa tươm tất tường xây mái ngói khang trang.
Cung Đình phải thốt lên lời như sau :
- Hai thằng học trò của tôi, không ngờ nó đã học được đúng phép khai khẩu nơi hoang dã thành nơi ăn chốn ở khá chu đáo. Chỉ vì hai đứa thị tài vô kỷ luật nên tôi mới khu trục nó ra khỏi Châu Hòa Trần. Nếu chúng học võ thành tài thì riêng một giang sơn này tha hồ dọc ngang chọc trời khuấy nước, ai hồ dễ làm gì nơi chúng nó. Tiếc thay!
Câu Hồn chỉ cho mọi người lục soát những kho đụn thấy còn rất nhiều lương thực ngũ cốc tích trữ ở trong tầu ngựa nào cũng đầy ắp. Các giếng nước trong lành hầu như vẫn đầy.
Phong Vân liền cắt đặt cấm binh mỗi người một việc, đóng trại nghỉ quân.
Bộ hạ tìm lôi ra được mấy tên đầu mục và lâu la giữa sào huyệt nằm say khướt cò bợ. Cũng có đứa hút nhiều mê túy thảo nên ngủ lịm bên một số phụ nữ bị chúng bắt cóc vô sơn trại hầu hạ phục dịch chúng. Đa số đều có nhan sắc nhưng vì lo sợ bị bọn chúng đánh đập hành hạ nên người nào cũng có vẻ ốm o gầy mòn.
Tại một khu vực trong tận cùng sơn cốc. Câu Hồn chỉ cho thấy những cây mê túy thảo, hút vào thì say sưa, nhai nuốt thì thần kinh bị kích thích tột độ, ham thích chém giết không biết sợ hãi gì cả.
Việc đầu tiên là lấy hai mảnh bản đồ ghép lại, truy lục nghiên cứu chỗ giấu kho tàng. Hầu hết các liệt vị anh hùng đều chú ý xem xét, định hướng và tìm hiểu đồ hình.
Nhưng chỉ thấy một vài nét gạch nguệch ngoạc, vài mỏm đá vài hình ngôi sao, rất là khó đoán, không biết kẻ vẽ đồ hình muốn mô tả cái gì?
Người nọ truyền tay cho kẻ kia, rốt cuộc chẳng một ai tìm ra một manh mối nào hết về kho tàng của bọn cướp Mỏ Diều cả.
Việc đầu tiên Thái tử đề nghị mọi người cần phải làm gấp là phân công kẻ bảng chỉ dẫn rõ ràng những nơi nào có cạm bẫy và có “độc thạch” nguy hiểm chết người để mọi người tránh xa đừng bước tới.
Việc thứ hai là chia quân cung thủ canh gác những nơi hiểm yếu và báo động khi có biến.
Ngoài việc thủ hiểm, cần phải tìm đường rút lui ra bên ngoài khi đại binh địch vây bọc tận diệt. Nói vậy, dù huy động hàng vạn tinh binh đến nơi này, cứ trông thấy núi đá trùng trùng điệp điệp lại thêm trăm ngàn ngõ ngách thì cũng chỉ là tìm kiếm cây kim trong đám cỏ rậm.
Đồng thời cũng lựa chỗ giam nhốt hai tướng Quách Vô Nghi và Tướng Bất Túc để chờ khi dùng đến.
Tòa đại sảnh nơi đây cũng rất rộng lớn. Thái tử giữ bên mình bà Song Trâm, Phong Vân quận chúa và lão Nhiếp Thủ để bàn định quân cơ. Nhưng muốn lưu giữ lão “trường thủ” này phải có rượu ngon và đồ nhắm tốt. Đó là một việc chưa thể giải quyết ngay được nên lão hậm hực càu nhàu luôn miệng.
Lão rày la Văn Tú Tài :
- Ta chẳng tiếc chi, chỉ tiếc có bình ngự tửu. Nghe lời xúi dại của bây, bỏ lại tưởng được “tắm trong ao rượu”, ai ngờ đến đây để chết khát không có rượu ngon uống, đồ nhắm tốt trong cái núi đá vôi đầy đầu lâu, sọ người và xương sườn, xương ống chân khô, mốc thếch này.
Văn Tú Tài vội vàng an ủi :
- Cụ đừng có nóng! Bất kỳ ở đâu cũng có kỳ trân mỹ vị tại nơi đó. Tôi sẽ bảo anh em đi kiếm rượu cụ xơi. Nếu không có rượu thì cất lấy mà uống. Cùng quá thì sai người đi mua. Biết đâu quanh đây lại không tìm ra giống ếch bụng vàng để làm món nhậu, cụ “khai khẩu” tùy thích.
Lão Tam bàn góp :
- Ở đây có kho tàng. Chúng ta ráng tìm kiếm cho ra, thiếu gì tiền mua rượu tốt. Nhược bằng, cụ thèm uống quá, tôi đi kiếm lúa mạch nấu tạm cho cụ một vò rượu tăm sủi bọt vậy.
Lão Nhiếp Thủ buồn rầu lắc đầu đáp :
- Toàn những lời hứa hão huyền, lão thích cái gì “thực tế” chứ không ưa nghe những lời hứa suông nhạt nhẽo. Lũ cướp quỷ ở đây toàn là những thằng ưa hút sách, lão đã cho “đôi tay” đi mò mẫm lục soát rồi, không còn một giọt “đế” nào hết. Có bao nhiêu, mấy thằng đầu mục “sâu rượu” khốn nạn kia nó đã uống hết trơn ráo trọi và đập vỡ bừa bãi.
Tác giả :
Vũ Dương