Kí Ức Của Một Người Lính Trinh Sát Sư 307
Chương 86
GẶP NHÀ BÁO KHÁNH VÂN BÊN DÒNG SUỐI SAEM.
Từ khu chiến D2 anh em chúng tôi trở lại căn cứ F bộ bên dòng suối Saem. Đơn vị trinh sát chốt ở phía đông F bộ bên kia suối. Khi chúng tôi về, cả C trinh sát chỉ còn mấy anh em bị bệnh ở nhà, nhiều nhất là bệnh đau lưng (thực chất là thoát vị đĩa đệm cột sống), còn lại đã đi phối thuộc ở các E trong toàn sư đoàn.
Buổi chiều họp giao ban ở BTM sư đoàn tôi thấy một người lạ và hỏi anh Cho thông tin F thì được biết người ấy là nhà báo Khánh Vân, công tác tại Báo QĐND. Sau giờ cơm chiều đang ngồi nói chuyện với mấy anh em thì thấy ông xoắn quần lội suối để qua đơn vị.
Chúng tôi chưa kịp chào ông, thì ông đã lên tiếng trước: Chào anh em trinh sát.
Chào Thủ trưởng… tôi thay mặt anh em đáp lại (lúc đó ông là Trung tá).
Ông rút trong túi áo ra gói Tam Đảo và mời anh em. Tôi mời ông vào nhà BCH nhưng ông bảo ngồi đây nói chuyện với anh em cho vui. Ông hỏi thăm từng người về quê quán, nhập ngũ năm nào, tình hình vợ con (có đứa nào có vợ đâu mà có con) người yêu (yêu người khác rồi)… tình hình thư nhà.
Ông có khiếu nói chuyện rất hay và rất nghệ sĩ nhưng rất sâu sắc…
Đến tối, tôi mời ông vào BCH vì bên ngoài rất nhiều muỗi.
Bước vào hầm ông đưa cho tôi gói trà bọc trong giấy báo, tôi nhờ anh nuôi pha trà và chúng tôi ngồi tâm sự…
Ông bằng tuổi mẹ tôi (sinh 1927)… (chừng này tuổi mà còn lặn lội chiến trường ư?) Ông rất quý nghề trinh sát và rất mến anh em trinh sát. Khi đi công tác ở các đơn vị ông có thói quen là nghỉ lại ở đơn vị trinh sát…
Bên ấm trà đặc tôi và ông nói chuyện tới khuya.
Là phóng viên đi săn tin, khi ông về F 307 điểm nóng nhất lúc bấy giờ là D2 (e95) ở cao điểm 428 và D9 (e29) ở khu vực nông trường Anlongveng. Ông đã xin ra chốt D2 nhưng Tư lệnh F không đồng ý vì tình hình lúc ấy khá phức tạp. Ông đành ở lại và tìm cách tiếp cận nguồn tin chiến sự, và đặc biệt về hoàn cảnh của anh em đang sống và chiến đấu ở khu chiến sự.
Cuộc nói chuyện có một khoảng cách khá lớn. Ông là cán bộ Trung cấp trong quân đội và là nhà báo cùng với tuổi đời đáng là bậc cha mẹ, khả năng và bản lĩnh chính trị vững vàng. Còn tôi chỉ là một cán bộ mới ở ngưỡng cửa “ ó vạch chưa có sao” với những nhận thức khác xa với ông…
Ông tôn trọng sự thật và nói thật những điều ông còn trăn trở với tình hình bên nước.
Đất nước sau chiến tranh… những điều cần phải làm nhưng đành gác lại. Những chính sách chưa tạo ra những thay đổi lớn cho xã hội, nhất là ở nông thôn. Hình ảnh mẹ tôi cùng tuổi với ông, phải đi hái từng trái mắm, trái còi về ăn, đã làm ông xúc động thật sự. Ông nhìn tôi có phần nào cảm thông ở mọi khía cạnh quan hệ… và tôi nhìn ông với chỉ một điều duy nhất: Với tuổi này ông còn phải lặn lội đến điểm cực bắc của đất nước Chùa Tháp ít lành nhiều dữ này.
Ông đã dùng một câu chuyện có thật ở Trung đoàn 95 mà chính ông là người giải quyết sau chiến tranh, để nói lên những thực tại của cuộc sống người lính, và người lính phải có cái nhìn như thế nào về cuộc sống.
“Người cán bộ ấy ra đi từ mái tranh nghèo của một vùng quê Bắc Bộ vào tháng 5 – 1972 khi vừa lập gia đình chỉ hơn một tháng. Vượt qua bức tường lửa Vĩnh Linh, xuyên qua con đường Trường Sơn huyền thoại, đến với mặt trận B3 Tây Nguyên tháng 12 – 1972, là lính của E95 chiến đấu khắp chiến trường Tây Nguyên và vùng duyên hải Trung Bộ trong đại thắng mùa xuân năm 1975. Không một cánh thư, không một lời nhắn về nhà trong những năm tháng đó.
Năm 1977 là C trưởng của một C Anh hùng của E95, anh cán bộ này được đi phép ba tháng. Ai cũng hiểu tâm trạng của người cán bộ này khi rời mảnh đất Chư Nghé 421.
Về đến quê… Đi qua những cánh đồng làng ở quê nhà, mọi người đều nhìn anh với con mắt cảm thông dò xét.
Ngôi nhà này, ngày anh ra đi chỉ còn ba người và nay đã tăng lên năm người… Cha mẹ anh… người thì nằm một chỗ suốt mấy năm, người thì bệnh hoạn liên miên. Bố anh đang đu đưa võng cho một thằng cu hai tuổi do vợ anh sinh ra nhưng không phải là cháu của ông, và đến trưa có một cháu gái đi nhà trẻ về, chào bố anh là ông nội nhưng không phải là con của anh?
Ngang trái đến tột cùng… Anh mang ba lô trở lại đơn vị chỉ sau mười hai ngày sau đó.
Ngày anh ra đi, người phụ nữ của hai đứa trẻ trong nhà anh cũng đưa anh ra bến xe và dúi vào tay anh một ít tiền dành dụm (Ông không nói là anh này có nhận hay không?) và dòng nước mắt ngấn trào. Anh không còn đủ bản lĩnh để nắm lấy tay người phụ nữ hay vòng tay qua vai… mảnh vai gầy cáng đáng nuôi bố mẹ anh ngần ấy năm anh ở chiến trường. Bố mẹ anh vẫn thương hai đứa cháu, vì chính ông bà đã lo cho chúng nó khi vừa mới lọt lòng, và vẫn thương người con dâu lam lũ tảo tần… những lúc trái gió trở trời… tô cháo nóng và nồi lá xông hơi…’’
Anh ra đi lòng trĩu nặng…
Câu cuối cùng mà ông nói với tôi “Mọi sự ở đời là vô nghĩa, khi nhận biết hai chữ HI SINH. Ngay cả ngòi bút của tôi, có những khi đã cảm thấy bất lực trước những mất mát, hi sinh quá lớn của đồng chí, đồng đội mình. Hãy sống và chiến đấu em ạ.”
Đổi gác lần thứ tư tôi và ông mới ngừng câu chuyện, và leo lên võng ngủ.
Ngày mai cả tôi và ông đều theo Đoàn Văn Công QK5 lên Chùa Preah Vihear phục vụ bộ đội.
Từ khu chiến D2 anh em chúng tôi trở lại căn cứ F bộ bên dòng suối Saem. Đơn vị trinh sát chốt ở phía đông F bộ bên kia suối. Khi chúng tôi về, cả C trinh sát chỉ còn mấy anh em bị bệnh ở nhà, nhiều nhất là bệnh đau lưng (thực chất là thoát vị đĩa đệm cột sống), còn lại đã đi phối thuộc ở các E trong toàn sư đoàn.
Buổi chiều họp giao ban ở BTM sư đoàn tôi thấy một người lạ và hỏi anh Cho thông tin F thì được biết người ấy là nhà báo Khánh Vân, công tác tại Báo QĐND. Sau giờ cơm chiều đang ngồi nói chuyện với mấy anh em thì thấy ông xoắn quần lội suối để qua đơn vị.
Chúng tôi chưa kịp chào ông, thì ông đã lên tiếng trước: Chào anh em trinh sát.
Chào Thủ trưởng… tôi thay mặt anh em đáp lại (lúc đó ông là Trung tá).
Ông rút trong túi áo ra gói Tam Đảo và mời anh em. Tôi mời ông vào nhà BCH nhưng ông bảo ngồi đây nói chuyện với anh em cho vui. Ông hỏi thăm từng người về quê quán, nhập ngũ năm nào, tình hình vợ con (có đứa nào có vợ đâu mà có con) người yêu (yêu người khác rồi)… tình hình thư nhà.
Ông có khiếu nói chuyện rất hay và rất nghệ sĩ nhưng rất sâu sắc…
Đến tối, tôi mời ông vào BCH vì bên ngoài rất nhiều muỗi.
Bước vào hầm ông đưa cho tôi gói trà bọc trong giấy báo, tôi nhờ anh nuôi pha trà và chúng tôi ngồi tâm sự…
Ông bằng tuổi mẹ tôi (sinh 1927)… (chừng này tuổi mà còn lặn lội chiến trường ư?) Ông rất quý nghề trinh sát và rất mến anh em trinh sát. Khi đi công tác ở các đơn vị ông có thói quen là nghỉ lại ở đơn vị trinh sát…
Bên ấm trà đặc tôi và ông nói chuyện tới khuya.
Là phóng viên đi săn tin, khi ông về F 307 điểm nóng nhất lúc bấy giờ là D2 (e95) ở cao điểm 428 và D9 (e29) ở khu vực nông trường Anlongveng. Ông đã xin ra chốt D2 nhưng Tư lệnh F không đồng ý vì tình hình lúc ấy khá phức tạp. Ông đành ở lại và tìm cách tiếp cận nguồn tin chiến sự, và đặc biệt về hoàn cảnh của anh em đang sống và chiến đấu ở khu chiến sự.
Cuộc nói chuyện có một khoảng cách khá lớn. Ông là cán bộ Trung cấp trong quân đội và là nhà báo cùng với tuổi đời đáng là bậc cha mẹ, khả năng và bản lĩnh chính trị vững vàng. Còn tôi chỉ là một cán bộ mới ở ngưỡng cửa “ ó vạch chưa có sao” với những nhận thức khác xa với ông…
Ông tôn trọng sự thật và nói thật những điều ông còn trăn trở với tình hình bên nước.
Đất nước sau chiến tranh… những điều cần phải làm nhưng đành gác lại. Những chính sách chưa tạo ra những thay đổi lớn cho xã hội, nhất là ở nông thôn. Hình ảnh mẹ tôi cùng tuổi với ông, phải đi hái từng trái mắm, trái còi về ăn, đã làm ông xúc động thật sự. Ông nhìn tôi có phần nào cảm thông ở mọi khía cạnh quan hệ… và tôi nhìn ông với chỉ một điều duy nhất: Với tuổi này ông còn phải lặn lội đến điểm cực bắc của đất nước Chùa Tháp ít lành nhiều dữ này.
Ông đã dùng một câu chuyện có thật ở Trung đoàn 95 mà chính ông là người giải quyết sau chiến tranh, để nói lên những thực tại của cuộc sống người lính, và người lính phải có cái nhìn như thế nào về cuộc sống.
“Người cán bộ ấy ra đi từ mái tranh nghèo của một vùng quê Bắc Bộ vào tháng 5 – 1972 khi vừa lập gia đình chỉ hơn một tháng. Vượt qua bức tường lửa Vĩnh Linh, xuyên qua con đường Trường Sơn huyền thoại, đến với mặt trận B3 Tây Nguyên tháng 12 – 1972, là lính của E95 chiến đấu khắp chiến trường Tây Nguyên và vùng duyên hải Trung Bộ trong đại thắng mùa xuân năm 1975. Không một cánh thư, không một lời nhắn về nhà trong những năm tháng đó.
Năm 1977 là C trưởng của một C Anh hùng của E95, anh cán bộ này được đi phép ba tháng. Ai cũng hiểu tâm trạng của người cán bộ này khi rời mảnh đất Chư Nghé 421.
Về đến quê… Đi qua những cánh đồng làng ở quê nhà, mọi người đều nhìn anh với con mắt cảm thông dò xét.
Ngôi nhà này, ngày anh ra đi chỉ còn ba người và nay đã tăng lên năm người… Cha mẹ anh… người thì nằm một chỗ suốt mấy năm, người thì bệnh hoạn liên miên. Bố anh đang đu đưa võng cho một thằng cu hai tuổi do vợ anh sinh ra nhưng không phải là cháu của ông, và đến trưa có một cháu gái đi nhà trẻ về, chào bố anh là ông nội nhưng không phải là con của anh?
Ngang trái đến tột cùng… Anh mang ba lô trở lại đơn vị chỉ sau mười hai ngày sau đó.
Ngày anh ra đi, người phụ nữ của hai đứa trẻ trong nhà anh cũng đưa anh ra bến xe và dúi vào tay anh một ít tiền dành dụm (Ông không nói là anh này có nhận hay không?) và dòng nước mắt ngấn trào. Anh không còn đủ bản lĩnh để nắm lấy tay người phụ nữ hay vòng tay qua vai… mảnh vai gầy cáng đáng nuôi bố mẹ anh ngần ấy năm anh ở chiến trường. Bố mẹ anh vẫn thương hai đứa cháu, vì chính ông bà đã lo cho chúng nó khi vừa mới lọt lòng, và vẫn thương người con dâu lam lũ tảo tần… những lúc trái gió trở trời… tô cháo nóng và nồi lá xông hơi…’’
Anh ra đi lòng trĩu nặng…
Câu cuối cùng mà ông nói với tôi “Mọi sự ở đời là vô nghĩa, khi nhận biết hai chữ HI SINH. Ngay cả ngòi bút của tôi, có những khi đã cảm thấy bất lực trước những mất mát, hi sinh quá lớn của đồng chí, đồng đội mình. Hãy sống và chiến đấu em ạ.”
Đổi gác lần thứ tư tôi và ông mới ngừng câu chuyện, và leo lên võng ngủ.
Ngày mai cả tôi và ông đều theo Đoàn Văn Công QK5 lên Chùa Preah Vihear phục vụ bộ đội.
Tác giả :
Võ Văn Hà