Kí Ức Của Một Người Lính Trinh Sát Sư 307
Chương 82
ĐÔI DÒNG KỈ NIỆM VỀ THỦ TRƯỞNG NGUYỄN HỮU HÀ.
Cuối năm 1980, e95 có mở một lớp tập huấn cán bộ cấp a, b của trung đoàn. Từ khu chiến d2, tôi được BTM e95 rút về, để truyền đạt một số kĩ năng sử dụng bản đồ cùng với anh Lập c trưởng trinh sát e95 cho lớp tập huấn này. (Lớp trưởng là anh Lê Duy Hoa, một trong những anh em còn lại của c2 d1 sau trận ngày 8/1 ở bờ tây sông Mêkong). Tôi được phân công ở cùng phòng với anh Đỉnh (trợ lí ban tác huấn) khi đó là phụ trách lớp (trung úy Đỉnh là sỹ quan duy nhất của e95 xuất thân từ trường SQLQ 1 Sơn Tây).
Một buổi chiều sau giờ cơm… tôi ngồi trước dãy nhà ban tác huấn đọc lá thư thứ hai của người bạn gái cùng lớp, tôi mới nhận hồi chiều… (lần đầu tiên cô nàng đổi đại từ nhân xưng với tôi…)
“… Chiều về trên biển Phương Mai - Quy Nhơn… Em ngồi một mình lắng nghe tiếng sóng biển, lắng nghe những kỉ niệm ngày xưa hiện về trong kí ức.
Này sóng ơi! Sóng đang ca bài ca gì thế… bài ca của sóng khó hiểu quá… sóng vẫn lặng thầm ca bài ca muôn thuở…
Cũng chính nơi đây, giữa tiếng sóng của một đêm trăng sáng… tim em rung động lần đầu tiên, cảm nhận thầm yêu một người… Anh và em cùng ngồi trên tảng đá bên bờ nước, chúng mình không ai bận tâm đến những con sóng dạt vào người, và bọt nước làm ướt sũng quần áo… chỉ lắng nghe rất say sưa những tiếng sóng dập dìu vút lên cao, rồi lại rơi ào xuống… Sóng trườn lên bãi cát trắng tinh, vuốt ve lên đôi chân trần của em và của anh. Ngày đó, anh chỉ thích nhìn mặt trăng… khi từ từ nhô lên khỏi mặt nước…còn em, em chỉ thích nghe tiếng sóng biển, nghe tiếng đập thổn thức của con tim em. Anh vẫn vô tư hay nói đúng hơn là anh vẫn vô tâm… Anh vẫn cứ thích nhìn, thích nghe tiếng sóng vỗ mạnh vào vách đá đằng xa kia, làm phát ra những âm thanh rung tai, kéo theo những bọt nước trắng tinh lấp lánh dưới ánh trăng… khi chúng tung lên…
Anh đâu biết rằng, chính những âm thanh mạnh mẽ nhất từ con sóng, đã làm đứt gãy và khoét thủng tim em những vết thương… vì đã làm anh không biết em đang ở bên cạnh… sóng vẫn vô tình sóng ơi!
Em đã đến tiệm cho thuê sách ngả tư đường Lê Hồng Phong và Mai Xuân Thưởng, tìm lại những cuốn sách mà ngày xưa anh đã từng mượn đọc. Vẫn còn đây những dòng thơ anh chép của tác giả nước ngoài, và những lời dịch:
… And the sunlight clapps the earth,
And the moonbeams kiss the sea.
What is all this sweet work worth.
If thou kiss not me?
Anh có nghe nắng đi về lòng đất.
Trăng đêm sâu hôn biển rộng vô cùng.
Môi em đó, anh để buồn se sắt.
Trần gian này còn lại dấu hư không…”
Chính ủy đến lúc nào tôi không biết… chỉ khi ngẩng lên thì thấy thủ trưởng cười.
Tôi đưa lá thư cho ông đọc. Ông chỉ đọc lướt qua… (lính tráng đọc thư chung là chuyện bình thường thời ấy. Nhưng là thủ trưởng nên ông cũng lướt qua cho có đọc, có lẽ ông cũng không muốn đọc hết làm gì).
Ngồi ở đó tâm sự, tôi mới biết rằng ông cũng là con người rất yêu thơ. tôi có chép lại bài thơ “Lá chanh” do ông đọc, nhưng nay thì không còn nữa nên không viết ra đây được (bài thơ cảm nhận về vẻ đẹp của người con gái khi tắm (hay gội) bằng nước chanh thì phải…)
Ông đã kể chuyện về thời trai trẻ của ông trên đường Trường Sơn.
Ngày ấy, thơ là thiêng liêng, là máu thịt, là nơi duy nhất để tỏ bày, gửi gắm điều chi. Trên đường Trường Sơn hành tiến về Nam, anh bộ đội hay cô thanh niên xung phong, đều có cuốn sổ nhỏ chép những bài thơ mà họ yêu thích. Thơ là người bạn gần gũi với số phận người lính, với cái sống và cái chết của người lính, cả trong nỗi đau và khát khao cần được chia sẻ. chính thơ đã đưa những điều cộng cảm đến với con người. Trong những bài thơ ông đọc, tôi chỉ biết có bài: Màu tím hoa sim của Hữu Loan.
Chính ông cũng đưa ra những suy nghĩ về thơ…
Thơ trong chiến tranh lúc giống như người yêu, lúc giống như người đồng đội, lúc lại giống đôi mắt buồn thăm thẳm của người mẹ. Nó bất chợt như bàn tay mẹ xoa trên lưng con một chiều trước hôm tiễn biệt. Nó như giọt nước mắt người ta yêu, rơi lặng lẽ lúc đoàn xe chở quân… vang lên tiếng còi trong một buổi sáng mua đông giáp Tết năm nào. (Ông thoát li gia đình vào chiều 28 tết). Dòng thơ mập mờ ẩn hiện theo nhịp rung đều đều của con tàu chở quân ra mặt trận…
Và nhiều cảm nhận nữa mà tôi không thể nhớ hết... Thời trai trẻ có ai nghĩ rằng những kỉ niệm sẽ là phần còn lại duy nhất của đời sống con người. Nhà văn nào đó đã viết như vậy.
Đang say sưa nói chuyện về thơ, thì anh công vụ đến mời ông về họp với Phó chính ủy Vũ Minh Thái (nay là Chủ tịch hội CCB huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi)…
Chia tay tôi, ông hẹn một ngày nào đó sẽ tiếp tục câu chuyện. Nhưng rồi nhiệm vụ và môi trường công tác, cả tôi và ông đều bị cuốn sâu vào công việc, nên không có điều kiện để nói chuyện về thơ văn với nhau nữa.
Và lần cuối cùng tôi nói chuyện với ông là sau trận đánh 547 (4/ 1984), trước khi tôi và năm mươi anh em khác chuẩn bị ra quân, vì thiếu điều kiện để thực hiện “chế độ một thủ trưởng.” Khi đó ông là Phó Tư lệnh về Chính trị, Bí thư Đảng ủy Sư đoàn 307.
Cuối năm 1980, e95 có mở một lớp tập huấn cán bộ cấp a, b của trung đoàn. Từ khu chiến d2, tôi được BTM e95 rút về, để truyền đạt một số kĩ năng sử dụng bản đồ cùng với anh Lập c trưởng trinh sát e95 cho lớp tập huấn này. (Lớp trưởng là anh Lê Duy Hoa, một trong những anh em còn lại của c2 d1 sau trận ngày 8/1 ở bờ tây sông Mêkong). Tôi được phân công ở cùng phòng với anh Đỉnh (trợ lí ban tác huấn) khi đó là phụ trách lớp (trung úy Đỉnh là sỹ quan duy nhất của e95 xuất thân từ trường SQLQ 1 Sơn Tây).
Một buổi chiều sau giờ cơm… tôi ngồi trước dãy nhà ban tác huấn đọc lá thư thứ hai của người bạn gái cùng lớp, tôi mới nhận hồi chiều… (lần đầu tiên cô nàng đổi đại từ nhân xưng với tôi…)
“… Chiều về trên biển Phương Mai - Quy Nhơn… Em ngồi một mình lắng nghe tiếng sóng biển, lắng nghe những kỉ niệm ngày xưa hiện về trong kí ức.
Này sóng ơi! Sóng đang ca bài ca gì thế… bài ca của sóng khó hiểu quá… sóng vẫn lặng thầm ca bài ca muôn thuở…
Cũng chính nơi đây, giữa tiếng sóng của một đêm trăng sáng… tim em rung động lần đầu tiên, cảm nhận thầm yêu một người… Anh và em cùng ngồi trên tảng đá bên bờ nước, chúng mình không ai bận tâm đến những con sóng dạt vào người, và bọt nước làm ướt sũng quần áo… chỉ lắng nghe rất say sưa những tiếng sóng dập dìu vút lên cao, rồi lại rơi ào xuống… Sóng trườn lên bãi cát trắng tinh, vuốt ve lên đôi chân trần của em và của anh. Ngày đó, anh chỉ thích nhìn mặt trăng… khi từ từ nhô lên khỏi mặt nước…còn em, em chỉ thích nghe tiếng sóng biển, nghe tiếng đập thổn thức của con tim em. Anh vẫn vô tư hay nói đúng hơn là anh vẫn vô tâm… Anh vẫn cứ thích nhìn, thích nghe tiếng sóng vỗ mạnh vào vách đá đằng xa kia, làm phát ra những âm thanh rung tai, kéo theo những bọt nước trắng tinh lấp lánh dưới ánh trăng… khi chúng tung lên…
Anh đâu biết rằng, chính những âm thanh mạnh mẽ nhất từ con sóng, đã làm đứt gãy và khoét thủng tim em những vết thương… vì đã làm anh không biết em đang ở bên cạnh… sóng vẫn vô tình sóng ơi!
Em đã đến tiệm cho thuê sách ngả tư đường Lê Hồng Phong và Mai Xuân Thưởng, tìm lại những cuốn sách mà ngày xưa anh đã từng mượn đọc. Vẫn còn đây những dòng thơ anh chép của tác giả nước ngoài, và những lời dịch:
… And the sunlight clapps the earth,
And the moonbeams kiss the sea.
What is all this sweet work worth.
If thou kiss not me?
Anh có nghe nắng đi về lòng đất.
Trăng đêm sâu hôn biển rộng vô cùng.
Môi em đó, anh để buồn se sắt.
Trần gian này còn lại dấu hư không…”
Chính ủy đến lúc nào tôi không biết… chỉ khi ngẩng lên thì thấy thủ trưởng cười.
Tôi đưa lá thư cho ông đọc. Ông chỉ đọc lướt qua… (lính tráng đọc thư chung là chuyện bình thường thời ấy. Nhưng là thủ trưởng nên ông cũng lướt qua cho có đọc, có lẽ ông cũng không muốn đọc hết làm gì).
Ngồi ở đó tâm sự, tôi mới biết rằng ông cũng là con người rất yêu thơ. tôi có chép lại bài thơ “Lá chanh” do ông đọc, nhưng nay thì không còn nữa nên không viết ra đây được (bài thơ cảm nhận về vẻ đẹp của người con gái khi tắm (hay gội) bằng nước chanh thì phải…)
Ông đã kể chuyện về thời trai trẻ của ông trên đường Trường Sơn.
Ngày ấy, thơ là thiêng liêng, là máu thịt, là nơi duy nhất để tỏ bày, gửi gắm điều chi. Trên đường Trường Sơn hành tiến về Nam, anh bộ đội hay cô thanh niên xung phong, đều có cuốn sổ nhỏ chép những bài thơ mà họ yêu thích. Thơ là người bạn gần gũi với số phận người lính, với cái sống và cái chết của người lính, cả trong nỗi đau và khát khao cần được chia sẻ. chính thơ đã đưa những điều cộng cảm đến với con người. Trong những bài thơ ông đọc, tôi chỉ biết có bài: Màu tím hoa sim của Hữu Loan.
Chính ông cũng đưa ra những suy nghĩ về thơ…
Thơ trong chiến tranh lúc giống như người yêu, lúc giống như người đồng đội, lúc lại giống đôi mắt buồn thăm thẳm của người mẹ. Nó bất chợt như bàn tay mẹ xoa trên lưng con một chiều trước hôm tiễn biệt. Nó như giọt nước mắt người ta yêu, rơi lặng lẽ lúc đoàn xe chở quân… vang lên tiếng còi trong một buổi sáng mua đông giáp Tết năm nào. (Ông thoát li gia đình vào chiều 28 tết). Dòng thơ mập mờ ẩn hiện theo nhịp rung đều đều của con tàu chở quân ra mặt trận…
Và nhiều cảm nhận nữa mà tôi không thể nhớ hết... Thời trai trẻ có ai nghĩ rằng những kỉ niệm sẽ là phần còn lại duy nhất của đời sống con người. Nhà văn nào đó đã viết như vậy.
Đang say sưa nói chuyện về thơ, thì anh công vụ đến mời ông về họp với Phó chính ủy Vũ Minh Thái (nay là Chủ tịch hội CCB huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi)…
Chia tay tôi, ông hẹn một ngày nào đó sẽ tiếp tục câu chuyện. Nhưng rồi nhiệm vụ và môi trường công tác, cả tôi và ông đều bị cuốn sâu vào công việc, nên không có điều kiện để nói chuyện về thơ văn với nhau nữa.
Và lần cuối cùng tôi nói chuyện với ông là sau trận đánh 547 (4/ 1984), trước khi tôi và năm mươi anh em khác chuẩn bị ra quân, vì thiếu điều kiện để thực hiện “chế độ một thủ trưởng.” Khi đó ông là Phó Tư lệnh về Chính trị, Bí thư Đảng ủy Sư đoàn 307.
Tác giả :
Võ Văn Hà