Khúc Cầu Hồn
Chương 35
Hai anh nhóc di chuyển chậm rãi. Đất mềm nhũn dưới chân, trên cây chan hoà sức sống của chim muông và những tia nắng nhảy nhót. Những dây leo rơi chằng chịt xuống đất, xám xịt, trơn nhẵn và to dày cỡ cổ tay người đàn ông. Cách đó không bao xa, chim gõ kiến tòng tọc lên cây cho bữa điểm tâm buổi sáng.
“Chỗ này làm tớ lạnh da gà,” Jack nói.
“Ráng mở banh mắt mà đi.”
Rừng già tối dần, và tiếng ồn cũng biến mất theo ánh sáng mặt trời.
“Tiếng thét oan hồn kinh hãi.”
“Im giùm cái đi Jack.”
Họ đi khoảng hai mươi phút. Tuyệt không có dấu vết bánh xe mới lún trên mặt đường, nhưng điều đó không có nghĩa gì. Gã Freemantle đi bộ khi Johnny nhìn thấy gã lần cuối. Băng qua những hàng cây, con đường trải rộng ra, bằng phẳng, và cánh rừng cũng bắt đầu thưa thớt. Họ đi qua một vườn cây ăn quả um tùm, những cây táo nở đầy hoa. Các nhánh dây nho bò tràn trên dàn lưới mắt cáo đổ sụp.
“Chúng ta gần đến rồi đó,” Johnny nói.
“Đến gần cái gì?”
“Cái gì đó ngoài kia.”
Con đường dẫn đến một cánh cổng đổ sụp, sau đó quặt qua phải và biến mất xung quanh những bụi gai và cây cỏ mọc như rừng. Súng được rút ra khỏi bao và Johnny cầm nghiêng nó ở một góc độ quái gở. “Cái này có khóa an toàn không?”
“Không. Tớ đã nói với cậu rồi. Chúa ơi, cẩn thận nơi mà cậu chĩa nòng súng vào.”
“Xin lỗi.” Johnny nhắm nòng súng xuống đất. Gió thổi tung những chiếc lá làm lộ ra mặt sau cánh lá bạc màu, xám xịt. Ở quãng cong của con đường, có những cây cột đá granite chỗ cánh cổng đổ sụp. Cánh cổng nằm vật dưới đất, cỏ mọc giữa các khung hổng, những thớ gỗ mềm mại của cánh cổng từ từ mục rữa. Sơn trắng vẫn còn thấy trên các vân gỗ.
Johnny thò đầu qua cột đá granite, sau đó rụt đầu trở lại.
“Chuyện gì vậy?” Jack hỏi.
“Không có gì.” Cậu đứng lại. “Đi thôi.”
Họ đi qua những cột đá granite và cánh rừng cong cong về phía xa. Họ thấy vỏ bọc bên ngoài của những căn nhà, một căn nhà bị thiêu rụi không còn gì. Có những tảng gỗ đen thui và khung sườn của ống khói lò sưởi. Một bậc thang bằng đá granite nằm ở cái chỗ hồi trước là cửa trước căn nhà. Một cái bồn tắm bốn chân nằm chỏng gọng nghiêng một bên, tro than vương vãi và mọc đầy chồi xanh của cây dại, bát đĩa sành sứ vỡ nát, một cái nồi, cần bơm tay bằng thép rỉ sét của cái máy bơm nước. Johnny nhặt lên một cái bản lề của một cánh cửa và thấy dấu hiệu búa đóng vào trong kim loại.
“Một đống rác vương vãi.” Jack nói thay lời cho cả hai đứa.
Nhà kho vẫn đứng vững, cũng như nhà hun khói với cánh cửa mở và những cái móc sắt treo trên sợi dây rỉ sét đỏ. Johnny thấy cái khoá trên cửa căn chòi. Một cái nhà xây ngay cạnh bên. Có độc một cửa ra vào, vài cái cửa sổ nhỏ hẹp, và hai ống khói nhỏ. Như căn nhà chính, một tảng đá làm bậc ra vào ngay cánh cửa. Nó mòn nhẵn ở chính giữa. Nhìn xuyên qua cửa kính, họ thấy một lò sưởi và một lò nấu ăn xây bằng gạch. Một cái bàn đơn giản và nồi niêu bằng gang đúc. “Chỗ này là nhà bếp,” Johnny nói.
“Họ thường thiết kế chúng biệt lập khỏi căn nhà để giảm thiểu rủi ro hoả hoạn.”
“Điều đó thật khôi hài.”
Johnny lùi bước và nhìn vào căn nhà cháy. “Ngoài này không có điện, cho nên nguyên nhân hoả hoạn phải là từ nến đèn cầy.”
“Hay sét đánh?”
“Có thể.”
“Nhìn cái kia kìa.” Jack trỏ tay.
Johnny xoay đầu. Cậu thấy một cây cột cao khoảng hai mét rưỡi, và cái chuông đồng thau chuyển sang màu xanh lục. “Quái lạ thật.”
“Cái gì?”
Johnny sấn bước vào chỗ cỏ dại cao ngất ngưởng đến lưng bụng. “Nó là cái chuông nô lệ. Tớ đã thấy một cái y chang vậy ở Viện Bảo tàng Nhân quyền ở Wilmington. Họ rung những cái chuông ấy để gọi nô lệ trở về từ ngoài đồng áng.”
“Tại sao nô lệ đã được giải phóng lại giữ cái chuông nô lệ?”
Johnny nhìn dưới cái chuông. “Tớ không biết. Một cái gì để nhắc nhở?”
“Tiếng thét oan hồn kinh hãi đó.” Lời nói bật ra như một tiếng thầm thì.
Johnny kiểm tra bên trong nhà kho. Ngoại trừ những nông cụ mà cậu nghĩ sẽ thấy bên trong - tất cả đều phủ đầy bụi và không dùng đến - bên trong hoàn toàn trống rỗng. Cậu lắc chiếc khóa trên cái chòi và nhìn vào bên trong xuyên qua những khe hở trên cửa. “Xà bần.”
“Tụi mình đi được chưa?”
Johnny điều nghiên toàn bộ khu vực. Mọi thứ hiển hiện trong ánh sáng lồ lộ. Những cây xanh làm thành một bức tường xung quanh bãi đất trống. “Chưa.” Cậu trỏ vào chỗ thật xa của bãi đất trống, nơi một vết toác phân cách rừng cây. “Băng qua chỗ đó,” Johnny nói.
Hai anh nhóc di chuyển thật cẩn thận. Rừng cây vươn lên cao, và họ đi dưới nó. Một con đường bộ đạo khoảng bốn mươi lăm mét dẫn sang một bãi trống khác. Ở điểm cuối đường, ánh sáng mặt trời chiếu sáng bức tường đá cao khoảng lưng bụng, và xa hơn nữa có dấu hiệu của cỏ xanh. Đằng sau bức tường đá là một cái cửa gỗ khác. Cửa này được tu sửa tử tế. Nước sơn sáng, trắng và hoàn hảo.
“Tớ chưa bao giờ thôi buồn bã khi nhìn thấy lớp sơn mới,” Jack thì thào. Họ bò gần hơn, nghe chim phóng uế, sau đó xoay hướng, cảm thấy lá cây bị ép xào xạc dưới chân bước.
“Cái đó là gì vậy?”
Âm thanh ướt, tiếng thụp thụp.
Johnny lắc đầu. “Tớ không biết.”
Cả hai hụp xuống thấp, chạy thục mạng vài mét, và ngồi thụp người dưới bức tường. Gạch ấm nóng, âm thanh phát ra gần đây. Nó phát ra từ phía bên kia bức tường. Johnny nhìn xuyên qua khe hở của cánh cổng. Cậu thấy cỏ được tỉa và nhiều hàng bia mộ đá. Thụp đầu trở lại, cậu nói: “Nó là cái nghĩa trang.”
“Cái gì?”
Johnny cầm sát cây súng vào lồng ngực và nghe tiếng tim đập thùm thụp trên sắt thép. Hơi thở ngắt quãng ở cuống họng. “Nó là một cái nghĩa trang kinh dị.”
“Gã ta có trong đó không?”
Mắt mở to gật đầu, giọng thì thào bé nhất. “Có.”
Jack liếm đôi môi trắng bệch như phấn. “Tụi mình phải biến khỏi nơi này.”
“Gã ta chỉ ngồi yên một chỗ.”
“Làm trò gì?”
Johnny thò đầu lên khỏi bức tường đá. Nghĩa trang nhỏ. Có lẽ khoảng bốn mươi bia mộ. Một cây sồi to hãi hùng nằm ở giữa nghĩa trang, những cây quỳnh trồng ở mỗi góc phía đằng sau. Những tấm bia đá nằm theo hàng ngang, một ít màu xám bạc, một vài cái màu đen, tất cả đều bao phủ bởi rong rêu và tảo.
Levi Freemantle ngồi ngay ở trung tâm, hai chân rộng bẹt ngay phía trước gã. Quần áo gã bẩn thỉu và rách rưới. Những vết máu có thể thấy ở hai đầu gối và trong những nếp gấp của lòng bàn tay, một vết máu nằm ở phía áo bên phải và ống quần phải. Đôi giầy được cởi ra, tung vào thảm cỏ sáng, sạch sẽ. Bàn chân và cổ chân gã sưng tấy lên đến mức dường như nó là một và được hàn lại với nhau. Ngón tay của hắn đang bị nhiễm trùng nặng vì bị Johnny cắn. Nó được quấn bằng miếng vải bẩn thỉu màu vàng. Lớp da bị kéo căng quá mức. Gã ta đặt một chiếc xẻng trên đùi. Bên cạnh gã là chiếc quan tài.
“Gã đang làm trò gì vậy?”
Johnny không trả lời câu hỏi ngay lập tức. Ánh sáng quá tuyệt vời giúp cậu có thể thấy từng chi tiết: từng hàng băng keo bạc trơ màu biến thành màu chì; bùn khô đóng mảng trên cỗ quan tài, những vết xước trên gỗ, vết nước thấm. Hai đầu gối Freemantle bị nạo gần đến xương. Hơi ẩm lóng lánh trên khuôn mặt kinh hãi của gã. Một cái gì đó nhô ra từ bên trong. Johnny tuột xuống khỏi bức tường và ép sát lưng vào đá. “Gã ta đang chôn một thi thể.”
“Thế thì bỏ mẹ.”
“Và gào khóc như một đứa con gái lớp năm.”
Jack nhắm nghiền đôi mắt. Johnny đưa cây súng lên cao để trái khế ép mạnh vào trán của cậu. Cậu ngửi mùi dầu lau súng và đôi môi chuyển động mấp máy không phát ra âm thanh: Cây súng là quyền năng. Tôi có cây súng. Cây súng là quyền năng.
Tôi có cây súng.
Cậu bắt đầu đứng dậy, nhưng Jack lôi cậu xuống. “Đừng đi.” Jack bóp chặt hơn, van xin. “Đừng đi.”
“Cậu bị sao vậy Jack?” Johnny kéo cánh tay mình ra khỏi tay Jack. “Bộ cậu nghĩ đây là trò chơi sao? Cậu nghĩ cả năm trời nay là trò chơi sao? Đây là lý do tại sao chúng ta đến đây.”
Sự kinh hãi hiện rõ trên khuôn mặt Jack. Toàn bộ cơ thể hắn run bần bật, nhưng hắn gật đầu và hạ tay xuống. “Được, Johnny.”
“Tớ không có lựa chọn.”
“Tớ đã nói là được mà.”
Trong giây phút, Johnny bị kiềm lòng bởi sự yên lặng và kinh hãi tột cùng trên khuôn mặt thằng bạn cậu, sau đó cậu đứng lên và cầm cây súng y như kiểu tài tử đóng trong phim ciné: hai tay trên báng súng, nòng thẳng và vững như có thể. Levi Freemantle đang đứng, trên tay cầm cái xẻng, nhưng không hề để ý đến Johnny. Đầu cúi xuống mặt đất, gã bắt đầu đào cái huyệt mộ nông mà gã đang làm dở dang. Freemantle giữ cái chân bị thương khỏi mặt đất, do đó chiếc xẻng phải chịu lực của cả thân hình gã. Nước mắt rơi lã chã không ngừng, và Johnny quan sát gã cố sức đào một huyệt mộ cho cái quan tài. Gã đứng bằng cái chân còn lành lặn và dùng bên chân bị thương tống cái xẻng cắm sâu xuống đất, nhưng sự đau đớn vặn vẹo trên khuôn mặt của gã. Gã chuyển sức nặng cơ thể qua phía bên chân kia, nhưng mắt cá chân gã gẫy sụp.
Gã ngã.
Lóp ngóp lết đứng lên trên hai chân.
Cố lần nữa.
Johnny mở cánh cổng nghĩa trang và bước vào bên trong. Cách xa bốn mét rưỡi, ba mét sáu, Freemantle không buồn chú ý. Johnny mạo hiểm nhìn vào cái quan tài. Nó nhỏ bé, loại quan tài cho con nít. Cậu bước lại gần hơn và Freemantle ngẩng lên nhìn. Đôi mắt ướt nhèm của gã nhảy từ khuôn mặt Johnny xuống cái nơi trơ trọi trong lòng đất. Gã lò cò một bước, giơ cao lưỡi xẻng, sau đó sụp trở lại nơi lòng đất. Johnny thấy sự buồn bã và đau đớn, đất cát và máu me, một cái gì giống như một miếng gỗ trổ ra bên hông của gã. “Dừng tay,” Johnny nói. Freemantle làm như được yêu cầu, sau đó giơ một tay lên, lòng bàn tay đưa lên và phẳng lỳ. Gã trỏ vào cái nơi gã đã cố gắng đào vét đất cát, sau cùng nhìn cây súng. Gã nhìn vào nó một lúc lâu, như thể gã không rõ nó là cái gì hay tại sao nó lại nhắm vào ngực của gã. Khi gã lên tiếng, giọng của gã dày nặng. “Có phải cậu đến đây để giúp tôi không?”
“Cái gì?”
“Tôi đã yêu cầu giúp đỡ nhiều lần, nhưng Ngài không nói chuyện với tôi.”
“Ai?”
“Có phải Ngài đang nói chuyện với cậu không?”
“Tôi không hiểu ý ông muốn nói gì.”
Những cái thẹo co giật trên khuôn mặt gã ta. Một mắt kéo cườm đục như sữa ở ngay giữa thủy tinh thể. “Tôi không đào nổi huyệt mộ.”
Johnny liều lĩnh nhìn vào bức tường. Jack lắc cái đầu. Johnny nhìn cái quan tài.
“Ông có nhớ tôi không?”
Một cái gật. “Cậu đang chạy và tôi nhấc cậu lên.”
“Tại sao?”
“Chúa nói.”
“Chúa nói nhấc tôi lên?” Thêm một cái gật. “Tại sao?”
“Ngài không nói.”
“Johnny.”
Jack gọi nhưng Johnny làm ngơ hắn. “Chúa còn nói với ông điều gì khác?”
“Cô bé là con của tôi.” Freemantle trỏ vào chiếc quan tài. Trên khuôn mặt dị dạng của gã, nước mắt dâng lên và rớt xuống. “Tôi không thể đào nổi huyệt mộ.”
Johnny nhìn một lần vào Jack.
Sau đó hạ cây súng xuống.
“Chỗ này làm tớ lạnh da gà,” Jack nói.
“Ráng mở banh mắt mà đi.”
Rừng già tối dần, và tiếng ồn cũng biến mất theo ánh sáng mặt trời.
“Tiếng thét oan hồn kinh hãi.”
“Im giùm cái đi Jack.”
Họ đi khoảng hai mươi phút. Tuyệt không có dấu vết bánh xe mới lún trên mặt đường, nhưng điều đó không có nghĩa gì. Gã Freemantle đi bộ khi Johnny nhìn thấy gã lần cuối. Băng qua những hàng cây, con đường trải rộng ra, bằng phẳng, và cánh rừng cũng bắt đầu thưa thớt. Họ đi qua một vườn cây ăn quả um tùm, những cây táo nở đầy hoa. Các nhánh dây nho bò tràn trên dàn lưới mắt cáo đổ sụp.
“Chúng ta gần đến rồi đó,” Johnny nói.
“Đến gần cái gì?”
“Cái gì đó ngoài kia.”
Con đường dẫn đến một cánh cổng đổ sụp, sau đó quặt qua phải và biến mất xung quanh những bụi gai và cây cỏ mọc như rừng. Súng được rút ra khỏi bao và Johnny cầm nghiêng nó ở một góc độ quái gở. “Cái này có khóa an toàn không?”
“Không. Tớ đã nói với cậu rồi. Chúa ơi, cẩn thận nơi mà cậu chĩa nòng súng vào.”
“Xin lỗi.” Johnny nhắm nòng súng xuống đất. Gió thổi tung những chiếc lá làm lộ ra mặt sau cánh lá bạc màu, xám xịt. Ở quãng cong của con đường, có những cây cột đá granite chỗ cánh cổng đổ sụp. Cánh cổng nằm vật dưới đất, cỏ mọc giữa các khung hổng, những thớ gỗ mềm mại của cánh cổng từ từ mục rữa. Sơn trắng vẫn còn thấy trên các vân gỗ.
Johnny thò đầu qua cột đá granite, sau đó rụt đầu trở lại.
“Chuyện gì vậy?” Jack hỏi.
“Không có gì.” Cậu đứng lại. “Đi thôi.”
Họ đi qua những cột đá granite và cánh rừng cong cong về phía xa. Họ thấy vỏ bọc bên ngoài của những căn nhà, một căn nhà bị thiêu rụi không còn gì. Có những tảng gỗ đen thui và khung sườn của ống khói lò sưởi. Một bậc thang bằng đá granite nằm ở cái chỗ hồi trước là cửa trước căn nhà. Một cái bồn tắm bốn chân nằm chỏng gọng nghiêng một bên, tro than vương vãi và mọc đầy chồi xanh của cây dại, bát đĩa sành sứ vỡ nát, một cái nồi, cần bơm tay bằng thép rỉ sét của cái máy bơm nước. Johnny nhặt lên một cái bản lề của một cánh cửa và thấy dấu hiệu búa đóng vào trong kim loại.
“Một đống rác vương vãi.” Jack nói thay lời cho cả hai đứa.
Nhà kho vẫn đứng vững, cũng như nhà hun khói với cánh cửa mở và những cái móc sắt treo trên sợi dây rỉ sét đỏ. Johnny thấy cái khoá trên cửa căn chòi. Một cái nhà xây ngay cạnh bên. Có độc một cửa ra vào, vài cái cửa sổ nhỏ hẹp, và hai ống khói nhỏ. Như căn nhà chính, một tảng đá làm bậc ra vào ngay cánh cửa. Nó mòn nhẵn ở chính giữa. Nhìn xuyên qua cửa kính, họ thấy một lò sưởi và một lò nấu ăn xây bằng gạch. Một cái bàn đơn giản và nồi niêu bằng gang đúc. “Chỗ này là nhà bếp,” Johnny nói.
“Họ thường thiết kế chúng biệt lập khỏi căn nhà để giảm thiểu rủi ro hoả hoạn.”
“Điều đó thật khôi hài.”
Johnny lùi bước và nhìn vào căn nhà cháy. “Ngoài này không có điện, cho nên nguyên nhân hoả hoạn phải là từ nến đèn cầy.”
“Hay sét đánh?”
“Có thể.”
“Nhìn cái kia kìa.” Jack trỏ tay.
Johnny xoay đầu. Cậu thấy một cây cột cao khoảng hai mét rưỡi, và cái chuông đồng thau chuyển sang màu xanh lục. “Quái lạ thật.”
“Cái gì?”
Johnny sấn bước vào chỗ cỏ dại cao ngất ngưởng đến lưng bụng. “Nó là cái chuông nô lệ. Tớ đã thấy một cái y chang vậy ở Viện Bảo tàng Nhân quyền ở Wilmington. Họ rung những cái chuông ấy để gọi nô lệ trở về từ ngoài đồng áng.”
“Tại sao nô lệ đã được giải phóng lại giữ cái chuông nô lệ?”
Johnny nhìn dưới cái chuông. “Tớ không biết. Một cái gì để nhắc nhở?”
“Tiếng thét oan hồn kinh hãi đó.” Lời nói bật ra như một tiếng thầm thì.
Johnny kiểm tra bên trong nhà kho. Ngoại trừ những nông cụ mà cậu nghĩ sẽ thấy bên trong - tất cả đều phủ đầy bụi và không dùng đến - bên trong hoàn toàn trống rỗng. Cậu lắc chiếc khóa trên cái chòi và nhìn vào bên trong xuyên qua những khe hở trên cửa. “Xà bần.”
“Tụi mình đi được chưa?”
Johnny điều nghiên toàn bộ khu vực. Mọi thứ hiển hiện trong ánh sáng lồ lộ. Những cây xanh làm thành một bức tường xung quanh bãi đất trống. “Chưa.” Cậu trỏ vào chỗ thật xa của bãi đất trống, nơi một vết toác phân cách rừng cây. “Băng qua chỗ đó,” Johnny nói.
Hai anh nhóc di chuyển thật cẩn thận. Rừng cây vươn lên cao, và họ đi dưới nó. Một con đường bộ đạo khoảng bốn mươi lăm mét dẫn sang một bãi trống khác. Ở điểm cuối đường, ánh sáng mặt trời chiếu sáng bức tường đá cao khoảng lưng bụng, và xa hơn nữa có dấu hiệu của cỏ xanh. Đằng sau bức tường đá là một cái cửa gỗ khác. Cửa này được tu sửa tử tế. Nước sơn sáng, trắng và hoàn hảo.
“Tớ chưa bao giờ thôi buồn bã khi nhìn thấy lớp sơn mới,” Jack thì thào. Họ bò gần hơn, nghe chim phóng uế, sau đó xoay hướng, cảm thấy lá cây bị ép xào xạc dưới chân bước.
“Cái đó là gì vậy?”
Âm thanh ướt, tiếng thụp thụp.
Johnny lắc đầu. “Tớ không biết.”
Cả hai hụp xuống thấp, chạy thục mạng vài mét, và ngồi thụp người dưới bức tường. Gạch ấm nóng, âm thanh phát ra gần đây. Nó phát ra từ phía bên kia bức tường. Johnny nhìn xuyên qua khe hở của cánh cổng. Cậu thấy cỏ được tỉa và nhiều hàng bia mộ đá. Thụp đầu trở lại, cậu nói: “Nó là cái nghĩa trang.”
“Cái gì?”
Johnny cầm sát cây súng vào lồng ngực và nghe tiếng tim đập thùm thụp trên sắt thép. Hơi thở ngắt quãng ở cuống họng. “Nó là một cái nghĩa trang kinh dị.”
“Gã ta có trong đó không?”
Mắt mở to gật đầu, giọng thì thào bé nhất. “Có.”
Jack liếm đôi môi trắng bệch như phấn. “Tụi mình phải biến khỏi nơi này.”
“Gã ta chỉ ngồi yên một chỗ.”
“Làm trò gì?”
Johnny thò đầu lên khỏi bức tường đá. Nghĩa trang nhỏ. Có lẽ khoảng bốn mươi bia mộ. Một cây sồi to hãi hùng nằm ở giữa nghĩa trang, những cây quỳnh trồng ở mỗi góc phía đằng sau. Những tấm bia đá nằm theo hàng ngang, một ít màu xám bạc, một vài cái màu đen, tất cả đều bao phủ bởi rong rêu và tảo.
Levi Freemantle ngồi ngay ở trung tâm, hai chân rộng bẹt ngay phía trước gã. Quần áo gã bẩn thỉu và rách rưới. Những vết máu có thể thấy ở hai đầu gối và trong những nếp gấp của lòng bàn tay, một vết máu nằm ở phía áo bên phải và ống quần phải. Đôi giầy được cởi ra, tung vào thảm cỏ sáng, sạch sẽ. Bàn chân và cổ chân gã sưng tấy lên đến mức dường như nó là một và được hàn lại với nhau. Ngón tay của hắn đang bị nhiễm trùng nặng vì bị Johnny cắn. Nó được quấn bằng miếng vải bẩn thỉu màu vàng. Lớp da bị kéo căng quá mức. Gã ta đặt một chiếc xẻng trên đùi. Bên cạnh gã là chiếc quan tài.
“Gã đang làm trò gì vậy?”
Johnny không trả lời câu hỏi ngay lập tức. Ánh sáng quá tuyệt vời giúp cậu có thể thấy từng chi tiết: từng hàng băng keo bạc trơ màu biến thành màu chì; bùn khô đóng mảng trên cỗ quan tài, những vết xước trên gỗ, vết nước thấm. Hai đầu gối Freemantle bị nạo gần đến xương. Hơi ẩm lóng lánh trên khuôn mặt kinh hãi của gã. Một cái gì đó nhô ra từ bên trong. Johnny tuột xuống khỏi bức tường và ép sát lưng vào đá. “Gã ta đang chôn một thi thể.”
“Thế thì bỏ mẹ.”
“Và gào khóc như một đứa con gái lớp năm.”
Jack nhắm nghiền đôi mắt. Johnny đưa cây súng lên cao để trái khế ép mạnh vào trán của cậu. Cậu ngửi mùi dầu lau súng và đôi môi chuyển động mấp máy không phát ra âm thanh: Cây súng là quyền năng. Tôi có cây súng. Cây súng là quyền năng.
Tôi có cây súng.
Cậu bắt đầu đứng dậy, nhưng Jack lôi cậu xuống. “Đừng đi.” Jack bóp chặt hơn, van xin. “Đừng đi.”
“Cậu bị sao vậy Jack?” Johnny kéo cánh tay mình ra khỏi tay Jack. “Bộ cậu nghĩ đây là trò chơi sao? Cậu nghĩ cả năm trời nay là trò chơi sao? Đây là lý do tại sao chúng ta đến đây.”
Sự kinh hãi hiện rõ trên khuôn mặt Jack. Toàn bộ cơ thể hắn run bần bật, nhưng hắn gật đầu và hạ tay xuống. “Được, Johnny.”
“Tớ không có lựa chọn.”
“Tớ đã nói là được mà.”
Trong giây phút, Johnny bị kiềm lòng bởi sự yên lặng và kinh hãi tột cùng trên khuôn mặt thằng bạn cậu, sau đó cậu đứng lên và cầm cây súng y như kiểu tài tử đóng trong phim ciné: hai tay trên báng súng, nòng thẳng và vững như có thể. Levi Freemantle đang đứng, trên tay cầm cái xẻng, nhưng không hề để ý đến Johnny. Đầu cúi xuống mặt đất, gã bắt đầu đào cái huyệt mộ nông mà gã đang làm dở dang. Freemantle giữ cái chân bị thương khỏi mặt đất, do đó chiếc xẻng phải chịu lực của cả thân hình gã. Nước mắt rơi lã chã không ngừng, và Johnny quan sát gã cố sức đào một huyệt mộ cho cái quan tài. Gã đứng bằng cái chân còn lành lặn và dùng bên chân bị thương tống cái xẻng cắm sâu xuống đất, nhưng sự đau đớn vặn vẹo trên khuôn mặt của gã. Gã chuyển sức nặng cơ thể qua phía bên chân kia, nhưng mắt cá chân gã gẫy sụp.
Gã ngã.
Lóp ngóp lết đứng lên trên hai chân.
Cố lần nữa.
Johnny mở cánh cổng nghĩa trang và bước vào bên trong. Cách xa bốn mét rưỡi, ba mét sáu, Freemantle không buồn chú ý. Johnny mạo hiểm nhìn vào cái quan tài. Nó nhỏ bé, loại quan tài cho con nít. Cậu bước lại gần hơn và Freemantle ngẩng lên nhìn. Đôi mắt ướt nhèm của gã nhảy từ khuôn mặt Johnny xuống cái nơi trơ trọi trong lòng đất. Gã lò cò một bước, giơ cao lưỡi xẻng, sau đó sụp trở lại nơi lòng đất. Johnny thấy sự buồn bã và đau đớn, đất cát và máu me, một cái gì giống như một miếng gỗ trổ ra bên hông của gã. “Dừng tay,” Johnny nói. Freemantle làm như được yêu cầu, sau đó giơ một tay lên, lòng bàn tay đưa lên và phẳng lỳ. Gã trỏ vào cái nơi gã đã cố gắng đào vét đất cát, sau cùng nhìn cây súng. Gã nhìn vào nó một lúc lâu, như thể gã không rõ nó là cái gì hay tại sao nó lại nhắm vào ngực của gã. Khi gã lên tiếng, giọng của gã dày nặng. “Có phải cậu đến đây để giúp tôi không?”
“Cái gì?”
“Tôi đã yêu cầu giúp đỡ nhiều lần, nhưng Ngài không nói chuyện với tôi.”
“Ai?”
“Có phải Ngài đang nói chuyện với cậu không?”
“Tôi không hiểu ý ông muốn nói gì.”
Những cái thẹo co giật trên khuôn mặt gã ta. Một mắt kéo cườm đục như sữa ở ngay giữa thủy tinh thể. “Tôi không đào nổi huyệt mộ.”
Johnny liều lĩnh nhìn vào bức tường. Jack lắc cái đầu. Johnny nhìn cái quan tài.
“Ông có nhớ tôi không?”
Một cái gật. “Cậu đang chạy và tôi nhấc cậu lên.”
“Tại sao?”
“Chúa nói.”
“Chúa nói nhấc tôi lên?” Thêm một cái gật. “Tại sao?”
“Ngài không nói.”
“Johnny.”
Jack gọi nhưng Johnny làm ngơ hắn. “Chúa còn nói với ông điều gì khác?”
“Cô bé là con của tôi.” Freemantle trỏ vào chiếc quan tài. Trên khuôn mặt dị dạng của gã, nước mắt dâng lên và rớt xuống. “Tôi không thể đào nổi huyệt mộ.”
Johnny nhìn một lần vào Jack.
Sau đó hạ cây súng xuống.
Tác giả :
John Hart