Khúc Cầu Hồn
Chương 18
Lúc sáu giờ sáng, hai thi thể đã được bỏ vào trong túi đựng tử thi. Hunt đứng ở hàng hiên khi những cái cáng khua lọc cọc qua cánh cửa, nhựa đen nhìn khác thường và trơn láng. Ông nhìn ra đường và sân nhà, cả hai nơi không màu sắc dưới bầu trời u xám, tối đen. Mặt trời chưa mọc, nhưng ông cảm giác nó đang đến gần. Ánh sáng xám tập trung ở trên đỉnh ngọn cây xa vượt đường ray xe lửa và bầu trời phía đông gợi nhắc mơ hồ một điều gì mới mẻ. Xe tuần tiễu của cảnh sát đậu khắp mọi nơi, chặn đứt con đường, đâm đầu đủ các góc độ vào lề đường. Chiếc xe khám nghiệm tử thi đậu ở góc sân, phía đằng sau ngáp to mở rộng cửa. Một nhóm phóng viên báo chí đứng đằng sau dây băng nhựa vàng, nhưng những người hàng xóm mới là đối tượng Hunt soi mói họ kỹ nhất. Con đường còn in một dấu chân hẹp. Những mảnh đất nhỏ đẩy những căn nhà lại gần với nhau. Ai đó biết một điều gì. Họ phải biết. Mắt ông đảo ngược đảo xuôi, dừng lại ở người đàn ông lớn tuổi mặc chiếc áo sơ mi vàng, một anh nhóc da đen với cặp mắt láo liên, trông có vẻ băng đảng, và vết xâm tự làm. Ông theo sát người phụ nữ có khuôn mặt rộng với cặp vú treo lủng lẳng và mỗi bên tay là một đứa trẻ con. Bà ta cư ngụ sát cạnh bên và nói rằng không biết gì hết.
Không hề nghe gì hết.
Mắt đầy vẻ ganh ghét.
Không hề thấy gì hết.
Một cảnh sát quân khuyển xuất hiện, đồng phục ông ta bám đầy thứ bẩn thỉu, mặt ông ta cau lại. Con chó, giống lai đen tuyền, đứng ép sát đùi ông ta. Lưỡi nó thè ra khỏi mõm khi nó trố mắt nhìn, không chớp mắt vào hai túi đựng thi thể. Chủ chó lắc đầu. “Không có gì ở tầng hầm lửng. Nếu còn thi thể, nó phải ở chỗ khác.”
“Ông chắc chắn điều đó chứ?” Hunt hỏi.
“Tuyệt đối.” Ông ta vỗ đầu con chó bằng lòng bàn tay. Hunt cảm thấy như trút được gánh nặng, nhưng không ưa đặt quá nhiều tin tưởng vào sự cảm nhận. Tiffany Shore không có ở đây không có nghĩa cô bé còn sống. Trong thâm tâm ông không quên hai thi thể đằng sau lưng mình. “Có lý do gì thứ kia lại đánh lạc hơi con chó được không?” Ông chỉ hai cái túi.
“Không đời nào.”
Hunt gật đầu. “Được rồi, Mike. Cám ơn đã kiểm tra.”
Chủ chó chép miệng gọi chó và con chó theo ông ta đi ra. Không có gì. Họ không tìm được gì. Hunt nghĩ về điều Johnny Merrimon nói về chuyện đứa con gái được tìm thấy ở Colorado: bị nhốt suốt một năm trời trong một căn hầm đào sâu bên cạnh hầm rượu, với một tấm nệm, một cái xô và một cây nến. Sự kinh tởm chứa chất trong ruột gan Hunt. Ông càng nghĩ đến chuyện đó, cái nội tạng kinh tởm càng hoạt động hăng hái hơn. Ông từng cố gắng tưởng tượng nếu ông là viên cảnh sát tìm được cô con gái đó, ông sẽ làm điều gì trước tiên: bế cô bé ra khỏi tấm nệm bẩn thỉu đó hay tống sáu viên đạn vào mặt kẻ đốn mạt? Ông không biết liệu ông có thể làm được chuyện đó không, quên đi mười bảy năm làm cớm và chỉ đơn giản bóp cò súng.
Có thể.
Còn hơn là có thể.
Hunt nhìn bác sĩ Trenton Moore cột chặt thi thể đằng sau xe. Ông ta trông mệt mỏi và xám xịt, người dẹt đét như ánh sáng buổi sớm. Khi bác sĩ Moore bước trở lại hàng hiên, ông ngửi thấy mùi cà phê và phoóc-môn, mùi nhà xác. “Xin lỗi phải giao cho anh thêm hai mạng nữa quá nhanh,” Hunt nói với ông ta. Bác sĩ Moore khoát tay. “Tôi cũng đã định gọi cho ông,” ông nói. “Tôi đã hoàn tất khám nghiệm sơ khởi trường hợp David Wilson.”
“Nhanh chóng quá.”
“Tôi biết nói gì bây giờ? Tôi yêu thích công việc của tôi.”
Hunt bước ra xa hiên nhà, xa khỏi cánh cửa và chỗ đi ra đi vào. Bác sĩ Moore đi theo. “Nói cho tôi nghe.”
“Ông ta còn sống khi bay qua thành lan can cầu. Cậu bé nói với chúng ta điều này, và kết quả điều tra của tôi trùng khớp. Phần lớn những chấn thương hiển nhiên, ông đã thấy. Gãy chân và tay; sự thực thì gãy nhiều chỗ. Thông tin chi tiết sẽ nằm trong bản báo cáo kết luận. Mài sát nặng nề do tiếp xúc với xi măng và mặt đất. Vỡ hốc mắt phía bên trái. Gãy bảy cái xương sườn, và cũng phía bên trái, nội tạng bị chấn thương rất nặng, xuất huyết nội tạng, thủng phổi; nhưng không có cái nào kể trên giết chết ông ta.”
“Giải thích thế nào?”
“Tôi tìm thấy một vết dập lớn trong cổ ông Wilson.” Bác sĩ Moore chỉ phía trước cổ mình, ở ngay phía trên xương ức cổ. “Khí quản và thực quản bị đè bẹp nát. Một sức nặng khá lớn đè lên trên cho đến khi toàn bộ khí quản bị hư hại đến mức hoàn toàn tắc nghẽn.” Ngừng lại một lúc. “Thám tử, ông ta bị chết ngạt.”
“Nhưng ông ta vẫn còn sống khi Johnny bỏ chạy trốn. Còn thở, vẫn nói được.”
“Vết dập trong cổ họng ông ta có một khuôn dạng. Nó rất mờ, chỉ thấy được dưới kính phóng đại và không đủ để có thể lấy mẫu hoặc tìm bất cứ dạng trùng hợp nào, nhưng chắc chắn là nó có ở đó.”
“Một khuôn dạng?”
Nét mặt bác sĩ Moore đau đớn. “Khuôn dạng dấu chân.”
Hunt cảm thấy mồ hôi cóng lạnh trên cổ ông.
“Thám tử, ai đó đã đạp lên cổ của ông ta. Ai đó đã đứng trên cổ của ông Wilson cho đến khi ông ta tắt thở.”
Báo cáo của bác sĩ Moore làm thay đổi nhịp điệu sáng nay của Hunt. Nó ngụ ý một sự độc ác xem chừng lạnh lùng hơn, một cái gì đó hung tợn hơn và mang tính cá nhân.
Hunt bước vào trong căn nhà, tâm trạng bất ổn và bực tức. Hai thi thể đã được mang đi, nhưng buổi hừng đông đen ngòm càng trở nên tăm tối hơn. Điện thoại Hunt reo vang. Con trai ông bên kia đường dây. Ông nhận ra số gọi và ngần ngại. Với tất cả những gì đang xảy ra, ông không còn thần trí nghĩ đến anh con trai. Dù chỉ là một lần. “Chào con, Allen.”
“Bố đã không về nhà.”
Ông trở vào bên trong hàng hiên. Ông nhìn bầu trời xám xịt, tẻ nhạt, mường tượng khuôn mặt anh con trai. “Bố biết,” ông nói. “Bố xin lỗi.”
“Bố có về nhà ăn sáng không?”
Mặc cảm tội lỗi của Hunt gia tăng. Cậu con trai đang cố hàn gắn tình cảm giữa đôi bên. “Bố không thể.”
Sau đó im lặng. “Dĩ nhiên là không rồi.”
Những ngón tay của Hunt ghì chặt máy điện thoại. Ông có cảm giác như anh con trai đang từ từ tuột xa khỏi vòng tay, nhưng cũng không biết phải làm gì. “Con ơi. Về chuyện tối hôm qua... ”
“Sao ạ?”
“Bố không hề có ý muốn đánh con.” Ông nghe tiếng thở ở phía bên kia đầu dây, sau đó anh con trai cúp máy. Chết tiệt. Hunt nhét điện thoại vào trong túi và hai mắt lại dõi theo đám người hiếu kỳ. Họ quan sát chiếc xe với sự mê hoặc; tất cả ngoại trừ một người. Một ông già mặc chiếc áo lem luốc đứng trên đường ray, tay kia nắm lấy thắt lưng đeo trên chiếc quần tả tơi. Hai mắt ông ta rũ xuống đủ để thấy làn da đỏ ở đáy mí mắt, và tay kia của ông ta run lẩy bẩy khi ông ta cố rít điếu thuốc ẩm mốc. Ông ta chằm chằm nhìn Hunt, rồi khều gọi bằng những ngón tay co lại.
“Yoakum,” Hunt nói, và Yoakum thò đầu ra khỏi cửa. “Tôi sẽ trở lại.”
Hunt chỉ người đàn ông đứng trên đường ray, và Yoakum quan sát bóng dáng lụ khụ của ông ta.
“Ông có cần yểm trợ không?”
“Dẹp đi, Yoakum.”
Dốc đất nát vụn dưới chân Hunt khi ông leo lên đường ray. Khói thuốc cuộn tròn xung quanh lỗ mũi tối đen của gã đàn ông, và sát gần, Hunt thấy rõ chứng tê liệt ảnh hưởng đến gần hết cơ thể của người đàn ông. Gã cao khoảng một mét bảy nhăm có khuynh hướng đổ về phía phải, như thể chân phía bên đó ngắn đi. Tóc bạc phơ dựng đứng lên trong gió mát. Gã chìa bàn tay ra, và giọng nói của gã làm Hunt liên tưởng đến bánh quy nhạt. “Có thể cho tôi xin một đô-la được không?”
Hunt quan sát bàn tay, thấy một vết xăm mờ phía đằng sau. “Năm đồng được không?”
Ông già theo dõi từng tờ giấy bạc lấy ra khỏi ví, gã lấy chúng, và nhét vào túi. Gã liếm đôi môi nứt nẻ và chớp mắt nhìn xuống bờ kè phía bên kia đường ray xe hỏa. Dò theo cái nhìn, Hunt thấy một tấm bạt xanh lục rách tả tơi treo trong một bụi rậm thấp lè tè bên ngoài đám sắn dây. Nó mờ lẫn vào trong những lùm cây, gần như không thể thấy được nữa. Ông thấy lon không chất một đống, một ụn đất đen thui. Gã này là dân vô gia cư. Một sự sợ hãi thực sự và bất thình lình chớp lên trên đôi mắt của gã. Sự căng thẳng tạo nên những nếp gấp trên hai gò má. “Mọi chuyện không sao,” Hunt nói với gã. “Không có gì phải lo.” Hunt lôi ra một tờ giấy bạc và đầu gã gật gù khi gã ho khé, một mớ âm thanh chấm dứt bằng một tiếng ho khô khan. Một cái gì đó màu nâu chọi trúng đường ray sáng loáng. Hunt nhìn đi hướng khác, và ông thấy nhiều chai lọ rải rác dưới triền dốc. Rượu rẻ tiền, lon bia bốn mươi ao-xơ, vài chai rượu rẻ tiền bourbon nhỏ. “Ông có thấy chuyện gì xảy ra ở đây không?” Hunt hỏi và trỏ tay về hướng căn nhà.
Gã già nhìn trống rỗng, rồi ngớ ngẩn và sợ hãi. Gã ta quay đi và Hunt chộp lấy khung tay của gã. Ông giữ giọng ôn hòa. “Thưa ông. Ông gọi tôi. Nhớ không?”
Gã già vùng vằng tại chỗ, ngón tay cong và vàng khè ở đầu ngón. “Cô... Cô... Cô ta thích trần truồng đi vòng quanh đó đây.” Gã chỉ về hướng cửa sổ nhà tắm. “Cô ta cười tôi.” Một con mắt co giật. “Tổ cha cái con chó cái.”
Hunt nói với giọng ân cần. “Ông đang nói đến Ronda Jeffries?”
Cằm của gã đàn ông vặn vẹo dữ dội, nhưng gã ta dường như không hiểu câu hỏi.
“Ông không sao chứ hả?” Hunt hỏi.
Cả hai cánh tay gã giơ lên. “Không phải tôi là chúa tể muôn loài sao?” Gã ta làm như thể muốn bỏ đi, và Hunt đặt hai ngón tay lên chỗ xương cứng trên bả vai gã.
“Thưa ông, ông có thể nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra
ở đây?”
Mắt trái gã đàn ông nhắm nghiền. “Tôi chỉ thấy cái xẻng,” gã ta nói, và đứng bằng một chân, gãi bắp chân bằng cạnh mũi giày. “Hắn ta có cái xẻng.” Gã chỉ. “Lấy nó ra từ cái chòi đó.”
“Có phải ý ông là Levi Freemantle? Gã đàn ông da đen. Nặng hơn một tạ.” Hunt nhìn vào cái chòi. Khi ông nhìn trở lại, khuôn mặt gã đàn ông nhu nhược trở lại. “Thưa ông, ông nói tiếp được không?”
“Ông muốn gì?” Gã vẫy bàn tay như đang đuổi ruồi khỏi khuôn mặt. “Tôi không biết ông.” Gã quay người và lê bước về hướng cuối đường ray, ngoái nhìn lại một lần, rồi đập những con ruồi tưởng tượng.
Hunt thở dài. “Cross,” ông gọi, và vẫy ông ta lên sườn dốc.
“Vâng thưa ông?” Cross có mặt trên đường ray.
“Xuống tóm lấy gã,” Hunt nói. “Gã có thể đã thấy chuyện gì đó. Có thể không. Xem xem ông có khai thác được gì không, nhưng nhẹ nhàng thôi. Khi xong việc với gã, hãy gọi Sở xã hội và Bệnh viện Cựu chiến binh. Gọi họ ra đây giúp đỡ người đàn ông đó.”
“Bệnh viện Cựu chiến binh?”
Hunt chỉ vào lưng bàn tay phải. “Ông ta có một vết xâm. USN. Là cựu hải quân. Tôn trọng ông ta một chút.”
“Vâng thưa ông.”
Khi Hunt trở lại hàng hiên trước nhà, Yoakum thò đầu ra lần nữa. “Tôi nghĩ ông cần phải xem cái này,” ông nói.
“Chuyện gì đấy?”
“Ông có nhớ căn phòng trống ở góc tây nam không?”
“Phòng ngủ à?” Hunt hỏi, hình dung nó trong đầu. Nó là cái phòng nhỏ, trống trơn. Mành che cửa sổ màu vàng. Dấu vết băng keo dán trên tường. Đáng chú ý ở chỗ bức tường hoàn toàn trống trải. “Căn phòng đó làm sao?”
Giọng Yoakum hạ xuống. “Ông cần phải xem nó.”
Hunt đi theo Yoakum xuyên qua căn nhà. Ông đi ngang qua những chuyên viên đang sưu tập vân tay, một phó nhòm khoác áo cảnh sát. Hai cảnh sát nhường chỗ khi ông đến gần căn phòng. “Nó ở trong tủ.” Yoakum mở cửa tủ và bật công-tắc đèn. Ánh sáng tràn ra ngoài, phủ ngập cái tủ, làm cho những bức tường trắng sáng hơn ban đầu. Một bức tranh vẽ bằng bút chì sáp trên tường phía sau, con nít vẽ và méo dạng. Bức tranh vẽ người đàn ông với viền ngoài màu đen, có đôi môi đỏ, quần tây rộng màu tím. Đôi mắt nâu vòng tròn hoàn hảo, như thể nó được đồ theo cái đáy chai. Một hàng nhiều đường kẻ vẽ ngang phía bên phải mặt của ông ta, nhưng nhìn ngoằn ngoèo và không đe dọa. Ông ta bế một cô bé trên ngực và một tay vẫy, như thể vẫy một người bạn ở xa. Cô bé có khuôn mặt trái xoan và một cái nơ thắt trên tóc, một đốm nhỏ màu hồng gần như mất hút trên bộ ngực rộng của người đàn ông. Cô bé giơ một tay lên và mặc chiếc váy màu vàng. Nụ cười cô bé như một vết khắc sâu hung bạo màu đỏ.
“Cái trời đất gì vậy?”
“Chính xác,” Yoakum trả lời. “Đó là chính xác những gì tôi nói.”
Hunt quét một vòng hết căn phòng. “Không còn hình vẽ nào khác?”
“Không.”
“Ai đó phải biết điều gì chứ.”
“Chúng tôi đã đi lùng soát hàng xóm, nhưng họ không nói chuyện với cớm. Con đường này không có ai.”
“Có dấu hiệu nào cho thấy một cô gái bị giam giữ trong căn nhà này không?”
“Căn phòng đã được thu dọn sạch sẽ,” Yoakum nói. “Điều này rất quái lạ. Toàn bộ căn nhà rất kinh tởm.”
Hunt dõi hai mắt trên những bức tường trơ, để ý những điểm mà băng keo được tháo gỡ. Những dấu băng keo nghiêng góc, như thể chúng được dán để giữ một tờ giấy ở bốn góc. Hunt di chuyển chậm rãi dọc theo các bức tường. Ông quan sát vết bẩn trên tường thạch cao và sàn nhà. Ông tìm thấy những vết chì sáp trên tường. Không có một bức ảnh nào khác, không một thiết kế. Ông tìm thấy những dòng ngoằn ngoèo ngẫu nhiên và những đường ngắn, cứng, như ai đó vẽ ra ngoài lề giấy. Ông nhìn phía đằng sau cái chụp đèn màu vàng, sau đó dừng lại khi thấy một cái gì đó ở góc phía xa. Ông nhặt nó lên, và Yoakum bước qua xem xét nó. “Nó có phải cái nút áo không?” ông hỏi.
Hunt cầm nghiêng nghiêng, liếc mắt nhìn. “Nó rơi ra từ con thú nhồi bông.”
“Cái gì?”
Hunt nhìn gần hơn. “Tôi nghĩ nó là con mắt.” Ông đưa lên bàn tay. “Cho tôi xin cái túi.”
Yoakum chuyền qua một túi nhựa. Hunt đặt con mắt nhựa vào trong túi và niêm lại. “Tôi muốn căn phòng này được lấy vân tay.” Hunt đi ra ngoài.
“Ông định đi đâu đó?” Yoakum hỏi.
“Tôi mệt mỏi với những thứ tào lao này.”
Hunt hầm hầm lao ra khỏi căn nhà ra ngoài hiên trước. Nhiều người vẫn đứng tụ tập thành các nhóm nhỏ, hiếu kỳ trước sự hiện diện của số đông cảnh sát. Nhìn họ, thấy sự ngạo mạn và bất cần, Hunt cảm thấy sự bực tức của ông sôi lên đến mức thịnh nộ. Ông nói bằng âm lượng to hơn để có thể vọng ra xa: “Tôi muốn nói chuyện với ai đó biết được những gì xảy ra trong căn nhà này.” Đấm đông đông cứng. Sự rỗng tuếch rớt lên trên từng khuôn mặt. Ông đã nhìn thấy cảnh này hàng triệu lần. “Người ta bị thiệt mạng. Một cô bé bị mất tích. Có ai đó có thể cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra trong căn nhà này không?”
Đôi mắt Hunt tìm thấy đôi mắt của người phụ nữ giận dữ với hai đứa trẻ hai bên hông. Ông tập trung nhìn bà ta vì bà ta là mẹ con nít, và bởi vì bà ấy cư ngụ ở căn nhà sát cạnh bên. “Bất cứ điều gì cũng có thể giúp chúng tôi.” Người phụ nữ ấy nhìn chăm chăm, khuôn mặt lạnh lùng xa lạ. Hunt dõi mắt quét vào đám đông, thấy sự giận dữ và bất tín. “Một cô bé bị mất tích!”
Nhưng Hunt là cảnh sát trên một con đường đầy tội lỗi. Ông thấy thùng đựng sơn ở góc hàng hiên, nhãn hiệu bên ngoài bạc trắng, nắp đóng rỉ sét. Với sự kích động dữ dội làm chính ông ngạc nhiên, Hunt đá chiếc thùng. Nó bay cong vòng vào sân nhà, lăn trên cát bụi, rồi nổ tung như miệng núi lửa phun màu xám. Hunt chăm chú vào vết sơn tung toé, và khi nhìn lên, ông thấy cảnh sát trưởng đứng ở lề đường. Ông ta mới đến hiện trường; xe ông ta vẫn đang nổ máy cầm chừng. Ông ta đứng ở chỗ cánh cửa mở, hai tay khoanh lại, cau mày khó chịu, chằm chằm nhìn Hunt. Hai đôi mắt của họ khóa vào nhau một giây dài, sau đó cảnh sát trưởng lắc đầu. Chậm rãi. Phó mặc.
Hunt đếm được hai nhịp tim đập, sau đó ông quay lưng mở cánh cửa.
Mùi tử khí tràn ngập người ông.
Không hề nghe gì hết.
Mắt đầy vẻ ganh ghét.
Không hề thấy gì hết.
Một cảnh sát quân khuyển xuất hiện, đồng phục ông ta bám đầy thứ bẩn thỉu, mặt ông ta cau lại. Con chó, giống lai đen tuyền, đứng ép sát đùi ông ta. Lưỡi nó thè ra khỏi mõm khi nó trố mắt nhìn, không chớp mắt vào hai túi đựng thi thể. Chủ chó lắc đầu. “Không có gì ở tầng hầm lửng. Nếu còn thi thể, nó phải ở chỗ khác.”
“Ông chắc chắn điều đó chứ?” Hunt hỏi.
“Tuyệt đối.” Ông ta vỗ đầu con chó bằng lòng bàn tay. Hunt cảm thấy như trút được gánh nặng, nhưng không ưa đặt quá nhiều tin tưởng vào sự cảm nhận. Tiffany Shore không có ở đây không có nghĩa cô bé còn sống. Trong thâm tâm ông không quên hai thi thể đằng sau lưng mình. “Có lý do gì thứ kia lại đánh lạc hơi con chó được không?” Ông chỉ hai cái túi.
“Không đời nào.”
Hunt gật đầu. “Được rồi, Mike. Cám ơn đã kiểm tra.”
Chủ chó chép miệng gọi chó và con chó theo ông ta đi ra. Không có gì. Họ không tìm được gì. Hunt nghĩ về điều Johnny Merrimon nói về chuyện đứa con gái được tìm thấy ở Colorado: bị nhốt suốt một năm trời trong một căn hầm đào sâu bên cạnh hầm rượu, với một tấm nệm, một cái xô và một cây nến. Sự kinh tởm chứa chất trong ruột gan Hunt. Ông càng nghĩ đến chuyện đó, cái nội tạng kinh tởm càng hoạt động hăng hái hơn. Ông từng cố gắng tưởng tượng nếu ông là viên cảnh sát tìm được cô con gái đó, ông sẽ làm điều gì trước tiên: bế cô bé ra khỏi tấm nệm bẩn thỉu đó hay tống sáu viên đạn vào mặt kẻ đốn mạt? Ông không biết liệu ông có thể làm được chuyện đó không, quên đi mười bảy năm làm cớm và chỉ đơn giản bóp cò súng.
Có thể.
Còn hơn là có thể.
Hunt nhìn bác sĩ Trenton Moore cột chặt thi thể đằng sau xe. Ông ta trông mệt mỏi và xám xịt, người dẹt đét như ánh sáng buổi sớm. Khi bác sĩ Moore bước trở lại hàng hiên, ông ngửi thấy mùi cà phê và phoóc-môn, mùi nhà xác. “Xin lỗi phải giao cho anh thêm hai mạng nữa quá nhanh,” Hunt nói với ông ta. Bác sĩ Moore khoát tay. “Tôi cũng đã định gọi cho ông,” ông nói. “Tôi đã hoàn tất khám nghiệm sơ khởi trường hợp David Wilson.”
“Nhanh chóng quá.”
“Tôi biết nói gì bây giờ? Tôi yêu thích công việc của tôi.”
Hunt bước ra xa hiên nhà, xa khỏi cánh cửa và chỗ đi ra đi vào. Bác sĩ Moore đi theo. “Nói cho tôi nghe.”
“Ông ta còn sống khi bay qua thành lan can cầu. Cậu bé nói với chúng ta điều này, và kết quả điều tra của tôi trùng khớp. Phần lớn những chấn thương hiển nhiên, ông đã thấy. Gãy chân và tay; sự thực thì gãy nhiều chỗ. Thông tin chi tiết sẽ nằm trong bản báo cáo kết luận. Mài sát nặng nề do tiếp xúc với xi măng và mặt đất. Vỡ hốc mắt phía bên trái. Gãy bảy cái xương sườn, và cũng phía bên trái, nội tạng bị chấn thương rất nặng, xuất huyết nội tạng, thủng phổi; nhưng không có cái nào kể trên giết chết ông ta.”
“Giải thích thế nào?”
“Tôi tìm thấy một vết dập lớn trong cổ ông Wilson.” Bác sĩ Moore chỉ phía trước cổ mình, ở ngay phía trên xương ức cổ. “Khí quản và thực quản bị đè bẹp nát. Một sức nặng khá lớn đè lên trên cho đến khi toàn bộ khí quản bị hư hại đến mức hoàn toàn tắc nghẽn.” Ngừng lại một lúc. “Thám tử, ông ta bị chết ngạt.”
“Nhưng ông ta vẫn còn sống khi Johnny bỏ chạy trốn. Còn thở, vẫn nói được.”
“Vết dập trong cổ họng ông ta có một khuôn dạng. Nó rất mờ, chỉ thấy được dưới kính phóng đại và không đủ để có thể lấy mẫu hoặc tìm bất cứ dạng trùng hợp nào, nhưng chắc chắn là nó có ở đó.”
“Một khuôn dạng?”
Nét mặt bác sĩ Moore đau đớn. “Khuôn dạng dấu chân.”
Hunt cảm thấy mồ hôi cóng lạnh trên cổ ông.
“Thám tử, ai đó đã đạp lên cổ của ông ta. Ai đó đã đứng trên cổ của ông Wilson cho đến khi ông ta tắt thở.”
Báo cáo của bác sĩ Moore làm thay đổi nhịp điệu sáng nay của Hunt. Nó ngụ ý một sự độc ác xem chừng lạnh lùng hơn, một cái gì đó hung tợn hơn và mang tính cá nhân.
Hunt bước vào trong căn nhà, tâm trạng bất ổn và bực tức. Hai thi thể đã được mang đi, nhưng buổi hừng đông đen ngòm càng trở nên tăm tối hơn. Điện thoại Hunt reo vang. Con trai ông bên kia đường dây. Ông nhận ra số gọi và ngần ngại. Với tất cả những gì đang xảy ra, ông không còn thần trí nghĩ đến anh con trai. Dù chỉ là một lần. “Chào con, Allen.”
“Bố đã không về nhà.”
Ông trở vào bên trong hàng hiên. Ông nhìn bầu trời xám xịt, tẻ nhạt, mường tượng khuôn mặt anh con trai. “Bố biết,” ông nói. “Bố xin lỗi.”
“Bố có về nhà ăn sáng không?”
Mặc cảm tội lỗi của Hunt gia tăng. Cậu con trai đang cố hàn gắn tình cảm giữa đôi bên. “Bố không thể.”
Sau đó im lặng. “Dĩ nhiên là không rồi.”
Những ngón tay của Hunt ghì chặt máy điện thoại. Ông có cảm giác như anh con trai đang từ từ tuột xa khỏi vòng tay, nhưng cũng không biết phải làm gì. “Con ơi. Về chuyện tối hôm qua... ”
“Sao ạ?”
“Bố không hề có ý muốn đánh con.” Ông nghe tiếng thở ở phía bên kia đầu dây, sau đó anh con trai cúp máy. Chết tiệt. Hunt nhét điện thoại vào trong túi và hai mắt lại dõi theo đám người hiếu kỳ. Họ quan sát chiếc xe với sự mê hoặc; tất cả ngoại trừ một người. Một ông già mặc chiếc áo lem luốc đứng trên đường ray, tay kia nắm lấy thắt lưng đeo trên chiếc quần tả tơi. Hai mắt ông ta rũ xuống đủ để thấy làn da đỏ ở đáy mí mắt, và tay kia của ông ta run lẩy bẩy khi ông ta cố rít điếu thuốc ẩm mốc. Ông ta chằm chằm nhìn Hunt, rồi khều gọi bằng những ngón tay co lại.
“Yoakum,” Hunt nói, và Yoakum thò đầu ra khỏi cửa. “Tôi sẽ trở lại.”
Hunt chỉ người đàn ông đứng trên đường ray, và Yoakum quan sát bóng dáng lụ khụ của ông ta.
“Ông có cần yểm trợ không?”
“Dẹp đi, Yoakum.”
Dốc đất nát vụn dưới chân Hunt khi ông leo lên đường ray. Khói thuốc cuộn tròn xung quanh lỗ mũi tối đen của gã đàn ông, và sát gần, Hunt thấy rõ chứng tê liệt ảnh hưởng đến gần hết cơ thể của người đàn ông. Gã cao khoảng một mét bảy nhăm có khuynh hướng đổ về phía phải, như thể chân phía bên đó ngắn đi. Tóc bạc phơ dựng đứng lên trong gió mát. Gã chìa bàn tay ra, và giọng nói của gã làm Hunt liên tưởng đến bánh quy nhạt. “Có thể cho tôi xin một đô-la được không?”
Hunt quan sát bàn tay, thấy một vết xăm mờ phía đằng sau. “Năm đồng được không?”
Ông già theo dõi từng tờ giấy bạc lấy ra khỏi ví, gã lấy chúng, và nhét vào túi. Gã liếm đôi môi nứt nẻ và chớp mắt nhìn xuống bờ kè phía bên kia đường ray xe hỏa. Dò theo cái nhìn, Hunt thấy một tấm bạt xanh lục rách tả tơi treo trong một bụi rậm thấp lè tè bên ngoài đám sắn dây. Nó mờ lẫn vào trong những lùm cây, gần như không thể thấy được nữa. Ông thấy lon không chất một đống, một ụn đất đen thui. Gã này là dân vô gia cư. Một sự sợ hãi thực sự và bất thình lình chớp lên trên đôi mắt của gã. Sự căng thẳng tạo nên những nếp gấp trên hai gò má. “Mọi chuyện không sao,” Hunt nói với gã. “Không có gì phải lo.” Hunt lôi ra một tờ giấy bạc và đầu gã gật gù khi gã ho khé, một mớ âm thanh chấm dứt bằng một tiếng ho khô khan. Một cái gì đó màu nâu chọi trúng đường ray sáng loáng. Hunt nhìn đi hướng khác, và ông thấy nhiều chai lọ rải rác dưới triền dốc. Rượu rẻ tiền, lon bia bốn mươi ao-xơ, vài chai rượu rẻ tiền bourbon nhỏ. “Ông có thấy chuyện gì xảy ra ở đây không?” Hunt hỏi và trỏ tay về hướng căn nhà.
Gã già nhìn trống rỗng, rồi ngớ ngẩn và sợ hãi. Gã ta quay đi và Hunt chộp lấy khung tay của gã. Ông giữ giọng ôn hòa. “Thưa ông. Ông gọi tôi. Nhớ không?”
Gã già vùng vằng tại chỗ, ngón tay cong và vàng khè ở đầu ngón. “Cô... Cô... Cô ta thích trần truồng đi vòng quanh đó đây.” Gã chỉ về hướng cửa sổ nhà tắm. “Cô ta cười tôi.” Một con mắt co giật. “Tổ cha cái con chó cái.”
Hunt nói với giọng ân cần. “Ông đang nói đến Ronda Jeffries?”
Cằm của gã đàn ông vặn vẹo dữ dội, nhưng gã ta dường như không hiểu câu hỏi.
“Ông không sao chứ hả?” Hunt hỏi.
Cả hai cánh tay gã giơ lên. “Không phải tôi là chúa tể muôn loài sao?” Gã ta làm như thể muốn bỏ đi, và Hunt đặt hai ngón tay lên chỗ xương cứng trên bả vai gã.
“Thưa ông, ông có thể nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra
ở đây?”
Mắt trái gã đàn ông nhắm nghiền. “Tôi chỉ thấy cái xẻng,” gã ta nói, và đứng bằng một chân, gãi bắp chân bằng cạnh mũi giày. “Hắn ta có cái xẻng.” Gã chỉ. “Lấy nó ra từ cái chòi đó.”
“Có phải ý ông là Levi Freemantle? Gã đàn ông da đen. Nặng hơn một tạ.” Hunt nhìn vào cái chòi. Khi ông nhìn trở lại, khuôn mặt gã đàn ông nhu nhược trở lại. “Thưa ông, ông nói tiếp được không?”
“Ông muốn gì?” Gã vẫy bàn tay như đang đuổi ruồi khỏi khuôn mặt. “Tôi không biết ông.” Gã quay người và lê bước về hướng cuối đường ray, ngoái nhìn lại một lần, rồi đập những con ruồi tưởng tượng.
Hunt thở dài. “Cross,” ông gọi, và vẫy ông ta lên sườn dốc.
“Vâng thưa ông?” Cross có mặt trên đường ray.
“Xuống tóm lấy gã,” Hunt nói. “Gã có thể đã thấy chuyện gì đó. Có thể không. Xem xem ông có khai thác được gì không, nhưng nhẹ nhàng thôi. Khi xong việc với gã, hãy gọi Sở xã hội và Bệnh viện Cựu chiến binh. Gọi họ ra đây giúp đỡ người đàn ông đó.”
“Bệnh viện Cựu chiến binh?”
Hunt chỉ vào lưng bàn tay phải. “Ông ta có một vết xâm. USN. Là cựu hải quân. Tôn trọng ông ta một chút.”
“Vâng thưa ông.”
Khi Hunt trở lại hàng hiên trước nhà, Yoakum thò đầu ra lần nữa. “Tôi nghĩ ông cần phải xem cái này,” ông nói.
“Chuyện gì đấy?”
“Ông có nhớ căn phòng trống ở góc tây nam không?”
“Phòng ngủ à?” Hunt hỏi, hình dung nó trong đầu. Nó là cái phòng nhỏ, trống trơn. Mành che cửa sổ màu vàng. Dấu vết băng keo dán trên tường. Đáng chú ý ở chỗ bức tường hoàn toàn trống trải. “Căn phòng đó làm sao?”
Giọng Yoakum hạ xuống. “Ông cần phải xem nó.”
Hunt đi theo Yoakum xuyên qua căn nhà. Ông đi ngang qua những chuyên viên đang sưu tập vân tay, một phó nhòm khoác áo cảnh sát. Hai cảnh sát nhường chỗ khi ông đến gần căn phòng. “Nó ở trong tủ.” Yoakum mở cửa tủ và bật công-tắc đèn. Ánh sáng tràn ra ngoài, phủ ngập cái tủ, làm cho những bức tường trắng sáng hơn ban đầu. Một bức tranh vẽ bằng bút chì sáp trên tường phía sau, con nít vẽ và méo dạng. Bức tranh vẽ người đàn ông với viền ngoài màu đen, có đôi môi đỏ, quần tây rộng màu tím. Đôi mắt nâu vòng tròn hoàn hảo, như thể nó được đồ theo cái đáy chai. Một hàng nhiều đường kẻ vẽ ngang phía bên phải mặt của ông ta, nhưng nhìn ngoằn ngoèo và không đe dọa. Ông ta bế một cô bé trên ngực và một tay vẫy, như thể vẫy một người bạn ở xa. Cô bé có khuôn mặt trái xoan và một cái nơ thắt trên tóc, một đốm nhỏ màu hồng gần như mất hút trên bộ ngực rộng của người đàn ông. Cô bé giơ một tay lên và mặc chiếc váy màu vàng. Nụ cười cô bé như một vết khắc sâu hung bạo màu đỏ.
“Cái trời đất gì vậy?”
“Chính xác,” Yoakum trả lời. “Đó là chính xác những gì tôi nói.”
Hunt quét một vòng hết căn phòng. “Không còn hình vẽ nào khác?”
“Không.”
“Ai đó phải biết điều gì chứ.”
“Chúng tôi đã đi lùng soát hàng xóm, nhưng họ không nói chuyện với cớm. Con đường này không có ai.”
“Có dấu hiệu nào cho thấy một cô gái bị giam giữ trong căn nhà này không?”
“Căn phòng đã được thu dọn sạch sẽ,” Yoakum nói. “Điều này rất quái lạ. Toàn bộ căn nhà rất kinh tởm.”
Hunt dõi hai mắt trên những bức tường trơ, để ý những điểm mà băng keo được tháo gỡ. Những dấu băng keo nghiêng góc, như thể chúng được dán để giữ một tờ giấy ở bốn góc. Hunt di chuyển chậm rãi dọc theo các bức tường. Ông quan sát vết bẩn trên tường thạch cao và sàn nhà. Ông tìm thấy những vết chì sáp trên tường. Không có một bức ảnh nào khác, không một thiết kế. Ông tìm thấy những dòng ngoằn ngoèo ngẫu nhiên và những đường ngắn, cứng, như ai đó vẽ ra ngoài lề giấy. Ông nhìn phía đằng sau cái chụp đèn màu vàng, sau đó dừng lại khi thấy một cái gì đó ở góc phía xa. Ông nhặt nó lên, và Yoakum bước qua xem xét nó. “Nó có phải cái nút áo không?” ông hỏi.
Hunt cầm nghiêng nghiêng, liếc mắt nhìn. “Nó rơi ra từ con thú nhồi bông.”
“Cái gì?”
Hunt nhìn gần hơn. “Tôi nghĩ nó là con mắt.” Ông đưa lên bàn tay. “Cho tôi xin cái túi.”
Yoakum chuyền qua một túi nhựa. Hunt đặt con mắt nhựa vào trong túi và niêm lại. “Tôi muốn căn phòng này được lấy vân tay.” Hunt đi ra ngoài.
“Ông định đi đâu đó?” Yoakum hỏi.
“Tôi mệt mỏi với những thứ tào lao này.”
Hunt hầm hầm lao ra khỏi căn nhà ra ngoài hiên trước. Nhiều người vẫn đứng tụ tập thành các nhóm nhỏ, hiếu kỳ trước sự hiện diện của số đông cảnh sát. Nhìn họ, thấy sự ngạo mạn và bất cần, Hunt cảm thấy sự bực tức của ông sôi lên đến mức thịnh nộ. Ông nói bằng âm lượng to hơn để có thể vọng ra xa: “Tôi muốn nói chuyện với ai đó biết được những gì xảy ra trong căn nhà này.” Đấm đông đông cứng. Sự rỗng tuếch rớt lên trên từng khuôn mặt. Ông đã nhìn thấy cảnh này hàng triệu lần. “Người ta bị thiệt mạng. Một cô bé bị mất tích. Có ai đó có thể cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra trong căn nhà này không?”
Đôi mắt Hunt tìm thấy đôi mắt của người phụ nữ giận dữ với hai đứa trẻ hai bên hông. Ông tập trung nhìn bà ta vì bà ta là mẹ con nít, và bởi vì bà ấy cư ngụ ở căn nhà sát cạnh bên. “Bất cứ điều gì cũng có thể giúp chúng tôi.” Người phụ nữ ấy nhìn chăm chăm, khuôn mặt lạnh lùng xa lạ. Hunt dõi mắt quét vào đám đông, thấy sự giận dữ và bất tín. “Một cô bé bị mất tích!”
Nhưng Hunt là cảnh sát trên một con đường đầy tội lỗi. Ông thấy thùng đựng sơn ở góc hàng hiên, nhãn hiệu bên ngoài bạc trắng, nắp đóng rỉ sét. Với sự kích động dữ dội làm chính ông ngạc nhiên, Hunt đá chiếc thùng. Nó bay cong vòng vào sân nhà, lăn trên cát bụi, rồi nổ tung như miệng núi lửa phun màu xám. Hunt chăm chú vào vết sơn tung toé, và khi nhìn lên, ông thấy cảnh sát trưởng đứng ở lề đường. Ông ta mới đến hiện trường; xe ông ta vẫn đang nổ máy cầm chừng. Ông ta đứng ở chỗ cánh cửa mở, hai tay khoanh lại, cau mày khó chịu, chằm chằm nhìn Hunt. Hai đôi mắt của họ khóa vào nhau một giây dài, sau đó cảnh sát trưởng lắc đầu. Chậm rãi. Phó mặc.
Hunt đếm được hai nhịp tim đập, sau đó ông quay lưng mở cánh cửa.
Mùi tử khí tràn ngập người ông.
Tác giả :
John Hart