Kẻ Tầm Xương
Chương 5
“Tình hình là như thế này”, Lincoln Rhyme tuyên bố. “Chúng ta có một nạn nhân bị bắt cóc và thời điểm là ba giờ chiều nay.”
“Không có việc đòi hỏi tiền chuộc”, Sellitto thêm vào phần tóm tắt của Rhyme, sau đó anh ta quay đi để trả lời cuộc điện thoại gọi đến. “Jerry”, Rhyme nói với Banks, “tóm tắt cho họ biết về hiện trường vụ án sáng nay”.
Trong căn phòng tối tăm của Lincoln Rhyme đang có nhiều người lượn lờ hơn lúc nào hết. Ồ, sau tai nạn, thỉnh thoảng bạn bè cũng đến mà không báo trước (tất nhiên khả năng Rhyme ở nhà là rất cao), nhưng anh đã không ủng hộ việc này. Và anh cũng không trả lời điện thoại, ngày càng ẩn dật hơn, trôi dần vào sự cô đơn. Anh dành nhiều thời gian cho việc viết sách và khi không còn cảm hứng để viết thêm cuốn nào nữa, thì anh đọc. Khi chán đọc đã có phim thuê, truyền hình trả tiền và âm nhạc. Rồi sau đó anh bỏ cả ti vi và dàn âm thanh, chuyển sang ngắm nghía hàng giờ liền các phiên bản in nghệ thuật mà người trợ lý đã treo lên bức tường đối diện chiếc giường nằm. Cuối cùng, những bức tranh này cũng được hạ xuống.
Cô độc.
Đó là tất cả những gì anh cầu xin, và bây giờ thì anh nhớ nó biết bao.
Jim Polling đang đi lại, trông có vẻ căng thẳng. Lon Sellitto là sĩ quan phụ trách vụ án, nhưng những sự kiện như thế này cần có một đại úy chỉ huy và Polling đã tình nguyện làm việc đó. Vụ này là một quả bom hẹn giờ và có thể phá tung sự nghiệp trong nháy mắt, do đó sếp và đội truyền thông của sở sẵn sàng để anh ta đứng ra chắn đạn. Họ sẽ thực hành môn nghệ thuật tạo khoảng cách và khi máy quay phim hoạt động, những cuộc họp báo của họ sẽ được rắc đầy những từ như kiểu ủy quyền, chỉ định và nhận lời khuyên của… Họ sẽ nhanh chóng liếc sang Polling khi có những câu hỏi khó khăn. Rhyme chẳng thể hình dung được tại sao bất kỳ cảnh sát nào trên thế giới cũng có thể tình nguyện làm công việc đó trong một vụ như thế này.
Polling là một người kỳ lạ. Một con người nhỏ bé đã tự khai phá đường đi cho mình qua khu vực Bắc Midtown như một trong những thám tử điều tra các vụ giết người thành công và nổi tiếng nhất thành phố. Nổi tiếng nóng tính, anh ta đã gặp rắc rối nghiêm trọng khi giết chết một nghi phạm không có vũ khí. Nhưng thật kỳ lạ là anh ta lại có thể khôi phục sự nghiệp của mình bằng cách kết thúc thành công vụ Shepherd – vụ giết cảnh sát hàng loạt, vụ mà Rhyme bị thương. Được thăng cấp đại úy sau lần bắt bớ rất công khai này, Polling trải qua một trong những thay đổi khó khăn nhất của cuộc đời – từ bỏ chiếc quần jeans xanh và những bộ vét Sears[38] để đổi lấy những bộ vét sang trọng của Brooks Brothers (hôm nay anh ta mặc một bộ Calvin Klein màu xanh hải quân) – và bắt đầu cuộc leo trèo lì lợm của mình lên một góc văn phòng xa hoa ở One Police Plaza.
Một sĩ quan khác đang dựa vào cái bàn gần đó. Tóc húi cua, vóc dáng cao chắc chắn, Bo Haumann là một đại úy và chỉ huy ESU[39]. Đội đặc nhiệm SWAT[40] của NYPD.
Banks kết thúc phần giới thiệu tóm tắt của mình đúng lúc Sellitto kết thúc cuộc điện đàm của anh ta. “Những Chàng trai Dũng cảm.”
“Có thêm thông tin gì về chiếc taxi không?” Polling hỏi.
“Không có gì. Họ vẫn đang đập bụi.”
“Có bất kỳ dấu hiệu gì chứng tỏ cô ta ngủ với ai đó mà cô ta không nên hay không?” Polling hỏi. “Có thể là một thằng bạn trai thần kinh?”
“Không. Không có bạn trai. Chỉ hẹn hò bình thường với mấy anh chàng. Trông có vẻ như không có ai theo đuổi.”
“Không có ai gọi điện đòi tiền chuộc?” Rhyme hỏi.
“Không.”
Chuông cửa reo. Thom ra mở cửa.
Rhyme nhìn về phía những giọng nói đang lại gần.
Một khoảnh khắc sau đó, người trợ lý dẫn một sĩ quan cảnh sát mặc cảnh phục lên cầu thang. Từ xa trông cô ta có vẻ rất trẻ, nhưng khi lại gần anh áng chừng cô ta khoảng ba mươi tuổi. Cô ta cao và có vẻ đẹp “vênh váo” của những người đàn bà trên trang bìa của các tạp chí thời trang.
Chúng ta nhìn người khác theo cách tự nhìn chính mình, vì thế sau tai nạn, Lincoln Rhyme rất ít khi nghĩ về mọi người từ phương diện cơ thể của họ. Anh quan sát chiều cao của cô, cái hông gọn gàng, mái tóc đỏ rực. Người khác có thể nhìn những đặc điểm này và nghĩ, đẹp quá. Nhưng với Lincoln Rhyme, ý nghĩ này không đến. Điều làm anh ấn tượng là cái nhìn trong mắt cô.
Không có sự ngạc nhiên – rõ ràng rồi, chắc ai đó đã báo trước anh là người tàn tật – nhưng là cái gì đó khác. Một biểu hiện mà trước đó anh chưa hề nhìn thấy. Tựa như hoàn cảnh của anh lại làm cô thấy thoải mái. Hoàn toàn trái ngược so với phản ứng của mọi người. Như thể cô đi vào phòng và cô đang thư giãn.
“Sĩ quan Sachs?” Rhyme nói.
“Vâng thưa ngài”, cô nói, tự ngăn được mình trước khi chìa tay ra. “Thám tử Rhyme.”
Sellitto giới thiệu cô với Polling và Haumann. Cô cũng đã biết hai người này, ít nhất qua uy tín của họ nếu không phải vì điều gì khác nữa, giờ thì ánh mắt cô lại càng tỏ ra thận trọng.
Cô quan sát căn phòng, bụi bặm, tăm tối. Liếc nhìn một trong những bức ảnh nghệ thuật. Nó bị mở ra lưng chừng, nằm dưới gầm bàn. Nighthawks[41], tác giả Edward Hopper. Những người cô đơn ngồi bên bàn ăn lúc tối muộn. Một trong những bức tranh cuối cùng bị dỡ xuống.
Rhyme giải thích ngắn gọn về thời hạn ba giờ chiều. Sellitto gật đầu bình thản nhưng Rhyme có thể nhìn thấy một thoáng gì đó trong ánh mắt cô, cái gì nhỉ? Sự sợ hãi? Ghê tởm?
Jerry Banks, những ngón tay đang lúng túng với cái nhẫn học sinh chứ chẳng phải một cái đai đám cưới, ngay lập tức bị vẻ đẹp của cô hấp dẫn và nở một nụ cười tươi hơn bình thường. Nhưng cái liếc mắt đáp lời duy nhất của Sellitto đã cho thấy rõ ở đây không hề có việc mối mai nào cả. Và có lẽ sẽ không bao giờ có.
Polling nói: “Có thể đây là một cái bẫy. Chúng ta tìm thấy chỗ hắn muốn dẫn ta đến, bước vào và ở trong là một quả bom.”
“Tôi nghi ngờ điều đó”, Sellitto nhún vai nói. “Vì sao lại tạo ra tất cả những rắc rối đó? Nếu anh muốn giết một tên cớm thì anh chỉ việc đi tìm lấy một tên và bắn hắn chết toi.”
Một khắc im lặng lúng túng khi Polling nhìn thoáng từ Sellitto sang Rhyme. Suy nghĩ đó tập hợp được từ vụ Shepherd; chính trong vụ đó Rhyme bị thương.
Nhưng sự lỡ lời này chẳng có nghĩa lý gì với Rhyme, anh tiếp tục: “Tôi đồng ý với Lon. Nhưng tôi sẽ nói với tất cả nhóm S&S[42] và nhóm HRT[43] phải đề phòng mai phục. Anh chàng của chúng ta có vẻ đang viết ra quy tắc riêng cho mình.”
Sachs nhìn bức tranh của Hopper một lần nữa. Rhyme dõi theo ánh mắt cô. Có thể những người trong bữa ăn tối không thực sự cô đơn, anh ngẫm nghĩ, thì trông họ đều rất hài lòng.
“Ở đây ta có hai loại vật chứng”, Rhyme nói tiếp. “Vật chứng chuẩn. Những thứ mà nghi phạm không muốn bỏ lại. Tóc, lông, sợi, vân tay, có thể là máu, dấu giày. Nếu ta có thể tìm đủ vật chứng loại này – và nếu ta may mắn – chúng có thể dẫn ta đến hiện trường thứ nhất. Đây là nơi hắn ta sống.”
“Hay là hang ổ lẩn trốn của hắn”, Sellitto gợi ý. “Một chỗ ở tạm.”
“Một nơi ẩn nấp an toàn?” Rhyme gật đầu đăm chiêu. “Chắc là anh đúng đấy, Lon. Hắn cần một nơi để hành động.” Anh tiếp tục: “Sau đó là những vật chứng được cố ý để lại. Ngoài hai mẩu giấy – nói với chúng ta ngày tháng – chúng ta có một con ốc, một cuộn asbestos và cát.”
“Một cuộc săn tìm kho báu chết tiệt”, Haumann gầm gừ, vuốt mớ tóc cắt ngắn của mình. Anh ta trông vẫn giống anh chàng trung sĩ tập sự mà Rhyme còn nhớ.
“Điều đó đồng nghĩa với việc tôi có thể báo cáo lên cấp trên là ta có khả năng tìm được nạn nhân đúng lúc?” Polling hỏi.
“Tôi nghĩ thế, có thể.”
Viên đại úy gọi điện thoại và đi về phía góc phòng để nói chuyện. Khi dập máy anh ta càu nhàu: “Thị trưởng. Sếp đang ngồi với ông ấy. Sẽ có một cuộc họp báo sau một tiếng nữa và tôi sẽ phải đến đó để đảm bảo cái của quý của họ vẫn còn trong quần và được kéo khóa. Tôi còn có gì để nói thêm với họ nữa không?”
Sellitto liếc nhìn Rhyme, anh lắc đầu.
“Chưa có gì đâu”, viên thám tử nói.
Polling cho Sellitto số di động của anh ta và đi ra, đúng hơn là chạy ra khỏi cửa.
Một khắc sau, một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, hói, gầy guộc thư thả đi lên gác. Mel Cooper là một người mà lúc nào cũng có vẻ ngớ ngẩn, một nhân vật hàng xóm luộm thuộm trong một vở hài kịch tình thế. Đi sau anh ta là hai cảnh sát trẻ khênh cái rương nồi hấp và hai chiếc va li trông có vẻ nặng cả nghìn pound. Hai viên sĩ quan đặt món hàng nặng nề của mình xuống và ra về.
“Mel.”
“Thám tử.” Cooper đi tới chỗ Rhyme và siết chặt cánh tay vô dụng của anh. Sự tiếp xúc vật lý duy nhất trong ngày với những người khách của anh, Rhyme ghi nhận. Anh và Cooper đã từng làm việc cùng nhau trong nhiều năm. Có bằng hóa hữu cơ, toán và vật lý, Cooper là chuyên gia cả trong lĩnh vực nhận dạng – lấy dấu tay, DNA, tái tạo pháp lý – và phân tích vật chứng.
“Nhà hình sự học hàng đầu thế giới hôm nay thấy thế nào?” Cooper hỏi anh.
Rhyme cảm thấy một sự giễu cợt thiện ý. Danh xưng này được báo chí gắn cho anh mấy năm trước, sau khi một bản tin gây ngạc nhiên về việc FBI đã chọn anh – một cảnh sát thành phố – làm tư vấn cho việc thành lập PERT của họ. Không thỏa mãn với “nhà pháp y hàng đầu”, các phóng viên đã gọi Rhyme là “nhà hình sự học”.
Thuật ngữ này thực ra đã tồn tại nhiều năm, đầu tiên được dùng tại Mỹ cho Paul Leland Kirk[44] huyền thoại, người điều hành Trường Hình sự học của Đại học California ở UC Berkeley. Ngôi trường được sếp August Vollmer huyền thoại hơn thành lập và là ngôi trường đầu tiên thuộc loại này ở nước Mỹ. Gần đây tên gọi đó trở thành mốt, và khi các kỹ thuật viên trên toàn quốc rụt rè làm quen với các cô gái tóc vàng tại những buổi tiệc cocktail, họ giới thiệu mình là các nhà hình sự học thay vì là những nhà khoa học pháp y.
“Ác mộng của mọi người”, Cooper nói, “anh vào taxi nhưng hóa ra lại có một thằng khùng đang lái xe. Cả thế giới đang quan sát Quả Táo Lớn[45] vì cái hội nghị đó. Tôi sẽ lấy làm lạ nếu họ không lôi anh ra khỏi chỗ nghỉ hưu vì việc này.”
“Mẹ anh thế nào?” Rhyme hỏi.
“Vẫn than phiền về mọi cơn đau nhức. Vẫn khỏe hơn tôi.”
Cooper sống với người phụ nữ lớn tuổi đó trong một ngôi nhà ở Queens, nơi anh ta sinh ra. Niềm đam mê của anh ta là khiêu vũ dạ hội – tango là hàng độc của anh ta. Cớm thường đàm tiếu trong IRD về xu hướng giới tính của anh ta. Rhyme không quan tâm đến cuộc sống cá nhân của các nhân viên của mình nhưng cũng đã ngạc nhiên như những người khác khi gặp Greta, bạn gái lâu năm của Cooper, một phụ nữ Bắc u lộng lẫy dạy toán tại Columbia.
Cooper mở cái rương lớn lót nhung. Anh ta lấy ra các bộ phận của ba cái kính hiển vi lớn và bắt đầu lắp ráp.
“Ồ, điện trong nhà.” Anh ta thất vọng liếc nhìn ổ cắm, đẩy cái kính gọng kim loại cao hơn lên mũi.
“Vì đây là một ngôi nhà mà, Mel.”
“Tôi đã giả định rằng anh sống trong một cái phòng thí nghiệm. Liệu điều đó có quá ngạc nhiên không?”
Rhyme nhìn chăm chăm các thiết bị, màu đen và màu xám, bầm dập. Giống như những thiết bị anh đã từng ở cùng trong hơn mười lăm năm. Một cái kính hiển vi tiêu chuẩn và một cái dùng ánh sáng phân cực. Cooper mở những cái va li, trong đó có nhiều loại chai lọ, bình và thiết bị thí nghiệm của một Thầy Phù thủy. Trong một thoáng, ngôn từ trở lại với Rhyme, những ngôn từ đã từng là một phần trong vốn từ vựng hằng ngày của anh. Những cái ống lấy máu chân không EDTA[46], acetic acid, orthotolidine, thuốc thử luminol, Magna-Brush, hiện tượng màu tím Ruhemann…
Người đàn ông gầy gò nhìn quanh phòng. “Giống hệt như văn phòng trước kia của anh. Làm thế nào mà anh có thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở đây? Ví dụ, tôi muốn có một ít không gian ở đây.”
“Thom.” Rhyme hướng đầu về phía cái bàn ít bừa bộn nhất.. Họ bỏ sang bên các loại báo, tạp chí, sách và để lộ ra cái mặt bàn mà Rhyme đã không nhìn thấy nhiều năm qua.
Sellitto nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án. “Chúng ta gọi đối tượng là gì nhỉ? Ta vẫn chưa có số cho vụ này.”
Rhyme liếc nhìn Banks. “Chọn một số đi. Số nào cũng được.”
Banks đề nghị: “Số trang. Ừ, ý tôi là ngày tháng.”
“Đối tượng 823. Tốt như bất kỳ số nào khác.”
Sellitto viết con số này vào bản báo cáo.
“Vâng, cho tôi xin lỗi? Thám tử Rhyme?”
Đó là giọng của nữ cảnh sát tuần tra. Rhyme quay về phía cô.
“Tôi phải quay lại Đại Bản Doanh vào buổi trưa.”
“Sĩ quan Sachs…”, anh đã ngay lập tức quên mất cô. “Cô là sĩ quan đầu tiên đến hiện trường sáng nay à? Chỗ vụ giết người gần đường ray.”
“Đúng thế. Tôi đã nhận cuộc gọi.” Cô nói với Thom.
“Tôi ở đây, thưa sĩ quan.” Rhyme lạnh lùng nhắc cô, cố gắng kiểm soát cơn nóng giận. “Đằng này.” Khi người ta nói với anh qua người khác, qua những người khỏe mạnh, anh tức giận.
Cô xoay đầu lại rất nhanh và anh biết bài học đã được tiếp thu. “Vâng, thưa ngài”, cô nói. Trong giọng cô có sự mềm mại, nhưng trong mắt cô là băng giá.
“Tôi đã giải ngũ. Cứ gọi tôi là Lincoln.”
“Liệu anh có thể làm ơn chấm dứt chuyện này, được không?”
“Thế nghĩa là sao?” Anh hỏi.
“Lý do anh đưa tôi đến đây. Tôi xin lỗi. Tôi đã không suy nghĩ. Nếu anh muốn xin lỗi bằng văn bản, tôi sẽ viết. Có điều là tôi đã bị muộn cho nhiệm vụ mới và tôi không có cơ hội gọi điện cho chỉ huy của tôi.”
“Xin lỗi?” Rhyme hỏi.
“Vấn đề là tôi không hề có kinh nghiệm thực tế về hiện trường vụ án. Tôi chỉ là dân nghiệp dư.”
“Cô đang nói gì thế?”
“Chặn đoàn tàu và phong tỏa Đại lộ Mười một. Chính vì lỗi của tôi mà ngài thượng nghị sĩ đã không kịp phát biểu ở New Jersey và một vài quan chức cao cấp Liên Hiệp Quốc không đến kịp cuộc họp từ sân bay Newark.”
Rhyme chặc lưỡi. “Cô có biết tôi là ai không?”
“À. Tôi cũng có nghe về anh. Tôi nghĩ là anh đã…”
“Đã chết?” Rhyme hỏi.
“Không, ý tôi không phải như vậy.” Dù ý cô đúng là như vậy. Cô nhanh chóng nói tiếp: “Tất cả chúng tôi đều dùng sách của anh trong học viện. Nhưng chúng tôi không nghe nhiều về anh. Ý tôi là về chuyện cá nhân…” Cô nhìn lên bức tường và căng thẳng nói: “Theo suy nghĩ của tôi, như một sĩ quan đầu tiên đến hiện trường, tốt nhất là phải chặn đoàn tàu và phong tỏa đường phố để bảo vệ hiện trường. Và đó chính là điều tôi làm, thưa ngài…”
“Gọi tôi là Lincoln. Và cô là…”
“Tôi…”
“Tên cô?”
“Amelia.”
“Amelia. Từ gốc là nữ phi công à?”
“Không. Một cái họ.”
“Amelia, tôi không muốn một lời xin lỗi. Cô đúng và Vince Peretti đã sai.”
Sellitto nhúc nhích khi thấy sự vô ý đó, nhưng Lincoln Rhyme không quan tâm. Cuối cùng thì anh là một trong số vài người trên thế giới có thể vẫn cứ nằm ườn ra ngay cả khi tổng thống Mỹ bước vào phòng. Anh tiếp tục: “Peretti khám nghiệm hiện trường như thể Thị trưởng đang nhòm qua vai anh ta, và đó là cách thức số một để làm hỏng việc. Anh ta có quá nhiều người, anh ta hoàn toàn sai lầm khi cho đoàn tàu và các phương tiện giao thông chuyển động; anh ta không bao giờ được giải phóng hiện trường sớm như anh ta đã làm. Nếu chúng ta giữ được đường ray, biết đâu chúng ta lại chẳng tìm thấy một hóa đơn thẻ tín dụng với một cái tên ở đó. Hay là một dấu vân tay thật đẹp.”
“Có thể”, Sellitto tế nhị nói. “Nhưng giữ điều đó cho chúng ta thôi.” Khi ra mệnh lệnh im lặng, ánh mắt anh ta quay về phía Sachs, Cooper và Jerry Banks trẻ tuổi.
Rhyme phì ra một nụ cười bất kính. Sau đó quay lại phía Sachs, anh bắt gặp cô đang nhìn chân và cơ thể anh dưới tấm chăn màu vàng mơ, như Jerry Banks sáng nay. Anh nói với cô: “Tôi gọi cô đến đây để xử lý hiện trường tiếp theo cho chúng tôi.”
“Cái gì?” Lần này thì không phải nói qua người phiên dịch.
“Làm việc cho chúng tôi”, anh nói ngắn gọn. “Hiện trường vụ án tiếp theo.”
“Nhưng…” Cô cười. “Tôi đâu có phải là IRD. Tôi thuộc Đội Tuần tra. Tôi chưa bao giờ làm công việc xử lý hiện trường.”
“Đây là một vụ bất thường. Như chính thám tử Sellitto đã nói với cô. Nó thực sự là kỳ quặc. Đúng không, Lon? Đúng, nếu đó là một vụ cổ điển, chúng tôi không cần cô. Nhưng trong vụ này chúng tôi cần một cặp mắt mới.”
Cô liếc nhìn Sellitto, anh ta chẳng nói gì. “Tôi chỉ… Tôi hoàn toàn không giỏi việc này. Tôi chắc đấy.”
“Được rồi”, Rhyme kiên nhẫn nói. “Sự thật nhé?”
Cô gật đầu.
“Tôi cần ai đó có gan dừng cả đoàn tàu trên đường ray để bảo vệ hiện trường và chịu đựng được rắc rối sau đó.”
“Cảm ơn vì đã cho tôi cơ hội, thưa ngài, Lincoln. Nhưng…”
Rhyme nói ngắn gọn. “Lon.”
“Sĩ quan”, viên thám tử càu nhàu với Sachs, “cô không có lựa chọn nào ở đây. Cô đã được phân công vào vụ này để trợ giúp tại hiện trường vụ án.”
“Thưa ngài, tôi phải phản đối. Tôi đã chuyển khỏi Đội Tuần tra. Ngày hôm nay. Tôi được chuyển vì lý do sức khỏe. Quyết định đó có hiệu lực cách đây một giờ.”
“Lý do sức khỏe?” Rhyme hỏi.
Cô ta chần chừ, rồi lại miễn cưỡng nhìn chân anh.
“Tôi bị viêm khớp.”
“Đúng thế à?” Rhyme hỏi.
“Viêm khớp mãn tính.”
“Tôi rất tiếc.”
Cô nhanh chóng tiếp tục: “Tôi nhận cuộc gọi sáng nay vì ai đó bị ốm phải nằm ở nhà. Tôi không định làm việc đó.”
“Đúng thế, được rồi. Tôi cũng có chương trình khác”, Lincoln Rhyme nói. “Giờ thì ta hãy nghiên cứu một số bằng chứng.”
“Không có việc đòi hỏi tiền chuộc”, Sellitto thêm vào phần tóm tắt của Rhyme, sau đó anh ta quay đi để trả lời cuộc điện thoại gọi đến. “Jerry”, Rhyme nói với Banks, “tóm tắt cho họ biết về hiện trường vụ án sáng nay”.
Trong căn phòng tối tăm của Lincoln Rhyme đang có nhiều người lượn lờ hơn lúc nào hết. Ồ, sau tai nạn, thỉnh thoảng bạn bè cũng đến mà không báo trước (tất nhiên khả năng Rhyme ở nhà là rất cao), nhưng anh đã không ủng hộ việc này. Và anh cũng không trả lời điện thoại, ngày càng ẩn dật hơn, trôi dần vào sự cô đơn. Anh dành nhiều thời gian cho việc viết sách và khi không còn cảm hứng để viết thêm cuốn nào nữa, thì anh đọc. Khi chán đọc đã có phim thuê, truyền hình trả tiền và âm nhạc. Rồi sau đó anh bỏ cả ti vi và dàn âm thanh, chuyển sang ngắm nghía hàng giờ liền các phiên bản in nghệ thuật mà người trợ lý đã treo lên bức tường đối diện chiếc giường nằm. Cuối cùng, những bức tranh này cũng được hạ xuống.
Cô độc.
Đó là tất cả những gì anh cầu xin, và bây giờ thì anh nhớ nó biết bao.
Jim Polling đang đi lại, trông có vẻ căng thẳng. Lon Sellitto là sĩ quan phụ trách vụ án, nhưng những sự kiện như thế này cần có một đại úy chỉ huy và Polling đã tình nguyện làm việc đó. Vụ này là một quả bom hẹn giờ và có thể phá tung sự nghiệp trong nháy mắt, do đó sếp và đội truyền thông của sở sẵn sàng để anh ta đứng ra chắn đạn. Họ sẽ thực hành môn nghệ thuật tạo khoảng cách và khi máy quay phim hoạt động, những cuộc họp báo của họ sẽ được rắc đầy những từ như kiểu ủy quyền, chỉ định và nhận lời khuyên của… Họ sẽ nhanh chóng liếc sang Polling khi có những câu hỏi khó khăn. Rhyme chẳng thể hình dung được tại sao bất kỳ cảnh sát nào trên thế giới cũng có thể tình nguyện làm công việc đó trong một vụ như thế này.
Polling là một người kỳ lạ. Một con người nhỏ bé đã tự khai phá đường đi cho mình qua khu vực Bắc Midtown như một trong những thám tử điều tra các vụ giết người thành công và nổi tiếng nhất thành phố. Nổi tiếng nóng tính, anh ta đã gặp rắc rối nghiêm trọng khi giết chết một nghi phạm không có vũ khí. Nhưng thật kỳ lạ là anh ta lại có thể khôi phục sự nghiệp của mình bằng cách kết thúc thành công vụ Shepherd – vụ giết cảnh sát hàng loạt, vụ mà Rhyme bị thương. Được thăng cấp đại úy sau lần bắt bớ rất công khai này, Polling trải qua một trong những thay đổi khó khăn nhất của cuộc đời – từ bỏ chiếc quần jeans xanh và những bộ vét Sears[38] để đổi lấy những bộ vét sang trọng của Brooks Brothers (hôm nay anh ta mặc một bộ Calvin Klein màu xanh hải quân) – và bắt đầu cuộc leo trèo lì lợm của mình lên một góc văn phòng xa hoa ở One Police Plaza.
Một sĩ quan khác đang dựa vào cái bàn gần đó. Tóc húi cua, vóc dáng cao chắc chắn, Bo Haumann là một đại úy và chỉ huy ESU[39]. Đội đặc nhiệm SWAT[40] của NYPD.
Banks kết thúc phần giới thiệu tóm tắt của mình đúng lúc Sellitto kết thúc cuộc điện đàm của anh ta. “Những Chàng trai Dũng cảm.”
“Có thêm thông tin gì về chiếc taxi không?” Polling hỏi.
“Không có gì. Họ vẫn đang đập bụi.”
“Có bất kỳ dấu hiệu gì chứng tỏ cô ta ngủ với ai đó mà cô ta không nên hay không?” Polling hỏi. “Có thể là một thằng bạn trai thần kinh?”
“Không. Không có bạn trai. Chỉ hẹn hò bình thường với mấy anh chàng. Trông có vẻ như không có ai theo đuổi.”
“Không có ai gọi điện đòi tiền chuộc?” Rhyme hỏi.
“Không.”
Chuông cửa reo. Thom ra mở cửa.
Rhyme nhìn về phía những giọng nói đang lại gần.
Một khoảnh khắc sau đó, người trợ lý dẫn một sĩ quan cảnh sát mặc cảnh phục lên cầu thang. Từ xa trông cô ta có vẻ rất trẻ, nhưng khi lại gần anh áng chừng cô ta khoảng ba mươi tuổi. Cô ta cao và có vẻ đẹp “vênh váo” của những người đàn bà trên trang bìa của các tạp chí thời trang.
Chúng ta nhìn người khác theo cách tự nhìn chính mình, vì thế sau tai nạn, Lincoln Rhyme rất ít khi nghĩ về mọi người từ phương diện cơ thể của họ. Anh quan sát chiều cao của cô, cái hông gọn gàng, mái tóc đỏ rực. Người khác có thể nhìn những đặc điểm này và nghĩ, đẹp quá. Nhưng với Lincoln Rhyme, ý nghĩ này không đến. Điều làm anh ấn tượng là cái nhìn trong mắt cô.
Không có sự ngạc nhiên – rõ ràng rồi, chắc ai đó đã báo trước anh là người tàn tật – nhưng là cái gì đó khác. Một biểu hiện mà trước đó anh chưa hề nhìn thấy. Tựa như hoàn cảnh của anh lại làm cô thấy thoải mái. Hoàn toàn trái ngược so với phản ứng của mọi người. Như thể cô đi vào phòng và cô đang thư giãn.
“Sĩ quan Sachs?” Rhyme nói.
“Vâng thưa ngài”, cô nói, tự ngăn được mình trước khi chìa tay ra. “Thám tử Rhyme.”
Sellitto giới thiệu cô với Polling và Haumann. Cô cũng đã biết hai người này, ít nhất qua uy tín của họ nếu không phải vì điều gì khác nữa, giờ thì ánh mắt cô lại càng tỏ ra thận trọng.
Cô quan sát căn phòng, bụi bặm, tăm tối. Liếc nhìn một trong những bức ảnh nghệ thuật. Nó bị mở ra lưng chừng, nằm dưới gầm bàn. Nighthawks[41], tác giả Edward Hopper. Những người cô đơn ngồi bên bàn ăn lúc tối muộn. Một trong những bức tranh cuối cùng bị dỡ xuống.
Rhyme giải thích ngắn gọn về thời hạn ba giờ chiều. Sellitto gật đầu bình thản nhưng Rhyme có thể nhìn thấy một thoáng gì đó trong ánh mắt cô, cái gì nhỉ? Sự sợ hãi? Ghê tởm?
Jerry Banks, những ngón tay đang lúng túng với cái nhẫn học sinh chứ chẳng phải một cái đai đám cưới, ngay lập tức bị vẻ đẹp của cô hấp dẫn và nở một nụ cười tươi hơn bình thường. Nhưng cái liếc mắt đáp lời duy nhất của Sellitto đã cho thấy rõ ở đây không hề có việc mối mai nào cả. Và có lẽ sẽ không bao giờ có.
Polling nói: “Có thể đây là một cái bẫy. Chúng ta tìm thấy chỗ hắn muốn dẫn ta đến, bước vào và ở trong là một quả bom.”
“Tôi nghi ngờ điều đó”, Sellitto nhún vai nói. “Vì sao lại tạo ra tất cả những rắc rối đó? Nếu anh muốn giết một tên cớm thì anh chỉ việc đi tìm lấy một tên và bắn hắn chết toi.”
Một khắc im lặng lúng túng khi Polling nhìn thoáng từ Sellitto sang Rhyme. Suy nghĩ đó tập hợp được từ vụ Shepherd; chính trong vụ đó Rhyme bị thương.
Nhưng sự lỡ lời này chẳng có nghĩa lý gì với Rhyme, anh tiếp tục: “Tôi đồng ý với Lon. Nhưng tôi sẽ nói với tất cả nhóm S&S[42] và nhóm HRT[43] phải đề phòng mai phục. Anh chàng của chúng ta có vẻ đang viết ra quy tắc riêng cho mình.”
Sachs nhìn bức tranh của Hopper một lần nữa. Rhyme dõi theo ánh mắt cô. Có thể những người trong bữa ăn tối không thực sự cô đơn, anh ngẫm nghĩ, thì trông họ đều rất hài lòng.
“Ở đây ta có hai loại vật chứng”, Rhyme nói tiếp. “Vật chứng chuẩn. Những thứ mà nghi phạm không muốn bỏ lại. Tóc, lông, sợi, vân tay, có thể là máu, dấu giày. Nếu ta có thể tìm đủ vật chứng loại này – và nếu ta may mắn – chúng có thể dẫn ta đến hiện trường thứ nhất. Đây là nơi hắn ta sống.”
“Hay là hang ổ lẩn trốn của hắn”, Sellitto gợi ý. “Một chỗ ở tạm.”
“Một nơi ẩn nấp an toàn?” Rhyme gật đầu đăm chiêu. “Chắc là anh đúng đấy, Lon. Hắn cần một nơi để hành động.” Anh tiếp tục: “Sau đó là những vật chứng được cố ý để lại. Ngoài hai mẩu giấy – nói với chúng ta ngày tháng – chúng ta có một con ốc, một cuộn asbestos và cát.”
“Một cuộc săn tìm kho báu chết tiệt”, Haumann gầm gừ, vuốt mớ tóc cắt ngắn của mình. Anh ta trông vẫn giống anh chàng trung sĩ tập sự mà Rhyme còn nhớ.
“Điều đó đồng nghĩa với việc tôi có thể báo cáo lên cấp trên là ta có khả năng tìm được nạn nhân đúng lúc?” Polling hỏi.
“Tôi nghĩ thế, có thể.”
Viên đại úy gọi điện thoại và đi về phía góc phòng để nói chuyện. Khi dập máy anh ta càu nhàu: “Thị trưởng. Sếp đang ngồi với ông ấy. Sẽ có một cuộc họp báo sau một tiếng nữa và tôi sẽ phải đến đó để đảm bảo cái của quý của họ vẫn còn trong quần và được kéo khóa. Tôi còn có gì để nói thêm với họ nữa không?”
Sellitto liếc nhìn Rhyme, anh lắc đầu.
“Chưa có gì đâu”, viên thám tử nói.
Polling cho Sellitto số di động của anh ta và đi ra, đúng hơn là chạy ra khỏi cửa.
Một khắc sau, một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, hói, gầy guộc thư thả đi lên gác. Mel Cooper là một người mà lúc nào cũng có vẻ ngớ ngẩn, một nhân vật hàng xóm luộm thuộm trong một vở hài kịch tình thế. Đi sau anh ta là hai cảnh sát trẻ khênh cái rương nồi hấp và hai chiếc va li trông có vẻ nặng cả nghìn pound. Hai viên sĩ quan đặt món hàng nặng nề của mình xuống và ra về.
“Mel.”
“Thám tử.” Cooper đi tới chỗ Rhyme và siết chặt cánh tay vô dụng của anh. Sự tiếp xúc vật lý duy nhất trong ngày với những người khách của anh, Rhyme ghi nhận. Anh và Cooper đã từng làm việc cùng nhau trong nhiều năm. Có bằng hóa hữu cơ, toán và vật lý, Cooper là chuyên gia cả trong lĩnh vực nhận dạng – lấy dấu tay, DNA, tái tạo pháp lý – và phân tích vật chứng.
“Nhà hình sự học hàng đầu thế giới hôm nay thấy thế nào?” Cooper hỏi anh.
Rhyme cảm thấy một sự giễu cợt thiện ý. Danh xưng này được báo chí gắn cho anh mấy năm trước, sau khi một bản tin gây ngạc nhiên về việc FBI đã chọn anh – một cảnh sát thành phố – làm tư vấn cho việc thành lập PERT của họ. Không thỏa mãn với “nhà pháp y hàng đầu”, các phóng viên đã gọi Rhyme là “nhà hình sự học”.
Thuật ngữ này thực ra đã tồn tại nhiều năm, đầu tiên được dùng tại Mỹ cho Paul Leland Kirk[44] huyền thoại, người điều hành Trường Hình sự học của Đại học California ở UC Berkeley. Ngôi trường được sếp August Vollmer huyền thoại hơn thành lập và là ngôi trường đầu tiên thuộc loại này ở nước Mỹ. Gần đây tên gọi đó trở thành mốt, và khi các kỹ thuật viên trên toàn quốc rụt rè làm quen với các cô gái tóc vàng tại những buổi tiệc cocktail, họ giới thiệu mình là các nhà hình sự học thay vì là những nhà khoa học pháp y.
“Ác mộng của mọi người”, Cooper nói, “anh vào taxi nhưng hóa ra lại có một thằng khùng đang lái xe. Cả thế giới đang quan sát Quả Táo Lớn[45] vì cái hội nghị đó. Tôi sẽ lấy làm lạ nếu họ không lôi anh ra khỏi chỗ nghỉ hưu vì việc này.”
“Mẹ anh thế nào?” Rhyme hỏi.
“Vẫn than phiền về mọi cơn đau nhức. Vẫn khỏe hơn tôi.”
Cooper sống với người phụ nữ lớn tuổi đó trong một ngôi nhà ở Queens, nơi anh ta sinh ra. Niềm đam mê của anh ta là khiêu vũ dạ hội – tango là hàng độc của anh ta. Cớm thường đàm tiếu trong IRD về xu hướng giới tính của anh ta. Rhyme không quan tâm đến cuộc sống cá nhân của các nhân viên của mình nhưng cũng đã ngạc nhiên như những người khác khi gặp Greta, bạn gái lâu năm của Cooper, một phụ nữ Bắc u lộng lẫy dạy toán tại Columbia.
Cooper mở cái rương lớn lót nhung. Anh ta lấy ra các bộ phận của ba cái kính hiển vi lớn và bắt đầu lắp ráp.
“Ồ, điện trong nhà.” Anh ta thất vọng liếc nhìn ổ cắm, đẩy cái kính gọng kim loại cao hơn lên mũi.
“Vì đây là một ngôi nhà mà, Mel.”
“Tôi đã giả định rằng anh sống trong một cái phòng thí nghiệm. Liệu điều đó có quá ngạc nhiên không?”
Rhyme nhìn chăm chăm các thiết bị, màu đen và màu xám, bầm dập. Giống như những thiết bị anh đã từng ở cùng trong hơn mười lăm năm. Một cái kính hiển vi tiêu chuẩn và một cái dùng ánh sáng phân cực. Cooper mở những cái va li, trong đó có nhiều loại chai lọ, bình và thiết bị thí nghiệm của một Thầy Phù thủy. Trong một thoáng, ngôn từ trở lại với Rhyme, những ngôn từ đã từng là một phần trong vốn từ vựng hằng ngày của anh. Những cái ống lấy máu chân không EDTA[46], acetic acid, orthotolidine, thuốc thử luminol, Magna-Brush, hiện tượng màu tím Ruhemann…
Người đàn ông gầy gò nhìn quanh phòng. “Giống hệt như văn phòng trước kia của anh. Làm thế nào mà anh có thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở đây? Ví dụ, tôi muốn có một ít không gian ở đây.”
“Thom.” Rhyme hướng đầu về phía cái bàn ít bừa bộn nhất.. Họ bỏ sang bên các loại báo, tạp chí, sách và để lộ ra cái mặt bàn mà Rhyme đã không nhìn thấy nhiều năm qua.
Sellitto nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án. “Chúng ta gọi đối tượng là gì nhỉ? Ta vẫn chưa có số cho vụ này.”
Rhyme liếc nhìn Banks. “Chọn một số đi. Số nào cũng được.”
Banks đề nghị: “Số trang. Ừ, ý tôi là ngày tháng.”
“Đối tượng 823. Tốt như bất kỳ số nào khác.”
Sellitto viết con số này vào bản báo cáo.
“Vâng, cho tôi xin lỗi? Thám tử Rhyme?”
Đó là giọng của nữ cảnh sát tuần tra. Rhyme quay về phía cô.
“Tôi phải quay lại Đại Bản Doanh vào buổi trưa.”
“Sĩ quan Sachs…”, anh đã ngay lập tức quên mất cô. “Cô là sĩ quan đầu tiên đến hiện trường sáng nay à? Chỗ vụ giết người gần đường ray.”
“Đúng thế. Tôi đã nhận cuộc gọi.” Cô nói với Thom.
“Tôi ở đây, thưa sĩ quan.” Rhyme lạnh lùng nhắc cô, cố gắng kiểm soát cơn nóng giận. “Đằng này.” Khi người ta nói với anh qua người khác, qua những người khỏe mạnh, anh tức giận.
Cô xoay đầu lại rất nhanh và anh biết bài học đã được tiếp thu. “Vâng, thưa ngài”, cô nói. Trong giọng cô có sự mềm mại, nhưng trong mắt cô là băng giá.
“Tôi đã giải ngũ. Cứ gọi tôi là Lincoln.”
“Liệu anh có thể làm ơn chấm dứt chuyện này, được không?”
“Thế nghĩa là sao?” Anh hỏi.
“Lý do anh đưa tôi đến đây. Tôi xin lỗi. Tôi đã không suy nghĩ. Nếu anh muốn xin lỗi bằng văn bản, tôi sẽ viết. Có điều là tôi đã bị muộn cho nhiệm vụ mới và tôi không có cơ hội gọi điện cho chỉ huy của tôi.”
“Xin lỗi?” Rhyme hỏi.
“Vấn đề là tôi không hề có kinh nghiệm thực tế về hiện trường vụ án. Tôi chỉ là dân nghiệp dư.”
“Cô đang nói gì thế?”
“Chặn đoàn tàu và phong tỏa Đại lộ Mười một. Chính vì lỗi của tôi mà ngài thượng nghị sĩ đã không kịp phát biểu ở New Jersey và một vài quan chức cao cấp Liên Hiệp Quốc không đến kịp cuộc họp từ sân bay Newark.”
Rhyme chặc lưỡi. “Cô có biết tôi là ai không?”
“À. Tôi cũng có nghe về anh. Tôi nghĩ là anh đã…”
“Đã chết?” Rhyme hỏi.
“Không, ý tôi không phải như vậy.” Dù ý cô đúng là như vậy. Cô nhanh chóng nói tiếp: “Tất cả chúng tôi đều dùng sách của anh trong học viện. Nhưng chúng tôi không nghe nhiều về anh. Ý tôi là về chuyện cá nhân…” Cô nhìn lên bức tường và căng thẳng nói: “Theo suy nghĩ của tôi, như một sĩ quan đầu tiên đến hiện trường, tốt nhất là phải chặn đoàn tàu và phong tỏa đường phố để bảo vệ hiện trường. Và đó chính là điều tôi làm, thưa ngài…”
“Gọi tôi là Lincoln. Và cô là…”
“Tôi…”
“Tên cô?”
“Amelia.”
“Amelia. Từ gốc là nữ phi công à?”
“Không. Một cái họ.”
“Amelia, tôi không muốn một lời xin lỗi. Cô đúng và Vince Peretti đã sai.”
Sellitto nhúc nhích khi thấy sự vô ý đó, nhưng Lincoln Rhyme không quan tâm. Cuối cùng thì anh là một trong số vài người trên thế giới có thể vẫn cứ nằm ườn ra ngay cả khi tổng thống Mỹ bước vào phòng. Anh tiếp tục: “Peretti khám nghiệm hiện trường như thể Thị trưởng đang nhòm qua vai anh ta, và đó là cách thức số một để làm hỏng việc. Anh ta có quá nhiều người, anh ta hoàn toàn sai lầm khi cho đoàn tàu và các phương tiện giao thông chuyển động; anh ta không bao giờ được giải phóng hiện trường sớm như anh ta đã làm. Nếu chúng ta giữ được đường ray, biết đâu chúng ta lại chẳng tìm thấy một hóa đơn thẻ tín dụng với một cái tên ở đó. Hay là một dấu vân tay thật đẹp.”
“Có thể”, Sellitto tế nhị nói. “Nhưng giữ điều đó cho chúng ta thôi.” Khi ra mệnh lệnh im lặng, ánh mắt anh ta quay về phía Sachs, Cooper và Jerry Banks trẻ tuổi.
Rhyme phì ra một nụ cười bất kính. Sau đó quay lại phía Sachs, anh bắt gặp cô đang nhìn chân và cơ thể anh dưới tấm chăn màu vàng mơ, như Jerry Banks sáng nay. Anh nói với cô: “Tôi gọi cô đến đây để xử lý hiện trường tiếp theo cho chúng tôi.”
“Cái gì?” Lần này thì không phải nói qua người phiên dịch.
“Làm việc cho chúng tôi”, anh nói ngắn gọn. “Hiện trường vụ án tiếp theo.”
“Nhưng…” Cô cười. “Tôi đâu có phải là IRD. Tôi thuộc Đội Tuần tra. Tôi chưa bao giờ làm công việc xử lý hiện trường.”
“Đây là một vụ bất thường. Như chính thám tử Sellitto đã nói với cô. Nó thực sự là kỳ quặc. Đúng không, Lon? Đúng, nếu đó là một vụ cổ điển, chúng tôi không cần cô. Nhưng trong vụ này chúng tôi cần một cặp mắt mới.”
Cô liếc nhìn Sellitto, anh ta chẳng nói gì. “Tôi chỉ… Tôi hoàn toàn không giỏi việc này. Tôi chắc đấy.”
“Được rồi”, Rhyme kiên nhẫn nói. “Sự thật nhé?”
Cô gật đầu.
“Tôi cần ai đó có gan dừng cả đoàn tàu trên đường ray để bảo vệ hiện trường và chịu đựng được rắc rối sau đó.”
“Cảm ơn vì đã cho tôi cơ hội, thưa ngài, Lincoln. Nhưng…”
Rhyme nói ngắn gọn. “Lon.”
“Sĩ quan”, viên thám tử càu nhàu với Sachs, “cô không có lựa chọn nào ở đây. Cô đã được phân công vào vụ này để trợ giúp tại hiện trường vụ án.”
“Thưa ngài, tôi phải phản đối. Tôi đã chuyển khỏi Đội Tuần tra. Ngày hôm nay. Tôi được chuyển vì lý do sức khỏe. Quyết định đó có hiệu lực cách đây một giờ.”
“Lý do sức khỏe?” Rhyme hỏi.
Cô ta chần chừ, rồi lại miễn cưỡng nhìn chân anh.
“Tôi bị viêm khớp.”
“Đúng thế à?” Rhyme hỏi.
“Viêm khớp mãn tính.”
“Tôi rất tiếc.”
Cô nhanh chóng tiếp tục: “Tôi nhận cuộc gọi sáng nay vì ai đó bị ốm phải nằm ở nhà. Tôi không định làm việc đó.”
“Đúng thế, được rồi. Tôi cũng có chương trình khác”, Lincoln Rhyme nói. “Giờ thì ta hãy nghiên cứu một số bằng chứng.”
Tác giả :
Jeffery Deaver