Kẻ Tầm Xương
Chương 3
Ông ta có cách hành xử bên giường bệnh tốt nhất mà Rhyme từng biết. Và nếu ai đó có kinh nghiệm về cách hành xử bên giường bệnh thì đó chính là Lincoln Rhyme. Anh đã thử tính một lần và thấy anh từng gặp bảy mươi tám bác sĩ có bằng cấp trong vòng ba năm rưỡi qua.
“Cảnh đẹp đấy chứ”, Berger nói, nhìn ra cửa sổ.
“Đúng không? Đẹp thật.”
Mặc dù do chiều cao của cái giường mà Rhyme chẳng hề nhìn thấy gì ngoài bầu trời mù sương phía trên Công viên Trung tâm. Nó – và những con chim – về cơ bản là những gì anh nhìn thấy từ khi chuyển từ bệnh viện phục hồi chức năng cuối cùng về đây khoảng hai năm rưỡi trước. Phần lớn thời gian anh buông rèm cửa.
Thom đang bận lật ông chủ của mình – công việc này giúp giữ sạch phổi – sau đó thông bàng quang cho Rhyme, điều này cần phải làm cách sáu, bảy giờ một lần. Sau chấn thương cột sống, cơ thắt có thể bị kẹt trong trạng thái mở hay trạng thái đóng. Rhyme may mắn vì cơ thắt của anh bị kẹt đóng – may mắn, với điều kiện có ai đó ở bên để mở chiếc ống nhỏ thiếu cộng tác đó bằng một cái que thông và kem K-Y bốn lần trong ngày.
Bác sĩ Berger quan sát quy trình này một cách chuyên nghiệp về phương diện lâm sàng và Rhyme không hề để ý tới vấn đề thiếu riêng tư. Một trong những việc làm đầu tiên mà một kẻ tàn phế cần phải vượt qua là sự e ngại. Khi mà việc che cơ thể lúc tắm rửa, di chuyển hay khám nghiệm được thực hiện với những nỗ lực nửa vời thì những kẻ tàn phế nghiêm trọng, thực sự tàn phế, rất tàn phế không quan tâm. Tại trung tâm phục hồi chức năng đầu tiên của Rhyme, sau khi một bệnh nhân đi dự tiệc hay đi hò hẹn đêm trước về, tất cả những người cùng phòng sẽ lăn xe tới giường anh ta để kiểm tra nước giải, đó là phong vũ biểu chỉ mức độ thành công của cuộc đi chơi. Một lần Rhyme đã chiếm được sự kính trọng mãi mãi của những người tàn tật ở cùng bệnh viện khi anh cho ra đến một nghìn bốn trăm ba mươi cc.
Anh nói với Berger: “Bác sĩ hãy nhìn rìa cửa mà xem. Tôi có thiên thần hộ mệnh của riêng mình.”
“Ồ, diều hâu à?”
“Chim ưng. Thường thì chúng làm tổ cao hơn. Tôi không hiểu vì sao chúng lại chọn sống cùng với tôi.”
Berger liếc nhìn những con chim rồi rời khỏi cửa sổ, lại hạ rèm xuống. Chim chóc không làm ông ta quan tâm. Ông ta không to lớn nhưng trông gọn gàng, một người tập chạy, Rhyme đoán thế. Ông ta trông khoảng gần năm mươi nhưng mái tóc đen chưa hề có sợi bạc và đẹp trai như một phát thanh viên truyền hình.
“Đúng là một cái giường.”
“Ông thích nó chứ?”
Cái giường của hãng Clinitron, một hình chữ nhật to tướng. Đó là một cái giường có đệm không khí – chất lỏng và có gần một tấn hạt bọc silicon. Không khí nén được thổi qua các hạt này và chúng đỡ cơ thể Rhyme. Nếu anh có thể có cảm giác, anh sẽ cảm thấy như mình đang trôi nổi.
Berger đang uống cà phê do Rhyme ra lệnh cho Thom đem đến. Anh ta đem nó lên, đảo mắt thì thầm trước khi mời: “Có phải chúng ta đang quá xã giao không vậy?”
Người bác sĩ hỏi Rhyme: “Anh đã từng là cảnh sát, có đúng anh nói với tôi thế không?”
“Đúng. Tôi là giám đốc giám định pháp y của NYPD[23].”
“Anh bị bắn à?”
“Không. Tìm kiếm trên hiện trường vụ án. Mấy người công nhân tìm thấy một xác chết tại công trường xây dựng ga tàu điện ngầm. Đấy là một cảnh sát tuần tra trẻ tuổi, bị mất tích sáu tháng trước – chúng tôi có một kẻ giết người hàng loạt chuyên bắn cảnh sát. Tôi được yêu cầu xử lý riêng vụ này và khi tôi đang tìm kiếm ở đó thì một thanh rầm sập xuống. Tôi bị vùi trong bốn giờ.”
“Thực sự là có ai đó lang thang tìm giết cảnh sát à?”
“Giết ba người và làm bị thương một người. Thủ phạm cũng là một cảnh sát. Dan Sherperd. Một trung úy trong Đội Tuần tra.”
Berger liếc nhìn vết sẹo hồng trên cổ Rhyme. Một dấu hiệu tiêu biểu của chứng liệt tứ chi – một vết cắt mờ đế đưa ống thông khí vào cổ họng và giữ ở đó vài tháng sau tai nạn. Đôi khi là vài năm, đôi khi là mãi mãi. Nhưng Rhyme – với bản chất ương bướng cùng với những nỗ lực hết mình của các bác sĩ trị liệu – đã có thể dứt bỏ được ống thông khí. Giờ thì anh có hai lá phổi mà anh cá là có thể giúp anh lặn dưới nước đến năm phút.
“Như vậy là chấn thương cổ.”
“C4.”
“À, vâng.”
C4 là khu phi quân sự của chấn thương cột sống. Một SCI[24] phía trên đốt sống cổ thứ tư có thể đã giết anh. Dưới đốt sống cổ thứ tư thì anh có thể hồi phục một phần bàn tay và cánh tay, nếu không nói là chân. Chấn thương đốt sống cổ thứ tư không mấy nổi tiếng giúp anh sống nhưng bị liệt hẳn tứ chi. Anh hoàn toàn không còn sử dụng được tay chân. Cơ ổ bụng và cơ liên sườn gần như mất hết khả năng và anh chủ yếu thở bằng cơ hoành. Anh có thể cử động đầu và cổ, nhúc nhích vai một chút. Sự may mắn duy nhất là chiếc rầm gỗ sồi rơi xuống đã bỏ qua một sợi thần kinh vận động độc nhất, nhỏ xíu. Điều đó cho phép anh động đậy ngón đeo nhẫn bên tay trái.
Rhyme đã không kể cho bác sĩ nghe về vở diễn của cuộc đời anh trong năm tiếp sau tai nạn đó. Một tháng nứt sọ: những chiếc kẹp kẹp những cái lỗ khoan vào đầu anh để kéo cột sống anh thẳng lại. Mười hai tuần dùng một thiết bị bao quanh đầu như vầng hào quang – một cái tạp dề nhựa và một giàn giáo thép bọc quanh đầu giữ cho cổ bất động. Để giúp phổi anh tiếp tục bơm không khí, một ống thông khí lớn được dùng trong suốt một năm, sau đó là một bộ kích thích dây thần kinh cơ hoành. Que thông. Phẫu thuật. Tắc ruột do liệt, những chỗ loét nội tạng, quá căng thẳng và làm giảm nhịp tim, nằm nhiều biến chứng thảnh lở nằm, co cứng cơ vì mô bắt đầu co lại và đe dọa lấy mất khả năng cử động quý báu của ngón tay, những cơn đau ảo khiến ta điên dại – cảm giác bỏng và đau ở đầu các chi vốn không còn cảm giác.
Tuy vậy anh đã nói với Berger về tiến triển mới nhất. “Mất phản xạ tự phát.”
Gần đây vấn đề này xảy ra ngày càng thường xuyên hơn. Tim đập mạnh, huyết áp quá cao, những cơn đau đầu dữ dội. Những thứ này có thể xuất hiện chỉ vì một nguyên nhân đơn giản như táo bón.
Chuyên gia SCI của Rhyme, bác sĩ Peter Taylor trở nên lo lắng về tần suất của những lần đột quỵ. Lần cuối cùng – khoảng một tháng trước – nguy hiểm tới mức Taylor đã phải hướng dẫn Thom xử lý tình huống mà không đợi cấp cứu đến và bắt người trợ lý phải nạp số điện thoại của bác sĩ vào danh mục quay số nhanh. Taylor đã cảnh báo rằng, điều đó đủ nguy hiểm và có thể dẫn đến trụy tim hay đột quỵ.
Berger lắng nghe với một chút thông cảm, sau đó nói: “Trước khi chuyển sang công việc này, tôi chuyên về tình hình lão khoa. Chủ yếu là công việc thay khớp và hông. Tôi không biết nhiều về thần kinh. Cơ hội hồi phục ra sao?”
“Bằng không, tình trạng này là vĩnh viễn”, Rhyme nói, có vẻ hơi vội vàng. Anh nói thêm: “Bác sĩ hiểu vấn đề của tôi, đúng không?”
“Tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi muốn nghe anh nói điều đó.”
Lắc đầu để tự dọn dẹp mấy sợi tóc nổi loạn, Rhyme nói: “Ai cũng có quyền tự sát.”
Berger đáp: “Tôi nghĩ tôi không đồng ý với điều này. Trong hầu hết các xã hội, có thể anh có quyền lực nhưng không có quyền. Khác nhau đấy.”
Rhyme cười cay đắng. “Tôi chẳng phải là nhà triết học. Nhưng tôi thậm chí cũng chẳng có quyền lực. Chính vì thế mà tôi cần đến bác sĩ.”
Lincoln Rhyme đã đề nghị bốn bác sĩ giết anh. Tất cả đều từ chối. Anh nói, cũng được, anh sẽ tự làm và đơn giản là không ăn nữa. Nhưng quá trình tự loại bỏ mình cho đến chết trở thành sự tra tấn thuần túy. Nó làm cho dạ dày anh đau dữ dội và tạo ra những cơn đau đầu khủng khiếp. Anh không thể ngủ được. Vậy là anh bỏ ý định và sau đó trong một cuộc nói chuyện kinh khủng, anh đã yêu cầu Thom giết mình. Chàng thanh niên gần phát khóc – lần đầu tiên cậu ta thể hiện nhiều tình cảm đến thế – và nói cậu ta ước gì mình có thể làm được. Cậu ta có thể ngồi nhìn Rhyme chết, cậu ta có thể từ chối không cứu sống anh. Nhưng cậu ta không thể giết anh được.
Thế rồi có một phép màu. Nếu có thể gọi như vậy.
Sau khi cuốn The Scenes of the Crime được xuất bản, phóng viên bắt đầu xuất hiện để phỏng vấn anh. Một bài báo – trên Thời báo New York – có đoạn trích dẫn cay độc dưới đây của tác giả Rhyme:
“Không, tôi không có dự định viết thêm cuốn sách nào nữa. Thực tế, dự án lớn tiếp theo của tôi sẽ là tìm cách tự sát. Đây thực sự là một thách thức. Tôi đã cố gắng tìm ai đó có thể giúp được tôi trong suốt sáu tháng qua.”
Dòng chữ chấn động này đã thu hút sự chú ý của dịch vụ tư vấn của NYPD và một số người trước đây đã biết Rhyme, nhất là Blaine (người đã nói với anh rằng anh là đồ điên khi tính đến điều đó, anh phải ngừng việc chỉ nghĩ về bản thân anh đi – giống như khi họ còn ở với nhau – và bây giờ, khi mà cô đã đến, cô nghĩ cô cần nói rằng, cô sắp tái hôn).
Trích dẫn này cũng thu hút sự chú ý của William Berger, người một đêm đột ngột gọi điện cho anh từ Seattle. Sau một vài phút trao đổi xã giao,Berger nói ông ta đã đọc bài báo về Rhyme. Sau một khoảng lặng trống rỗng, ông hỏi: “Anh đã bao giờ nghe nói đến Hội Bến mê chưa?”
Rhyme đã được nghe. Đó là một nhóm ủng hộ chết tự nguyện không đau đớn mà anh đã cố gắng theo đuổi trong nhiều tháng. Hội này nguy hiểm hơn rất nhiều so với Con đường An lạc hay Hội Độc cần[25]. “Những người tình nguyện của chúng tôi bị truy nã để thẩm vấn về hàng chục vụ tự tử có trợ giúp trên toàn quốc”, Berger giải thích. “Chúng tôi phải cố giữ bí mật.”
Ông ta nói ông ta muốn xem xét yêu cầu của Rhyme. Berger không đồng ý hành động nhanh chóng và họ đã có một vài cuộc trao đổi trong bảy hoặc tám tháng qua. Hôm nay là buổi gặp mặt đầu tiên của họ.
“Vậy là anh không có cách nào để tự mình vượt qua, phải không?”
Vượt qua…
“Nếu như kiểu của Gen Harrod thì không. Và cũng có phần không được chắc chắn lắm.”
Harrod là một thanh niên sống ở Boston, một người tàn tật, anh ta muốn tự tử. Không tìm được người giúp đỡ, cuối cùng anh ta quyết định tự làm bằng cách duy nhất mà anh ta có thể. Với một chút khả năng kiểm soát mà anh ta có, anh ta đốt căn hộ của mình, khi căn hộ cháy anh ta lái chiếc xe lăn vào trong đám cháy và tự thiêu. Anh ta chết vì bỏng độ ba.
Vụ này thường được những người ủng hộ quyền được chết đưa ra như ví dụ về thảm kịch mà luật chống quyền được chết không đau đớn có thể gây ra.
Berger cũng biết vụ này và lắc đầu thông cảm. “Không, như thế thì không ai muốn chết.” Ông ta phân tích cơ thể Rhyme, đám dây dẫn và bảng điều khiển. “Kỹ năng cơ học của anh ra sao?”
Rhyme giải thích về ECU – Bộ điều khiển E&J do ngón tay đeo nhẫn của anh vận hành, bộ điều khiển bằng cách hút và thổi cho miệng anh, những cái cần điều khiển bằng cằm, một máy tính đọc chính tả có thể đưa ra màn hình các từ anh đọc.
“Nhưng mọi thứ phải được người khác thiết lập cho anh, đúng không?” Berger hỏi. “Ví như ai đó phải đến cửa hàng, mua khẩu súng, giương lên, lên cò và nối nó vào bộ điều khiển của anh.”
“Đúng thế.”
Làm cho người đó cảm thấy có tội âm mưu giết người, cũng như ngộ sát.
“Thiết bị của anh thế nào?” Rhyme hỏi. “Hiệu quả không?”
“Thiết bị nào?”
“Anh dùng gì? Hừm, để làm việc đó ấy mà?”
“Rất hiệu quả. Tôi chưa bị bệnh nhân nào than phiền cả.”
Rhyme nháy mắt và Berger cười. Rhyme cười với ông ta. Nếu anh không thể cười vì cái chết thì anh còn cười vì điều gì được nữa?”
“Anh xem đi.”
“Anh đem nó theo à?” Hy vọng bừng lên trong tim Rhyme. Lần đầu tiên sau nhiều năm anh cảm nhận được cảm giác ấm áp đó.
Bác sĩ mở chiếc ca táp của ông ta ra – lấy ra một chai rượu mạnh, hành động của ông ta hơi mang vẻ nghi lễ. Một lọ thuốc nhỏ. Một chiếc túi nhựa và một băng cao su.
“Thuốc gì vậy?”
“Seconal. Không còn ai kê nữa. Ngày xưa tự tử dễ dàng hơn nhiều. Những em bé này chắc chắn sẽ làm tốt, không cần thắc mắc. Giờ đây thì không thể nào tự giết mình được với những thứ thuốc an thần hiện đại. Halcion, Librium, Dalmane, Xanax… Anh có thể sẽ ngủ rất lâu nhưng rồi cuối cùng thì anh cũng sẽ tỉnh lại.”
“Còn cái túi?”
“À, cái túi.” Berger nhặt nó lên. “Đây là biểu tượng của Hội Bến mê. Tất nhiên là phi chính thức – không giống như logo của chúng ta. Nếu thuốc và rượu mạnh chưa đủ, chúng ta sẽ dùng đến cái túi. Trùm lên đầu, buộc sợi dây cao su quanh cổ. Chúng tôi cho vào đó một ít đá vì sau mấy phút nó sẽ khá nóng.”
Rhyme không thể rời mắt khỏi bộ ba dụng cụ. Cái túi, sợi dây cao su dày như tấm tạp dề của thợ sơn. Chai rượu rẻ tiền và lọ thuốc là loại thông thường, anh nghĩ.
“Thật là một ngôi nhà đẹp”, Berger nhình quanh và nói. “Phía tây Công viên Trung tâm…. Anh có nhận trợ cấp tàn tật không?”
“Có một ít. Tôi còn tư vấn cho cảnh sát và FBI[26]. Sau tai nạn, công ty xây dựng đền bù cho tôi ba triệu đô la. Họ thề rằng họ không có trách nhiệm gì nhưng rõ ràng có một quy tắc luật pháp quy định rằng một người liệt toàn thân động thắng trong bất kỳ vụ kiện nào chống lại các công ty xây dựng, bất kể đó là lỗi của ai. Ít nhất nếu nguyên đơn đến tòa để bày trò.”
“Rồi anh viết cuốn sách đó, đúng không?”
“Tôi nhận được một ít tiền từ đó. Không nhiều. Đó là một cuốn ‘bán khá chạy’. Chưa phải là cuốn bán chạy nhất.”
Berger nhặt một cuốn The Scene of the Crime, lật qua. “The Scene of the Crime nổi tiếng. Nhìn này.” Ông ta cười. “Ở đây có đến bốn mươi, năm mươi hiện trường?”
“Năm mươi mốt.”
Rhyme nhớ lại – trong trí nhớ và trí tưởng tượng của anh, vì anh đã viết cuốn sách sau vụ tai nạn – tất cả các hiện trường vụ án xưa cũ của Thành phố New York mà anh có thể nhớ được. Một số vụ được giải quyết, một số không. Anh viết về Nhà máy Bia Cũ, một căn phòng khét tiếng tại Five Points, nơi mười ba vụ giết người không liên quan đến nhau đã xảy ra trong một đêm vào năm 1839. Viết về Charles Aubridge Deacon, người đã giết mẹ mình vào ngày Mười ba tháng Sáu năm 1863, trong một cuộc nổi loại chống quân dịch thời kỳ Nội chiến. Hắn đổ cho những người cựu nô lệ đã giết bà và gây ra một cơn thịnh nộ chống lại người da đen. Viết về vụ giết người vì cuộc tình tay ba của kiến trúc sư Stanford White bên trên Khu vườn Quảng trường Madison và về sự mất tích của Thẩm pháp Crater. Về George Metesky, kẻ đánh bom mất trí trong những năm 1950 và Murph Lướt sóng, kẻ ăn trộm viên kim cương Ngôi sao Ấn Độ.
“Vật liệu xây dựng thế kỷ XIX, những dòng chảy ngầm, trường đào tạo quản gia”, Berger trích dẫn, lật qua các trang sách, “nhà tắm đồng tính, nhà thổ khu Chinatown[27], nhà thờ Chính thống giáo Nga… Làm thế nào anh biết được tất cả những điều đó về thành phố?”
Rhyme nhún vai. Trong những năm lãnh đạo IRD, anh đã nghiên cứu rất nhiều về thành phố, nhiều như anh từng nghiên cứu về ngành pháp y. Lịch sử, chính trị, xã hội học, cơ sở hạ tầng của thành phố. Anh nói: “Các nhà hình sự học không tồn tại trong chân không. Anh càng biết nhiều về môi trường, anh càng ứng dụng tốt hơn…”
Vừa nghe thấy âm hưởng nhiệt tình trong giọng nói của mình, anh đột ngột dừng lại.
Tự giận dữ với bản thân vì đã bị mắc bẫy dễ như vậy.
“Làm hay lắm, bác sĩ Berger”, Rhyme nói đầy căng thẳng.
“Nào. Hãy gọi tôi là Bill. Làm ơn đi.”
Rhyme không có ý định trệch đường ray lần nữa. “Tôi nghe điều này nhiều lần rồi. Hãy lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn nhụi và viết ra tất cả những lý do vì sao tôi nên tự tử. Sau đó, lại lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn nhụi khác và viết ra tất cả lý do vì sao tôi không nên. Những từ như kiểu năng suất, hữu ích, thú vị, thách thức sẽ hiện trong đầu. Những từ đao to búa lớn. Những từ đáng giá cả mười đô la. Chúng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì với tôi cả. Ngoài ra, tôi cũng chẳng thể cầm được một cái bút chì của nợ lên để mà cứu rỗi tâm hồn mình.”
“Lincoln”, Berger mềm mỏng nói tiếp. “Tôi cần đảm bảo anh là ứng cử viên phù hợp cho chương trình.”
“Ứng cử viên? Chương trình? À, sự độc tài của học thuyết quyền được chết không đau đớn”, Rhyme cay đắng nói. “Này bác sĩ, tôi đã quyết định rồi. Tôi muốn làm việc này ngay hôm nay. Thực sự là ngay bây giờ.”
“Vì sao lại là hôm nay?”
Ánh mắt Rhyme trở lại với đám chai lọ và cái túi. Anh thì thầm: “Sao lại không? Hôm nay là ngày nào? Hai mươi ba tháng Tám? Cũng là một ngày tốt để chết như những ngày khác thôi mà.”
Ông bác sĩ mấp máy đôi môi mỏng. “Tôi phải có thời gian nói chuyện với anh, Lincoln. Nếu tôi được thuyết phục là anh thực sự quyết tâm tiến hành…”
“Tôi muốn”, Rhyme nói. Như mọi lần, anh nhận ra rằng ngôn từ của chúng ta yếu ớt đến đâu khi không có điệu bộ cơ thể hỗ trợ. Anh thực sự muốn đặt tay mình lên tay Berger hay nhấc bàn tay mình lên cầu xin.
Không cần xin phép, Berger lấy trong túi ra một gói Marlboros và cái bật lửa. Ông ta lấy chiếc gạt tàn kim loại gấp trong túi và mở nó ra. Bắt tréo đôi chân gầy guộc. Ông ta trông giống như một chàng công tử bột trong phòng hút thuốc của một trường đại học hàng đầu. “Lincoln, anh hiểu vấn đề của chúng ta ở đây, đúng không nào?”
Chắc chắn rồi, anh hiểu. Đó chính là lý do vì sao Berger đến đây và vì sao một trong những bác sĩ của Rhyme chưa “làm nhiệm vụ”. Đem một cái chết không thể tránh khỏi đến ngay lập tức là một chuyện; gần một phần ba số bác sĩ hành nghề điều trị cho những bệnh nhân không thể qua khỏi đã kê hoặc cho kê những đơn thuốc quá liều. Phần lớn các công tố viên làm ngơ trước điều đó, trừ khi chính bác sĩ tiết lộ – như trường hợp của Kevorkian.
Nhưng còn một người liệt tứ chi? Người bán thân bất toại? Người liệt toàn thân? Người tàn tật? Ồ, đó lại là chuyện khác. Lincoln Rhyme năm nay bốn mươi tuổi. Anh không còn phải dùng máy thở, nếu không vì một số gen ẩn nào đó trong dòng họ Rhyme thì không có lý do y học nào khiến anh không thể sống đến tám mươi tuổi.
Berger nói thêm: “Tôi xin phép được thô lỗ một chút, Lincoln. Tôi cần đảm bảo rằng đây không phải là một cái bẫy.”
“Một cái bẫy?”
“Các công tố viên. Trước đây tôi cũng đã từng mắc bẫy.”
Rhyme cười. “Chưởng lý New York là một người bận bịu. Ông ta sẽ không mất công nghe trộm một người tàn tật đang tìm cho mình một người ủng hộ quyền được chết không đau đớn đâu.”
Liếc nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án.
… cách nạn nhân khoảng mười feet về phía tây nam, tìm thấy vài thứ trên một đống cát trắng: một cuộn sợi đường kính khoảng sáu cm, bắt đầu phai màu. Sợi đã được phân tích trong máy X-quang tán xạ năng lượng và cho thấy có chứa A2 B5 (Si, Al)8 O22 (OH)2. Không tìm thấy nguồn, không phân biệt được sợi. Mẫu đã đuợc gửi tới văn phòng PERT[28] của FBI để phân tích.
“Tôi phải thận trọng”, Berger nói tiếp. “Việc này là cả sự nghiệp của tôi. Tôi đã hoàn toàn từ bỏ ngành lão khoa. Nói chung, đó không chỉ là công việc. Tôi quyết định dành cuộc đời mình để giúp người khác chấm dứt cuộc đời họ.”
Bên cạnh cuộn sợi còn tìm thấy hai mẩu giấy cách đó khoảng ba inch[29]. Một mẩu là loại giấy báo bình thường, trên đó có mấy từ “3:00 PM” in với phông chữ Times Roman bằng loại mực in báo thương mại thông thường. Mẩu giấy kia có vẻ như là góc của một trang sách trên đó có in số trang “823”. Phông chữ Garamond và được ghi ngày. Phân tích ALS[30] và phân tích ninhydrin[31] tiếp theo không cho thấy dấu vết in hằn trên mặt giấy. Không thể phân loại được.
Có vài điều hối thúc Rhyme. Thứ nhất là cuộn sợi. Vì sao Peretti lại không biết được ngay đó là gì nhỉ? Cái đó thật rõ ràng. Và vì sao những vật chứng này – những mẩu giấy và cuộn sợi – lại nằm cạnh nhau? Ở đây có gì đó không ổn.
“Lincoln?”
“Tôi xin lỗi.”
“Tôi đang nói là… Anh không phải nạn nhân bỏng đang chịu cơn đau không thể chịu đựng nổi. Anh không phải là người vô gia cư. Anh có tiền, anh có tài năng. Việc tư vấn cho cảnh sát của anh… việc đó giúp được rất nhiều người. Nếu anh muốn, anh có thể có… một cuộc sống hữu ích phía trước. Một cuộc đời dài.”
“Dài, đúng. Thế mới là vấn đề. Một cuộc đời dài.” Anh cảm thấy mệt vì phải tỏ ra có thái độ cư xử tốt. Anh nói: “Nhưng tôi không muốn một cuộc đời dài. Đơn giản thế thôi.”
Berger chậm rãi nói: “Nếu có bất kỳ một cơ hội nhỏ nhất nào mà anh lại tiếc nuối về quyết định của mình, thì, xem nào, tôi là người phải sống với nó. Không phải anh.”
“Ai mà có thể chắc chắn về một điều gì đó tương tự được?”
Ánh mắt anh lại quay về với bản báo cáo.
Tìm thấy được một con ốc kim loại bên trên các mẩu giấy. Đó là một con ốc hình lục lăng, trên đầu có đóng các chữ “CE”. Dài hai inch, xoắn theo chiều kim đồng hồ, đường kính 15/16 inch.
“Mấy ngày tới tôi bận”, Berger nhìn đồng hồ nói. Đó là một chiếc Rolex. Hừm, cái chết luôn sinh lời. “Giờ thì chúng ta có khoảng một tiếng. Hãy nói chuyện một lúc, sau đó anh có một ngày nghỉ ngơi và tôi sẽ quay lại.”
Điều gì đó hối thúc Rhyme. Một cơn ngứa điên người – lời nguyền của tất cả những người liệt tứ chi – mặc dù trường hợp này là một cơn ngứa trí tuệ. Kiểu ngứa ngáy ám ảnh cả cuộc đời anh.
“Này bác sĩ, làm ơn giúp tôi một chút, được không? Bản báo cáo ở kia. Anh có thể lật qua nó, được không? Tìm cho tôi bức hình của một con ốc.”
Berger ngần ngại. “Một bức hình?”
“Một bức hình Palaroid chụp lấy ngay. Nó phải được gắn đâu đó ở cuối. Cái khung lật trang này chậm quá.’
Berger nhấc bản báo cáo ra khỏi cái khung và lật trang giúp Rhyme.
“Ở đó. Dừng.”
Anh nhìn vào bức hình và một cảm giác khẩn cấp khó chịu chiếm lấy anh. Ôi, không phải ở đây, không phải lúc này. Làm ơn đi, không.
“Tôi xin lỗi, anh có thể lật lại trang lúc nãy được không?”
Berger lật lại.
Rhyme không nói gì, chăm chú đọc.
Những mẩu giấy…
3:00 PM… trang 823
Tim Rhyme đập mạnh, đổ mồ hôi trán. Anh nghe tiếng ù ù trong tai.
Đây là một tiêu đề bài báo trong một tờ báo khổ nhỏ. MỘT NGƯỜI CHẾT KHI NÓI CHUYỆN VỚI BÁC SĨ TỬ THẦN…
Berger chớp mắt. “Lincoln? Anh ổn chứ?” Đôi mắt từng trải của người đàn ông quan sát Rhyme thật kỹ lưỡng.
Cố gắng tỏ ra bình thường nhất có thể, Rhyme nói: “Tôi hiểu, bác sĩ, tôi xin lỗi. Nhưng tôi cần làm mấy việc.”
Berger chậm rãi gật đầu, không chắc chắn lắm. “Cuối cùng thì vụ này không được ổn lắm, phải không?”
Cười. Lãnh đạm. “Tôi băn khoăn không biết có thể yêu cầu ông quay lại đây sau vài giờ nữa đươc không?”
Cẩn thận. Nếu ông ta cảm nhận được mục đích, ông ta sẽ coi anh là loại không muốn tự sát, lấy lại đám chai lọ và cái túi nhựa của ông ta rồi bay về xứ Starbucks.
Mở cuốn sổ hẹn ra, Berger nói: “Ngày hôm nay không được. Ngày mai… Không. Tôi sợ rằng sớm nhất là thứ Hai. Ngày kia.”
Rhyme ngần ngừ. Chúa ơi… Sự mong chờ cuối cùng đã gần như nằm trong tay anh, điều mà anh mơ tới hằng ngày trong mấy năm qua. Có hay không?
Quyết định.
Cuối cùng, Rhyme nghe thấy mình nói: “Được. Thứ hai.” Cố nặn ra một nụ cười vô vọng.
“Chính xác thì vấn đề là gì?”
“Một người cùng làm với tôi trước kia. Anh ta muốn có lời khuyên của tôi. Tôi chưa thực sự quan tâm tới điều đó, như tôi cần phải làm. Tôi phải gọi cho anh ta.”
Không, đó chẳng phải là liệt phản xạ, đó là một cơn lo lắng.
Lincoln Rhyme cảm thấy điều gì đó mà lâu lắm anh chưa hề cảm thấy. Anh đang cực kỳ vội vàng.
“Ông có thể gọi Thom lên đây được không? Tôi nghĩ cậu ta ở dưới nhà, trong bếp.”
“Vâng, tất nhiên rồi. Rất vui lòng.”
Rhyme có thể nhìn thấy điều gì đó khác thường trong mắt Berger. Cái gì vậy? Có thể. Gần như là sự thất vọng. Khi tiếng chân người bác sĩ nhỏ dần dưới cầu thang, Rhyme hét lên với chất giọng trầm như bom nổ: “Thom? Thom!”
“Gì vậy?” Giọng người thanh niên trả lời.
“Gọi cho Lon. Bảo anh ta quay lại đây. Ngay bây giờ.”
Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Đã quá trưa. Họ chỉ còn chưa đầy ba giờ nữa.
“Cảnh đẹp đấy chứ”, Berger nói, nhìn ra cửa sổ.
“Đúng không? Đẹp thật.”
Mặc dù do chiều cao của cái giường mà Rhyme chẳng hề nhìn thấy gì ngoài bầu trời mù sương phía trên Công viên Trung tâm. Nó – và những con chim – về cơ bản là những gì anh nhìn thấy từ khi chuyển từ bệnh viện phục hồi chức năng cuối cùng về đây khoảng hai năm rưỡi trước. Phần lớn thời gian anh buông rèm cửa.
Thom đang bận lật ông chủ của mình – công việc này giúp giữ sạch phổi – sau đó thông bàng quang cho Rhyme, điều này cần phải làm cách sáu, bảy giờ một lần. Sau chấn thương cột sống, cơ thắt có thể bị kẹt trong trạng thái mở hay trạng thái đóng. Rhyme may mắn vì cơ thắt của anh bị kẹt đóng – may mắn, với điều kiện có ai đó ở bên để mở chiếc ống nhỏ thiếu cộng tác đó bằng một cái que thông và kem K-Y bốn lần trong ngày.
Bác sĩ Berger quan sát quy trình này một cách chuyên nghiệp về phương diện lâm sàng và Rhyme không hề để ý tới vấn đề thiếu riêng tư. Một trong những việc làm đầu tiên mà một kẻ tàn phế cần phải vượt qua là sự e ngại. Khi mà việc che cơ thể lúc tắm rửa, di chuyển hay khám nghiệm được thực hiện với những nỗ lực nửa vời thì những kẻ tàn phế nghiêm trọng, thực sự tàn phế, rất tàn phế không quan tâm. Tại trung tâm phục hồi chức năng đầu tiên của Rhyme, sau khi một bệnh nhân đi dự tiệc hay đi hò hẹn đêm trước về, tất cả những người cùng phòng sẽ lăn xe tới giường anh ta để kiểm tra nước giải, đó là phong vũ biểu chỉ mức độ thành công của cuộc đi chơi. Một lần Rhyme đã chiếm được sự kính trọng mãi mãi của những người tàn tật ở cùng bệnh viện khi anh cho ra đến một nghìn bốn trăm ba mươi cc.
Anh nói với Berger: “Bác sĩ hãy nhìn rìa cửa mà xem. Tôi có thiên thần hộ mệnh của riêng mình.”
“Ồ, diều hâu à?”
“Chim ưng. Thường thì chúng làm tổ cao hơn. Tôi không hiểu vì sao chúng lại chọn sống cùng với tôi.”
Berger liếc nhìn những con chim rồi rời khỏi cửa sổ, lại hạ rèm xuống. Chim chóc không làm ông ta quan tâm. Ông ta không to lớn nhưng trông gọn gàng, một người tập chạy, Rhyme đoán thế. Ông ta trông khoảng gần năm mươi nhưng mái tóc đen chưa hề có sợi bạc và đẹp trai như một phát thanh viên truyền hình.
“Đúng là một cái giường.”
“Ông thích nó chứ?”
Cái giường của hãng Clinitron, một hình chữ nhật to tướng. Đó là một cái giường có đệm không khí – chất lỏng và có gần một tấn hạt bọc silicon. Không khí nén được thổi qua các hạt này và chúng đỡ cơ thể Rhyme. Nếu anh có thể có cảm giác, anh sẽ cảm thấy như mình đang trôi nổi.
Berger đang uống cà phê do Rhyme ra lệnh cho Thom đem đến. Anh ta đem nó lên, đảo mắt thì thầm trước khi mời: “Có phải chúng ta đang quá xã giao không vậy?”
Người bác sĩ hỏi Rhyme: “Anh đã từng là cảnh sát, có đúng anh nói với tôi thế không?”
“Đúng. Tôi là giám đốc giám định pháp y của NYPD[23].”
“Anh bị bắn à?”
“Không. Tìm kiếm trên hiện trường vụ án. Mấy người công nhân tìm thấy một xác chết tại công trường xây dựng ga tàu điện ngầm. Đấy là một cảnh sát tuần tra trẻ tuổi, bị mất tích sáu tháng trước – chúng tôi có một kẻ giết người hàng loạt chuyên bắn cảnh sát. Tôi được yêu cầu xử lý riêng vụ này và khi tôi đang tìm kiếm ở đó thì một thanh rầm sập xuống. Tôi bị vùi trong bốn giờ.”
“Thực sự là có ai đó lang thang tìm giết cảnh sát à?”
“Giết ba người và làm bị thương một người. Thủ phạm cũng là một cảnh sát. Dan Sherperd. Một trung úy trong Đội Tuần tra.”
Berger liếc nhìn vết sẹo hồng trên cổ Rhyme. Một dấu hiệu tiêu biểu của chứng liệt tứ chi – một vết cắt mờ đế đưa ống thông khí vào cổ họng và giữ ở đó vài tháng sau tai nạn. Đôi khi là vài năm, đôi khi là mãi mãi. Nhưng Rhyme – với bản chất ương bướng cùng với những nỗ lực hết mình của các bác sĩ trị liệu – đã có thể dứt bỏ được ống thông khí. Giờ thì anh có hai lá phổi mà anh cá là có thể giúp anh lặn dưới nước đến năm phút.
“Như vậy là chấn thương cổ.”
“C4.”
“À, vâng.”
C4 là khu phi quân sự của chấn thương cột sống. Một SCI[24] phía trên đốt sống cổ thứ tư có thể đã giết anh. Dưới đốt sống cổ thứ tư thì anh có thể hồi phục một phần bàn tay và cánh tay, nếu không nói là chân. Chấn thương đốt sống cổ thứ tư không mấy nổi tiếng giúp anh sống nhưng bị liệt hẳn tứ chi. Anh hoàn toàn không còn sử dụng được tay chân. Cơ ổ bụng và cơ liên sườn gần như mất hết khả năng và anh chủ yếu thở bằng cơ hoành. Anh có thể cử động đầu và cổ, nhúc nhích vai một chút. Sự may mắn duy nhất là chiếc rầm gỗ sồi rơi xuống đã bỏ qua một sợi thần kinh vận động độc nhất, nhỏ xíu. Điều đó cho phép anh động đậy ngón đeo nhẫn bên tay trái.
Rhyme đã không kể cho bác sĩ nghe về vở diễn của cuộc đời anh trong năm tiếp sau tai nạn đó. Một tháng nứt sọ: những chiếc kẹp kẹp những cái lỗ khoan vào đầu anh để kéo cột sống anh thẳng lại. Mười hai tuần dùng một thiết bị bao quanh đầu như vầng hào quang – một cái tạp dề nhựa và một giàn giáo thép bọc quanh đầu giữ cho cổ bất động. Để giúp phổi anh tiếp tục bơm không khí, một ống thông khí lớn được dùng trong suốt một năm, sau đó là một bộ kích thích dây thần kinh cơ hoành. Que thông. Phẫu thuật. Tắc ruột do liệt, những chỗ loét nội tạng, quá căng thẳng và làm giảm nhịp tim, nằm nhiều biến chứng thảnh lở nằm, co cứng cơ vì mô bắt đầu co lại và đe dọa lấy mất khả năng cử động quý báu của ngón tay, những cơn đau ảo khiến ta điên dại – cảm giác bỏng và đau ở đầu các chi vốn không còn cảm giác.
Tuy vậy anh đã nói với Berger về tiến triển mới nhất. “Mất phản xạ tự phát.”
Gần đây vấn đề này xảy ra ngày càng thường xuyên hơn. Tim đập mạnh, huyết áp quá cao, những cơn đau đầu dữ dội. Những thứ này có thể xuất hiện chỉ vì một nguyên nhân đơn giản như táo bón.
Chuyên gia SCI của Rhyme, bác sĩ Peter Taylor trở nên lo lắng về tần suất của những lần đột quỵ. Lần cuối cùng – khoảng một tháng trước – nguy hiểm tới mức Taylor đã phải hướng dẫn Thom xử lý tình huống mà không đợi cấp cứu đến và bắt người trợ lý phải nạp số điện thoại của bác sĩ vào danh mục quay số nhanh. Taylor đã cảnh báo rằng, điều đó đủ nguy hiểm và có thể dẫn đến trụy tim hay đột quỵ.
Berger lắng nghe với một chút thông cảm, sau đó nói: “Trước khi chuyển sang công việc này, tôi chuyên về tình hình lão khoa. Chủ yếu là công việc thay khớp và hông. Tôi không biết nhiều về thần kinh. Cơ hội hồi phục ra sao?”
“Bằng không, tình trạng này là vĩnh viễn”, Rhyme nói, có vẻ hơi vội vàng. Anh nói thêm: “Bác sĩ hiểu vấn đề của tôi, đúng không?”
“Tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi muốn nghe anh nói điều đó.”
Lắc đầu để tự dọn dẹp mấy sợi tóc nổi loạn, Rhyme nói: “Ai cũng có quyền tự sát.”
Berger đáp: “Tôi nghĩ tôi không đồng ý với điều này. Trong hầu hết các xã hội, có thể anh có quyền lực nhưng không có quyền. Khác nhau đấy.”
Rhyme cười cay đắng. “Tôi chẳng phải là nhà triết học. Nhưng tôi thậm chí cũng chẳng có quyền lực. Chính vì thế mà tôi cần đến bác sĩ.”
Lincoln Rhyme đã đề nghị bốn bác sĩ giết anh. Tất cả đều từ chối. Anh nói, cũng được, anh sẽ tự làm và đơn giản là không ăn nữa. Nhưng quá trình tự loại bỏ mình cho đến chết trở thành sự tra tấn thuần túy. Nó làm cho dạ dày anh đau dữ dội và tạo ra những cơn đau đầu khủng khiếp. Anh không thể ngủ được. Vậy là anh bỏ ý định và sau đó trong một cuộc nói chuyện kinh khủng, anh đã yêu cầu Thom giết mình. Chàng thanh niên gần phát khóc – lần đầu tiên cậu ta thể hiện nhiều tình cảm đến thế – và nói cậu ta ước gì mình có thể làm được. Cậu ta có thể ngồi nhìn Rhyme chết, cậu ta có thể từ chối không cứu sống anh. Nhưng cậu ta không thể giết anh được.
Thế rồi có một phép màu. Nếu có thể gọi như vậy.
Sau khi cuốn The Scenes of the Crime được xuất bản, phóng viên bắt đầu xuất hiện để phỏng vấn anh. Một bài báo – trên Thời báo New York – có đoạn trích dẫn cay độc dưới đây của tác giả Rhyme:
“Không, tôi không có dự định viết thêm cuốn sách nào nữa. Thực tế, dự án lớn tiếp theo của tôi sẽ là tìm cách tự sát. Đây thực sự là một thách thức. Tôi đã cố gắng tìm ai đó có thể giúp được tôi trong suốt sáu tháng qua.”
Dòng chữ chấn động này đã thu hút sự chú ý của dịch vụ tư vấn của NYPD và một số người trước đây đã biết Rhyme, nhất là Blaine (người đã nói với anh rằng anh là đồ điên khi tính đến điều đó, anh phải ngừng việc chỉ nghĩ về bản thân anh đi – giống như khi họ còn ở với nhau – và bây giờ, khi mà cô đã đến, cô nghĩ cô cần nói rằng, cô sắp tái hôn).
Trích dẫn này cũng thu hút sự chú ý của William Berger, người một đêm đột ngột gọi điện cho anh từ Seattle. Sau một vài phút trao đổi xã giao,Berger nói ông ta đã đọc bài báo về Rhyme. Sau một khoảng lặng trống rỗng, ông hỏi: “Anh đã bao giờ nghe nói đến Hội Bến mê chưa?”
Rhyme đã được nghe. Đó là một nhóm ủng hộ chết tự nguyện không đau đớn mà anh đã cố gắng theo đuổi trong nhiều tháng. Hội này nguy hiểm hơn rất nhiều so với Con đường An lạc hay Hội Độc cần[25]. “Những người tình nguyện của chúng tôi bị truy nã để thẩm vấn về hàng chục vụ tự tử có trợ giúp trên toàn quốc”, Berger giải thích. “Chúng tôi phải cố giữ bí mật.”
Ông ta nói ông ta muốn xem xét yêu cầu của Rhyme. Berger không đồng ý hành động nhanh chóng và họ đã có một vài cuộc trao đổi trong bảy hoặc tám tháng qua. Hôm nay là buổi gặp mặt đầu tiên của họ.
“Vậy là anh không có cách nào để tự mình vượt qua, phải không?”
Vượt qua…
“Nếu như kiểu của Gen Harrod thì không. Và cũng có phần không được chắc chắn lắm.”
Harrod là một thanh niên sống ở Boston, một người tàn tật, anh ta muốn tự tử. Không tìm được người giúp đỡ, cuối cùng anh ta quyết định tự làm bằng cách duy nhất mà anh ta có thể. Với một chút khả năng kiểm soát mà anh ta có, anh ta đốt căn hộ của mình, khi căn hộ cháy anh ta lái chiếc xe lăn vào trong đám cháy và tự thiêu. Anh ta chết vì bỏng độ ba.
Vụ này thường được những người ủng hộ quyền được chết đưa ra như ví dụ về thảm kịch mà luật chống quyền được chết không đau đớn có thể gây ra.
Berger cũng biết vụ này và lắc đầu thông cảm. “Không, như thế thì không ai muốn chết.” Ông ta phân tích cơ thể Rhyme, đám dây dẫn và bảng điều khiển. “Kỹ năng cơ học của anh ra sao?”
Rhyme giải thích về ECU – Bộ điều khiển E&J do ngón tay đeo nhẫn của anh vận hành, bộ điều khiển bằng cách hút và thổi cho miệng anh, những cái cần điều khiển bằng cằm, một máy tính đọc chính tả có thể đưa ra màn hình các từ anh đọc.
“Nhưng mọi thứ phải được người khác thiết lập cho anh, đúng không?” Berger hỏi. “Ví như ai đó phải đến cửa hàng, mua khẩu súng, giương lên, lên cò và nối nó vào bộ điều khiển của anh.”
“Đúng thế.”
Làm cho người đó cảm thấy có tội âm mưu giết người, cũng như ngộ sát.
“Thiết bị của anh thế nào?” Rhyme hỏi. “Hiệu quả không?”
“Thiết bị nào?”
“Anh dùng gì? Hừm, để làm việc đó ấy mà?”
“Rất hiệu quả. Tôi chưa bị bệnh nhân nào than phiền cả.”
Rhyme nháy mắt và Berger cười. Rhyme cười với ông ta. Nếu anh không thể cười vì cái chết thì anh còn cười vì điều gì được nữa?”
“Anh xem đi.”
“Anh đem nó theo à?” Hy vọng bừng lên trong tim Rhyme. Lần đầu tiên sau nhiều năm anh cảm nhận được cảm giác ấm áp đó.
Bác sĩ mở chiếc ca táp của ông ta ra – lấy ra một chai rượu mạnh, hành động của ông ta hơi mang vẻ nghi lễ. Một lọ thuốc nhỏ. Một chiếc túi nhựa và một băng cao su.
“Thuốc gì vậy?”
“Seconal. Không còn ai kê nữa. Ngày xưa tự tử dễ dàng hơn nhiều. Những em bé này chắc chắn sẽ làm tốt, không cần thắc mắc. Giờ đây thì không thể nào tự giết mình được với những thứ thuốc an thần hiện đại. Halcion, Librium, Dalmane, Xanax… Anh có thể sẽ ngủ rất lâu nhưng rồi cuối cùng thì anh cũng sẽ tỉnh lại.”
“Còn cái túi?”
“À, cái túi.” Berger nhặt nó lên. “Đây là biểu tượng của Hội Bến mê. Tất nhiên là phi chính thức – không giống như logo của chúng ta. Nếu thuốc và rượu mạnh chưa đủ, chúng ta sẽ dùng đến cái túi. Trùm lên đầu, buộc sợi dây cao su quanh cổ. Chúng tôi cho vào đó một ít đá vì sau mấy phút nó sẽ khá nóng.”
Rhyme không thể rời mắt khỏi bộ ba dụng cụ. Cái túi, sợi dây cao su dày như tấm tạp dề của thợ sơn. Chai rượu rẻ tiền và lọ thuốc là loại thông thường, anh nghĩ.
“Thật là một ngôi nhà đẹp”, Berger nhình quanh và nói. “Phía tây Công viên Trung tâm…. Anh có nhận trợ cấp tàn tật không?”
“Có một ít. Tôi còn tư vấn cho cảnh sát và FBI[26]. Sau tai nạn, công ty xây dựng đền bù cho tôi ba triệu đô la. Họ thề rằng họ không có trách nhiệm gì nhưng rõ ràng có một quy tắc luật pháp quy định rằng một người liệt toàn thân động thắng trong bất kỳ vụ kiện nào chống lại các công ty xây dựng, bất kể đó là lỗi của ai. Ít nhất nếu nguyên đơn đến tòa để bày trò.”
“Rồi anh viết cuốn sách đó, đúng không?”
“Tôi nhận được một ít tiền từ đó. Không nhiều. Đó là một cuốn ‘bán khá chạy’. Chưa phải là cuốn bán chạy nhất.”
Berger nhặt một cuốn The Scene of the Crime, lật qua. “The Scene of the Crime nổi tiếng. Nhìn này.” Ông ta cười. “Ở đây có đến bốn mươi, năm mươi hiện trường?”
“Năm mươi mốt.”
Rhyme nhớ lại – trong trí nhớ và trí tưởng tượng của anh, vì anh đã viết cuốn sách sau vụ tai nạn – tất cả các hiện trường vụ án xưa cũ của Thành phố New York mà anh có thể nhớ được. Một số vụ được giải quyết, một số không. Anh viết về Nhà máy Bia Cũ, một căn phòng khét tiếng tại Five Points, nơi mười ba vụ giết người không liên quan đến nhau đã xảy ra trong một đêm vào năm 1839. Viết về Charles Aubridge Deacon, người đã giết mẹ mình vào ngày Mười ba tháng Sáu năm 1863, trong một cuộc nổi loại chống quân dịch thời kỳ Nội chiến. Hắn đổ cho những người cựu nô lệ đã giết bà và gây ra một cơn thịnh nộ chống lại người da đen. Viết về vụ giết người vì cuộc tình tay ba của kiến trúc sư Stanford White bên trên Khu vườn Quảng trường Madison và về sự mất tích của Thẩm pháp Crater. Về George Metesky, kẻ đánh bom mất trí trong những năm 1950 và Murph Lướt sóng, kẻ ăn trộm viên kim cương Ngôi sao Ấn Độ.
“Vật liệu xây dựng thế kỷ XIX, những dòng chảy ngầm, trường đào tạo quản gia”, Berger trích dẫn, lật qua các trang sách, “nhà tắm đồng tính, nhà thổ khu Chinatown[27], nhà thờ Chính thống giáo Nga… Làm thế nào anh biết được tất cả những điều đó về thành phố?”
Rhyme nhún vai. Trong những năm lãnh đạo IRD, anh đã nghiên cứu rất nhiều về thành phố, nhiều như anh từng nghiên cứu về ngành pháp y. Lịch sử, chính trị, xã hội học, cơ sở hạ tầng của thành phố. Anh nói: “Các nhà hình sự học không tồn tại trong chân không. Anh càng biết nhiều về môi trường, anh càng ứng dụng tốt hơn…”
Vừa nghe thấy âm hưởng nhiệt tình trong giọng nói của mình, anh đột ngột dừng lại.
Tự giận dữ với bản thân vì đã bị mắc bẫy dễ như vậy.
“Làm hay lắm, bác sĩ Berger”, Rhyme nói đầy căng thẳng.
“Nào. Hãy gọi tôi là Bill. Làm ơn đi.”
Rhyme không có ý định trệch đường ray lần nữa. “Tôi nghe điều này nhiều lần rồi. Hãy lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn nhụi và viết ra tất cả những lý do vì sao tôi nên tự tử. Sau đó, lại lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn nhụi khác và viết ra tất cả lý do vì sao tôi không nên. Những từ như kiểu năng suất, hữu ích, thú vị, thách thức sẽ hiện trong đầu. Những từ đao to búa lớn. Những từ đáng giá cả mười đô la. Chúng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì với tôi cả. Ngoài ra, tôi cũng chẳng thể cầm được một cái bút chì của nợ lên để mà cứu rỗi tâm hồn mình.”
“Lincoln”, Berger mềm mỏng nói tiếp. “Tôi cần đảm bảo anh là ứng cử viên phù hợp cho chương trình.”
“Ứng cử viên? Chương trình? À, sự độc tài của học thuyết quyền được chết không đau đớn”, Rhyme cay đắng nói. “Này bác sĩ, tôi đã quyết định rồi. Tôi muốn làm việc này ngay hôm nay. Thực sự là ngay bây giờ.”
“Vì sao lại là hôm nay?”
Ánh mắt Rhyme trở lại với đám chai lọ và cái túi. Anh thì thầm: “Sao lại không? Hôm nay là ngày nào? Hai mươi ba tháng Tám? Cũng là một ngày tốt để chết như những ngày khác thôi mà.”
Ông bác sĩ mấp máy đôi môi mỏng. “Tôi phải có thời gian nói chuyện với anh, Lincoln. Nếu tôi được thuyết phục là anh thực sự quyết tâm tiến hành…”
“Tôi muốn”, Rhyme nói. Như mọi lần, anh nhận ra rằng ngôn từ của chúng ta yếu ớt đến đâu khi không có điệu bộ cơ thể hỗ trợ. Anh thực sự muốn đặt tay mình lên tay Berger hay nhấc bàn tay mình lên cầu xin.
Không cần xin phép, Berger lấy trong túi ra một gói Marlboros và cái bật lửa. Ông ta lấy chiếc gạt tàn kim loại gấp trong túi và mở nó ra. Bắt tréo đôi chân gầy guộc. Ông ta trông giống như một chàng công tử bột trong phòng hút thuốc của một trường đại học hàng đầu. “Lincoln, anh hiểu vấn đề của chúng ta ở đây, đúng không nào?”
Chắc chắn rồi, anh hiểu. Đó chính là lý do vì sao Berger đến đây và vì sao một trong những bác sĩ của Rhyme chưa “làm nhiệm vụ”. Đem một cái chết không thể tránh khỏi đến ngay lập tức là một chuyện; gần một phần ba số bác sĩ hành nghề điều trị cho những bệnh nhân không thể qua khỏi đã kê hoặc cho kê những đơn thuốc quá liều. Phần lớn các công tố viên làm ngơ trước điều đó, trừ khi chính bác sĩ tiết lộ – như trường hợp của Kevorkian.
Nhưng còn một người liệt tứ chi? Người bán thân bất toại? Người liệt toàn thân? Người tàn tật? Ồ, đó lại là chuyện khác. Lincoln Rhyme năm nay bốn mươi tuổi. Anh không còn phải dùng máy thở, nếu không vì một số gen ẩn nào đó trong dòng họ Rhyme thì không có lý do y học nào khiến anh không thể sống đến tám mươi tuổi.
Berger nói thêm: “Tôi xin phép được thô lỗ một chút, Lincoln. Tôi cần đảm bảo rằng đây không phải là một cái bẫy.”
“Một cái bẫy?”
“Các công tố viên. Trước đây tôi cũng đã từng mắc bẫy.”
Rhyme cười. “Chưởng lý New York là một người bận bịu. Ông ta sẽ không mất công nghe trộm một người tàn tật đang tìm cho mình một người ủng hộ quyền được chết không đau đớn đâu.”
Liếc nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án.
… cách nạn nhân khoảng mười feet về phía tây nam, tìm thấy vài thứ trên một đống cát trắng: một cuộn sợi đường kính khoảng sáu cm, bắt đầu phai màu. Sợi đã được phân tích trong máy X-quang tán xạ năng lượng và cho thấy có chứa A2 B5 (Si, Al)8 O22 (OH)2. Không tìm thấy nguồn, không phân biệt được sợi. Mẫu đã đuợc gửi tới văn phòng PERT[28] của FBI để phân tích.
“Tôi phải thận trọng”, Berger nói tiếp. “Việc này là cả sự nghiệp của tôi. Tôi đã hoàn toàn từ bỏ ngành lão khoa. Nói chung, đó không chỉ là công việc. Tôi quyết định dành cuộc đời mình để giúp người khác chấm dứt cuộc đời họ.”
Bên cạnh cuộn sợi còn tìm thấy hai mẩu giấy cách đó khoảng ba inch[29]. Một mẩu là loại giấy báo bình thường, trên đó có mấy từ “3:00 PM” in với phông chữ Times Roman bằng loại mực in báo thương mại thông thường. Mẩu giấy kia có vẻ như là góc của một trang sách trên đó có in số trang “823”. Phông chữ Garamond và được ghi ngày. Phân tích ALS[30] và phân tích ninhydrin[31] tiếp theo không cho thấy dấu vết in hằn trên mặt giấy. Không thể phân loại được.
Có vài điều hối thúc Rhyme. Thứ nhất là cuộn sợi. Vì sao Peretti lại không biết được ngay đó là gì nhỉ? Cái đó thật rõ ràng. Và vì sao những vật chứng này – những mẩu giấy và cuộn sợi – lại nằm cạnh nhau? Ở đây có gì đó không ổn.
“Lincoln?”
“Tôi xin lỗi.”
“Tôi đang nói là… Anh không phải nạn nhân bỏng đang chịu cơn đau không thể chịu đựng nổi. Anh không phải là người vô gia cư. Anh có tiền, anh có tài năng. Việc tư vấn cho cảnh sát của anh… việc đó giúp được rất nhiều người. Nếu anh muốn, anh có thể có… một cuộc sống hữu ích phía trước. Một cuộc đời dài.”
“Dài, đúng. Thế mới là vấn đề. Một cuộc đời dài.” Anh cảm thấy mệt vì phải tỏ ra có thái độ cư xử tốt. Anh nói: “Nhưng tôi không muốn một cuộc đời dài. Đơn giản thế thôi.”
Berger chậm rãi nói: “Nếu có bất kỳ một cơ hội nhỏ nhất nào mà anh lại tiếc nuối về quyết định của mình, thì, xem nào, tôi là người phải sống với nó. Không phải anh.”
“Ai mà có thể chắc chắn về một điều gì đó tương tự được?”
Ánh mắt anh lại quay về với bản báo cáo.
Tìm thấy được một con ốc kim loại bên trên các mẩu giấy. Đó là một con ốc hình lục lăng, trên đầu có đóng các chữ “CE”. Dài hai inch, xoắn theo chiều kim đồng hồ, đường kính 15/16 inch.
“Mấy ngày tới tôi bận”, Berger nhìn đồng hồ nói. Đó là một chiếc Rolex. Hừm, cái chết luôn sinh lời. “Giờ thì chúng ta có khoảng một tiếng. Hãy nói chuyện một lúc, sau đó anh có một ngày nghỉ ngơi và tôi sẽ quay lại.”
Điều gì đó hối thúc Rhyme. Một cơn ngứa điên người – lời nguyền của tất cả những người liệt tứ chi – mặc dù trường hợp này là một cơn ngứa trí tuệ. Kiểu ngứa ngáy ám ảnh cả cuộc đời anh.
“Này bác sĩ, làm ơn giúp tôi một chút, được không? Bản báo cáo ở kia. Anh có thể lật qua nó, được không? Tìm cho tôi bức hình của một con ốc.”
Berger ngần ngại. “Một bức hình?”
“Một bức hình Palaroid chụp lấy ngay. Nó phải được gắn đâu đó ở cuối. Cái khung lật trang này chậm quá.’
Berger nhấc bản báo cáo ra khỏi cái khung và lật trang giúp Rhyme.
“Ở đó. Dừng.”
Anh nhìn vào bức hình và một cảm giác khẩn cấp khó chịu chiếm lấy anh. Ôi, không phải ở đây, không phải lúc này. Làm ơn đi, không.
“Tôi xin lỗi, anh có thể lật lại trang lúc nãy được không?”
Berger lật lại.
Rhyme không nói gì, chăm chú đọc.
Những mẩu giấy…
3:00 PM… trang 823
Tim Rhyme đập mạnh, đổ mồ hôi trán. Anh nghe tiếng ù ù trong tai.
Đây là một tiêu đề bài báo trong một tờ báo khổ nhỏ. MỘT NGƯỜI CHẾT KHI NÓI CHUYỆN VỚI BÁC SĨ TỬ THẦN…
Berger chớp mắt. “Lincoln? Anh ổn chứ?” Đôi mắt từng trải của người đàn ông quan sát Rhyme thật kỹ lưỡng.
Cố gắng tỏ ra bình thường nhất có thể, Rhyme nói: “Tôi hiểu, bác sĩ, tôi xin lỗi. Nhưng tôi cần làm mấy việc.”
Berger chậm rãi gật đầu, không chắc chắn lắm. “Cuối cùng thì vụ này không được ổn lắm, phải không?”
Cười. Lãnh đạm. “Tôi băn khoăn không biết có thể yêu cầu ông quay lại đây sau vài giờ nữa đươc không?”
Cẩn thận. Nếu ông ta cảm nhận được mục đích, ông ta sẽ coi anh là loại không muốn tự sát, lấy lại đám chai lọ và cái túi nhựa của ông ta rồi bay về xứ Starbucks.
Mở cuốn sổ hẹn ra, Berger nói: “Ngày hôm nay không được. Ngày mai… Không. Tôi sợ rằng sớm nhất là thứ Hai. Ngày kia.”
Rhyme ngần ngừ. Chúa ơi… Sự mong chờ cuối cùng đã gần như nằm trong tay anh, điều mà anh mơ tới hằng ngày trong mấy năm qua. Có hay không?
Quyết định.
Cuối cùng, Rhyme nghe thấy mình nói: “Được. Thứ hai.” Cố nặn ra một nụ cười vô vọng.
“Chính xác thì vấn đề là gì?”
“Một người cùng làm với tôi trước kia. Anh ta muốn có lời khuyên của tôi. Tôi chưa thực sự quan tâm tới điều đó, như tôi cần phải làm. Tôi phải gọi cho anh ta.”
Không, đó chẳng phải là liệt phản xạ, đó là một cơn lo lắng.
Lincoln Rhyme cảm thấy điều gì đó mà lâu lắm anh chưa hề cảm thấy. Anh đang cực kỳ vội vàng.
“Ông có thể gọi Thom lên đây được không? Tôi nghĩ cậu ta ở dưới nhà, trong bếp.”
“Vâng, tất nhiên rồi. Rất vui lòng.”
Rhyme có thể nhìn thấy điều gì đó khác thường trong mắt Berger. Cái gì vậy? Có thể. Gần như là sự thất vọng. Khi tiếng chân người bác sĩ nhỏ dần dưới cầu thang, Rhyme hét lên với chất giọng trầm như bom nổ: “Thom? Thom!”
“Gì vậy?” Giọng người thanh niên trả lời.
“Gọi cho Lon. Bảo anh ta quay lại đây. Ngay bây giờ.”
Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Đã quá trưa. Họ chỉ còn chưa đầy ba giờ nữa.
Tác giả :
Jeffery Deaver