Kẻ Tầm Xương
Chương 19
Năm 1911, thảm họa khủng khiếp giáng xuống thành phố của chúng ta.
Ngày Hai mươi lăm tháng Ba, hàng trăm công nhân nữ đang làm việc hăng say trong một xưởng may, một trong nhiều xưởng may nổi tiếng với tên gọi “Cửa hiệu mồ hôi” ở Greenwich Village, trung tâm Manhattan.
Những người chủ của công ty đam mê lợi nhuận tới mức họ không cho các cô gái đáng thương này những tiện nghi sơ đẳng nhất mà các nô lệ còn được hưởng. Họ cho rằng không thể tin tưởng để công nhân được nhanh chóng đi vệ sinh, vì thế họ khóa kỹ xưởng may và xưởng cắt.
Kẻ Tầm Xương lái xe về tòa nhà của hắn. Hắn đi qua một xe cảnh sát, nhưng hắn luôn nhìn thẳng về phía trước. Cớm không bao giờ chú ý tới hắn.
Trong ngày định mệnh đó, đám cháy bắt đầu từ tầng tám của tòa nhà, chỉ trong vòng vài phút đã lan ra khắp nhà máy. Những người công nhân trẻ tuổi gắng sức thoát ra ngoài. Tuy nhiên, cửa khóa nên họ chẳng thể thoát ra. Nhiều người chết tại chỗ và nhiều người khác vì quá sợ lửa đã lao ra ngoài không trung, cách mặt sỏi một trăm feet và chết khi va vào nền đất mẹ cứng rắn.
Có một trăm bốn mươi sáu nạn nhân trong trận hỏa hoạn Triangle Shirtwaist. Tuy nhiên, cảnh sát đã rất ngạc nhiên khi không thể tìm được một nạn nhân, một người phụ nữ trẻ, Esther Weinraub, người mà một vài nhân chứng nhìn thấy, đã tuyệt vọng nhảy ra khỏi cửa sổ tầng tám. Không cô gái nào cùng nhảy sống sót. Phải chăng điều kỳ diệu đã xảy đến với cô? Vì thực tế là khi thi thể nạn nhân được xếp ngoài phố để gia đình tới nhận diện, người ta không tìm được cô Weinraub tội nghiệp.
Có những báo cáo về một con ma cà rồng, một người đàn ông vác một cái túi lớn ra khỏi hiện trường đám cháy. Cảnh sát rất giận dữ vì đã có người xâm phạm thi thể thiêng liêng của người phụ nữ vô tội, tới mức họ bắt đầu một cuộc tìm kiếm âm thầm nhằm vào người đàn ông.
Sau vài tuần, những nỗ lực của họ đã đem lại kết quả. Hai người dân sống ở Greenwich Village khai báo rằng họ đã nhìn thấy một người đàn ông vác một túi nặng “trông như một tấm thảm” trên vai và rời khỏi hiện trường. Cảnh sát nắm được dấu vết của hắn và theo hắn đến phía tây thành phố, ở đó họ phỏng vấn những người láng giềng và biết được người đàn ông phù hợp với mô tả là Jame Schneider, kẻ vẫn đang tự do.
Họ thu hẹp phạm vi tìm kiếm tới một nơi đổ nát tại con ngõ nhỏ ở Hell’s Kitchen, cách bãi chăn trên Phố Sáu mươi không xa. Khi họ tiến vào, một mùi hôi thối kinh khủng chào đón họ…
Hắn đang lái xe qua chỗ đám cháy Triangle – có thể sự vô thức đã dẫn hắn đến đây. Tòa nhà Asch – một cái tên mỉa mai cho cấu trúc trước kia là nhà máy định mệnh – đã biến mất, và mảnh đất đó lúc này là một phần của Đại học New York. Quá khứ và hiện tại… Kẻ Tầm Xương không ngạc nhiên khi nhìn thấy những nữ công nhân mặc áo khoác lao động trắng, những vệt lửa và làn khói ngột ngạt, rơi xuống chết quanh hắn ta như những bông tuyết.
Khi tấn công vào nơi ở của Schneider, những nhà chức trách thấy một cảnh tượng mà ngay cả những người dày dạn nhất trong số họ cũng phải chóng mặt vì hoảng sợ. Thi thể của Esther Weinbraun đáng thương – (hay là những gì còn lại) – được tìm thấy dưới tầng hầm. Schneider đang thích thú hoàn thành nốt công việc dang dở của đám cháy, chậm rãi lóc thịt người phụ nữ bằng những công cụ quá ghê tởm để có thể kể ra ở đây.
Cuộc tìm kiếm ở nơi ghê rợn này dẫn đến việc khám phá ra một căn phòng, bên ngoài tầng hầm, chứa đầy xương cốt đã vị lóc hết thịt. Dưới giường của Schneider, một cảnh sát tìm thấy cuốn nhật ký mà kẻ điên khùng ghi lại những hành động ác quỷ của hắn. “Xương” – Schneider viết – “là cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay đổi, không lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những thiếu sót của những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay nấu chín, thì chúng ta – tất cả chúng ta – còn lại là xương cốt cao quý. Xương cốt không dối trá. Nó là vĩnh cửu.”
Những lời văn điên loạn ghi lại những thí nghiệm khủng khiếp của hắn để tìm ra cách thức hiệu quả nhất nhằm lóc thịt ra khỏi xương nạn nhân. Hắn thử nấu chín thi thể, đốt, dùng dung dịch kiềm, cho súc vật ăn và dìm nước.
Nhưng có một phương pháp được hắn yêu thích nhất cho hành động rùng rợn này. “Cách tốt nhất, theo kết luận của tôi” – (tiếp tục nhật ký của hắn) – “là chôn thi thể xuống đất màu và để Tự nhiên làm nốt phần công việc buồn chán. Đó là phương pháp tốn thời gian nhất nhưng lại gây ít nghi ngờ nhất vì không bốc mùi. Tôi thích chôn các cá thể còn sống, lý do thì tôi không thể nói chắc chắn”.
Bên trong căn phòng cho tới nay vẫn còn là bí mật, người ta tìm thấy thêm ba thi thể nữa, trong tình trạng tương tự. Những cánh tay xiên xẹo, những khuôn mặt mong chờ của các nạn nhân tội nghiệp chứng tỏ họ đã thực sự còn sống khi Schneider lấp những xẻng đất cuối cùng lên sự tột cùng đau khổ của họ.
Chính những mưu đồ đen tối đó khiến cho các nhà báo đặt cho Schneider một cái tên làm hắn nổi tiếng mãi cho tới sau này – “Kẻ tầm xương”.
Hắn lái xe đi tiếp, suy nghĩ của hắn trở lại với người phụ nữ đang nằm trong cốp xe, Esther Weinraub. Khuỷu tay gầy guộc của cô ta, xương đòn thanh tú của cô ta như đôi cánh chim. Hắn tăng tốc, thậm chí vượt hai đèn đỏ. Hắn không thể chờ đợi thêm nữa.
“Tôi không mệt”, Rhyme cáu kỉnh.
“Mệt hay không mặc kệ, anh phải nghỉ ngơi.”
“Không, tôi muốn uống.”
Những chiếc va li đen nằm cạnh tường, chờ đợi các sĩ quan từ Đồn Mười hai chuyển giúp về phòng thí nghiệm IRD. Mel Cooper đang vác hộp kính hiển vi xuống dưới cầu thang. Lon Sellitto vẫn ngồi trên chiếc ghế mây, nhưng anh ta không nói nhiều. Anh ta vừa kết luận rằng, Rhyme Lincoln không hề say.
Thom nói: “Tôi chắc là huyết áp của anh lại lên đấy. Anh cần phải nghỉ ngơi.”
“Tôi muốn uống”.
Quỷ tha ma bắt cô, Amelia Sachs, Rhyme nghĩ. Mà không hiểu vì sao.
“Anh phải bỏ đi. Uống chẳng có ích gì cho anh cả.”
Được rồi, tôi đang bỏ, Rhyme lặng lẽ đáp lời. Bỏ hẳn. Thứ Hai. Không cần kế hoạch mười hai bước; chỉ là kế hoạch một bước.
“Rót cho tôi cốc nữa”, anh ra lệnh.
Nhưng không thực sự muốn.
“Không.”
“Rót ngay cho tôi!” Rhyme cáu kỉnh.
“Không.”
“Lon, làm ơn rót tôi cốc nữa, được chứ?”
“Tôi…”
Thom nói: “Anh ta không được uống thêm nữa. Khi tâm trạng như thế này, thật không thể chịu nổi anh ta. Chúng ta sẽ không đầu hàng anh ta”.
“Cậu từ chối tôi à? Tôi có thể đuổi cậu đấy.”
“Thoải mái đi.”
“Lạm dụng người tàn tật! Tôi sẽ cho cậu ra tòa! Bắt hắn ta ngay, Lon.”
“Lincoln”, Sellitto xoa dịu.
“Bắt hắn ta!”
Viên thám tử ngạc nhiên vì sự hằn học trong lời nói của Rhyme.
“Này anh bạn, cậu làm ơn nhẹ nhàng hơn một chút, được không?” Sellitto nói.
“Ôi, lạy Chúa”, Rhyme rên rỉ. Anh bắt đầu rên ầm ĩ.
Sellitto buột miệng: “Gì thế?” Thom im lặng, nghi ngờ theo dõi.
“Gan của tôi.” Rhyme nhăn nhó. “Có thể là xơ gan.”
Thom quay lại, giận dữ. “Tôi không vào tròng với cái trò ấy đâu. Được chưa?”
“Không, không ổn…”
Giọng một phụ nữ vang lên từ ô cửa: “Chúng ta không có nhiều thời gian.”
“… tí nào.”
Amelia Sachs vào phòng, nhìn những cái bàn trống. Rhyme cảm thấy trên môi mình dính nước bọt. Anh quá tức giận. Vì cô nhìn thấy nước dãi. Vì anh đã mặc chiếc áo sơ mi trắng bảnh bao đó chỉ vì cô. Và vì anh tuyệt vọng muốn được cô đơn, mãi mãi, cô đơn trong sự yên bình bất động – nơi anh là hoàng đế. Không phải vua một ngày. Mà là hoàng đế mãi mãi.
Nước bọt chảy ra cù anh buồn buồn. Anh cố co gân cổ đang rất đau đớn, thử liếm khô môi. Thom khéo léo rút một tờ giấy lau trong hộp, lau khô miệng và cằm cho ông chủ của mình.
“Sĩ quan Sachs”, Thom nói. “Xin chào. Một ví dụ tiêu biểu của sự trưởng thành. Ta không thấy điều đó nhiều ngay lúc này.”
Cô không đội mũ, áo choàng xanh để hở cổ. Mái tóc đỏ dài của cô thả rơi xuống cổ. Mái tóc này không làm ai gặp khó khăn khi phân tích dưới kính hiển vi.
“Mel cho tôi vào”, cô nói, hất đầu về phía cầu thang.
“Quá giờ đi ngủ của cô phải không, Sachs?”
Thom vỗ vai. Cử chỉ có nghĩa là phải biết cư xử chứ.
“Tôi vừa ở văn phòng FBI”, cô nói với Sellitto.
“Tiền thuế của chúng ta thế nào rồi?”
“Họ tóm được hắn rồi.”
“Cái gì?” Sellitto hỏi. “Đơn giản thế thôi hả? Lạy Chúa. Họ biết chuyện ấy rồi à?”
“Perkins vừa gọi cho Thị trưởng. Hắn là tài xế taxi. Hắn sinh ra ở đây, nhưng cha hắn là người Serbia. Vì vậy họ nghĩ hắn đang đòi công lý với Liên Hiệp Quốc, hay cái gì đó. Có giấy vàng. Và cả vấn đề về tâm thần. Lúc này Dellray và nhóm SWAT liên bang đang đến đấy.”
“Họ làm thế nào nhỉ?” Rhyme hỏi. “Tôi đoán đó là nhờ dấu tay.”
Cô gật đầu.
“Tôi nghĩ rằng điều này quá rõ ràng. Nói tôi nghe, họ quan tâm tới nạn nhân tiếp theo đến đâu?”
“Họ có quan tâm”, cô nói đều đều. “Nhưng chủ yếu là họ muốn tóm đối tượng.”
“À, đấy là bản chất của họ. Để tôi đoán xem. Họ nghĩ họ sẽ moi ra chỗ nạn nhân tiếp theo sau khi họ tóm được hắn.”
“Anh nói đúng.”
“Chắc cần chút cố gắng đấy”. Rhyme nói. “Tôi có thể đưa ra nhận định này mà không cần đến sự chỉ dẫn của Tiến sĩ Dobyns và phân tích hành vi. Thế nào Amelia, điều gì làm cô thay đổi ý định vậy? Sao cô quay lại?”
“Bởi vì bất kể Dellray có xích được hắn hay không thì tôi cũng không nghĩ chúng ta còn thời gian để chờ đợi. Ý tôi là, để cứu nạn nhân tiếp theo.”
“Ồ, nhưng chúng ta đã bị giải tán, cô chưa nghe à? Đóng cửa, phá sản.” Rhyme nhìn màn hình máy tính tối om cố xem xem tóc anh có được chải không?
“Anh đầu hàng?” Cô hỏi.
“Sĩ quan”, Sellitto bắt đầu, “ngay cả khi chúng ta muốn làm gì đó, chúng ta cũng không có vật chứng. Đó là liên kết duy nhất…”
“Tôi có.”
“Cái gì?”
“Tất cả. Dưới cầu thang, trong xe RRV.”
Viên thám tử nhìn ra ngoài cửa sổ.
Sachs tiếp tục: “Từ hiện trường cuối cùng. Từ tất cả mọi hiện trường.”
“Cô có nó?” Rhyme hỏi. “Sao thế được?”
Nhưng Sellitto cười phá: “Mẹ kiếp, Lincoln, cô ta cướp chúng.”
“Dellray không cần tới chúng”, Sachs chỉ ra. “Trừ khi dùng cho việc xử án. Họ đã có đối tượng, chúng ta sẽ cứu nạn nhân. Cũng được, phải không?”
“Nhưng Mel Cooper vừa về rồi.”
“Không, anh ta dưới cầu thang. Tôi bảo anh ta đợi.” Sachs bắt tréo tay. Cô nhìn đồng hồ. Quá mười một giờ. “Ta không có nhiều thời gian”, cô nhắc lại.
Anh cũng nhìn đồng hồ. Chúa ơi, anh mệt. Thom nói đúng; cả năm nay chưa bao giờ anh thức khuya như vậy. Nhưng anh thấy ngạc nhiên – không, đúng hơn là bị sốc – khi thấy rằng ngày hôm nay anh có thể giận dữ, khó xử hay bị đâm trộm bởi những rắc rối vô cảm, nhưng những giây phút vừa qua không hề đặt lên tâm hồn anh một gánh nặng nóng bỏng nào cả. Như chúng vẫn vậy, trong suốt ba năm qua.
“Được rồi, hết ý.” Rhyme bật một tràng cười. “Thom? Thom! Chúng ta cần cà phê. Suất đúp. Sachs, đưa những mẫu giấy bóng kính đó đến phòng thí nghiệm cùng với bức ảnh Polaroid của mẩu giấy mà Mel nhặt được từ cái xương bê. Tôi muốn có kết quả so sánh phân cực sau một giờ nữa. Và gọi cái bóng của anh đến đây đi, Lon. Cái anh chàng có tên như cầu thủ bóng chày ấy.”
Chiếc xe tải màu đen lao nhanh trên phố.
Đây là đường vòng tới chỗ tên tội phạm nhưng Dellray biết anh ta đang làm gì; các chiến dịch chống khủng bố phải đi đường vòng, tránh những con phố lớn, những con phố thường bị đồng phạm của chúng giám sát. Dellray, ngồi phía sau chiếc xe đi đầu, đang siết chặt dây khóa dán Velcro của chiếc áo chống đạn. Còn mười phút nữa là họ đến nơi.
Anh ta nhìn những căn hộ đang bị hỏng, những lô đất đầy rác rưởi khi họ chạy ngang qua. Lần cuối cùng, Dellray đến khu vực đổ nát này là khi anh còn là Rastafarian Peter Haile Thomas đến từ Queens. Dellray mua một trăm ba mươi bảy pound cocaine của một gã Puerto Rican nhỏ thó, nhưng anh chàng này đến phút cuối lại quyết định ăn cướp người mua hàng của mình. Hắn cầm chỗ tiền nhử mồi của Dellray, chĩa súng vào háng Dellray và bình thản bóp cò như thể đang nhặt một mớ rau. Cạch, cạch, cạch. Đạn thối. Toby Dolittle và nhóm yểm trợ nhanh chóng hạ tên khốn và đồng bọn trước khi hắn kịp hồi tỉnh, để lại cho Dellray một sự choáng váng vì thực tế đầy mỉa mai là anh ta suýt bị giết vì tên tội phạm thực sự tin vào màn kịch của viên điệp vụ – tin rằng anh ta là tên buôn ma túy, không phải cớm.
“ETA[110], còn bốn phút’, người lái xe nhắc.
Vì lí do nào đó, ý nghĩ của Dellray quay về với Lincoln Rhyme. Anh ta lấy làm tiếc đã xử tệ như vậy khi tiếp quản vụ này. Nhưng anh ta không có nhiều lựa chọn. Sellitto là người gan lì còn Polling là đồ điên – mặc dù Dellray có thể xử lý được họ. Rhyme là người làm cho anh thấy khó xử nhất. Sắc như dao cạo (quỷ thật, chính là nhóm của anh ta tìm thấy dấu tay của Pietrs, dù họ đã không khai thác nó đúng lúc). Ngày xưa, trước tai nạn, ta đã không thể đánh bại được Lincoln Rhyme nếu như anh ta không muốn bị đánh bại. Cũng chẳng thể nào lừa được anh ta.
Lúc này thì Rhyme là một thứ đồ chơi hỏng. Thật buồn khi điều tệ hại đó xảy ra cho anh ta, khi anh ta nên chết nhưng lại còn sống. Dellray đã vào phòng của anh ta – phòng ngủ của anh ta – và đã chơi anh ta một vố thật đau. Đau hơn mức cần thiết.
Có thể anh ta sẽ gọi. Anh ta có thể….
“Giờ diễn”, người lái xe thông báo và Dellray quên hết mọi thứ về Lincoln Rhyme.
Chiếc xe rẽ vào con phố nơi Pietrs sống. Hầu hết những con phố khác mà họ đi qua đều đầy những người dân nhễ nhại mồ hôi cầm chai bia hay điếu thuốc lá, cố gắng có được một, hai ngụm không khí mát mẻ. Nhưng con phố này thì tăm tối và vắng vẻ.
Chiếc xe từ từ dừng lại. Khoảng hai tá đặc vụ trong bộ đồ chiến thuật đen trèo ra khỏi xe, xách những khẩu H&K được gắn ống ngắm laser và đèn chiếu sáng. Hai người vô gia cư nhìn họ; một người giấu nhanh chai wisky mạch nha Colt 44 vào trong áo.
Dellray liếc nhìn cửa sổ trong tòa nhà của Pietrs; nó tỏa ra ánh sáng vàng nhợt nhạt.
Người lái xe lùi chiếc xe đầu tiên vào chỗ đỗ xe trong bóng tối và thì thầm với Dellray: “Perkins đấy.” Gõ vào tai nghe của anh ta. “Anh ta đang nói chuyện với giám đốc. Họ muốn biết ai là người chỉ huy cuộc tấn công?”
“Là tôi”, con Kỳ nhông cáu kỉnh. Anh ta quay lại nhóm của mình. “Tôi muốn giám sát toàn bộ con phố và các ngõ hẻm. Thiện xạ, ở đây, ở đây và ở đây. Và tôi muốn mọi người sẵn sàng năm phút trước khi tấn công. Tất cả rõ chưa?”
Xuống cẩu thang, tiếng gỗ kêu cót két.
Tay hắn ôm lấy cô, hắn dẫn người phụ nữ đang nửa tỉnh nửa mê vì cú đánh vào đầu xuống tầng hầm. Tới chân cầu thang, hắn quăng cô xuống nền nhà bụi bặm và nhìn cô chăm chăm.
Esther…
Mắt cô ngước lên nhìn hắn. Tuyệt vọng, van xin. Hắn không hề nhận thấy. Những gì hắn thấy chỉ là cơ thể cô. Hắn bắt đầu cởi quần áo cô, bộ quần áo chạy thể dục màu tía. Không thể tin được là bây giờ phụ nữ lại có thể ra khỏi nhà với bộ quần áo như đồ lót. Hắn không nghĩ Esther Weinbraub là một con điếm. Cô ta là một công nhân, may áo sơ mi với giá một xu năm cái.
Kẻ Tầm Xương quan sát xương đòn của cô ta nhô ra nơi cổ họng. Trong khi người đàn ông khác có thể nhìn ngực và núm vú tối màu của cô ta, hắn ta nhìn chỗ lõm vào của chuôi ức và những chiếc xương sườn tỏa ra từ đó như những cái chân nhện.
“Anh làm gì vậy?” Cô ta hỏi, vẫn còn lảo đảo vì cú đánh vào đầu.
Kẻ Tầm Xương nhìn cô ta thật kỹ, nhưng thứ mà hắn thấy không phải là một người phụ nữ không còn trẻ, mắc bệnh chán ăn, mũi quá rộng, môi quá dày với làn da như cát bẩn. Hắn nhìn thấy phía dưới những thứ không hoàn thiện này chứa đựng vẻ đẹp hoàn hảo của cấu trúc cơ thể cô ta.
Hắn săn sóc thái dương cô, nhẹ nhàng xoa vuốt nó. Đừng để nó bị nứt, làm ơn đi…
Cô ta ho làm cho hai lỗ mũi nở rộng – dưới này khói mù mịt, mặc dù hắn gần như không nhận thấy chúng.
“Đừng đánh tôi nữa”, cô ta thì thầm, đầu lắc lư. “Đừng đánh tôi. Làm ơn”.
Hắn lấy dao trong túi ra, cúi xuống và cắt đồ lót của cô ta. Cô ta nhìn thân thể lõa lồ của mình.
“Anh muốn à?” Cô ta nói gần đứt hơi. “Được, anh có thể chơi tôi. Được.”
Khoái lạc thân xác, hắn nghĩ… Không đúng rồi.
Hắn kéo cô ta đứng lên và cô ta giãy ra khỏi hắn như điên rồi tập tễnh chạy ra cánh cửa nhỏ ở gần tầng hầm. Không phải chạy, không thực sự cố tẩu thoát. Chỉ sụt sùi, vươn tay ta vẫy về phía cửa.
Kẻ Tầm Xương, nhìn cô ta, bị mê hoặc bởi cái dáng đi chậm chạp, đáng thương của cô ta.
Ô cửa, đã từng mở hướng ra một đường máng đổ than, giờ đây dẫn đến một đường hầm chật hẹp nối với tầng hầm của một tòa nhà bị bỏ hoang cạnh đó.
Esther cố đến được cánh cửa kim loại và kéo nó mở ra. Cô ta trèo vào bên trong.
Chưa đến một phút sau hắn ta nghe thấy tiếng la thét rền rĩ. Nối tiếp là những tiếng thét đứt hơi, giật giọng: “Trời ơi, không, không, không…” Còn những tiếng la hét khác, chìm đắm trong tiếng gào kinh hoàng.
Rồi từ đường hầm cô ta chạy ra, đã nhanh hơn, phủi tay khắp người như thể cô ta đang cố gắng giũ bỏ những thứ cô ta vừa nhìn thấy.
Đến với ta nào, Esther.
Loạng choạng trên nền nhà bụi bặm, nức nở.
Đến với ta.
Chạy thẳng tới bệnh nhân của hắn, những cánh tay chờ đợi, ôm chầm lấy cô. Hắn siết chặt người đàn bà như thể họ là tình nhân, cảm thấy chiếc xương đòn tuyệt diệu dưới ngón tay mình, và từ từ kéo người đàn bà điên dại quay lại cửa đường hầm.
Ngày Hai mươi lăm tháng Ba, hàng trăm công nhân nữ đang làm việc hăng say trong một xưởng may, một trong nhiều xưởng may nổi tiếng với tên gọi “Cửa hiệu mồ hôi” ở Greenwich Village, trung tâm Manhattan.
Những người chủ của công ty đam mê lợi nhuận tới mức họ không cho các cô gái đáng thương này những tiện nghi sơ đẳng nhất mà các nô lệ còn được hưởng. Họ cho rằng không thể tin tưởng để công nhân được nhanh chóng đi vệ sinh, vì thế họ khóa kỹ xưởng may và xưởng cắt.
Kẻ Tầm Xương lái xe về tòa nhà của hắn. Hắn đi qua một xe cảnh sát, nhưng hắn luôn nhìn thẳng về phía trước. Cớm không bao giờ chú ý tới hắn.
Trong ngày định mệnh đó, đám cháy bắt đầu từ tầng tám của tòa nhà, chỉ trong vòng vài phút đã lan ra khắp nhà máy. Những người công nhân trẻ tuổi gắng sức thoát ra ngoài. Tuy nhiên, cửa khóa nên họ chẳng thể thoát ra. Nhiều người chết tại chỗ và nhiều người khác vì quá sợ lửa đã lao ra ngoài không trung, cách mặt sỏi một trăm feet và chết khi va vào nền đất mẹ cứng rắn.
Có một trăm bốn mươi sáu nạn nhân trong trận hỏa hoạn Triangle Shirtwaist. Tuy nhiên, cảnh sát đã rất ngạc nhiên khi không thể tìm được một nạn nhân, một người phụ nữ trẻ, Esther Weinraub, người mà một vài nhân chứng nhìn thấy, đã tuyệt vọng nhảy ra khỏi cửa sổ tầng tám. Không cô gái nào cùng nhảy sống sót. Phải chăng điều kỳ diệu đã xảy đến với cô? Vì thực tế là khi thi thể nạn nhân được xếp ngoài phố để gia đình tới nhận diện, người ta không tìm được cô Weinraub tội nghiệp.
Có những báo cáo về một con ma cà rồng, một người đàn ông vác một cái túi lớn ra khỏi hiện trường đám cháy. Cảnh sát rất giận dữ vì đã có người xâm phạm thi thể thiêng liêng của người phụ nữ vô tội, tới mức họ bắt đầu một cuộc tìm kiếm âm thầm nhằm vào người đàn ông.
Sau vài tuần, những nỗ lực của họ đã đem lại kết quả. Hai người dân sống ở Greenwich Village khai báo rằng họ đã nhìn thấy một người đàn ông vác một túi nặng “trông như một tấm thảm” trên vai và rời khỏi hiện trường. Cảnh sát nắm được dấu vết của hắn và theo hắn đến phía tây thành phố, ở đó họ phỏng vấn những người láng giềng và biết được người đàn ông phù hợp với mô tả là Jame Schneider, kẻ vẫn đang tự do.
Họ thu hẹp phạm vi tìm kiếm tới một nơi đổ nát tại con ngõ nhỏ ở Hell’s Kitchen, cách bãi chăn trên Phố Sáu mươi không xa. Khi họ tiến vào, một mùi hôi thối kinh khủng chào đón họ…
Hắn đang lái xe qua chỗ đám cháy Triangle – có thể sự vô thức đã dẫn hắn đến đây. Tòa nhà Asch – một cái tên mỉa mai cho cấu trúc trước kia là nhà máy định mệnh – đã biến mất, và mảnh đất đó lúc này là một phần của Đại học New York. Quá khứ và hiện tại… Kẻ Tầm Xương không ngạc nhiên khi nhìn thấy những nữ công nhân mặc áo khoác lao động trắng, những vệt lửa và làn khói ngột ngạt, rơi xuống chết quanh hắn ta như những bông tuyết.
Khi tấn công vào nơi ở của Schneider, những nhà chức trách thấy một cảnh tượng mà ngay cả những người dày dạn nhất trong số họ cũng phải chóng mặt vì hoảng sợ. Thi thể của Esther Weinbraun đáng thương – (hay là những gì còn lại) – được tìm thấy dưới tầng hầm. Schneider đang thích thú hoàn thành nốt công việc dang dở của đám cháy, chậm rãi lóc thịt người phụ nữ bằng những công cụ quá ghê tởm để có thể kể ra ở đây.
Cuộc tìm kiếm ở nơi ghê rợn này dẫn đến việc khám phá ra một căn phòng, bên ngoài tầng hầm, chứa đầy xương cốt đã vị lóc hết thịt. Dưới giường của Schneider, một cảnh sát tìm thấy cuốn nhật ký mà kẻ điên khùng ghi lại những hành động ác quỷ của hắn. “Xương” – Schneider viết – “là cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay đổi, không lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những thiếu sót của những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay nấu chín, thì chúng ta – tất cả chúng ta – còn lại là xương cốt cao quý. Xương cốt không dối trá. Nó là vĩnh cửu.”
Những lời văn điên loạn ghi lại những thí nghiệm khủng khiếp của hắn để tìm ra cách thức hiệu quả nhất nhằm lóc thịt ra khỏi xương nạn nhân. Hắn thử nấu chín thi thể, đốt, dùng dung dịch kiềm, cho súc vật ăn và dìm nước.
Nhưng có một phương pháp được hắn yêu thích nhất cho hành động rùng rợn này. “Cách tốt nhất, theo kết luận của tôi” – (tiếp tục nhật ký của hắn) – “là chôn thi thể xuống đất màu và để Tự nhiên làm nốt phần công việc buồn chán. Đó là phương pháp tốn thời gian nhất nhưng lại gây ít nghi ngờ nhất vì không bốc mùi. Tôi thích chôn các cá thể còn sống, lý do thì tôi không thể nói chắc chắn”.
Bên trong căn phòng cho tới nay vẫn còn là bí mật, người ta tìm thấy thêm ba thi thể nữa, trong tình trạng tương tự. Những cánh tay xiên xẹo, những khuôn mặt mong chờ của các nạn nhân tội nghiệp chứng tỏ họ đã thực sự còn sống khi Schneider lấp những xẻng đất cuối cùng lên sự tột cùng đau khổ của họ.
Chính những mưu đồ đen tối đó khiến cho các nhà báo đặt cho Schneider một cái tên làm hắn nổi tiếng mãi cho tới sau này – “Kẻ tầm xương”.
Hắn lái xe đi tiếp, suy nghĩ của hắn trở lại với người phụ nữ đang nằm trong cốp xe, Esther Weinraub. Khuỷu tay gầy guộc của cô ta, xương đòn thanh tú của cô ta như đôi cánh chim. Hắn tăng tốc, thậm chí vượt hai đèn đỏ. Hắn không thể chờ đợi thêm nữa.
“Tôi không mệt”, Rhyme cáu kỉnh.
“Mệt hay không mặc kệ, anh phải nghỉ ngơi.”
“Không, tôi muốn uống.”
Những chiếc va li đen nằm cạnh tường, chờ đợi các sĩ quan từ Đồn Mười hai chuyển giúp về phòng thí nghiệm IRD. Mel Cooper đang vác hộp kính hiển vi xuống dưới cầu thang. Lon Sellitto vẫn ngồi trên chiếc ghế mây, nhưng anh ta không nói nhiều. Anh ta vừa kết luận rằng, Rhyme Lincoln không hề say.
Thom nói: “Tôi chắc là huyết áp của anh lại lên đấy. Anh cần phải nghỉ ngơi.”
“Tôi muốn uống”.
Quỷ tha ma bắt cô, Amelia Sachs, Rhyme nghĩ. Mà không hiểu vì sao.
“Anh phải bỏ đi. Uống chẳng có ích gì cho anh cả.”
Được rồi, tôi đang bỏ, Rhyme lặng lẽ đáp lời. Bỏ hẳn. Thứ Hai. Không cần kế hoạch mười hai bước; chỉ là kế hoạch một bước.
“Rót cho tôi cốc nữa”, anh ra lệnh.
Nhưng không thực sự muốn.
“Không.”
“Rót ngay cho tôi!” Rhyme cáu kỉnh.
“Không.”
“Lon, làm ơn rót tôi cốc nữa, được chứ?”
“Tôi…”
Thom nói: “Anh ta không được uống thêm nữa. Khi tâm trạng như thế này, thật không thể chịu nổi anh ta. Chúng ta sẽ không đầu hàng anh ta”.
“Cậu từ chối tôi à? Tôi có thể đuổi cậu đấy.”
“Thoải mái đi.”
“Lạm dụng người tàn tật! Tôi sẽ cho cậu ra tòa! Bắt hắn ta ngay, Lon.”
“Lincoln”, Sellitto xoa dịu.
“Bắt hắn ta!”
Viên thám tử ngạc nhiên vì sự hằn học trong lời nói của Rhyme.
“Này anh bạn, cậu làm ơn nhẹ nhàng hơn một chút, được không?” Sellitto nói.
“Ôi, lạy Chúa”, Rhyme rên rỉ. Anh bắt đầu rên ầm ĩ.
Sellitto buột miệng: “Gì thế?” Thom im lặng, nghi ngờ theo dõi.
“Gan của tôi.” Rhyme nhăn nhó. “Có thể là xơ gan.”
Thom quay lại, giận dữ. “Tôi không vào tròng với cái trò ấy đâu. Được chưa?”
“Không, không ổn…”
Giọng một phụ nữ vang lên từ ô cửa: “Chúng ta không có nhiều thời gian.”
“… tí nào.”
Amelia Sachs vào phòng, nhìn những cái bàn trống. Rhyme cảm thấy trên môi mình dính nước bọt. Anh quá tức giận. Vì cô nhìn thấy nước dãi. Vì anh đã mặc chiếc áo sơ mi trắng bảnh bao đó chỉ vì cô. Và vì anh tuyệt vọng muốn được cô đơn, mãi mãi, cô đơn trong sự yên bình bất động – nơi anh là hoàng đế. Không phải vua một ngày. Mà là hoàng đế mãi mãi.
Nước bọt chảy ra cù anh buồn buồn. Anh cố co gân cổ đang rất đau đớn, thử liếm khô môi. Thom khéo léo rút một tờ giấy lau trong hộp, lau khô miệng và cằm cho ông chủ của mình.
“Sĩ quan Sachs”, Thom nói. “Xin chào. Một ví dụ tiêu biểu của sự trưởng thành. Ta không thấy điều đó nhiều ngay lúc này.”
Cô không đội mũ, áo choàng xanh để hở cổ. Mái tóc đỏ dài của cô thả rơi xuống cổ. Mái tóc này không làm ai gặp khó khăn khi phân tích dưới kính hiển vi.
“Mel cho tôi vào”, cô nói, hất đầu về phía cầu thang.
“Quá giờ đi ngủ của cô phải không, Sachs?”
Thom vỗ vai. Cử chỉ có nghĩa là phải biết cư xử chứ.
“Tôi vừa ở văn phòng FBI”, cô nói với Sellitto.
“Tiền thuế của chúng ta thế nào rồi?”
“Họ tóm được hắn rồi.”
“Cái gì?” Sellitto hỏi. “Đơn giản thế thôi hả? Lạy Chúa. Họ biết chuyện ấy rồi à?”
“Perkins vừa gọi cho Thị trưởng. Hắn là tài xế taxi. Hắn sinh ra ở đây, nhưng cha hắn là người Serbia. Vì vậy họ nghĩ hắn đang đòi công lý với Liên Hiệp Quốc, hay cái gì đó. Có giấy vàng. Và cả vấn đề về tâm thần. Lúc này Dellray và nhóm SWAT liên bang đang đến đấy.”
“Họ làm thế nào nhỉ?” Rhyme hỏi. “Tôi đoán đó là nhờ dấu tay.”
Cô gật đầu.
“Tôi nghĩ rằng điều này quá rõ ràng. Nói tôi nghe, họ quan tâm tới nạn nhân tiếp theo đến đâu?”
“Họ có quan tâm”, cô nói đều đều. “Nhưng chủ yếu là họ muốn tóm đối tượng.”
“À, đấy là bản chất của họ. Để tôi đoán xem. Họ nghĩ họ sẽ moi ra chỗ nạn nhân tiếp theo sau khi họ tóm được hắn.”
“Anh nói đúng.”
“Chắc cần chút cố gắng đấy”. Rhyme nói. “Tôi có thể đưa ra nhận định này mà không cần đến sự chỉ dẫn của Tiến sĩ Dobyns và phân tích hành vi. Thế nào Amelia, điều gì làm cô thay đổi ý định vậy? Sao cô quay lại?”
“Bởi vì bất kể Dellray có xích được hắn hay không thì tôi cũng không nghĩ chúng ta còn thời gian để chờ đợi. Ý tôi là, để cứu nạn nhân tiếp theo.”
“Ồ, nhưng chúng ta đã bị giải tán, cô chưa nghe à? Đóng cửa, phá sản.” Rhyme nhìn màn hình máy tính tối om cố xem xem tóc anh có được chải không?
“Anh đầu hàng?” Cô hỏi.
“Sĩ quan”, Sellitto bắt đầu, “ngay cả khi chúng ta muốn làm gì đó, chúng ta cũng không có vật chứng. Đó là liên kết duy nhất…”
“Tôi có.”
“Cái gì?”
“Tất cả. Dưới cầu thang, trong xe RRV.”
Viên thám tử nhìn ra ngoài cửa sổ.
Sachs tiếp tục: “Từ hiện trường cuối cùng. Từ tất cả mọi hiện trường.”
“Cô có nó?” Rhyme hỏi. “Sao thế được?”
Nhưng Sellitto cười phá: “Mẹ kiếp, Lincoln, cô ta cướp chúng.”
“Dellray không cần tới chúng”, Sachs chỉ ra. “Trừ khi dùng cho việc xử án. Họ đã có đối tượng, chúng ta sẽ cứu nạn nhân. Cũng được, phải không?”
“Nhưng Mel Cooper vừa về rồi.”
“Không, anh ta dưới cầu thang. Tôi bảo anh ta đợi.” Sachs bắt tréo tay. Cô nhìn đồng hồ. Quá mười một giờ. “Ta không có nhiều thời gian”, cô nhắc lại.
Anh cũng nhìn đồng hồ. Chúa ơi, anh mệt. Thom nói đúng; cả năm nay chưa bao giờ anh thức khuya như vậy. Nhưng anh thấy ngạc nhiên – không, đúng hơn là bị sốc – khi thấy rằng ngày hôm nay anh có thể giận dữ, khó xử hay bị đâm trộm bởi những rắc rối vô cảm, nhưng những giây phút vừa qua không hề đặt lên tâm hồn anh một gánh nặng nóng bỏng nào cả. Như chúng vẫn vậy, trong suốt ba năm qua.
“Được rồi, hết ý.” Rhyme bật một tràng cười. “Thom? Thom! Chúng ta cần cà phê. Suất đúp. Sachs, đưa những mẫu giấy bóng kính đó đến phòng thí nghiệm cùng với bức ảnh Polaroid của mẩu giấy mà Mel nhặt được từ cái xương bê. Tôi muốn có kết quả so sánh phân cực sau một giờ nữa. Và gọi cái bóng của anh đến đây đi, Lon. Cái anh chàng có tên như cầu thủ bóng chày ấy.”
Chiếc xe tải màu đen lao nhanh trên phố.
Đây là đường vòng tới chỗ tên tội phạm nhưng Dellray biết anh ta đang làm gì; các chiến dịch chống khủng bố phải đi đường vòng, tránh những con phố lớn, những con phố thường bị đồng phạm của chúng giám sát. Dellray, ngồi phía sau chiếc xe đi đầu, đang siết chặt dây khóa dán Velcro của chiếc áo chống đạn. Còn mười phút nữa là họ đến nơi.
Anh ta nhìn những căn hộ đang bị hỏng, những lô đất đầy rác rưởi khi họ chạy ngang qua. Lần cuối cùng, Dellray đến khu vực đổ nát này là khi anh còn là Rastafarian Peter Haile Thomas đến từ Queens. Dellray mua một trăm ba mươi bảy pound cocaine của một gã Puerto Rican nhỏ thó, nhưng anh chàng này đến phút cuối lại quyết định ăn cướp người mua hàng của mình. Hắn cầm chỗ tiền nhử mồi của Dellray, chĩa súng vào háng Dellray và bình thản bóp cò như thể đang nhặt một mớ rau. Cạch, cạch, cạch. Đạn thối. Toby Dolittle và nhóm yểm trợ nhanh chóng hạ tên khốn và đồng bọn trước khi hắn kịp hồi tỉnh, để lại cho Dellray một sự choáng váng vì thực tế đầy mỉa mai là anh ta suýt bị giết vì tên tội phạm thực sự tin vào màn kịch của viên điệp vụ – tin rằng anh ta là tên buôn ma túy, không phải cớm.
“ETA[110], còn bốn phút’, người lái xe nhắc.
Vì lí do nào đó, ý nghĩ của Dellray quay về với Lincoln Rhyme. Anh ta lấy làm tiếc đã xử tệ như vậy khi tiếp quản vụ này. Nhưng anh ta không có nhiều lựa chọn. Sellitto là người gan lì còn Polling là đồ điên – mặc dù Dellray có thể xử lý được họ. Rhyme là người làm cho anh thấy khó xử nhất. Sắc như dao cạo (quỷ thật, chính là nhóm của anh ta tìm thấy dấu tay của Pietrs, dù họ đã không khai thác nó đúng lúc). Ngày xưa, trước tai nạn, ta đã không thể đánh bại được Lincoln Rhyme nếu như anh ta không muốn bị đánh bại. Cũng chẳng thể nào lừa được anh ta.
Lúc này thì Rhyme là một thứ đồ chơi hỏng. Thật buồn khi điều tệ hại đó xảy ra cho anh ta, khi anh ta nên chết nhưng lại còn sống. Dellray đã vào phòng của anh ta – phòng ngủ của anh ta – và đã chơi anh ta một vố thật đau. Đau hơn mức cần thiết.
Có thể anh ta sẽ gọi. Anh ta có thể….
“Giờ diễn”, người lái xe thông báo và Dellray quên hết mọi thứ về Lincoln Rhyme.
Chiếc xe rẽ vào con phố nơi Pietrs sống. Hầu hết những con phố khác mà họ đi qua đều đầy những người dân nhễ nhại mồ hôi cầm chai bia hay điếu thuốc lá, cố gắng có được một, hai ngụm không khí mát mẻ. Nhưng con phố này thì tăm tối và vắng vẻ.
Chiếc xe từ từ dừng lại. Khoảng hai tá đặc vụ trong bộ đồ chiến thuật đen trèo ra khỏi xe, xách những khẩu H&K được gắn ống ngắm laser và đèn chiếu sáng. Hai người vô gia cư nhìn họ; một người giấu nhanh chai wisky mạch nha Colt 44 vào trong áo.
Dellray liếc nhìn cửa sổ trong tòa nhà của Pietrs; nó tỏa ra ánh sáng vàng nhợt nhạt.
Người lái xe lùi chiếc xe đầu tiên vào chỗ đỗ xe trong bóng tối và thì thầm với Dellray: “Perkins đấy.” Gõ vào tai nghe của anh ta. “Anh ta đang nói chuyện với giám đốc. Họ muốn biết ai là người chỉ huy cuộc tấn công?”
“Là tôi”, con Kỳ nhông cáu kỉnh. Anh ta quay lại nhóm của mình. “Tôi muốn giám sát toàn bộ con phố và các ngõ hẻm. Thiện xạ, ở đây, ở đây và ở đây. Và tôi muốn mọi người sẵn sàng năm phút trước khi tấn công. Tất cả rõ chưa?”
Xuống cẩu thang, tiếng gỗ kêu cót két.
Tay hắn ôm lấy cô, hắn dẫn người phụ nữ đang nửa tỉnh nửa mê vì cú đánh vào đầu xuống tầng hầm. Tới chân cầu thang, hắn quăng cô xuống nền nhà bụi bặm và nhìn cô chăm chăm.
Esther…
Mắt cô ngước lên nhìn hắn. Tuyệt vọng, van xin. Hắn không hề nhận thấy. Những gì hắn thấy chỉ là cơ thể cô. Hắn bắt đầu cởi quần áo cô, bộ quần áo chạy thể dục màu tía. Không thể tin được là bây giờ phụ nữ lại có thể ra khỏi nhà với bộ quần áo như đồ lót. Hắn không nghĩ Esther Weinbraub là một con điếm. Cô ta là một công nhân, may áo sơ mi với giá một xu năm cái.
Kẻ Tầm Xương quan sát xương đòn của cô ta nhô ra nơi cổ họng. Trong khi người đàn ông khác có thể nhìn ngực và núm vú tối màu của cô ta, hắn ta nhìn chỗ lõm vào của chuôi ức và những chiếc xương sườn tỏa ra từ đó như những cái chân nhện.
“Anh làm gì vậy?” Cô ta hỏi, vẫn còn lảo đảo vì cú đánh vào đầu.
Kẻ Tầm Xương nhìn cô ta thật kỹ, nhưng thứ mà hắn thấy không phải là một người phụ nữ không còn trẻ, mắc bệnh chán ăn, mũi quá rộng, môi quá dày với làn da như cát bẩn. Hắn nhìn thấy phía dưới những thứ không hoàn thiện này chứa đựng vẻ đẹp hoàn hảo của cấu trúc cơ thể cô ta.
Hắn săn sóc thái dương cô, nhẹ nhàng xoa vuốt nó. Đừng để nó bị nứt, làm ơn đi…
Cô ta ho làm cho hai lỗ mũi nở rộng – dưới này khói mù mịt, mặc dù hắn gần như không nhận thấy chúng.
“Đừng đánh tôi nữa”, cô ta thì thầm, đầu lắc lư. “Đừng đánh tôi. Làm ơn”.
Hắn lấy dao trong túi ra, cúi xuống và cắt đồ lót của cô ta. Cô ta nhìn thân thể lõa lồ của mình.
“Anh muốn à?” Cô ta nói gần đứt hơi. “Được, anh có thể chơi tôi. Được.”
Khoái lạc thân xác, hắn nghĩ… Không đúng rồi.
Hắn kéo cô ta đứng lên và cô ta giãy ra khỏi hắn như điên rồi tập tễnh chạy ra cánh cửa nhỏ ở gần tầng hầm. Không phải chạy, không thực sự cố tẩu thoát. Chỉ sụt sùi, vươn tay ta vẫy về phía cửa.
Kẻ Tầm Xương, nhìn cô ta, bị mê hoặc bởi cái dáng đi chậm chạp, đáng thương của cô ta.
Ô cửa, đã từng mở hướng ra một đường máng đổ than, giờ đây dẫn đến một đường hầm chật hẹp nối với tầng hầm của một tòa nhà bị bỏ hoang cạnh đó.
Esther cố đến được cánh cửa kim loại và kéo nó mở ra. Cô ta trèo vào bên trong.
Chưa đến một phút sau hắn ta nghe thấy tiếng la thét rền rĩ. Nối tiếp là những tiếng thét đứt hơi, giật giọng: “Trời ơi, không, không, không…” Còn những tiếng la hét khác, chìm đắm trong tiếng gào kinh hoàng.
Rồi từ đường hầm cô ta chạy ra, đã nhanh hơn, phủi tay khắp người như thể cô ta đang cố gắng giũ bỏ những thứ cô ta vừa nhìn thấy.
Đến với ta nào, Esther.
Loạng choạng trên nền nhà bụi bặm, nức nở.
Đến với ta.
Chạy thẳng tới bệnh nhân của hắn, những cánh tay chờ đợi, ôm chầm lấy cô. Hắn siết chặt người đàn bà như thể họ là tình nhân, cảm thấy chiếc xương đòn tuyệt diệu dưới ngón tay mình, và từ từ kéo người đàn bà điên dại quay lại cửa đường hầm.
Tác giả :
Jeffery Deaver