Hậu Cung Chân Huyên Truyện
Quyển 5 - Chương 19: Phúc Tường tranh đấu
Đương lúc trò chuyện, chợt Huyền Lăng rảo bước đi vào, cười nói: “Cái gì mà đứa bé này với cả đứa bé kia thế?”
Tôi vội vàng đứng dậy định thỉnh an nhưng Huyền Lăng đã lập tức giữ tôi lại. “Đã thế này rồi còn câu nệ lễ tiết làm gì.”
Tôi cười yêu kiều, nói: “Thần thiếp đang nói là bàn chân mình giờ có hơi phù nề, đi giày mà phủ Nội vụ đưa tới không được thoải mái lắm, chỉ sợ đứa bé trong bụng sẽ không thoải mái theo.”
Huyền Lăng tháo chiếc giày gấm thêu hoa trên chân tôi xuống, cười nói: “Ở trong cung của mình thì cứ đi cái gì thoải mái nhất là được rồi.” Rồi y nâng chân tôi lên, lấy từ dưới gầm giường ra một đôi giày đế mềm màu đỏ tươi xỏ vào cho tôi. Tôi làm bộ làm tịch kêu lên: “Việc này sao có thể để Hoàng thượng làm được, Hoán Bích, sao cứ ngồi trơ mắt nhìn mà chẳng tới giúp đỡ chút nào thế?” Bản thân thì vẫn cứ ngồi yên đó, chẳng hề động đậy.
Huyền Lăng véo má tôi một cái, khẽ cười nói: “Nhìn cái bộ dạng đã muốn mà còn giả bộ của nàng kìa, lại còn nói Hoán Bích nữa.”
Hoán Bích hơi trề môi, không kìm được bật cười. “Hoàng thượng với tiểu thư đang tán tỉnh, ve vãn nhau, tự nhiên lại kéo nô tỳ vào làm gì thế?”
Huyền Lăng đang vui vẻ, tiện tay tháo một chiếc nhẫn ngọc xuống vứt cho Hoán Bích, vỗ tay cười lớn: “Ngươi đúng là càng ngày càng biết nói chuyện hơn rồi đấy… Tán tỉnh, ve vãn? Nói hay lắm, trẫm thích.”
Hoán Bích vội khom người tạ ơn: “Nô tỳ tạ ơn Hoàng thượng ban thưởng”, sau đó liền xoay người ra ngoài, không ở lại quấy rầy chúng tôi nữa.
Huyền Lăng nằm sóng vai với tôi, khẽ hỏi: “Nghe nói hôm nay nàng tới Ngọc Chiếu cung đúng không? Trời đang nắng thế này tới đó làm gì, không sợ mấy điều kiêng kị đó sao, mà lỡ như bị cảm nắng thì lại càng tệ.”
Tôi cười đáp: “Thần thiếp đâu có chủ nguyệt, sợ gì việc Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt chứ.” Tôi tựa đầu vào cánh tay Huyền Lăng, vừa mân mê mép áo vừa khẽ nói: “Thần thiếp chẳng qua chỉ lấy mình mà xét người thôi, Từ Tiệp dư cũng đang mang thai như thần thiếp, thần thiếp được sống sung sướng ở Nhu Nghi điện, muội ấy thì lại bị cấm túc trong Ngọc Chiếu cung, chỉ vừa mới nghĩ tới đó là thần thiếp đã cảm thấy không đành lòng rồi.”
Huyền Lăng vuốt ve bàn tay tôi, tỉ tê nói: “Các phi tần trong cung thấy nàng ta bị cấm túc thì đều né tránh, chỉ duy có nàng là còn dám tới đó thôi.”
Tôi hơi nghiêng đầu qua một bên, che miệng cười nói: “Từ muội muội còn trẻ, lại đang có thai, tất nhiên là người trong tâm khảm Hoàng thượng rồi, thần thiếp chẳng qua chỉ đi thay Hoàng thượng một chuyến mà thôi. Khi tới đó, thần thiếp cũng nói luôn là mình đi theo ý của Hoàng thượng, vừa hay có thể khiến Từ muội muội yên tâm, sau này sinh cho Hoàng thượng một vị hoàng tử béo tròn, trắng trẻo.” Tôi nhón một quả anh đào lên bỏ vào miệng Huyền Lăng, tỏ ra nghiêm túc nói: “Thần thiếp hỏi một câu thực lòng, Hoàng thượng thực sự không quan tâm tới Từ muội muội chút nào sao?”
Huyền Lăng quàng tay qua vai tôi, trong mắt tràn ngập nét cười. “Trẫm vẫn thường hay nói nàng thông minh hiểu chuyện nên cũng không giấu nàng làm gì, Yến Nghi vào cung đã được bốn năm nhưng tình cảm của trẫm với nàng ta thực sự không nhiều, nói là quan tâm tới nàng ta còn chẳng bằng nói là quan tâm tới đứa bé.”
Tôi lặng im trong chốc lát, dù cảm thấy lòng dạ lạnh băng nhưng cũng biết đó là sự thực, bèn nói: “Bất kể là thế nào cũng tốt, thần thiếp chẳng qua chỉ truyền đạt một chút tâm ý thay Hoàng thượng mà thôi.” Nói xong, tôi cũng cảm thấy bầu không khí có chút nặng nề, bèn xoay người đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.
Huyền Lăng xoay người tôi lại, trịnh trọng nói: “Trẫm biết là nàng đã cả nghĩ rồi nhưng nàng và Yến Nghi đâu có giống nhau, tình cảm giữa trẫm và nàng là như thế nào chứ, bây giờ nàng lại có thai, trong lòng trẫm, nàng và đứa bé quan trọng như nhau, không bên nào hơn bên nào.”
Tôi bất giác cười khì, cầm chiếc quạt tròn đánh khẽ y một cái. “Hoàng thượng toàn dùng những lời ngọt ngào đó dỗ dành cho người ta vui thôi.” Suy nghĩ một chút, tôi lại nói: “Khâm Thiên giám nói tinh tượng có điềm Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt, Hoàng thượng không thể không để tâm tới Thái hậu và Hoàng hậu, có điều nếu đợi Thái hậu và Hoàng hậu khỏe hẳn thì không biết phải tới bao giờ, Hoàng thượng cũng nên nghĩ đến Từ Tiệp dư một chút. Hôm nay thần thiếp tới thăm, thấy sắc mặt muội ấy không tốt lắm, sợ là vì suy nghĩ quá nhiều nên làm tổn thương tới thân thể.”
Huyền Lăng nghe thế thì không kìm được giận dữ, nói: “Đúng là một lũ hồ đồ! Tuy nói là cấm túc nhưng trẫm đã ra lệnh không để nàng ta thiếu thốn thứ gì, còn sai thái y ngày ngày tới thăm, sao lại như vậy?”
Tôi dịu dàng nói: “Thái y chỉ chữa được bệnh chứ không chữa nổi trái tim, mà trái tim con gái thì cần có sự quan tâm săn sóc của Hoàng thượng mới được, huống hồ Từ Tiệp dư lại đang có thai.”
Huyền Lăng nhắm mắt trầm ngâm một lát, đoạn khẽ nói: “Đâu phải trẫm không muốn quan tâm tới nàng ta, nhưng mỗi lần gặp trẫm nàng ta đều rất yên tĩnh. Ban đầu trẫm còn cảm thấy như thế là dịu dàng, trầm lặng, nhưng lâu dần thì chỉ còn cảm giác nhạt nhẽo thôi. Cùng là người bụng đầy học thức, tinh thông ca phú thơ từ, sao nàng ta lại không được thú vị như nàng nhỉ?”
Tôi mỉm cười, nói: “Từ Tiệp dư có chỗ tốt của Từ Tiệp dư, lâu dần rồi Hoàng thượng khắc tỏ tường hết thảy. Nhưng hiện giờ điều quan trọng nhất vẫn là giúp Từ Tiệp dư an thai.” Tôi suy nghĩ một chút rồi mới tiếp: “Hôm nay khi tới Ngọc Chiếu cung, thần thiếp có mang ít đồ cho Từ Tiệp dư, nói là do Hoàng thượng chọn, muội ấy lập tức tỏ ra mừng rỡ vô cùng. Hiện giờ muội ấy đang bị cấm túc, Hoàng thượng không tiện đi thăm muội ấy nhưng thưởng cho muội ấy chút đồ gì đó cũng tốt mà.”
Huyền Lăng nhìn tôi vẻ trìu mến. “Nàng thích nàng ta lắm sao?”
Tôi vừa phê phẩy chiếc quạt vừa cười dịu dàng, nói: “Mới gặp có một lần, đâu đã nói là thích hay không thích được, có điều Từ Tiệp dư tính tình trầm lặng, hơn nữa lại cũng mang thai giống thần thiếp, cho nên thần thiếp mới có chút cảm tình với muội ấy thôi.”
Huyền Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: “Vậy ta sẽ nghe nàng.” Sau đó gọi Lý Trường lại: “Bảo Tiểu Vưu chọn lấy một ít đồ ăn mà Từ Tiệp dư thích đưa qua đó, thường ngày nhớ mang đồ tới Ngọc Chiếu cung nhiều một chút.”
Lý Trường vâng lời rời đi, tôi lớn tiếng nói với Cận Tịch: “Đi lấy hoa quả dầm băng tới đây.”
Huyền Lăng ôm tôi vào lòng, cười nói: “Hoàn Phi của trẫm đúng là nhỏ mọn quá chừng, trẫm đã tới đây lâu như vậy rồi mà mới nghĩ tới việc mang cho trẫm một bát hoa quả dầm băng giải khát.”
Tôi cười hì hì biện bạch: “Thần thiếp cũng chỉ suy nghĩ cho Hoàng thượng thôi, không ngờ Hoàng thượng lại nói thần thiếp như vậy. Vừa rồi khi mới vào đây, đầu Hoàng thượng đầy mồ hôi, nếu ăn hoa quả dầm băng ngay sẽ rất dễ bị đau bụng, do đó thần thiếp phải trò chuyện với Hoàng thượng một lát trước, sau đó mới kêu người mang lên.”
Huyền Lăng xúc một thìa hoa quả lên ăn, nhìn tôi âu yếm. “Ngay đến hoa quả dầm băng ở chỗ nàng cũng ngọt hơn ở chỗ người khác.”
Tôi trề môi, cười nói: “Hoàng thượng lòng dạ ngọt ngào là được rồi, việc gì phải đi khen một bát hoa quả dầm băng như thế? Chẳng qua chỉ là một món ăn bình thường mà thôi.”
“Chính hai chữ bình thường đó mới đáng quý, còn nếu trịnh trọng quá thì đâu có giống một gia đình bình thường.” Huyền Lăng phủi nhẹ vạt áo một cái, ghé tai tôi thì thầm: “Đêm nay trẫm sẽ ở lại Nhu Nghi điện, hy vọng sẽ có thứ ngọt ngào hơn nữa.”
Tôi đỏ bừng hai má, khẽ phỉ phui một tiếng: “Giữa ban ngày ban mặt mà Hoàng thượng cứ thích trêu thần thiếp.” Sau đó chợt nghiêm mặt lại. “Hoàng thượng đã quên lời dặn dò của thái y rồi sao? Cái thai này của thần thiếp không ổn định, cần phải tĩnh dưỡng, thần thiếp thực sự không thể hầu hạ Hoàng thượng được.” Thấy Huyền Lăng lộ vẻ buồn bã, tôi bèn lay nhẹ cánh tay y, nói: “Hoàng thượng phải làm một vị phụ hoàng tốt đấy nhé!”
Huyền Lăng vuốt ve bờ má tôi, nói giọng trìu mến: “Vậy nàng hãy chú ý giữ gìn.” Sau đó liền gõ ngón tay vào chấn song cửa sổ ba cái.
Gõ ngón tay ba cái tức là có ý “chọn thẻ bài”, người đi vào là thái giám thống lĩnh của Kính sự phòng Từ Tiến Lương, gã khom người bưng theo một chiếc khay mạ vàng chạm hình rồng phủ bằng vải đỏ, bên trên đặt mấy chục tấm lục đầu bài. Huyền Lăng tiện tay lật được tấm thẻ bài viết chữ “Phúc Tần”, bèn cười nói: “Trẫm cũng lâu lắm rồi chưa gặp nàng ta, sau khi dùng bữa tối với nàng xong sẽ qua chỗ nàng ta vậy.”
Tôi tươi cười rạng rỡ. “Dạ!”
Dùng bữa tối xong, tôi tiễn Huyền Lăng rời đi, sau đó liền đưa mắt ra hiệu cho Cận Tịch mời Lý Trường tới.
Quả nhiên chỉ chừng nửa canh giờ sau Lý Trường đã tới, gã cung kính hỏi: “Chẳng hay nương nương có điều chi dặn dò?”
Tôi nhón một viên Lũ kim hương dược[1] lên ăn, sau đó mới cười, nói: “Mau lấy ghế cho Lý công công.”
[1] Tên một thứ đồ ăn được ghi lại trong sách cổ – ND.
Lý Trường vội hô lên “không dám” rồi lại nói: “Nô tài phải đợi Hoàng thượng nghỉ ngơi ở chỗ Phúc Tần tiểu chủ rồi mới có thể tới đây, mong nương nương thứ tội.”
Tôi khẽ cười. “Có gì mà thứ tội với không thứ tội chứ, công công có thể tranh thủ tới đây như vậy là tốt lắm rồi.” Dừng một chút, tôi lại tiếp. “Lũ kim hương dược này đúng là không tệ, mau đem một đĩa nữa tới đây cho Lý công công nếm thử đi.” Thấy y đã ngồi xuống, tôi lại cười, nói: “Cũng không có việc gì quan trọng, ta chỉ muốn hỏi thăm công công về Từ Tiệp dư thôi.”
Lý Trường cười híp mắt, nói: “Tiệp dư tiểu chủ cũng là người có phúc, mang được thai rồng, có điều phúc phận của cô ấy làm sao mà so được với nương nương.”
Chẳng qua chỉ là một câu nịnh nọt bình thường, vậy nhưng bên trong lại ẩn chứa sự tinh quái và lõi đời của một cung nhân lâu năm, tôi khẽ cười, nói: “Công công có gì thì cứ nói thẳng đi, việc gì còn phải đánh đố bản cung như thế.” Dứt lời bèn quay sang dặn dò Hoa Nghi: “Công công đi đường vất vả, chắc còn chưa ăn cơm, bảo nhà bếp nấu một bát mì cá mang tới đây.”
Mì cá là một món ăn hết sức cầu kỳ, trước tiên cần luộc chín con cá xanh chỉ có ở đầm Vân Mộng, sau đó bỏ xương lóc da rồi băm phần thịt ra thật nhuyễn mà trộn với bột mì, tiếp đến thái ra thành sợi rồi đun cho chín, cuối cùng còn cần rưới lên một ít canh gà mới xong. Tôi nói vậy là có ý giữ Lý Trường lại trò chuyện kĩ càng.
Lý Trường tất nhiên hiểu rõ, bèn cười nói: “Lại khiến nương nương phải mất công rồi.” Y kê chiếc ghế nhỏ tới đặt trước mặt tôi, nói tiếp: “Tiệp dư tiểu chủ kỳ thực không đắc sủng lắm, việc này nương nương tới xem hồ sơ ở Kính sự phòng là biết ngay thôi. Suốt mấy năm trong cung vừa qua, số lần Tiệp dư tiểu chủ được sủng hạnh quả thực không nhiều.”
Tôi chỉ tay vào đĩa Lũ kim hương dược trên bàn, nói với Tiểu Doãn Tử: “Ta ăn chán rồi, đem đổi lấy một đĩa mơ chua tới đây.” Sau đó mới chậm rãi nói ra điều nghi vấn của mình: “Từ Tiệp dư tuy không phải hạng mỹ nhân khuynh quốc khuynh thành nhưng nhan sắc cũng vào hạng coi được, ít nhất cũng không thua kém gì Tào Cầm Mặc khi xưa, ngoài ra còn khá tài hoa, lại một lòng một dạ với Hoàng thượng, cớ gì mà Hoàng thượng không mấy sủng ái nàng ta như thế?”
Lý Trường khẽ thở dài, than: “Dù Từ Tiệp dư có tốt đến mấy thì cũng vậy thôi, Hoàng thượng không nhìn thấy thì có cách gì được? Tiệp dư tiểu chủ có tài thêu thùa may vá, từng làm cho Hoàng thượng không ít quần áo giày tất, nhưng nói một câu thực lòng, có An Quý tần với tài thêu thùa như thế ở bên, mấy năm nay gần như chẳng có món đồ nào khác tới được tay Hoàng thượng, dù có một, hai món thì cũng không được cẩn thận cất giữ, chỉ thoáng cái là đã biến mất chẳng còn tung tích. Khi mới vào cung, Từ Tiệp dư chỉ là tài nhân, được Hoàng thượng sủng hạnh một lần xong thì được thăng làm quý nhân, đến cả phong hiệu cũng chẳng có. Bẵng đi hơn một năm, Hoàng thượng vì việc ngũ thạch tán mà ốm nặng, khi đó Từ Tiệp dư còn là uyển nghi, đã quỳ trước Thông Minh điện suốt một ngày một đêm để cầu phúc cho Hoàng thượng, bị hư thoát đến nỗi thiếu chút nữa thì không qua khỏi, nhưng người hay biết sự việc và có thể làm chủ thì lại không báo lên, Hoàng thượng làm sao mà biết được.”
“Người hay biết sự việc và có thể làm chủ…” Tôi thoáng lộ vẻ trầm ngâm.
Lý Trường mặt không đổi sắc, chậm rãi kể: “Hoàng hậu khi đó một lòng một dạ lo cho Hoàng thượng… Về sau trong lúc Thái hậu vui mừng vì sức khỏe của Hoàng thượng khôi phục, Kính Phi và Huệ Quý tần có nhắc đến một chút, thế là Tiệp dư tiểu chủ mới được Thái hậu thăng lên làm dung hoa. Rồi Hoàng thượng loáng thoáng nghe nói về việc này, khá xót thương Từ Tiệp dư, liền thường xuyên tới Không Thúy đường ngồi chơi nhưng còn việc sủng hạnh thì cũng lác đác, thai rồng kỳ thực là do cơ duyên xảo hợp mà có.”
Tôi khẽ thở dài một tiếng, chậm rãi nói: “Nàng ta cũng chẳng dễ dàng gì. Hôm nay bản cung tới thăm nàng ta, thấy thần sắc nàng ta không được tốt lắm, e là vì bị cấm túc nên lòng mang quá nhiều tâm sự.”
Những nếp nhăn trên mặt Lý Trường sau bao năm tươi cười đã trở thành hình dạng cố định, khuôn mặt không bao giờ ngớt nụ cười, thành ra khó có thể nhìn thấy vẻ mặt thật. “Do đó nô tài mới nói phúc phận của Từ Tiệp dư không sâu dày bằng nương nương.”
Tôi cười nói: “Có sâu dày hay không thì bản cung không rõ, nhưng có công công trợ giúp, nhất định là chẳng thể nào mỏng manh được.”
Vừa dứt lời thì Cận Tịch bước tới, cung kính nói: “Bẩm nương nương, mì cá làm xong rồi.”
Tôi đưa mắt liếc Cận Tịch, đoạn nói với Lý Trường: “Bản cung cũng mệt rồi, công công mau ra phòng ngoài ăn mì đi cho nóng.”
Cận Tịch khẽ gật đầu, nói: “Nương nương nghỉ ngơi đi, để nô tỳ hầu hạ công công là được rồi.”
Tôi mỉm cười nói: “Vậy cũng tốt, hai người đã mấy ngày không gặp, tất nhiên có rất nhiều lời muốn nói với nhau, mau đi đi.”
Lý Trường đang định cáo lui rời đi, chợt thấy đồ đệ của y là Tiểu Hạ Tử hành lễ xong rồi bước vào, khẽ gọi một tiếng: “Sư phụ…” Sau đó bèn thõng tay đứng lặng im ở đó.
Vì hôm nay Tiểu Hạ Tử là người trực đêm cho Huyền Lăng, Lý Trường bèn hơi cau mày, quát: “Có việc gì mà lén lén lút lút như thế, ở trước mặt nương nương có lời gì mà không thể nói ra hay sao?”
Tiểu Hạ Tử đưa mắt liếc tôi, hoang mang cúi gằm mặt xuống. “Hoàng thượng vốn đã đi nghỉ ở chỗ Phúc Tần tiểu chủ, ai ngờ bên phía Tường Tần lại cho người đến nói cái gì mà Tường Tần vì âm khí nặng nên bị bóng đè, muốn mời Hoàng thượng qua đó.”
Lý Trường cười nhăn nhó, nói: “Đã bao nhiêu năm rồi mà vẫn chẳng thay đổi chút nào.”
Phúc Tần, Tường Tần, Kỳ Tần cùng với Thụy Tần đã qua đời đều là hậu nhân của công thần trong việc bình định Nhữ Nam Vương năm đó, bọn họ vào cung cùng ngày, trở thành quý nhân, đều ở tại Mật Tú cung của Hoa Phi thuở trước. Sau khi Thụy Tần tự vẫn, Kỳ Tần dọn ra ngoài, chỉ còn lại hai người Tường Tần và Phúc Tần là vẫn ở trong Mật Tú cung. Tường Tần tính tình ngang ngược, Phúc Tần thì hiền lành thật thà, Tường Tần tranh sủng không lại người khác nhưng lại dám cướp sự ân sủng của Phúc Tần, mỗi lần Huyền Lăng tới nghỉ đêm ở tẩm điện của Phúc Tần là cô ta lại nghĩ đủ mọi cách mời Huyền Lăng đi. Nhưng cô ta đẹp hơn Phúc Tần, cũng lanh lợi hoạt bát hơn, do đó được Huyền Lăng yêu thích hơn một chút.
Tôi hơi cụp mắt xuống, hờ hững nói: “Trước khi bản cung rời cung, Tường Tần đã như vậy rồi, sao sau bao nhiêu năm mà tính cách cô ta chẳng thay đổi chút nào thế?”
Lý Trường đáp: “Cũng tại Phúc Tần tiểu chủ tính tình hiền lành quá, cùng ở trong một cung mà lại không chịu trở mặt, càng không chịu nói nỗi khổ của mình ra với người ngoài, để mặc Tường Tần tiểu chủ làm bậy suốt bao năm nay.”
Tôi đưa tay chống cằm, trầm ngâm nói: “Hoàng hậu và Kính Phi không quản đến chút nào sao?”
Lý Trường cúi đầu khẽ thưa: “Kính Phi nương nương… Những năm nay Kính Phi nương nương tiếng là có quyền, hiệp trợ quản lý lục cung, kỳ thực lời nói chẳng có chút trọng lượng nào. Còn Hoàng hậu… Chẳng qua là hai phi tần không đắc sủng lắm đấu đá với nhau, Hoàng hậu chỉ trách mắng vài câu rồi cho qua, không để tâm tới nữa.”
Trong noãn các, những bông hoa sơn chi vẫn tỏa hương dìu dịu, ngửi lâu rồi, mùi hương đó như thể mãi vất vương nơi đầu mũi. Tôi giận dữ nói: “Sự ngang ngược của Tường Tần thật khiến người ta khó chịu. Bản cung không có quyền hiệp trợ quản lý lục cung nên tất nhiên không thể xử trí, nhưng cũng không thể khoanh tay đứng nhìn việc này được.” Sau đó bèn quay sang dặn dò Lý Trường: “Tường Tần đã bị bóng đè, vậy hãy thay bản cung thưởng cho cô ta một nồi canh trân châu gạo lứt, nhớ là phải dùng loại nồi to bằng năm chiếc bát tô đấy!”
Canh trân châu mà nấu bằng hạt bo bo bình thường thì còn đỡ, nhưng gạo lứt là loại gạo chỉ xay bỏ lớp vỏ trấu, chưa được làm sạch, ăn thô ráp, nấu tốn thời gian, mà cho dù có nấu chín thì cũng vẫn khó nuốt vô cùng.
Lý Trường không kìm được cười nói: “Chủ ý của nương nương thật hay quá, như vậy không những có thể làm Tường Tần bớt kiêu ngạo mà còn khiến người ta không chỉ trích được gì.”
Cận Tịch cũng mím môi cười khẽ. “Tường Tần tiểu chủ bị bóng đè đang cần gấp, khỏi phải nấu chín làm gì, cứ đun sôi lên rồi mang qua đó là được.”
Tôi nói giọng khinh miệt: “Hoàng thượng giờ chắc đang ở chỗ cô ta, Lý Trường ngươi hãy đích thân mang tới đó, ở ngay trước mặt Hoàng thượng để xem cô ta có dám không uống không. Không phải là bị bóng đè ư? Vậy hãy kêu cô ta uống hết cả nồi canh đó, không được phép sót lại chút nào.”
Lý Trường vội vàng khom người cáo lui.
Cận Tịch cười tủm tỉm rót cho tôi một chén trà, khẽ hỏi: “Nương nương làm vậy thực là khiến lòng người sảng khoái nhưng tại sao lần này nương nương lại tức giận như vậy? Nếu là trước đây, nương nương nhất định sẽ chỉ mỉm cười cho qua chuyện thôi.”
Tôi cười đáp: “Ngươi cứ chờ xem, ta tự có đạo lý của ta.”
Đến ngày hôm sau, mọi người trong cung đều biết việc tôi thưởng cho Tường Tần một nồi canh trân châu gạo lứt để giúp cô ta chữa bệnh bóng đè, khiến cô ta uống đến nỗi chẳng thể bò dậy khỏi giường. Huyền Lăng khi tới thăm tôi không hề tỏ ra tức giận, còn cười ha hả, nói: “Nàng giận Tường Tần làm gì chứ, tính tình nàng ta là như vậy, tuy có hơi nông cạn, bừa bãi nhưng cũng khá đáng yêu.”
Tôi ngồi soi mình trước gương, nhìn những lọn tóc của mình được đôi tay Hoán Bích uốn qua uốn lại thoăn thoắt không ngừng, ung dung nói: “Hoàng thượng muốn sau này trong hậu cung tràn ngập những sự đấu đá tranh giành hay là mong tất cả mọi người đều tốt tính giống như Phúc Tần đây?”
Huyền Lăng đặt tay lên bờ vai tôi, khẽ cười nói: “Phúc Tần tuy phải chịu ấm ức nhưng cũng đâu có ý kiến gì, huống chi những việc thế này còn chưa thể tính là đấu đá tranh giành, nàng nặng lời quá rồi.”
Hoán Bích lúc này đã bới xong cho tôi kiểu tóc linh xà, lại dùng nước hoa nhài miết những sợi tóc rối xuống và cài vào bên trong búi tóc mấy bông hoa nhài, khiến búi tóc của tôi tỏa hương thoang thoảng dù không ai có thể nhìn thấy hoa, thực là thanh tao hết mực. Tôi thoáng ngắm mình trong gương, sau đó mới nói: “Hoàng thượng chưa nghe câu con đê dài ngàn dặm sụt toang vì ổ kiến đó ư? Hoàng thượng nghĩ rằng chỉ dung túng cho Tường Tần vài lần như vậy thì không có gì, nhưng nếu sau này mọi người trong cung học theo cô ta, những người như Phúc Tần lâu ngày rồi sẽ sinh lòng oán hận, còn hạng như Tường Tần thì sẽ ỷ được sủng ái mà kiêu căng, ấy thực là một tai họa ngầm vô cùng to lớn.” Thấy Huyền Lăng lộ vẻ suy tư, tôi lại chậm rãi nói tiếp: “Hơn nữa, Hoàng thượng rõ ràng đã lật được thẻ bài của Phúc Tần, vậy mà Tường Tần còn bày trò vờ vịt. Nếu cô ta thực sự bị bóng đè thì cứ gọi thái y tới chữa trị là được, việc gì phải làm ầm lên như thế? Hoàng thượng mỗi ngày đều có buổi chầu sớm, há có thể vì cô ta mà bị ảnh hưởng. Nếu Thái hậu biết được việc này, người nhất định sẽ trách Hoàng thượng không biết giữ gìn bản thân, rồi kiểu gì cũng lại nảy sinh rắc rối.”
Huyền Lăng đăm chiêu suy nghĩ một chút rồi mỉm cười nói: “Trẫm chỉ nhất thời dung túng cho tính khí của Tường Tần, không ngờ lại phạm phải nhiều sai lầm như vậy.”
Tôi cũng khẽ cười. “Đây đâu phải là sai lầm của Hoàng thượng, đều là tại Tường Tần buông thả quá đó thôi.” Sau đó lại thở dài một tiếng, than: “Tường Tần cũng đã vào cung khá lâu rồi, không ngờ còn không hiểu chuyện như vậy, thật khiến người ta hết cách. Tuy thần thiếp đã trừng phạt cô ta một chút nhưng chẳng biết sau này cô ta có chịu lấy đó làm bài học không nữa.”
Huyền Lăng trầm ngâm nói: “Như vậy xem ra trẫm cũng nên phạt Tường Tần một chút mới được, còn cần an ủi Phúc Tần nữa.” Y kéo bàn tay tôi lại, cất tiếng khen: “Hoàn Hoàn, lần này nàng làm đúng lắm!”, sau đó liền hạ lệnh cắt bổng lộc của Tường Tần trong vòng nửa năm, lại ban thưởng cho Phúc Tần rất nhiều thứ coi như an ủi.
Sau việc này, nếp sống trong cung lập tức tốt hẳn lên, gần như không còn phi tần nào dám ỷ được sủng ái mà kiêu căng, ngang ngược nữa. Ngay đến My Trang khi tới thăm tôi cũng cười nói: “Thái hậu biết việc này thì rất vui, cứ khen muội không ngớt lời ấy.”
Tôi khẽ cười hờ hững. “Thái hậu cũng biết rồi sao?”
My Trang đáp: “Trong cung bây giờ có ai mà không biết chứ. Hoàn Phi nương nương khí thế oai hùng, loáng cái đã đè nén được cái thói đấu đá tranh giành trong hậu cung. Thái hậu vốn còn mang lòng nghi ngờ muội, bây giờ thì đã hoàn toàn yên tâm rồi.”
Tôi trầm giọng nói: “Tỷ đâu biết được chỗ khó xử của muội, nếu muội không ra tay với Tường Tần thì Thái hậu ắt sẽ mang lòng nghi ngờ, sợ rằng muội là loại hồ ly lẳng lơ; bây giờ muội ra tay rồi thì lại trở thành cái gai trong mắt của rất nhiều người khác.”
My Trang đăm chiêu một lát rồi nói: “Làm vừa lòng Thái hậu vẫn là điều quan trọng nhất.”
Tôi cố nén nụ cười nơi khóe miệng, thản nhiên nói: “Trong mắt Thái hậu, mấy việc như thế chẳng qua chỉ là trò vặt vãnh mà thôi, đâu có đáng kể gì. Huống chi việc tranh giành đấu đá trong cung há có thể dễ dàng đè nén như thế được, chẳng qua chỉ giảm bớt phần nào mà thôi.” Nhưng kỳ thực, điều mà tôi để tâm nhất chính là thái độ của Thái hậu. Việc trừng phạt Tường Tần vừa rồi thứ nhất là có thể đè nén thói tranh giành đấu đá trong hậu cung, khiến các phi tần sinh lòng kính sợ, không dám làm bừa nữa; còn thứ hai, chính như My Trang vừa nói, chỉ khi nào Thái hậu không còn nghi ngờ nữa tôi mới có thể thoát khỏi sự trói buộc, trở thành một con cá tự do, đồng thời địa vị của bản thân cũng được củng cố.
Nghĩ đến đây, tôi khẽ nhấp một ngụm trà, trong lòng trào dâng cảm giác vô cùng thư thái.
Suốt mấy ngày sau đó, Tường Tần cứ nhìn thấy tôi là giống như chuột thấy mèo, có thể tránh được thì tránh, cố hết sức không chạm mặt tôi; nếu thực sự không tránh được, cô ta sẽ ở cách tôi thật xa, cúi gằm mặt làm bộ như không nhìn thấy tôi. Đương nhiên, cô ta sợ tôi không chỉ bởi vì nồi canh trân châu gạo lứt kia. Thậm chí trong hai ngày đầu tiên, cô ta còn từng oán trách tôi rất nhiều vì tôi ép cô ta phải uống nồi canh đó.
Hôm ấy, Cận Tịch và Hoa Nghi cùng tôi tới Quân Chiêu điện của Kính Phi, trên đường có đi qua vĩnh hạng. Sống trong vĩnh hạng đa phần là các cung tần và cung nữ bất đắc chí, do đó vừa lạnh lẽo lại vừa trống trải, thường xuyên có rất nhiều gian phòng trống. Hoa Nghi đi được nửa đường thì buồn đi tiểu, mà nơi đó cách Nhu Nghi điện và Quân Chiêu điện rất xa, thế là đành tìm lấy một gian phòng trống trong vĩnh hạng mà giải quyết tạm.
Chờ mãi không thấy Hoa Nghi quay trở lại, tôi và Cận Tịch đều nôn nóng, liền đi về hướng cô nàng vừa mới đi, chợt nhìn thấy Hoa Nghi đang đứng dưới một bức tường, ghé sát tai vào đó mà cau mày lắng nghe.
Tôi nhất thời tò mò, liền cũng đi tới đó. Ở trong cung lâu rồi mọi người sẽ phát hiện, nghe lén người khác nói chuyện kỳ thực là một cách tiêu khiển rất hay, đặc biệt là với những người đã rời cung khá lâu như tôi. Bình thường có rất nhiều lời mà người ta sẽ không tùy tiện hé răng dù chỉ là một chút nhưng đã vào những chỗ kín đáo thì sẽ chẳng còn kiêng dè gì nữa. Cũng chính vì thế mà trong chốn cung đình to lớn này trước giờ chưa từng thiếu lời đồn, cũng chẳng bao giờ thiếu những lời than phiền oán trách. Bạn có thể nghe thấy tiếng than vãn của các cung nữ với nhau, họ than trời than đất than chủ nhân, lại than rằng ông trời sao chẳng chịu ban cho mình chút vận may nào; cũng có thể nghe thấy tiếng rì rầm trò chuyện của các thái giám, rằng hôm nay Hoàng đế sủng hạnh vị phi tần nào, bản thân vừa được thưởng bao nhiêu bạc; rồi còn có thể nghe thấy tiếng một cặp tình nhân cung nữ thái giám nào đó thân mật với nhau, thậm chí là những lời nguyền rủa hay khẩn cầu tự đáy lòng của một phi tần thất sủng. Bạn chỉ cần đứng dưới một góc tường thoạt nhìn vắng vẻ nào đó một ngày, vậy là sẽ có thể biết được rất nhiều chuyện tưởng chừng như bí mật trong cung.
Hoa Nghi là một cao thủ trong việc nghe lén, đồng thời còn biết cách truyền đạt những lời tôi muốn nói tới tai người khác mà không làm ai nghi ngờ gì, đây chính là chỗ được việc nhất của cô nàng. Cũng vì thế nên lúc này vừa mới thấy vẻ mặt Hoa Nghi, tôi lập tức biết rằng cô nàng đã lại nghe được chuyện gì đó rồi.
Tôi vốn đã nghe quen thứ giọng the thé chói tai kia của Tường Tần, lúc này cô ta đang nói những lời chua ngoa, đanh đá tựa như một lưỡi dao cứa qua da thịt người ta: “Con tiện nhân Lê thị đó thường ngày trông có vẻ ngoan ngoãn hiền lành, vậy mà mới thoáng đó đã biết đi tìm người khác tố cáo rồi, đúng là giống chó biết cắn người thì không hay sủa!”
Dường như có một ả cung nữ đang đứng bên khuyên nhủ: “Tiểu chủ hãy tạm thời nhẫn nhịn, bây giờ ngay đến Hoàng thượng cũng giúp Phúc Tần, chống lưng cho Hoàn Phi, tiểu chủ oán trách thế này sẽ chỉ làm hại đến thân thể mình thôi.”
Tường Tần “hừ” lạnh một tiếng: “Hoàn Phi thì là cái thá gì chứ? Chẳng qua Hoàng thượng vẫn còn muốn nhìn cái bộ dạng lẳng lơ đó của cô ta một chút mà thôi, thế mà lại dám ỷ mình có địa vị cao để sỉ nhục ta. Cô ta không tự xem xem mình là ai chứ, đã vào chùa rồi mà còn không yên phận, nghĩ đủ mọi cách để quyến rũ Hoàng thượng, nghĩ rằng mình to bụng rồi thì ghê gớm lắm sao? Ta nhất định phải cho cô ta biết sự lợi hại của ta mới được!”
Hoa Nghi cẩn thận đưa mắt liếc tôi, tôi chỉ khẽ cười hờ hững, lớn tiếng nói: “Ngươi lợi hại thế nào thì bản cung không biết, bản cung chỉ biết là tai vách mạch rừng, Tường Tần cứ nên cẩn thận. Có thời gian để chửi người khác thế này thà tranh thủ về ăn nhiều canh trân châu gạo lứt một chút, như thế mới chữa dứt điểm được cái bệnh bóng đè.”
Nơi này trống trải, tiếng vọng dập dềnh lại càng khiến giọng nói của tôi thêm vẻ lạnh lùng. Mãi một hồi lâu sau phía bên kia không có tiếng đáp lại, Hoa Nghi trèo lên tường ngó qua, không kìm được cười khúc khích, nói: “Bên này không có ai, chắc cô ta nghe thấy nương nương nói thế thì đã sợ chạy mất hút rồi.”
Tôi nói giọng xem thường: “Cô ta là loại miệng hùm gan sứa, cứ phải làm cho cô ta biết sợ mới được.”
Kể từ đó, bất kể là trước mặt hay bên tai tôi đều rất ít khi thấy xuất hiện bóng dáng Tường Tần.
Tôi vội vàng đứng dậy định thỉnh an nhưng Huyền Lăng đã lập tức giữ tôi lại. “Đã thế này rồi còn câu nệ lễ tiết làm gì.”
Tôi cười yêu kiều, nói: “Thần thiếp đang nói là bàn chân mình giờ có hơi phù nề, đi giày mà phủ Nội vụ đưa tới không được thoải mái lắm, chỉ sợ đứa bé trong bụng sẽ không thoải mái theo.”
Huyền Lăng tháo chiếc giày gấm thêu hoa trên chân tôi xuống, cười nói: “Ở trong cung của mình thì cứ đi cái gì thoải mái nhất là được rồi.” Rồi y nâng chân tôi lên, lấy từ dưới gầm giường ra một đôi giày đế mềm màu đỏ tươi xỏ vào cho tôi. Tôi làm bộ làm tịch kêu lên: “Việc này sao có thể để Hoàng thượng làm được, Hoán Bích, sao cứ ngồi trơ mắt nhìn mà chẳng tới giúp đỡ chút nào thế?” Bản thân thì vẫn cứ ngồi yên đó, chẳng hề động đậy.
Huyền Lăng véo má tôi một cái, khẽ cười nói: “Nhìn cái bộ dạng đã muốn mà còn giả bộ của nàng kìa, lại còn nói Hoán Bích nữa.”
Hoán Bích hơi trề môi, không kìm được bật cười. “Hoàng thượng với tiểu thư đang tán tỉnh, ve vãn nhau, tự nhiên lại kéo nô tỳ vào làm gì thế?”
Huyền Lăng đang vui vẻ, tiện tay tháo một chiếc nhẫn ngọc xuống vứt cho Hoán Bích, vỗ tay cười lớn: “Ngươi đúng là càng ngày càng biết nói chuyện hơn rồi đấy… Tán tỉnh, ve vãn? Nói hay lắm, trẫm thích.”
Hoán Bích vội khom người tạ ơn: “Nô tỳ tạ ơn Hoàng thượng ban thưởng”, sau đó liền xoay người ra ngoài, không ở lại quấy rầy chúng tôi nữa.
Huyền Lăng nằm sóng vai với tôi, khẽ hỏi: “Nghe nói hôm nay nàng tới Ngọc Chiếu cung đúng không? Trời đang nắng thế này tới đó làm gì, không sợ mấy điều kiêng kị đó sao, mà lỡ như bị cảm nắng thì lại càng tệ.”
Tôi cười đáp: “Thần thiếp đâu có chủ nguyệt, sợ gì việc Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt chứ.” Tôi tựa đầu vào cánh tay Huyền Lăng, vừa mân mê mép áo vừa khẽ nói: “Thần thiếp chẳng qua chỉ lấy mình mà xét người thôi, Từ Tiệp dư cũng đang mang thai như thần thiếp, thần thiếp được sống sung sướng ở Nhu Nghi điện, muội ấy thì lại bị cấm túc trong Ngọc Chiếu cung, chỉ vừa mới nghĩ tới đó là thần thiếp đã cảm thấy không đành lòng rồi.”
Huyền Lăng vuốt ve bàn tay tôi, tỉ tê nói: “Các phi tần trong cung thấy nàng ta bị cấm túc thì đều né tránh, chỉ duy có nàng là còn dám tới đó thôi.”
Tôi hơi nghiêng đầu qua một bên, che miệng cười nói: “Từ muội muội còn trẻ, lại đang có thai, tất nhiên là người trong tâm khảm Hoàng thượng rồi, thần thiếp chẳng qua chỉ đi thay Hoàng thượng một chuyến mà thôi. Khi tới đó, thần thiếp cũng nói luôn là mình đi theo ý của Hoàng thượng, vừa hay có thể khiến Từ muội muội yên tâm, sau này sinh cho Hoàng thượng một vị hoàng tử béo tròn, trắng trẻo.” Tôi nhón một quả anh đào lên bỏ vào miệng Huyền Lăng, tỏ ra nghiêm túc nói: “Thần thiếp hỏi một câu thực lòng, Hoàng thượng thực sự không quan tâm tới Từ muội muội chút nào sao?”
Huyền Lăng quàng tay qua vai tôi, trong mắt tràn ngập nét cười. “Trẫm vẫn thường hay nói nàng thông minh hiểu chuyện nên cũng không giấu nàng làm gì, Yến Nghi vào cung đã được bốn năm nhưng tình cảm của trẫm với nàng ta thực sự không nhiều, nói là quan tâm tới nàng ta còn chẳng bằng nói là quan tâm tới đứa bé.”
Tôi lặng im trong chốc lát, dù cảm thấy lòng dạ lạnh băng nhưng cũng biết đó là sự thực, bèn nói: “Bất kể là thế nào cũng tốt, thần thiếp chẳng qua chỉ truyền đạt một chút tâm ý thay Hoàng thượng mà thôi.” Nói xong, tôi cũng cảm thấy bầu không khí có chút nặng nề, bèn xoay người đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.
Huyền Lăng xoay người tôi lại, trịnh trọng nói: “Trẫm biết là nàng đã cả nghĩ rồi nhưng nàng và Yến Nghi đâu có giống nhau, tình cảm giữa trẫm và nàng là như thế nào chứ, bây giờ nàng lại có thai, trong lòng trẫm, nàng và đứa bé quan trọng như nhau, không bên nào hơn bên nào.”
Tôi bất giác cười khì, cầm chiếc quạt tròn đánh khẽ y một cái. “Hoàng thượng toàn dùng những lời ngọt ngào đó dỗ dành cho người ta vui thôi.” Suy nghĩ một chút, tôi lại nói: “Khâm Thiên giám nói tinh tượng có điềm Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt, Hoàng thượng không thể không để tâm tới Thái hậu và Hoàng hậu, có điều nếu đợi Thái hậu và Hoàng hậu khỏe hẳn thì không biết phải tới bao giờ, Hoàng thượng cũng nên nghĩ đến Từ Tiệp dư một chút. Hôm nay thần thiếp tới thăm, thấy sắc mặt muội ấy không tốt lắm, sợ là vì suy nghĩ quá nhiều nên làm tổn thương tới thân thể.”
Huyền Lăng nghe thế thì không kìm được giận dữ, nói: “Đúng là một lũ hồ đồ! Tuy nói là cấm túc nhưng trẫm đã ra lệnh không để nàng ta thiếu thốn thứ gì, còn sai thái y ngày ngày tới thăm, sao lại như vậy?”
Tôi dịu dàng nói: “Thái y chỉ chữa được bệnh chứ không chữa nổi trái tim, mà trái tim con gái thì cần có sự quan tâm săn sóc của Hoàng thượng mới được, huống hồ Từ Tiệp dư lại đang có thai.”
Huyền Lăng nhắm mắt trầm ngâm một lát, đoạn khẽ nói: “Đâu phải trẫm không muốn quan tâm tới nàng ta, nhưng mỗi lần gặp trẫm nàng ta đều rất yên tĩnh. Ban đầu trẫm còn cảm thấy như thế là dịu dàng, trầm lặng, nhưng lâu dần thì chỉ còn cảm giác nhạt nhẽo thôi. Cùng là người bụng đầy học thức, tinh thông ca phú thơ từ, sao nàng ta lại không được thú vị như nàng nhỉ?”
Tôi mỉm cười, nói: “Từ Tiệp dư có chỗ tốt của Từ Tiệp dư, lâu dần rồi Hoàng thượng khắc tỏ tường hết thảy. Nhưng hiện giờ điều quan trọng nhất vẫn là giúp Từ Tiệp dư an thai.” Tôi suy nghĩ một chút rồi mới tiếp: “Hôm nay khi tới Ngọc Chiếu cung, thần thiếp có mang ít đồ cho Từ Tiệp dư, nói là do Hoàng thượng chọn, muội ấy lập tức tỏ ra mừng rỡ vô cùng. Hiện giờ muội ấy đang bị cấm túc, Hoàng thượng không tiện đi thăm muội ấy nhưng thưởng cho muội ấy chút đồ gì đó cũng tốt mà.”
Huyền Lăng nhìn tôi vẻ trìu mến. “Nàng thích nàng ta lắm sao?”
Tôi vừa phê phẩy chiếc quạt vừa cười dịu dàng, nói: “Mới gặp có một lần, đâu đã nói là thích hay không thích được, có điều Từ Tiệp dư tính tình trầm lặng, hơn nữa lại cũng mang thai giống thần thiếp, cho nên thần thiếp mới có chút cảm tình với muội ấy thôi.”
Huyền Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: “Vậy ta sẽ nghe nàng.” Sau đó gọi Lý Trường lại: “Bảo Tiểu Vưu chọn lấy một ít đồ ăn mà Từ Tiệp dư thích đưa qua đó, thường ngày nhớ mang đồ tới Ngọc Chiếu cung nhiều một chút.”
Lý Trường vâng lời rời đi, tôi lớn tiếng nói với Cận Tịch: “Đi lấy hoa quả dầm băng tới đây.”
Huyền Lăng ôm tôi vào lòng, cười nói: “Hoàn Phi của trẫm đúng là nhỏ mọn quá chừng, trẫm đã tới đây lâu như vậy rồi mà mới nghĩ tới việc mang cho trẫm một bát hoa quả dầm băng giải khát.”
Tôi cười hì hì biện bạch: “Thần thiếp cũng chỉ suy nghĩ cho Hoàng thượng thôi, không ngờ Hoàng thượng lại nói thần thiếp như vậy. Vừa rồi khi mới vào đây, đầu Hoàng thượng đầy mồ hôi, nếu ăn hoa quả dầm băng ngay sẽ rất dễ bị đau bụng, do đó thần thiếp phải trò chuyện với Hoàng thượng một lát trước, sau đó mới kêu người mang lên.”
Huyền Lăng xúc một thìa hoa quả lên ăn, nhìn tôi âu yếm. “Ngay đến hoa quả dầm băng ở chỗ nàng cũng ngọt hơn ở chỗ người khác.”
Tôi trề môi, cười nói: “Hoàng thượng lòng dạ ngọt ngào là được rồi, việc gì phải đi khen một bát hoa quả dầm băng như thế? Chẳng qua chỉ là một món ăn bình thường mà thôi.”
“Chính hai chữ bình thường đó mới đáng quý, còn nếu trịnh trọng quá thì đâu có giống một gia đình bình thường.” Huyền Lăng phủi nhẹ vạt áo một cái, ghé tai tôi thì thầm: “Đêm nay trẫm sẽ ở lại Nhu Nghi điện, hy vọng sẽ có thứ ngọt ngào hơn nữa.”
Tôi đỏ bừng hai má, khẽ phỉ phui một tiếng: “Giữa ban ngày ban mặt mà Hoàng thượng cứ thích trêu thần thiếp.” Sau đó chợt nghiêm mặt lại. “Hoàng thượng đã quên lời dặn dò của thái y rồi sao? Cái thai này của thần thiếp không ổn định, cần phải tĩnh dưỡng, thần thiếp thực sự không thể hầu hạ Hoàng thượng được.” Thấy Huyền Lăng lộ vẻ buồn bã, tôi bèn lay nhẹ cánh tay y, nói: “Hoàng thượng phải làm một vị phụ hoàng tốt đấy nhé!”
Huyền Lăng vuốt ve bờ má tôi, nói giọng trìu mến: “Vậy nàng hãy chú ý giữ gìn.” Sau đó liền gõ ngón tay vào chấn song cửa sổ ba cái.
Gõ ngón tay ba cái tức là có ý “chọn thẻ bài”, người đi vào là thái giám thống lĩnh của Kính sự phòng Từ Tiến Lương, gã khom người bưng theo một chiếc khay mạ vàng chạm hình rồng phủ bằng vải đỏ, bên trên đặt mấy chục tấm lục đầu bài. Huyền Lăng tiện tay lật được tấm thẻ bài viết chữ “Phúc Tần”, bèn cười nói: “Trẫm cũng lâu lắm rồi chưa gặp nàng ta, sau khi dùng bữa tối với nàng xong sẽ qua chỗ nàng ta vậy.”
Tôi tươi cười rạng rỡ. “Dạ!”
Dùng bữa tối xong, tôi tiễn Huyền Lăng rời đi, sau đó liền đưa mắt ra hiệu cho Cận Tịch mời Lý Trường tới.
Quả nhiên chỉ chừng nửa canh giờ sau Lý Trường đã tới, gã cung kính hỏi: “Chẳng hay nương nương có điều chi dặn dò?”
Tôi nhón một viên Lũ kim hương dược[1] lên ăn, sau đó mới cười, nói: “Mau lấy ghế cho Lý công công.”
[1] Tên một thứ đồ ăn được ghi lại trong sách cổ – ND.
Lý Trường vội hô lên “không dám” rồi lại nói: “Nô tài phải đợi Hoàng thượng nghỉ ngơi ở chỗ Phúc Tần tiểu chủ rồi mới có thể tới đây, mong nương nương thứ tội.”
Tôi khẽ cười. “Có gì mà thứ tội với không thứ tội chứ, công công có thể tranh thủ tới đây như vậy là tốt lắm rồi.” Dừng một chút, tôi lại tiếp. “Lũ kim hương dược này đúng là không tệ, mau đem một đĩa nữa tới đây cho Lý công công nếm thử đi.” Thấy y đã ngồi xuống, tôi lại cười, nói: “Cũng không có việc gì quan trọng, ta chỉ muốn hỏi thăm công công về Từ Tiệp dư thôi.”
Lý Trường cười híp mắt, nói: “Tiệp dư tiểu chủ cũng là người có phúc, mang được thai rồng, có điều phúc phận của cô ấy làm sao mà so được với nương nương.”
Chẳng qua chỉ là một câu nịnh nọt bình thường, vậy nhưng bên trong lại ẩn chứa sự tinh quái và lõi đời của một cung nhân lâu năm, tôi khẽ cười, nói: “Công công có gì thì cứ nói thẳng đi, việc gì còn phải đánh đố bản cung như thế.” Dứt lời bèn quay sang dặn dò Hoa Nghi: “Công công đi đường vất vả, chắc còn chưa ăn cơm, bảo nhà bếp nấu một bát mì cá mang tới đây.”
Mì cá là một món ăn hết sức cầu kỳ, trước tiên cần luộc chín con cá xanh chỉ có ở đầm Vân Mộng, sau đó bỏ xương lóc da rồi băm phần thịt ra thật nhuyễn mà trộn với bột mì, tiếp đến thái ra thành sợi rồi đun cho chín, cuối cùng còn cần rưới lên một ít canh gà mới xong. Tôi nói vậy là có ý giữ Lý Trường lại trò chuyện kĩ càng.
Lý Trường tất nhiên hiểu rõ, bèn cười nói: “Lại khiến nương nương phải mất công rồi.” Y kê chiếc ghế nhỏ tới đặt trước mặt tôi, nói tiếp: “Tiệp dư tiểu chủ kỳ thực không đắc sủng lắm, việc này nương nương tới xem hồ sơ ở Kính sự phòng là biết ngay thôi. Suốt mấy năm trong cung vừa qua, số lần Tiệp dư tiểu chủ được sủng hạnh quả thực không nhiều.”
Tôi chỉ tay vào đĩa Lũ kim hương dược trên bàn, nói với Tiểu Doãn Tử: “Ta ăn chán rồi, đem đổi lấy một đĩa mơ chua tới đây.” Sau đó mới chậm rãi nói ra điều nghi vấn của mình: “Từ Tiệp dư tuy không phải hạng mỹ nhân khuynh quốc khuynh thành nhưng nhan sắc cũng vào hạng coi được, ít nhất cũng không thua kém gì Tào Cầm Mặc khi xưa, ngoài ra còn khá tài hoa, lại một lòng một dạ với Hoàng thượng, cớ gì mà Hoàng thượng không mấy sủng ái nàng ta như thế?”
Lý Trường khẽ thở dài, than: “Dù Từ Tiệp dư có tốt đến mấy thì cũng vậy thôi, Hoàng thượng không nhìn thấy thì có cách gì được? Tiệp dư tiểu chủ có tài thêu thùa may vá, từng làm cho Hoàng thượng không ít quần áo giày tất, nhưng nói một câu thực lòng, có An Quý tần với tài thêu thùa như thế ở bên, mấy năm nay gần như chẳng có món đồ nào khác tới được tay Hoàng thượng, dù có một, hai món thì cũng không được cẩn thận cất giữ, chỉ thoáng cái là đã biến mất chẳng còn tung tích. Khi mới vào cung, Từ Tiệp dư chỉ là tài nhân, được Hoàng thượng sủng hạnh một lần xong thì được thăng làm quý nhân, đến cả phong hiệu cũng chẳng có. Bẵng đi hơn một năm, Hoàng thượng vì việc ngũ thạch tán mà ốm nặng, khi đó Từ Tiệp dư còn là uyển nghi, đã quỳ trước Thông Minh điện suốt một ngày một đêm để cầu phúc cho Hoàng thượng, bị hư thoát đến nỗi thiếu chút nữa thì không qua khỏi, nhưng người hay biết sự việc và có thể làm chủ thì lại không báo lên, Hoàng thượng làm sao mà biết được.”
“Người hay biết sự việc và có thể làm chủ…” Tôi thoáng lộ vẻ trầm ngâm.
Lý Trường mặt không đổi sắc, chậm rãi kể: “Hoàng hậu khi đó một lòng một dạ lo cho Hoàng thượng… Về sau trong lúc Thái hậu vui mừng vì sức khỏe của Hoàng thượng khôi phục, Kính Phi và Huệ Quý tần có nhắc đến một chút, thế là Tiệp dư tiểu chủ mới được Thái hậu thăng lên làm dung hoa. Rồi Hoàng thượng loáng thoáng nghe nói về việc này, khá xót thương Từ Tiệp dư, liền thường xuyên tới Không Thúy đường ngồi chơi nhưng còn việc sủng hạnh thì cũng lác đác, thai rồng kỳ thực là do cơ duyên xảo hợp mà có.”
Tôi khẽ thở dài một tiếng, chậm rãi nói: “Nàng ta cũng chẳng dễ dàng gì. Hôm nay bản cung tới thăm nàng ta, thấy thần sắc nàng ta không được tốt lắm, e là vì bị cấm túc nên lòng mang quá nhiều tâm sự.”
Những nếp nhăn trên mặt Lý Trường sau bao năm tươi cười đã trở thành hình dạng cố định, khuôn mặt không bao giờ ngớt nụ cười, thành ra khó có thể nhìn thấy vẻ mặt thật. “Do đó nô tài mới nói phúc phận của Từ Tiệp dư không sâu dày bằng nương nương.”
Tôi cười nói: “Có sâu dày hay không thì bản cung không rõ, nhưng có công công trợ giúp, nhất định là chẳng thể nào mỏng manh được.”
Vừa dứt lời thì Cận Tịch bước tới, cung kính nói: “Bẩm nương nương, mì cá làm xong rồi.”
Tôi đưa mắt liếc Cận Tịch, đoạn nói với Lý Trường: “Bản cung cũng mệt rồi, công công mau ra phòng ngoài ăn mì đi cho nóng.”
Cận Tịch khẽ gật đầu, nói: “Nương nương nghỉ ngơi đi, để nô tỳ hầu hạ công công là được rồi.”
Tôi mỉm cười nói: “Vậy cũng tốt, hai người đã mấy ngày không gặp, tất nhiên có rất nhiều lời muốn nói với nhau, mau đi đi.”
Lý Trường đang định cáo lui rời đi, chợt thấy đồ đệ của y là Tiểu Hạ Tử hành lễ xong rồi bước vào, khẽ gọi một tiếng: “Sư phụ…” Sau đó bèn thõng tay đứng lặng im ở đó.
Vì hôm nay Tiểu Hạ Tử là người trực đêm cho Huyền Lăng, Lý Trường bèn hơi cau mày, quát: “Có việc gì mà lén lén lút lút như thế, ở trước mặt nương nương có lời gì mà không thể nói ra hay sao?”
Tiểu Hạ Tử đưa mắt liếc tôi, hoang mang cúi gằm mặt xuống. “Hoàng thượng vốn đã đi nghỉ ở chỗ Phúc Tần tiểu chủ, ai ngờ bên phía Tường Tần lại cho người đến nói cái gì mà Tường Tần vì âm khí nặng nên bị bóng đè, muốn mời Hoàng thượng qua đó.”
Lý Trường cười nhăn nhó, nói: “Đã bao nhiêu năm rồi mà vẫn chẳng thay đổi chút nào.”
Phúc Tần, Tường Tần, Kỳ Tần cùng với Thụy Tần đã qua đời đều là hậu nhân của công thần trong việc bình định Nhữ Nam Vương năm đó, bọn họ vào cung cùng ngày, trở thành quý nhân, đều ở tại Mật Tú cung của Hoa Phi thuở trước. Sau khi Thụy Tần tự vẫn, Kỳ Tần dọn ra ngoài, chỉ còn lại hai người Tường Tần và Phúc Tần là vẫn ở trong Mật Tú cung. Tường Tần tính tình ngang ngược, Phúc Tần thì hiền lành thật thà, Tường Tần tranh sủng không lại người khác nhưng lại dám cướp sự ân sủng của Phúc Tần, mỗi lần Huyền Lăng tới nghỉ đêm ở tẩm điện của Phúc Tần là cô ta lại nghĩ đủ mọi cách mời Huyền Lăng đi. Nhưng cô ta đẹp hơn Phúc Tần, cũng lanh lợi hoạt bát hơn, do đó được Huyền Lăng yêu thích hơn một chút.
Tôi hơi cụp mắt xuống, hờ hững nói: “Trước khi bản cung rời cung, Tường Tần đã như vậy rồi, sao sau bao nhiêu năm mà tính cách cô ta chẳng thay đổi chút nào thế?”
Lý Trường đáp: “Cũng tại Phúc Tần tiểu chủ tính tình hiền lành quá, cùng ở trong một cung mà lại không chịu trở mặt, càng không chịu nói nỗi khổ của mình ra với người ngoài, để mặc Tường Tần tiểu chủ làm bậy suốt bao năm nay.”
Tôi đưa tay chống cằm, trầm ngâm nói: “Hoàng hậu và Kính Phi không quản đến chút nào sao?”
Lý Trường cúi đầu khẽ thưa: “Kính Phi nương nương… Những năm nay Kính Phi nương nương tiếng là có quyền, hiệp trợ quản lý lục cung, kỳ thực lời nói chẳng có chút trọng lượng nào. Còn Hoàng hậu… Chẳng qua là hai phi tần không đắc sủng lắm đấu đá với nhau, Hoàng hậu chỉ trách mắng vài câu rồi cho qua, không để tâm tới nữa.”
Trong noãn các, những bông hoa sơn chi vẫn tỏa hương dìu dịu, ngửi lâu rồi, mùi hương đó như thể mãi vất vương nơi đầu mũi. Tôi giận dữ nói: “Sự ngang ngược của Tường Tần thật khiến người ta khó chịu. Bản cung không có quyền hiệp trợ quản lý lục cung nên tất nhiên không thể xử trí, nhưng cũng không thể khoanh tay đứng nhìn việc này được.” Sau đó bèn quay sang dặn dò Lý Trường: “Tường Tần đã bị bóng đè, vậy hãy thay bản cung thưởng cho cô ta một nồi canh trân châu gạo lứt, nhớ là phải dùng loại nồi to bằng năm chiếc bát tô đấy!”
Canh trân châu mà nấu bằng hạt bo bo bình thường thì còn đỡ, nhưng gạo lứt là loại gạo chỉ xay bỏ lớp vỏ trấu, chưa được làm sạch, ăn thô ráp, nấu tốn thời gian, mà cho dù có nấu chín thì cũng vẫn khó nuốt vô cùng.
Lý Trường không kìm được cười nói: “Chủ ý của nương nương thật hay quá, như vậy không những có thể làm Tường Tần bớt kiêu ngạo mà còn khiến người ta không chỉ trích được gì.”
Cận Tịch cũng mím môi cười khẽ. “Tường Tần tiểu chủ bị bóng đè đang cần gấp, khỏi phải nấu chín làm gì, cứ đun sôi lên rồi mang qua đó là được.”
Tôi nói giọng khinh miệt: “Hoàng thượng giờ chắc đang ở chỗ cô ta, Lý Trường ngươi hãy đích thân mang tới đó, ở ngay trước mặt Hoàng thượng để xem cô ta có dám không uống không. Không phải là bị bóng đè ư? Vậy hãy kêu cô ta uống hết cả nồi canh đó, không được phép sót lại chút nào.”
Lý Trường vội vàng khom người cáo lui.
Cận Tịch cười tủm tỉm rót cho tôi một chén trà, khẽ hỏi: “Nương nương làm vậy thực là khiến lòng người sảng khoái nhưng tại sao lần này nương nương lại tức giận như vậy? Nếu là trước đây, nương nương nhất định sẽ chỉ mỉm cười cho qua chuyện thôi.”
Tôi cười đáp: “Ngươi cứ chờ xem, ta tự có đạo lý của ta.”
Đến ngày hôm sau, mọi người trong cung đều biết việc tôi thưởng cho Tường Tần một nồi canh trân châu gạo lứt để giúp cô ta chữa bệnh bóng đè, khiến cô ta uống đến nỗi chẳng thể bò dậy khỏi giường. Huyền Lăng khi tới thăm tôi không hề tỏ ra tức giận, còn cười ha hả, nói: “Nàng giận Tường Tần làm gì chứ, tính tình nàng ta là như vậy, tuy có hơi nông cạn, bừa bãi nhưng cũng khá đáng yêu.”
Tôi ngồi soi mình trước gương, nhìn những lọn tóc của mình được đôi tay Hoán Bích uốn qua uốn lại thoăn thoắt không ngừng, ung dung nói: “Hoàng thượng muốn sau này trong hậu cung tràn ngập những sự đấu đá tranh giành hay là mong tất cả mọi người đều tốt tính giống như Phúc Tần đây?”
Huyền Lăng đặt tay lên bờ vai tôi, khẽ cười nói: “Phúc Tần tuy phải chịu ấm ức nhưng cũng đâu có ý kiến gì, huống chi những việc thế này còn chưa thể tính là đấu đá tranh giành, nàng nặng lời quá rồi.”
Hoán Bích lúc này đã bới xong cho tôi kiểu tóc linh xà, lại dùng nước hoa nhài miết những sợi tóc rối xuống và cài vào bên trong búi tóc mấy bông hoa nhài, khiến búi tóc của tôi tỏa hương thoang thoảng dù không ai có thể nhìn thấy hoa, thực là thanh tao hết mực. Tôi thoáng ngắm mình trong gương, sau đó mới nói: “Hoàng thượng chưa nghe câu con đê dài ngàn dặm sụt toang vì ổ kiến đó ư? Hoàng thượng nghĩ rằng chỉ dung túng cho Tường Tần vài lần như vậy thì không có gì, nhưng nếu sau này mọi người trong cung học theo cô ta, những người như Phúc Tần lâu ngày rồi sẽ sinh lòng oán hận, còn hạng như Tường Tần thì sẽ ỷ được sủng ái mà kiêu căng, ấy thực là một tai họa ngầm vô cùng to lớn.” Thấy Huyền Lăng lộ vẻ suy tư, tôi lại chậm rãi nói tiếp: “Hơn nữa, Hoàng thượng rõ ràng đã lật được thẻ bài của Phúc Tần, vậy mà Tường Tần còn bày trò vờ vịt. Nếu cô ta thực sự bị bóng đè thì cứ gọi thái y tới chữa trị là được, việc gì phải làm ầm lên như thế? Hoàng thượng mỗi ngày đều có buổi chầu sớm, há có thể vì cô ta mà bị ảnh hưởng. Nếu Thái hậu biết được việc này, người nhất định sẽ trách Hoàng thượng không biết giữ gìn bản thân, rồi kiểu gì cũng lại nảy sinh rắc rối.”
Huyền Lăng đăm chiêu suy nghĩ một chút rồi mỉm cười nói: “Trẫm chỉ nhất thời dung túng cho tính khí của Tường Tần, không ngờ lại phạm phải nhiều sai lầm như vậy.”
Tôi cũng khẽ cười. “Đây đâu phải là sai lầm của Hoàng thượng, đều là tại Tường Tần buông thả quá đó thôi.” Sau đó lại thở dài một tiếng, than: “Tường Tần cũng đã vào cung khá lâu rồi, không ngờ còn không hiểu chuyện như vậy, thật khiến người ta hết cách. Tuy thần thiếp đã trừng phạt cô ta một chút nhưng chẳng biết sau này cô ta có chịu lấy đó làm bài học không nữa.”
Huyền Lăng trầm ngâm nói: “Như vậy xem ra trẫm cũng nên phạt Tường Tần một chút mới được, còn cần an ủi Phúc Tần nữa.” Y kéo bàn tay tôi lại, cất tiếng khen: “Hoàn Hoàn, lần này nàng làm đúng lắm!”, sau đó liền hạ lệnh cắt bổng lộc của Tường Tần trong vòng nửa năm, lại ban thưởng cho Phúc Tần rất nhiều thứ coi như an ủi.
Sau việc này, nếp sống trong cung lập tức tốt hẳn lên, gần như không còn phi tần nào dám ỷ được sủng ái mà kiêu căng, ngang ngược nữa. Ngay đến My Trang khi tới thăm tôi cũng cười nói: “Thái hậu biết việc này thì rất vui, cứ khen muội không ngớt lời ấy.”
Tôi khẽ cười hờ hững. “Thái hậu cũng biết rồi sao?”
My Trang đáp: “Trong cung bây giờ có ai mà không biết chứ. Hoàn Phi nương nương khí thế oai hùng, loáng cái đã đè nén được cái thói đấu đá tranh giành trong hậu cung. Thái hậu vốn còn mang lòng nghi ngờ muội, bây giờ thì đã hoàn toàn yên tâm rồi.”
Tôi trầm giọng nói: “Tỷ đâu biết được chỗ khó xử của muội, nếu muội không ra tay với Tường Tần thì Thái hậu ắt sẽ mang lòng nghi ngờ, sợ rằng muội là loại hồ ly lẳng lơ; bây giờ muội ra tay rồi thì lại trở thành cái gai trong mắt của rất nhiều người khác.”
My Trang đăm chiêu một lát rồi nói: “Làm vừa lòng Thái hậu vẫn là điều quan trọng nhất.”
Tôi cố nén nụ cười nơi khóe miệng, thản nhiên nói: “Trong mắt Thái hậu, mấy việc như thế chẳng qua chỉ là trò vặt vãnh mà thôi, đâu có đáng kể gì. Huống chi việc tranh giành đấu đá trong cung há có thể dễ dàng đè nén như thế được, chẳng qua chỉ giảm bớt phần nào mà thôi.” Nhưng kỳ thực, điều mà tôi để tâm nhất chính là thái độ của Thái hậu. Việc trừng phạt Tường Tần vừa rồi thứ nhất là có thể đè nén thói tranh giành đấu đá trong hậu cung, khiến các phi tần sinh lòng kính sợ, không dám làm bừa nữa; còn thứ hai, chính như My Trang vừa nói, chỉ khi nào Thái hậu không còn nghi ngờ nữa tôi mới có thể thoát khỏi sự trói buộc, trở thành một con cá tự do, đồng thời địa vị của bản thân cũng được củng cố.
Nghĩ đến đây, tôi khẽ nhấp một ngụm trà, trong lòng trào dâng cảm giác vô cùng thư thái.
Suốt mấy ngày sau đó, Tường Tần cứ nhìn thấy tôi là giống như chuột thấy mèo, có thể tránh được thì tránh, cố hết sức không chạm mặt tôi; nếu thực sự không tránh được, cô ta sẽ ở cách tôi thật xa, cúi gằm mặt làm bộ như không nhìn thấy tôi. Đương nhiên, cô ta sợ tôi không chỉ bởi vì nồi canh trân châu gạo lứt kia. Thậm chí trong hai ngày đầu tiên, cô ta còn từng oán trách tôi rất nhiều vì tôi ép cô ta phải uống nồi canh đó.
Hôm ấy, Cận Tịch và Hoa Nghi cùng tôi tới Quân Chiêu điện của Kính Phi, trên đường có đi qua vĩnh hạng. Sống trong vĩnh hạng đa phần là các cung tần và cung nữ bất đắc chí, do đó vừa lạnh lẽo lại vừa trống trải, thường xuyên có rất nhiều gian phòng trống. Hoa Nghi đi được nửa đường thì buồn đi tiểu, mà nơi đó cách Nhu Nghi điện và Quân Chiêu điện rất xa, thế là đành tìm lấy một gian phòng trống trong vĩnh hạng mà giải quyết tạm.
Chờ mãi không thấy Hoa Nghi quay trở lại, tôi và Cận Tịch đều nôn nóng, liền đi về hướng cô nàng vừa mới đi, chợt nhìn thấy Hoa Nghi đang đứng dưới một bức tường, ghé sát tai vào đó mà cau mày lắng nghe.
Tôi nhất thời tò mò, liền cũng đi tới đó. Ở trong cung lâu rồi mọi người sẽ phát hiện, nghe lén người khác nói chuyện kỳ thực là một cách tiêu khiển rất hay, đặc biệt là với những người đã rời cung khá lâu như tôi. Bình thường có rất nhiều lời mà người ta sẽ không tùy tiện hé răng dù chỉ là một chút nhưng đã vào những chỗ kín đáo thì sẽ chẳng còn kiêng dè gì nữa. Cũng chính vì thế mà trong chốn cung đình to lớn này trước giờ chưa từng thiếu lời đồn, cũng chẳng bao giờ thiếu những lời than phiền oán trách. Bạn có thể nghe thấy tiếng than vãn của các cung nữ với nhau, họ than trời than đất than chủ nhân, lại than rằng ông trời sao chẳng chịu ban cho mình chút vận may nào; cũng có thể nghe thấy tiếng rì rầm trò chuyện của các thái giám, rằng hôm nay Hoàng đế sủng hạnh vị phi tần nào, bản thân vừa được thưởng bao nhiêu bạc; rồi còn có thể nghe thấy tiếng một cặp tình nhân cung nữ thái giám nào đó thân mật với nhau, thậm chí là những lời nguyền rủa hay khẩn cầu tự đáy lòng của một phi tần thất sủng. Bạn chỉ cần đứng dưới một góc tường thoạt nhìn vắng vẻ nào đó một ngày, vậy là sẽ có thể biết được rất nhiều chuyện tưởng chừng như bí mật trong cung.
Hoa Nghi là một cao thủ trong việc nghe lén, đồng thời còn biết cách truyền đạt những lời tôi muốn nói tới tai người khác mà không làm ai nghi ngờ gì, đây chính là chỗ được việc nhất của cô nàng. Cũng vì thế nên lúc này vừa mới thấy vẻ mặt Hoa Nghi, tôi lập tức biết rằng cô nàng đã lại nghe được chuyện gì đó rồi.
Tôi vốn đã nghe quen thứ giọng the thé chói tai kia của Tường Tần, lúc này cô ta đang nói những lời chua ngoa, đanh đá tựa như một lưỡi dao cứa qua da thịt người ta: “Con tiện nhân Lê thị đó thường ngày trông có vẻ ngoan ngoãn hiền lành, vậy mà mới thoáng đó đã biết đi tìm người khác tố cáo rồi, đúng là giống chó biết cắn người thì không hay sủa!”
Dường như có một ả cung nữ đang đứng bên khuyên nhủ: “Tiểu chủ hãy tạm thời nhẫn nhịn, bây giờ ngay đến Hoàng thượng cũng giúp Phúc Tần, chống lưng cho Hoàn Phi, tiểu chủ oán trách thế này sẽ chỉ làm hại đến thân thể mình thôi.”
Tường Tần “hừ” lạnh một tiếng: “Hoàn Phi thì là cái thá gì chứ? Chẳng qua Hoàng thượng vẫn còn muốn nhìn cái bộ dạng lẳng lơ đó của cô ta một chút mà thôi, thế mà lại dám ỷ mình có địa vị cao để sỉ nhục ta. Cô ta không tự xem xem mình là ai chứ, đã vào chùa rồi mà còn không yên phận, nghĩ đủ mọi cách để quyến rũ Hoàng thượng, nghĩ rằng mình to bụng rồi thì ghê gớm lắm sao? Ta nhất định phải cho cô ta biết sự lợi hại của ta mới được!”
Hoa Nghi cẩn thận đưa mắt liếc tôi, tôi chỉ khẽ cười hờ hững, lớn tiếng nói: “Ngươi lợi hại thế nào thì bản cung không biết, bản cung chỉ biết là tai vách mạch rừng, Tường Tần cứ nên cẩn thận. Có thời gian để chửi người khác thế này thà tranh thủ về ăn nhiều canh trân châu gạo lứt một chút, như thế mới chữa dứt điểm được cái bệnh bóng đè.”
Nơi này trống trải, tiếng vọng dập dềnh lại càng khiến giọng nói của tôi thêm vẻ lạnh lùng. Mãi một hồi lâu sau phía bên kia không có tiếng đáp lại, Hoa Nghi trèo lên tường ngó qua, không kìm được cười khúc khích, nói: “Bên này không có ai, chắc cô ta nghe thấy nương nương nói thế thì đã sợ chạy mất hút rồi.”
Tôi nói giọng xem thường: “Cô ta là loại miệng hùm gan sứa, cứ phải làm cho cô ta biết sợ mới được.”
Kể từ đó, bất kể là trước mặt hay bên tai tôi đều rất ít khi thấy xuất hiện bóng dáng Tường Tần.
Tác giả :
Lưu Liễm Tử