Hắc Phong Thần Đạo
Chương 37: Sự quan trọng của phù trận
Mộc nhân chiến trận đề cao kĩ năng của mỗi người và khả năng phối hợp tác chiến dựa trên cơ sở ngang bằng về tu vi cảnh giới của những mộc nhân được điều khiển trong trận chiến, kĩ năng cá nhân thì luôn cần phải mài giũa nâng cao còn khả năng phối hợp tác chiến được xây dựng chủ yếu trên những tổ hợp chiến trận. Nhiệm vụ của Thất sư huynh Dương Cửu đơn giản hơn những người khác rất nhiều, chỉ là hướng dẫn về những loại tổ trận trên lí thuyết, còn việc thực hiện phối hợp lại cần tập hợp đầy đủ mọi người nên phải đến gần ngày tổ chức Tam Luận hội, khi tất cả đều tập trung thì mới có thể luyện tập được.
Lưỡng nghi, Tam tài, Tứ linh, Ngũ hành, Lục hợp, Thất sát, Bát quái, Cửu cung là tám tổ hợp trận cơ bản phối hợp từ hai đến chín người, giúp thành viên trong trận có khả năng liên kết với nhau cực kì tốt khi hỗ trợ tấn công hoặc phòng thủ, không những vậy, kết thành trận pháp còn có khả năng dẫn động lực lượng bên ngoài trợ giúp trận hình chiến đấu, do vậy một đội hình kết trận vững chắc sẽ có lợi thế hơn rất nhiều so với đội hình tùy ý. Khi chiến đấu hoặc có thể giữ vững một trận pháp, hoặc có thể biến đổi linh hoạt trận pháp, tùy vào mỗi hoàn cảnh chiến đấu khác nhau mà một trong hai cách trên sẽ phát huy hiệu quả khác nhau. Giữ vững trận pháp thiên về sự chắc chắn và dễ dàng nắm bắt hơn, còn biến hóa trận pháp yêu cầu về sự linh hoạt và ăn ý trong phối hợp chiến đấu.
Lưỡng nghi âm dương, Tam tài thiên địa nhân, Tứ linh long lân quy phụng và Ngũ hành kim mộc thổ thủy hỏa có sự tiến công và phòng thủ đồng đều, Lục hợp thiên về vây hãm và phòng thủ, Thất sát lại thiên về tấn công, còn Bát quái chủ yếu là sự biến hóa, cuối cùng là Cửu cung, Cửu cung có hai biến hóa, thứ nhất là Bát quái Trung cung trận pháp có khả năng đột kích mạnh mẽ, thứ hai là Cửu cung phi tinh trận pháp có khả năng vận dụng tinh thần ngoại lực để tăng cường trận pháp.
Thời gian giảng giải chiến trận của Dương Cửu chỉ vọn vẹn nửa ngày, đến khi kết thúc hắn chốt một câu:
- Thực chất chiến trận cũng xuất phát từ trận pháp, điều đặc biệt là trận cơ lại chính là con người nên có khả năng biến hóa hơn một chút. Đệ nên tìm hiểu rõ trận pháp trước, đợi khi khai thác được điểm mạnh của mình một phần nào đó thì dựa vào đó sẽ phân chia đội hình thích hợp. Thi đấu sắp tới sẽ gặp khá nhiều chiến đội lão luyện, chúng ta vừa thành lập thật sự rất khó để đạt giải cao, có thể coi là một lần luyện tập lớn vậy.
Tìm ra điểm mạnh của mỗi cá nhân là rất quan trọng trong việc bố trí chiến trận và vị trí tác chiến thích hợp, cũng vì lí do đó mà Linh Vân Đại sư huynh mới yêu cầu huấn luyện nhiều thứ cho Triệu Thiên Bình như vậy. Võ thuật và đạo thuật là nhằm tăng cường khả năng chiến đấu, kỳ thuật là tìm ra khả năng nắm giữ chỉ huy trận chiến, còn phù trận như một loại kiến thức tổng quát trợ giúp rất nhiều. Hơn nữa phù trận cũng là một môn thi đấu trong Tam Luận Hội nên Triệu Thiên Bình dành khá là nhiều thời gian để nghiên cứu với Độc Cô Truy Dương:
- Phù trận cơ bản có hằng hà vô số loại đòi hỏi sự ghi nhớ cực kì tốt, có thể nói phù trận như một loại ngôn ngữ của ý niệm vũ trụ, và việc bày trận giống như chuyển tải nội dung của ngôn ngữ đó vậy. Việc truyền tải một nội dung muốn biểu lộ của con người có thể qua cách nói, viết, vẽ hoặc một đoạn nhạc, thì ngôn ngữ ý niệm vũ trụ cũng có nhiều cách trình bày khác nhau, từ phù văn, đến thuật pháp, trận pháp các loại muôn hình vạn trạng, và muốn được như vậy không chỉ cần biết mà cần phải hiểu rõ thì mới vận dụng các loại phù trận một cách thích hợp và hiệu quả khi kết hợp những phù trận cơ bản thành những dạng phù trận phức tạp hơn với nhu cầu cao hơn về tác dụng của trận pháp.
Độc Cô Truy Dương trong quá trình giảng giải cho Triệu Thiên Bình một số lưu ý về phù trận thì lôi ra một vật mà Triệu Thiên Bình khá là quen thuộc, đó là một cái bồ đoàn trong Truyền Đạo Đại Điện mà nó đã có thời gian gắn bó khá dài nên nhận ra ngay. Độc Cô Truy Dương dùng lực xé bỏ lớp vải bông bên ngoài bồ đoàn đi, bên trong hiện ra một tấm gỗ hình tròn có hoa văn chi chít. Hắn đưa nó đến trước mặt Triệu Thiên Bình vừa dùng tay chỉ lên vừa nói:
- Nói nhiều cũng khó hiểu, đệ hãy quan sát thứ này xem. Đây được gọi là một trận bàn cấp thấp bày một Tiểu Vân Trận, chính là thứ giúp đệ bay lên một đoạn. Trận pháp này thực chất là tổ hợp của nhiều phù trận cơ bản khác nhau những có thể bổ trợ lẫn nhau. Nơi đính linh ngọc bố trí một Tỏa linh trận giúp cố định linh khí do linh ngọc tụ tập, xung quang là Dẫn linh trận để dẫn dất linh khí có được, tiếp đến là Khinh thân trận để làm cơ thể nhẹ nhàng có thế bay lên, Du phong trận để cố định vị trí trong không trung và cuối cùng là Dẫn niệm trận để điều khiển bồ đoàn theo ý muốn.
Mỗi lần nhắc đến một phù trận, Độc Cô Truy Dương đều chỉ ra chính xác và vẽ lại phù trận đó một lần cho Triệu Thiên Bình dễ dàng quan sát, hắn còn nói thêm:
- Bốn loại phù trận này kết hợp để giúp đỡ người mới tu luyện, quan trọng nhất trong đó là Khinh thân trận và cũng tiêu tốn nhiều linh khí nhất. Có một điều đệ cần chú ý,là nếu đệ sử dụng một bồ khác và truyền trực tiếp linh lực của mình vào đó để điều khiển thì những phù trận như Tỏa linh, Dẫn linh và Dẫn niệm sẽ trở nên vô dụng, khi đó đệ có thể trưc tiếp điều khiến Khinh thân trận vì linh lực dưới sự điều khiển của đệ đã mang sẵn ý niệm điều khiển. Nhưng sử dụng linh lực bản thân đồng nghĩa với sự tổn hao cả linh lực lẫn tinh thần nên ba trận pháp kia vẫn được sử dụng khá nhiều, nhất là đối với tu võ giả vì họ rất khó dẫn động linh lực. Đệ có thể thay đổi những linh trận trong này để cải tiến, tỉ như tăng cường Tỏa linh trận bằng nhiều cách như thay đổi chất liệu bày trận tốt hơn hoặc thay đổi kích cỡ linh trận, hoặc giả chỗ Tỏa linh trận thêm vào Luyện linh trận thì nó sẽ luyện hóa cả linh khí trong linh ngọc tạo nên nguồn linh khí cung cấp dồi dào hơn, hay một Tụ linh trận để nguồn linh khí cung cấp không bị gián đoạn thì Khinh trận sẽ mạnh mẽ hơn, đồng nghĩa với việc đệ có thể bay cao hơn và lâu hơn các kiểu.
Độc Cô Truy Dương đưa trận bàn cho Triệu Thiên Bình giữ rồi tiếp tục:
- Nói là như vậy nhưng với giá trị của một cái bồ đoàn để học tâm pháp không cần phải thêm những phù trận đó, vì Luyện linh và Tụ linh là hai phù trận có tài liệu và cách thức bài bố khá phức tạp, nếu đã xác định sử dụng chúng thì nên áp dụng vào những loại pháp bảo cao cấp hơn để tránh lãng phí. Như vậy đệ cũng hiểu cách để tăng cường uy lực trận pháp đó thường là tăng cường tài liệu bố trận cũng như kích cỡ trận pháp. Tài liệu để bày trận có rất nhiều, có thể nói thứ gì cũng có thể bày trận được miễn là đệ am hiểu về tài liệu và loại phù trận muốn bố trí, tất nhiên tài liệu càng tốt thì phù trận càng uy lực. Kích cỡ có thể hiểu về kích thước và độ chuẩn xác, một trận pháp lớn tất nhiên uy lực sẽ mạnh nhưng tốn tài liệu và không gian bố trí, phù trận được bố trí càng chuẩn xác thì uy lực càng cao. Vấn đề này liên quan đến trình độ người bày trận, có thể nói một người am hiểu trận pháp ở mức độ tông sư có thể dùng tài liệu cỡ một linh ngọc hạ phẩm mà bày bố được trận pháp uy lực đương với người khác dùng tài liệu gấp đến hàng chục, thậm chí hàng trăm lần.
Trên tay Độc Cô Truy Dương bỗng nhiên xuất hiện hai quyển trục mà ngày trước hắn đã mượn từ thư viện, hắn nhìn quyển trục trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Trận pháp thi đấu được bố trí vô cùng phức tạp, hoặc là đệ sẽ bố trận cho người khác giải, hoặc phá giải trận của người khác. Bố trận sẽ dễ hơn phá giải nên nếu dùng càng ít linh lực để phá giải thì điểm số thu được càng cao. Những trận pháp bố trí thi đấu sẽ là những đấu trận thuộc các dạng sát trận, huyễn trận, khốn trận. Muốn phá trận có hai cách, dùng lực phá trận và dùng xảo phá trận. Dùng lực thô bạo và tốn kém nhất là toàn lực oanh kích trận pháp đến khi nó hỏng, cách này có thể dùng bên ngoài chứ trong thi đấu thì đệ chưa kịp phá trận đã bị xử thua, cách thứ hai là dùng lực đánh vào trận cơ và trận nhãn là những điểm mấu chốt để phá trận, cách này đòi hỏi có sự am hiểu nhất định về trận pháp mới làm được. Còn dùng xảo phá trận thì đòi hỏi sự hiểu biết cao hơn, đơn giản nhất là dùng tài liệu của mình bài bố vào những mắc xích quan trọng để thay đổi kết cấu trận pháp, khó hơn cũng làm như vậy nhưng biến trận pháp đó thành của mình, tức là thay đổi quyền điều khiển.
Hắn giao hai quyển trục cho Triệu Thiên Bình:
- Hai quyển trục này một là huyễn trận Ngự hoa viên và một là khốn trận Nhất bộ nan, đệ phải phá giải hai trận pháp này. Huyễn trận ta sẽ giúp đệ vượt qua, nhưng đệ phải chuẩn bị lượng tri thức phù trận đệ cho là đủ thì khi đó mới hiểu được ta thực hiện như thế nào. Còn khốn trận thì đệ phải tự lực cánh sinh. Đây là hai đấu trận không khó, đệ có thời gian từ giờ cho đến khi ta phải trả hai quyển trục này để hoàn thành. Nếu không được thì đệ không cần tham gia hạng mục trận pháp lần này nữa.
Triệu Thiên Bình ngồi nghe đến bây giờ mới căng thẳng thốt ra được một chữ: “Được”. Độc Cô Truy Dương nhìn nó mỉm cười rồi quay đi
- Cố gắng lên. Ta sẽ tạm thời giữ hai trận pháp này trước, đến khi đệ chắc rằng mình muốn phá trận thì đến thư viện tìm ta.
Triệu Thiên Bình nhìn theo bóng lưng Độc Cô Truy Dương gật đầu kiên định. Những ngày vừa qua nó cũng hiểu mức độ quan trọng của cuộc thi lần này, một lượng điểm cống hiến sẽ được ban phát dựa trên thành tích thi đấu, đứng đầu sẽ có phần thưởng đặc biệt là được yêu cầu môn phái một bảo vật như pháp khí, pháp bảo được luyện chế riêng cho bản thân với sự trợ giúp của những luyện khí đại sư trong môn phái, hay linh đan linh dược thuộc loại kì trân hãn thế mà dùng điểm cống hiến cũng khó có thể đổi được, hoặc giả một nguyện vọng khác thường gì đó, tất nhiên mọi thứ sẽ có một giới hạn nhất định.
Nhưng dù không phải vì phần thưởng cuộc thi thì nó cũng cần phải cố gắng vì chính bản thân mình. Sự trợ giúp của phù trận là không thể bàn cãi. Chỉ cần nói trong việc thi triển thuật pháp nó đã đóng vai trò cực kì to lớn.
Sự khác biệt giữa người tu luyện lâu năm và người mới bắt tay vào tập tành hoặc giữa người thông tuệ và người tương đối ngu ngốc đó là cảnh giới thông thạo pháp quyết. Có bốn cảnh giới thường được nhắc đến, đó là tiểu thành, đại thành, viên mãn và khai quang. Độ thông thạo càng cao thì việc sử dụng pháp quyết càng nhanh chóng và hiệu quả.
Cụ thể có thể nói về một môn pháp quyết mà Triệu Thiên Bình hiện bắt đầu tu luyện là Vạn tượng ấn. Tác dụng giống như tên, thuật pháp này có thể tạo ra sức mạnh của vạn tượng, một thuật pháp mang tính chất đặc trưng về lực lượng của linh lực hệ Thổ.
Người thi triển thuật pháp sẽ niệm pháp chú để dẫn động linh lực trong cơ thể vận hành theo một lộ tuyến nhất định. Sau khi trải qua lộ tuyến vận động đó linh lực sẽ trở thành dạng cường hóa, cũng có thể gọi là hoạt hóa, sau đó người thi triển tập trung lượng linh lực đó vào vị trí muốn thi triển Vạn tượng ấn và kích phát để tạo ra sức mạnh công kích.
Chẳng hạn người thiên về chưởng pháp quyền pháp có thể tập trung nơi bàn tay để cho địch thủ một đấm trời giáng. Người thiên về thoái pháp có thể tập trung vào bàn chân để tặng địch thủ một cú Thiên mã hậu cước. Người thiên về vũ khí có thể phân chia ra cả cánh tay để tay cường lực lượng của những cú tấn công binh khí. Hoặc giả có thể tập trung vào chân để tăng cường tốc độ di chuyển để tăng cường tấn công hoặc đào thoát khi nguy hiểm.
Khi thông thạo việc niệm pháp và vận hành linh lực hoạt hóa, có thể nói người tu luyện đã đạt đến cảnh giới tiểu thành, cảnh giới của sự vận hành pháp quyết qua ba giai đoạn là niệm chú, hoạt linh và thi triển. Có thể thấy ba bước này mặc dù khi đạt tiểu thành có thể nhanh chóng thi triển nhưng vẫn tốn thời gian nhất định, hơn nữa nó có nhược điểm chí mạng là thông qua việc tụng niệm pháp quyết có thể khiến đối phương nắm bắt được pháp thuật mà ta chuẩn bị phát ra để nghĩ cách ứng phó, mặc dù thời gian ngắn nhưng lợi thế nhất định vẫn có, nhược điểm này càng khuếch đại khi đối thủ có trình độ chênh lệch nhất định với bản thân.
Nhưng nói đi cũng phải nói lại, sự quan trọng của tiểu thành cảnh giới là đại biểu cho việc tu luyện giả có thể tu tập pháp quyết đó hay không. Đối với những thuật pháp cơ bản đến phổ biến như Vạn tượng ấn thì có thể nói ai ai cũng tu luyện được, song đối với những thuật pháp cao cấp và phức tạp hơn đôi khi lại đòi hỏi những yêu cầu nhất định có thể đến mức hà khắc mà người tu luyện phải thỏa mãn thì mới tu luyện được.
Không những thế, mặc dù nói tiểu thành là cảnh giới thấp nhất của sự thông thạo pháp quyết, nhưng để đạt được nó cũng không phải dễ dàng. Nhất là với những thuật pháp có uy lực tuyệt luân thì để nắm bắt nó phải nói là cực kì khó. Hầu như thuật pháp càng cao cấp thì càng khó tu luyện, đến cả những tu sĩ có cảnh giới chỉ nằm trong truyền thuyết đôi khi chỉ cần nắm bắt một pháp quyết cao cấp ở mức độ tiểu thành thì đã là độc nhất vô nhị rồi.
Thực chất pháp quyết và sự hoạt hóa linh lực cũng như việc thi triển đều tồn tại những nguyên lí của trận pháp trong đó. Pháp quyết cao cấp có trận pháp phức tạp nên việc nắm giữ dĩ nhiên là càng khó khăn hơn. Nhưng nếu nắm bắt được nguyên lí của phù trận trong pháp quyết có thể tăng cường tốc độ và uy lực của nó lên một tầm cao mới ở cảnh giới đại thành. Khi mà việc tri triển thuật pháp không cần phải tụng niệm chú ngữ nữa mà thông qua sự hiểu biết của bản thân để vận hành linh lực theo chính xác lộ tuyến trận pháp đê tung ra.
Cảnh giới này đánh dấu cho sự giải phóng khả năng của tu luyện giả. Có thể nói, ngoại trừ những chú thuật bắt buộc phải dùng chú ngữ làm lực lượng ra, thì những thuật pháp khác đã thoát li việc thi triển thông qua chú ngữ, điều này không chỉ là việc khắc phục được việc cho địch thủ biết trước thuật pháp bản thân sắp thi triển và tốc độ thi triển được cải thiện nhanh chóng ra mà nó còn đại biểu cho bước phát triển vượt bậc của việc thi triển thuật pháp, đó là nhất tâm đa dụng, tức là đồng thời thi triển với những thuật pháp khác, giải phóng khả năng chiến đấu của tu sĩ ở mức độ cao hơn với sự biến hóa và uy lực khôn cùng.
Lưỡng nghi, Tam tài, Tứ linh, Ngũ hành, Lục hợp, Thất sát, Bát quái, Cửu cung là tám tổ hợp trận cơ bản phối hợp từ hai đến chín người, giúp thành viên trong trận có khả năng liên kết với nhau cực kì tốt khi hỗ trợ tấn công hoặc phòng thủ, không những vậy, kết thành trận pháp còn có khả năng dẫn động lực lượng bên ngoài trợ giúp trận hình chiến đấu, do vậy một đội hình kết trận vững chắc sẽ có lợi thế hơn rất nhiều so với đội hình tùy ý. Khi chiến đấu hoặc có thể giữ vững một trận pháp, hoặc có thể biến đổi linh hoạt trận pháp, tùy vào mỗi hoàn cảnh chiến đấu khác nhau mà một trong hai cách trên sẽ phát huy hiệu quả khác nhau. Giữ vững trận pháp thiên về sự chắc chắn và dễ dàng nắm bắt hơn, còn biến hóa trận pháp yêu cầu về sự linh hoạt và ăn ý trong phối hợp chiến đấu.
Lưỡng nghi âm dương, Tam tài thiên địa nhân, Tứ linh long lân quy phụng và Ngũ hành kim mộc thổ thủy hỏa có sự tiến công và phòng thủ đồng đều, Lục hợp thiên về vây hãm và phòng thủ, Thất sát lại thiên về tấn công, còn Bát quái chủ yếu là sự biến hóa, cuối cùng là Cửu cung, Cửu cung có hai biến hóa, thứ nhất là Bát quái Trung cung trận pháp có khả năng đột kích mạnh mẽ, thứ hai là Cửu cung phi tinh trận pháp có khả năng vận dụng tinh thần ngoại lực để tăng cường trận pháp.
Thời gian giảng giải chiến trận của Dương Cửu chỉ vọn vẹn nửa ngày, đến khi kết thúc hắn chốt một câu:
- Thực chất chiến trận cũng xuất phát từ trận pháp, điều đặc biệt là trận cơ lại chính là con người nên có khả năng biến hóa hơn một chút. Đệ nên tìm hiểu rõ trận pháp trước, đợi khi khai thác được điểm mạnh của mình một phần nào đó thì dựa vào đó sẽ phân chia đội hình thích hợp. Thi đấu sắp tới sẽ gặp khá nhiều chiến đội lão luyện, chúng ta vừa thành lập thật sự rất khó để đạt giải cao, có thể coi là một lần luyện tập lớn vậy.
Tìm ra điểm mạnh của mỗi cá nhân là rất quan trọng trong việc bố trí chiến trận và vị trí tác chiến thích hợp, cũng vì lí do đó mà Linh Vân Đại sư huynh mới yêu cầu huấn luyện nhiều thứ cho Triệu Thiên Bình như vậy. Võ thuật và đạo thuật là nhằm tăng cường khả năng chiến đấu, kỳ thuật là tìm ra khả năng nắm giữ chỉ huy trận chiến, còn phù trận như một loại kiến thức tổng quát trợ giúp rất nhiều. Hơn nữa phù trận cũng là một môn thi đấu trong Tam Luận Hội nên Triệu Thiên Bình dành khá là nhiều thời gian để nghiên cứu với Độc Cô Truy Dương:
- Phù trận cơ bản có hằng hà vô số loại đòi hỏi sự ghi nhớ cực kì tốt, có thể nói phù trận như một loại ngôn ngữ của ý niệm vũ trụ, và việc bày trận giống như chuyển tải nội dung của ngôn ngữ đó vậy. Việc truyền tải một nội dung muốn biểu lộ của con người có thể qua cách nói, viết, vẽ hoặc một đoạn nhạc, thì ngôn ngữ ý niệm vũ trụ cũng có nhiều cách trình bày khác nhau, từ phù văn, đến thuật pháp, trận pháp các loại muôn hình vạn trạng, và muốn được như vậy không chỉ cần biết mà cần phải hiểu rõ thì mới vận dụng các loại phù trận một cách thích hợp và hiệu quả khi kết hợp những phù trận cơ bản thành những dạng phù trận phức tạp hơn với nhu cầu cao hơn về tác dụng của trận pháp.
Độc Cô Truy Dương trong quá trình giảng giải cho Triệu Thiên Bình một số lưu ý về phù trận thì lôi ra một vật mà Triệu Thiên Bình khá là quen thuộc, đó là một cái bồ đoàn trong Truyền Đạo Đại Điện mà nó đã có thời gian gắn bó khá dài nên nhận ra ngay. Độc Cô Truy Dương dùng lực xé bỏ lớp vải bông bên ngoài bồ đoàn đi, bên trong hiện ra một tấm gỗ hình tròn có hoa văn chi chít. Hắn đưa nó đến trước mặt Triệu Thiên Bình vừa dùng tay chỉ lên vừa nói:
- Nói nhiều cũng khó hiểu, đệ hãy quan sát thứ này xem. Đây được gọi là một trận bàn cấp thấp bày một Tiểu Vân Trận, chính là thứ giúp đệ bay lên một đoạn. Trận pháp này thực chất là tổ hợp của nhiều phù trận cơ bản khác nhau những có thể bổ trợ lẫn nhau. Nơi đính linh ngọc bố trí một Tỏa linh trận giúp cố định linh khí do linh ngọc tụ tập, xung quang là Dẫn linh trận để dẫn dất linh khí có được, tiếp đến là Khinh thân trận để làm cơ thể nhẹ nhàng có thế bay lên, Du phong trận để cố định vị trí trong không trung và cuối cùng là Dẫn niệm trận để điều khiển bồ đoàn theo ý muốn.
Mỗi lần nhắc đến một phù trận, Độc Cô Truy Dương đều chỉ ra chính xác và vẽ lại phù trận đó một lần cho Triệu Thiên Bình dễ dàng quan sát, hắn còn nói thêm:
- Bốn loại phù trận này kết hợp để giúp đỡ người mới tu luyện, quan trọng nhất trong đó là Khinh thân trận và cũng tiêu tốn nhiều linh khí nhất. Có một điều đệ cần chú ý,là nếu đệ sử dụng một bồ khác và truyền trực tiếp linh lực của mình vào đó để điều khiển thì những phù trận như Tỏa linh, Dẫn linh và Dẫn niệm sẽ trở nên vô dụng, khi đó đệ có thể trưc tiếp điều khiến Khinh thân trận vì linh lực dưới sự điều khiển của đệ đã mang sẵn ý niệm điều khiển. Nhưng sử dụng linh lực bản thân đồng nghĩa với sự tổn hao cả linh lực lẫn tinh thần nên ba trận pháp kia vẫn được sử dụng khá nhiều, nhất là đối với tu võ giả vì họ rất khó dẫn động linh lực. Đệ có thể thay đổi những linh trận trong này để cải tiến, tỉ như tăng cường Tỏa linh trận bằng nhiều cách như thay đổi chất liệu bày trận tốt hơn hoặc thay đổi kích cỡ linh trận, hoặc giả chỗ Tỏa linh trận thêm vào Luyện linh trận thì nó sẽ luyện hóa cả linh khí trong linh ngọc tạo nên nguồn linh khí cung cấp dồi dào hơn, hay một Tụ linh trận để nguồn linh khí cung cấp không bị gián đoạn thì Khinh trận sẽ mạnh mẽ hơn, đồng nghĩa với việc đệ có thể bay cao hơn và lâu hơn các kiểu.
Độc Cô Truy Dương đưa trận bàn cho Triệu Thiên Bình giữ rồi tiếp tục:
- Nói là như vậy nhưng với giá trị của một cái bồ đoàn để học tâm pháp không cần phải thêm những phù trận đó, vì Luyện linh và Tụ linh là hai phù trận có tài liệu và cách thức bài bố khá phức tạp, nếu đã xác định sử dụng chúng thì nên áp dụng vào những loại pháp bảo cao cấp hơn để tránh lãng phí. Như vậy đệ cũng hiểu cách để tăng cường uy lực trận pháp đó thường là tăng cường tài liệu bố trận cũng như kích cỡ trận pháp. Tài liệu để bày trận có rất nhiều, có thể nói thứ gì cũng có thể bày trận được miễn là đệ am hiểu về tài liệu và loại phù trận muốn bố trí, tất nhiên tài liệu càng tốt thì phù trận càng uy lực. Kích cỡ có thể hiểu về kích thước và độ chuẩn xác, một trận pháp lớn tất nhiên uy lực sẽ mạnh nhưng tốn tài liệu và không gian bố trí, phù trận được bố trí càng chuẩn xác thì uy lực càng cao. Vấn đề này liên quan đến trình độ người bày trận, có thể nói một người am hiểu trận pháp ở mức độ tông sư có thể dùng tài liệu cỡ một linh ngọc hạ phẩm mà bày bố được trận pháp uy lực đương với người khác dùng tài liệu gấp đến hàng chục, thậm chí hàng trăm lần.
Trên tay Độc Cô Truy Dương bỗng nhiên xuất hiện hai quyển trục mà ngày trước hắn đã mượn từ thư viện, hắn nhìn quyển trục trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Trận pháp thi đấu được bố trí vô cùng phức tạp, hoặc là đệ sẽ bố trận cho người khác giải, hoặc phá giải trận của người khác. Bố trận sẽ dễ hơn phá giải nên nếu dùng càng ít linh lực để phá giải thì điểm số thu được càng cao. Những trận pháp bố trí thi đấu sẽ là những đấu trận thuộc các dạng sát trận, huyễn trận, khốn trận. Muốn phá trận có hai cách, dùng lực phá trận và dùng xảo phá trận. Dùng lực thô bạo và tốn kém nhất là toàn lực oanh kích trận pháp đến khi nó hỏng, cách này có thể dùng bên ngoài chứ trong thi đấu thì đệ chưa kịp phá trận đã bị xử thua, cách thứ hai là dùng lực đánh vào trận cơ và trận nhãn là những điểm mấu chốt để phá trận, cách này đòi hỏi có sự am hiểu nhất định về trận pháp mới làm được. Còn dùng xảo phá trận thì đòi hỏi sự hiểu biết cao hơn, đơn giản nhất là dùng tài liệu của mình bài bố vào những mắc xích quan trọng để thay đổi kết cấu trận pháp, khó hơn cũng làm như vậy nhưng biến trận pháp đó thành của mình, tức là thay đổi quyền điều khiển.
Hắn giao hai quyển trục cho Triệu Thiên Bình:
- Hai quyển trục này một là huyễn trận Ngự hoa viên và một là khốn trận Nhất bộ nan, đệ phải phá giải hai trận pháp này. Huyễn trận ta sẽ giúp đệ vượt qua, nhưng đệ phải chuẩn bị lượng tri thức phù trận đệ cho là đủ thì khi đó mới hiểu được ta thực hiện như thế nào. Còn khốn trận thì đệ phải tự lực cánh sinh. Đây là hai đấu trận không khó, đệ có thời gian từ giờ cho đến khi ta phải trả hai quyển trục này để hoàn thành. Nếu không được thì đệ không cần tham gia hạng mục trận pháp lần này nữa.
Triệu Thiên Bình ngồi nghe đến bây giờ mới căng thẳng thốt ra được một chữ: “Được”. Độc Cô Truy Dương nhìn nó mỉm cười rồi quay đi
- Cố gắng lên. Ta sẽ tạm thời giữ hai trận pháp này trước, đến khi đệ chắc rằng mình muốn phá trận thì đến thư viện tìm ta.
Triệu Thiên Bình nhìn theo bóng lưng Độc Cô Truy Dương gật đầu kiên định. Những ngày vừa qua nó cũng hiểu mức độ quan trọng của cuộc thi lần này, một lượng điểm cống hiến sẽ được ban phát dựa trên thành tích thi đấu, đứng đầu sẽ có phần thưởng đặc biệt là được yêu cầu môn phái một bảo vật như pháp khí, pháp bảo được luyện chế riêng cho bản thân với sự trợ giúp của những luyện khí đại sư trong môn phái, hay linh đan linh dược thuộc loại kì trân hãn thế mà dùng điểm cống hiến cũng khó có thể đổi được, hoặc giả một nguyện vọng khác thường gì đó, tất nhiên mọi thứ sẽ có một giới hạn nhất định.
Nhưng dù không phải vì phần thưởng cuộc thi thì nó cũng cần phải cố gắng vì chính bản thân mình. Sự trợ giúp của phù trận là không thể bàn cãi. Chỉ cần nói trong việc thi triển thuật pháp nó đã đóng vai trò cực kì to lớn.
Sự khác biệt giữa người tu luyện lâu năm và người mới bắt tay vào tập tành hoặc giữa người thông tuệ và người tương đối ngu ngốc đó là cảnh giới thông thạo pháp quyết. Có bốn cảnh giới thường được nhắc đến, đó là tiểu thành, đại thành, viên mãn và khai quang. Độ thông thạo càng cao thì việc sử dụng pháp quyết càng nhanh chóng và hiệu quả.
Cụ thể có thể nói về một môn pháp quyết mà Triệu Thiên Bình hiện bắt đầu tu luyện là Vạn tượng ấn. Tác dụng giống như tên, thuật pháp này có thể tạo ra sức mạnh của vạn tượng, một thuật pháp mang tính chất đặc trưng về lực lượng của linh lực hệ Thổ.
Người thi triển thuật pháp sẽ niệm pháp chú để dẫn động linh lực trong cơ thể vận hành theo một lộ tuyến nhất định. Sau khi trải qua lộ tuyến vận động đó linh lực sẽ trở thành dạng cường hóa, cũng có thể gọi là hoạt hóa, sau đó người thi triển tập trung lượng linh lực đó vào vị trí muốn thi triển Vạn tượng ấn và kích phát để tạo ra sức mạnh công kích.
Chẳng hạn người thiên về chưởng pháp quyền pháp có thể tập trung nơi bàn tay để cho địch thủ một đấm trời giáng. Người thiên về thoái pháp có thể tập trung vào bàn chân để tặng địch thủ một cú Thiên mã hậu cước. Người thiên về vũ khí có thể phân chia ra cả cánh tay để tay cường lực lượng của những cú tấn công binh khí. Hoặc giả có thể tập trung vào chân để tăng cường tốc độ di chuyển để tăng cường tấn công hoặc đào thoát khi nguy hiểm.
Khi thông thạo việc niệm pháp và vận hành linh lực hoạt hóa, có thể nói người tu luyện đã đạt đến cảnh giới tiểu thành, cảnh giới của sự vận hành pháp quyết qua ba giai đoạn là niệm chú, hoạt linh và thi triển. Có thể thấy ba bước này mặc dù khi đạt tiểu thành có thể nhanh chóng thi triển nhưng vẫn tốn thời gian nhất định, hơn nữa nó có nhược điểm chí mạng là thông qua việc tụng niệm pháp quyết có thể khiến đối phương nắm bắt được pháp thuật mà ta chuẩn bị phát ra để nghĩ cách ứng phó, mặc dù thời gian ngắn nhưng lợi thế nhất định vẫn có, nhược điểm này càng khuếch đại khi đối thủ có trình độ chênh lệch nhất định với bản thân.
Nhưng nói đi cũng phải nói lại, sự quan trọng của tiểu thành cảnh giới là đại biểu cho việc tu luyện giả có thể tu tập pháp quyết đó hay không. Đối với những thuật pháp cơ bản đến phổ biến như Vạn tượng ấn thì có thể nói ai ai cũng tu luyện được, song đối với những thuật pháp cao cấp và phức tạp hơn đôi khi lại đòi hỏi những yêu cầu nhất định có thể đến mức hà khắc mà người tu luyện phải thỏa mãn thì mới tu luyện được.
Không những thế, mặc dù nói tiểu thành là cảnh giới thấp nhất của sự thông thạo pháp quyết, nhưng để đạt được nó cũng không phải dễ dàng. Nhất là với những thuật pháp có uy lực tuyệt luân thì để nắm bắt nó phải nói là cực kì khó. Hầu như thuật pháp càng cao cấp thì càng khó tu luyện, đến cả những tu sĩ có cảnh giới chỉ nằm trong truyền thuyết đôi khi chỉ cần nắm bắt một pháp quyết cao cấp ở mức độ tiểu thành thì đã là độc nhất vô nhị rồi.
Thực chất pháp quyết và sự hoạt hóa linh lực cũng như việc thi triển đều tồn tại những nguyên lí của trận pháp trong đó. Pháp quyết cao cấp có trận pháp phức tạp nên việc nắm giữ dĩ nhiên là càng khó khăn hơn. Nhưng nếu nắm bắt được nguyên lí của phù trận trong pháp quyết có thể tăng cường tốc độ và uy lực của nó lên một tầm cao mới ở cảnh giới đại thành. Khi mà việc tri triển thuật pháp không cần phải tụng niệm chú ngữ nữa mà thông qua sự hiểu biết của bản thân để vận hành linh lực theo chính xác lộ tuyến trận pháp đê tung ra.
Cảnh giới này đánh dấu cho sự giải phóng khả năng của tu luyện giả. Có thể nói, ngoại trừ những chú thuật bắt buộc phải dùng chú ngữ làm lực lượng ra, thì những thuật pháp khác đã thoát li việc thi triển thông qua chú ngữ, điều này không chỉ là việc khắc phục được việc cho địch thủ biết trước thuật pháp bản thân sắp thi triển và tốc độ thi triển được cải thiện nhanh chóng ra mà nó còn đại biểu cho bước phát triển vượt bậc của việc thi triển thuật pháp, đó là nhất tâm đa dụng, tức là đồng thời thi triển với những thuật pháp khác, giải phóng khả năng chiến đấu của tu sĩ ở mức độ cao hơn với sự biến hóa và uy lực khôn cùng.
Tác giả :
Tam Tiếu