Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu
Chương 35: Tử Thần Tương Cách (Thượng)
Dương Túc Phong đứng ngay giữa đường, ngẩn ngơ nhìn theo hướng doàn người đi, đến khi bóng bọn họ hoàn toàn biến mất ở cuối đường, hắn mới chầm chậm quay trở lại xe, đến bên Dương Cơ Duệ, nói: “Con không tin nổi, Ngõa Thiết thiếu tướng lại bị tống tới tòa án binh. Toàn bộ quân quan pháo binh của sư đoàn đều bị biếm thành nô lệ. Thực ra cuối cùng đã phát sinh chuyện gì?”
Dương Cơ Duệ hấp háy mắt, ý vị sâu xa, nói: “Ta nghĩ Á Sâm hành lang nhất định xảy ra sự việc hệ trọng nào đó!”
Dương Túc Phong vội vàng hỏi: “Rút cuộc là xảy ra chuyện gì?”
Dương Cơ Duệ chậm rãi lắc đầu, tỏ ý chính lão cũng không biết. Trầm mặc hồi lâu mới thở dài: “Đáng tiếc quá!”
Dương Túc Phong ngơ ngác không hiểu ra sao cả: “Đáng tiếc cái gì? Đáng tiếc cho Ngõa Thiết thiếu tướng à?”
Dương Cơ Duệ đáp: “Là ta nói đáng tiếc cho mấy quân quan pháo binh. Nếu ta không nhìn lầm, hai đại hán mới rồi hẳn là Mông Địch Vưu và Đỗ Qua Nhĩ. Bọn họ từng được đăng hình lên báo chí đế quốc nên ta có ấn tượng rất sâu. Hà, nhắc đến mới nói, chuyện đã bao năm rồi, không ngờ hôm nay bọn họ lại bị sung nô. Mông Địch Vưu, Đỗ Qua Nhĩ đều là quan pháo binh ưu tú vô cùng. Mông Địch Vưu tính tình trầm tĩnh, ưa thích nghiên cứu, sở trường trù tính kế sách, có nhiều kiến giải độc đáo cho phát triển và sử dụng pháo binh. Đỗ Qua Nhĩ lại nóng tính, nghiêm khắc, y khoái nhất là tự mình ra lệnh cho binh sĩ nã pháo vào những chỗ đông địch nhân nhất. Tuy y nhiều khuyết điểm nhưng ưu điểm là tính rất chân thật. Trong vô vàn quan chỉ huy pháo binh đế quốc, không ai có được xúc giác chiến trường nhạy bén như y. Y có thể nhanh nhạy điều chỉnh góc độ bắn, áp chế địch nhân. Trong trận chiến Lạc Na thứ 12, y lập chiến công lớn, nhờ đó thăng trực tiếp từ xa kị giáo úy lên hổ bí đô úy.”
Dương Túc Phong nhíu mày, ngờ vực: “Bọn họ đã là quan quân pháo binh ưu tú như vậy, sao quân hàm còn là hổ bí đô úy? Người xem Mông Địch Vưu đến năm mươi tuổi rồi ấy chứ, y chỉ là hồng kì đô úy, thật quá đáng mà! Bọn họ lại còn là quan pháo binh nữa!”
Dương Cơ Duệ không buồn liếc Dương Túc Phong một cái, hờ hững: “Quân hàm với năng lực thì có quan hệ gì? Quân hàm thiếu tướng hải quân của ngươi có liên quan với ngươi sao? Ta nhìn không ra à!”
Dương Túc Phong tức thì im bặt, mặt đỏ bừng.
Cũng phải, mình giành được quân hàm thiếu tướng hải quân với bản thân mình có quan hệ gì đâu? Chẳng trách suốt dọc đường ai cũng coi khinh mình, đến một viên xa kị giáo úy nhãi nhép cũng không coi mình ra gì.
May mà Dương Cơ Duệ không cố tình làm khó hắn, vừa châm biếm hắn xong liền tiếp tục nói: “Bọn họ sở dĩ khó đạt đến quân hàm cao hơn là do không tách rời lí luận sử dụng pháo binh là lỗi thời. Trong Quân Vụ bộ đế quốc, phái bảo thủ do Thượng Quan Lâm cầm đầu một mực cho rằng, pháo binh phải bố trí cho các pháo đài hoặc sử dụng trên chiến hạm, có vậy mới phát huy hết được uy lực của họ. Nếu trang bị cho bộ đội, có quá nhiều vấn đề nảy sinh. Hỏa pháo có đường kính quá lớn, tuy uy lực kinh người nhưng di chuyển quá khó khăn, tính cơ động thấp, gây cản trở tốc độ của bộ đội dã chiến, nhất là kỵ binh. Hỏa pháo có đường kính nhỏ tuy tốc độ di chuyển có nhanh hơn nhưng uy lực lại không như ý.”
Thở dài nuối tiếc, Dương Cơ Duệ nói: “Thượng Quan Lâm là kẻ tầm thường vô vị, nhưng suy cho cùng y vẫn là chủ quản cục quân giới và tòa án quân sự đế quốc. Hai chỗ này kết hợp làm một, dù cố ý hay vô tình cũng ảnh hưởng đến việc phát triển, trang bị vũ khí của quân đội. Thật là đáng tiếc!”
Dương Túc Phong cau mày: “Vì sao chứ? Pháo binh chính là thần chiến tranh, vì sao không sử dụng?”
“Cộng thêm việc ba năm trước đại tướng Giang Trữ thất bại, quân đội càng tranh luận không ngừng tác dụng của pháo binh. Sau cùng còn một khuynh hướng xếp vào dạng binh chủng không cần thiết. Ngay rất nhiều quan quân xuất sắc như Bạch Ngọc Lâu, Điệp Phong Vũ đều cho rằng lực lượng quyết định chiến tranh là kị binh. Pháo binh muốn bám gót hành động của kị binh rõ ràng là rất khó, muốn đối kháng với kị binh phải dựa vào pháo đài kiên cố hoặc những cứ điểm quan trọng mới có khả năng. Thành thử, địa vị của pháo binh dã chiến lại bị tước bớt. Trừ phi tiến công địch nhân ở các cứ điểm trọng yếu, bằng không tác dụng của pháo binh vô phương phát huy.”
Lông mày Dương Túc Phong càng lúc càng nhăn tít lại.
“Thực tế, biểu hiện của pháo binh trên chiến trường không tốt lắm, tầm bắn quá gần, uy lực lại thấp. Muốn gia tăng uy lực, tăng tầm bắn thì phải tăng đường kính miệng pháo. Khổ nỗi đường kính tăng thì trọng lượng cũng tăng theo, tính cơ động càng giảm. Hai mặt này mâu thuẫn không thể dung hòa. Từ mấy trận chiến Lạc Na mà nói, tác dụng lớn nhất của pháo dã chiến chỉ là công kích những chỗ tập trung đông bộ binh, cũng là chỗ phát huy ưu thế của pháo binh, còn những mặt khác, chỉ có thể nói vẫn chờ cải tiến.”
Dương Túc Phong im lặng nghĩ ngợi, lơ đãng gật đầu.
Dương Cơ Duệ nói tiếp: “Thực tế, các quốc gia trang bị pháo dã chiến trên thế giới không nhiều. Mã Toa quốc và Y Lan quốc kì thật rất ít pháo binh, đại pháo cơ bản đều trang bị cho các cứ điểm quân sự trọng yếu. Chỉ khi cần tấn công các cứ điểm quan trọng của địch nhân mới chế tạo hỏa pháo đường kính lớn, dùng bảy tám con ngựa kéo, tiến hành pháo kích các công sự kiên cố. Ví dụ như Mã Toa quốc tấn công Minh Na Tư Đặc Lai và Vũ Thắng quan đều sử dụng đại pháo đặc chế, còn điều động một lượng lớn binh lực làm nhiệm vụ canh giữ, bằng không rất dễ bị kị binh của ta phá hoại…”
Dương Túc Phong khẽ lắc đầu, bình thản: “Không đúng, pháo binh, cuối cùng vẫn là chúa tể trên chiến trường lục địa, có thể pháo kích kị binh và thành lũy thành tro bụi.” Nghĩ đến cảnh tượng pháo binh đất liền và chiến hạm trên biển giao tranh, đạn pháo tung bay, xác chết chất chồng, hắn không tự chủ được, cảm thấy toàn thân nhiệt huyết bừng bừng.
Dương Cơ Duệ vốn cho rằng hắn mắc quái bệnh mà không biết, chỉ khe khẽ lắc đầu, thở dài bỏ đi.
Trầm mặc mấy giây, Dương Túc Phong mới bừng tỉnh, cầm lấy súng trường Đột Kỵ Thi đi thu dọn chiến trường. Đám cường đạo còn khả năng hoạt động đều đã chuồn sớm, mặt đất toàn là xác chết hoặc người sắp bị biến thành xác chết. Tiếng người sắp chết van xin thảm thiết bên tai hắn, hắn nghe mà để ngoài tai, thần sắc không chút thương xót. Cho dù đám người còn thoi thóp đó níu lấy chân hắn khổ sở cầu xin, hắn đều không nể tình tung cước đá cho một phát, kết thúc tiếng rên rỉ của bọn chúng.
Dương Cơ Duệ thực sự không nhẫn tâm, thấp giọng: “Còn có thể cứu được mà!”
Dương Túc Phong lạnh lẽo hỏi: “Vì sao phải cứu? Bọn chúng phải trả giá cho hành vi của chúng, mỗi người đều phải trả giá cho hành vi của mình. Con không thể cứu chúng, nhưng nếu chúng nguyện ý, con có thể giúp chúng lên đường sớm một đoạn.”
Dương Cơ Duệ ngẩn người nhìn hắn, lắc đầu không nói thêm nữa.
Bất thình lình, Dương Túc Phong lạnh lùng quát lên: “Ra đây! Ta biết ngươi nấp sau tảng đá, ngươi không ra ta nổ súng đó!”
Dương Cơ Duệ ngạc nhiên nhìn trước mặt, giọng hắn làm kinh động bọn Tô Lăng Tuyết, Tài Băng Tiêu. Bọn họ đều tò mò nhìn Dương Túc Phong cầm chắc Đột Kỵ Thi vòng ra sau tảng đá, lôi ra một thiếu niên tuấn tú xinh đẹp. Chính là thiếu niên xinh đẹp làm Dương Túc Phong chú ý lúc nãy.
Dưới họng súng đen ngòm của Dương Túc Phong, thân hình thiếu niên phát run nhưng sắc mặt hoàn toàn trấn tĩnh, nhón gót đi ra, bộ dạng giống như sợ bị máu trên mặt đất vấy bẩn. Cử động kì quái này của gã khiến người ta sinh nghi, gã ắt là một thiếu nữ cải nam trang. Quả nhiên, thần tình của Tài Băng Tiêu mau chóng chứng minh suy đoán của Dương Túc Phong, thiếu niên xinh đẹp này là nữ nhân. Dương Túc Phong liên tục hắt hơi càng chứng tỏ thân phận của “gã”.
Dương Túc Phong hạ Đột Kỵ Thi trong tay xuống, lạnh giọng: “Ngươi là người nào?”
Thiếu niên không trả lời, vẻ mặt kinh khủng, cúi đầu nhìn mũi giày mình.
Tô Lăng Tuyết khinh khỉnh nói: “Thiếu tướng đại nhân, bỏ súng xuống đi, ngài làm tiểu cô nương nhà người ta sợ kìa!”
Dương Túc Phong hậm hực quay người bỏ đi, chợt nghe tiếng Tài Băng Tiêu sau lưng: “Ngươi là người Cát Phổ Tái?” hắn hơi giật mình, lập tức dừng bước quay đầu lại nhìn thiếu niên. Không dè nhìn thấy Tài Băng Tiêu móc ra từ trên người thiếu niên rất nhiều bản thảo, tuy bị thấm mưa nhưng nét bút vẫn rất rõ. Tài Băng Tiêu cười cười, gương mặt tươi cười của nàng ta vĩnh viễn không biết được rốt lại là cao hứng hay bi ai, ngược lại dường như là bệnh nghề nghiệp, sau đó mới hỏi: “Ngươi quả nhiên là người Cát Phổ Tái, hả? Trong này ghi chép cái gì vậy? Hừ, cái gã thủ lĩnh thổ phỉ Hòa tộc đó có gì hay mà ghi chép hả?”
Dương Túc Phong gác Đột Kỵ Thi lên vai, bước lại cầm mớ bản thảo lên xem. Trên đó đều viết theo kiểu chữ phồn thể, khổ nỗi hắn đọc không ra, nhịn không được kì quái hỏi: “Trên đây viết cái gì vậy?”
Tài Băng Tiêu có chút thương xót, đáp: “Là sự tích bình sinh của cái người vừa bị ngài giết chết, Độ Biên Lang. Đáng tiếc, đến giờ này, mọi thứ đều kết thúc.”
Dương Túc Phong hiếu kì nhìn thiếu niên, lấy làm lạ: “Ngươi là người Cát Phổ Tái thật à?” đồng thời đánh giá thiếu niên nữ cải nam trang xinh đẹp này. Trong ấn tượng của hắn, thiếu nữ này giống như đào hát Nhật Bản, vô luận tướng mạo, thần thái đều giống hệt một cô nương Nhật Bản. Duy nhất có một điểm không giống, màu da của cô ta đích xác là con lai, mái tóc hoe hoe vàng. Từ đầu, tà dương đã chiếu cho hắn thấy kết quả nhưng sau chót hắn mới phát hiện, mái tóc vàng hoe của cô ta là trời sinh.
Thiếu niên mĩ lệ lấy hết can đảm ngẩng đầu lên nhìn Dương Túc Phong, nháy mắt hai má đỏ hồng, lại cúi đầu xuống khẽ đáp: “Tôi đúng là người Cát Phổ Tái!”
Dương Túc Phong muốn nói lại thôi, trong lòng dâng lên cảm giác kì dị, không cách gì diễn tả thành lời, cuối cùng buột miệng nói một câu trớt quớt: “Hóa ra cô là người Cát Phổ Tái à!”
Trong truyền thuyết cổ xưa của Y Lan đại lục có một dân tộc thần kì. Bọn họ thiện nghề ca vũ, viết tiểu sử, sở trường tạp kỹ. Bọn họ không ngụ một chỗ cố định, thường thường lưu lạc bốn phương. Có người mãi nghệ mưu sinh, có người thì dựa vào viết tiểu sử mà sống. Nhưng cũng có người không có chỗ dựa, phải lưu lạc đầu đường xó chợ. Bọn họ xem thế gian có đủ sắc thái, nóng rét ấm lạnh. Họ dùng ngôn ngữ thi ca miêu tả tất cả những gì phát sinh trên thế giới này. Cuộc sống xa xỉ của quý tộc vương cung, cuộc sống vất vả của bách tính cùng khổ, tất cả đều được thể hiện đầy đủ trong ca từ của bọn họ, những người ngâm xướng thi ca họp thành một bộ phận ngao du khắp đại lục. Do họ không nhiệt tâm với chính trị, công nông thương nghiệp nên bọn họ vĩnh viễn không được triều đình đế quốc chào đón. Là những kẻ lang thang cô độc, lữ khách thế gian, lặng lẽ mô tả lại mọi chuyện xảy ra trên đại lục. Có người nói, trong lịch sử Y Lan đại lục, ngoại trừ các sử gia cung đình, có thể rành rẽ toàn đại lục chỉ có người Cát Phổ Tái.
Trong con mắt của đa số người, tộc Cát Phổ Tái không nghi ngờ gì là một dân tộc kì lạ. Như thiếu niên mĩ lệ trước mắt, rõ ràng là kì lạ trong những người kì lạ. Không phải nhóm người ngâm xướng thi ca mà thuộc về nhóm tác giả truyện kí không ai biết đến. Bọn họ lặng lẽ bên cạnh cái bóng người khác, tỉ mỉ ghi chép những gì cái bóng của chủ nhân phát sinh. Tự nhiên, bọn họ cũng là cái bóng bên cạnh chủ nhân, vĩnh viễn không bị người khác nhìn thấy.
Dương Cơ Duệ hấp háy mắt, ý vị sâu xa, nói: “Ta nghĩ Á Sâm hành lang nhất định xảy ra sự việc hệ trọng nào đó!”
Dương Túc Phong vội vàng hỏi: “Rút cuộc là xảy ra chuyện gì?”
Dương Cơ Duệ chậm rãi lắc đầu, tỏ ý chính lão cũng không biết. Trầm mặc hồi lâu mới thở dài: “Đáng tiếc quá!”
Dương Túc Phong ngơ ngác không hiểu ra sao cả: “Đáng tiếc cái gì? Đáng tiếc cho Ngõa Thiết thiếu tướng à?”
Dương Cơ Duệ đáp: “Là ta nói đáng tiếc cho mấy quân quan pháo binh. Nếu ta không nhìn lầm, hai đại hán mới rồi hẳn là Mông Địch Vưu và Đỗ Qua Nhĩ. Bọn họ từng được đăng hình lên báo chí đế quốc nên ta có ấn tượng rất sâu. Hà, nhắc đến mới nói, chuyện đã bao năm rồi, không ngờ hôm nay bọn họ lại bị sung nô. Mông Địch Vưu, Đỗ Qua Nhĩ đều là quan pháo binh ưu tú vô cùng. Mông Địch Vưu tính tình trầm tĩnh, ưa thích nghiên cứu, sở trường trù tính kế sách, có nhiều kiến giải độc đáo cho phát triển và sử dụng pháo binh. Đỗ Qua Nhĩ lại nóng tính, nghiêm khắc, y khoái nhất là tự mình ra lệnh cho binh sĩ nã pháo vào những chỗ đông địch nhân nhất. Tuy y nhiều khuyết điểm nhưng ưu điểm là tính rất chân thật. Trong vô vàn quan chỉ huy pháo binh đế quốc, không ai có được xúc giác chiến trường nhạy bén như y. Y có thể nhanh nhạy điều chỉnh góc độ bắn, áp chế địch nhân. Trong trận chiến Lạc Na thứ 12, y lập chiến công lớn, nhờ đó thăng trực tiếp từ xa kị giáo úy lên hổ bí đô úy.”
Dương Túc Phong nhíu mày, ngờ vực: “Bọn họ đã là quan quân pháo binh ưu tú như vậy, sao quân hàm còn là hổ bí đô úy? Người xem Mông Địch Vưu đến năm mươi tuổi rồi ấy chứ, y chỉ là hồng kì đô úy, thật quá đáng mà! Bọn họ lại còn là quan pháo binh nữa!”
Dương Cơ Duệ không buồn liếc Dương Túc Phong một cái, hờ hững: “Quân hàm với năng lực thì có quan hệ gì? Quân hàm thiếu tướng hải quân của ngươi có liên quan với ngươi sao? Ta nhìn không ra à!”
Dương Túc Phong tức thì im bặt, mặt đỏ bừng.
Cũng phải, mình giành được quân hàm thiếu tướng hải quân với bản thân mình có quan hệ gì đâu? Chẳng trách suốt dọc đường ai cũng coi khinh mình, đến một viên xa kị giáo úy nhãi nhép cũng không coi mình ra gì.
May mà Dương Cơ Duệ không cố tình làm khó hắn, vừa châm biếm hắn xong liền tiếp tục nói: “Bọn họ sở dĩ khó đạt đến quân hàm cao hơn là do không tách rời lí luận sử dụng pháo binh là lỗi thời. Trong Quân Vụ bộ đế quốc, phái bảo thủ do Thượng Quan Lâm cầm đầu một mực cho rằng, pháo binh phải bố trí cho các pháo đài hoặc sử dụng trên chiến hạm, có vậy mới phát huy hết được uy lực của họ. Nếu trang bị cho bộ đội, có quá nhiều vấn đề nảy sinh. Hỏa pháo có đường kính quá lớn, tuy uy lực kinh người nhưng di chuyển quá khó khăn, tính cơ động thấp, gây cản trở tốc độ của bộ đội dã chiến, nhất là kỵ binh. Hỏa pháo có đường kính nhỏ tuy tốc độ di chuyển có nhanh hơn nhưng uy lực lại không như ý.”
Thở dài nuối tiếc, Dương Cơ Duệ nói: “Thượng Quan Lâm là kẻ tầm thường vô vị, nhưng suy cho cùng y vẫn là chủ quản cục quân giới và tòa án quân sự đế quốc. Hai chỗ này kết hợp làm một, dù cố ý hay vô tình cũng ảnh hưởng đến việc phát triển, trang bị vũ khí của quân đội. Thật là đáng tiếc!”
Dương Túc Phong cau mày: “Vì sao chứ? Pháo binh chính là thần chiến tranh, vì sao không sử dụng?”
“Cộng thêm việc ba năm trước đại tướng Giang Trữ thất bại, quân đội càng tranh luận không ngừng tác dụng của pháo binh. Sau cùng còn một khuynh hướng xếp vào dạng binh chủng không cần thiết. Ngay rất nhiều quan quân xuất sắc như Bạch Ngọc Lâu, Điệp Phong Vũ đều cho rằng lực lượng quyết định chiến tranh là kị binh. Pháo binh muốn bám gót hành động của kị binh rõ ràng là rất khó, muốn đối kháng với kị binh phải dựa vào pháo đài kiên cố hoặc những cứ điểm quan trọng mới có khả năng. Thành thử, địa vị của pháo binh dã chiến lại bị tước bớt. Trừ phi tiến công địch nhân ở các cứ điểm trọng yếu, bằng không tác dụng của pháo binh vô phương phát huy.”
Lông mày Dương Túc Phong càng lúc càng nhăn tít lại.
“Thực tế, biểu hiện của pháo binh trên chiến trường không tốt lắm, tầm bắn quá gần, uy lực lại thấp. Muốn gia tăng uy lực, tăng tầm bắn thì phải tăng đường kính miệng pháo. Khổ nỗi đường kính tăng thì trọng lượng cũng tăng theo, tính cơ động càng giảm. Hai mặt này mâu thuẫn không thể dung hòa. Từ mấy trận chiến Lạc Na mà nói, tác dụng lớn nhất của pháo dã chiến chỉ là công kích những chỗ tập trung đông bộ binh, cũng là chỗ phát huy ưu thế của pháo binh, còn những mặt khác, chỉ có thể nói vẫn chờ cải tiến.”
Dương Túc Phong im lặng nghĩ ngợi, lơ đãng gật đầu.
Dương Cơ Duệ nói tiếp: “Thực tế, các quốc gia trang bị pháo dã chiến trên thế giới không nhiều. Mã Toa quốc và Y Lan quốc kì thật rất ít pháo binh, đại pháo cơ bản đều trang bị cho các cứ điểm quân sự trọng yếu. Chỉ khi cần tấn công các cứ điểm quan trọng của địch nhân mới chế tạo hỏa pháo đường kính lớn, dùng bảy tám con ngựa kéo, tiến hành pháo kích các công sự kiên cố. Ví dụ như Mã Toa quốc tấn công Minh Na Tư Đặc Lai và Vũ Thắng quan đều sử dụng đại pháo đặc chế, còn điều động một lượng lớn binh lực làm nhiệm vụ canh giữ, bằng không rất dễ bị kị binh của ta phá hoại…”
Dương Túc Phong khẽ lắc đầu, bình thản: “Không đúng, pháo binh, cuối cùng vẫn là chúa tể trên chiến trường lục địa, có thể pháo kích kị binh và thành lũy thành tro bụi.” Nghĩ đến cảnh tượng pháo binh đất liền và chiến hạm trên biển giao tranh, đạn pháo tung bay, xác chết chất chồng, hắn không tự chủ được, cảm thấy toàn thân nhiệt huyết bừng bừng.
Dương Cơ Duệ vốn cho rằng hắn mắc quái bệnh mà không biết, chỉ khe khẽ lắc đầu, thở dài bỏ đi.
Trầm mặc mấy giây, Dương Túc Phong mới bừng tỉnh, cầm lấy súng trường Đột Kỵ Thi đi thu dọn chiến trường. Đám cường đạo còn khả năng hoạt động đều đã chuồn sớm, mặt đất toàn là xác chết hoặc người sắp bị biến thành xác chết. Tiếng người sắp chết van xin thảm thiết bên tai hắn, hắn nghe mà để ngoài tai, thần sắc không chút thương xót. Cho dù đám người còn thoi thóp đó níu lấy chân hắn khổ sở cầu xin, hắn đều không nể tình tung cước đá cho một phát, kết thúc tiếng rên rỉ của bọn chúng.
Dương Cơ Duệ thực sự không nhẫn tâm, thấp giọng: “Còn có thể cứu được mà!”
Dương Túc Phong lạnh lẽo hỏi: “Vì sao phải cứu? Bọn chúng phải trả giá cho hành vi của chúng, mỗi người đều phải trả giá cho hành vi của mình. Con không thể cứu chúng, nhưng nếu chúng nguyện ý, con có thể giúp chúng lên đường sớm một đoạn.”
Dương Cơ Duệ ngẩn người nhìn hắn, lắc đầu không nói thêm nữa.
Bất thình lình, Dương Túc Phong lạnh lùng quát lên: “Ra đây! Ta biết ngươi nấp sau tảng đá, ngươi không ra ta nổ súng đó!”
Dương Cơ Duệ ngạc nhiên nhìn trước mặt, giọng hắn làm kinh động bọn Tô Lăng Tuyết, Tài Băng Tiêu. Bọn họ đều tò mò nhìn Dương Túc Phong cầm chắc Đột Kỵ Thi vòng ra sau tảng đá, lôi ra một thiếu niên tuấn tú xinh đẹp. Chính là thiếu niên xinh đẹp làm Dương Túc Phong chú ý lúc nãy.
Dưới họng súng đen ngòm của Dương Túc Phong, thân hình thiếu niên phát run nhưng sắc mặt hoàn toàn trấn tĩnh, nhón gót đi ra, bộ dạng giống như sợ bị máu trên mặt đất vấy bẩn. Cử động kì quái này của gã khiến người ta sinh nghi, gã ắt là một thiếu nữ cải nam trang. Quả nhiên, thần tình của Tài Băng Tiêu mau chóng chứng minh suy đoán của Dương Túc Phong, thiếu niên xinh đẹp này là nữ nhân. Dương Túc Phong liên tục hắt hơi càng chứng tỏ thân phận của “gã”.
Dương Túc Phong hạ Đột Kỵ Thi trong tay xuống, lạnh giọng: “Ngươi là người nào?”
Thiếu niên không trả lời, vẻ mặt kinh khủng, cúi đầu nhìn mũi giày mình.
Tô Lăng Tuyết khinh khỉnh nói: “Thiếu tướng đại nhân, bỏ súng xuống đi, ngài làm tiểu cô nương nhà người ta sợ kìa!”
Dương Túc Phong hậm hực quay người bỏ đi, chợt nghe tiếng Tài Băng Tiêu sau lưng: “Ngươi là người Cát Phổ Tái?” hắn hơi giật mình, lập tức dừng bước quay đầu lại nhìn thiếu niên. Không dè nhìn thấy Tài Băng Tiêu móc ra từ trên người thiếu niên rất nhiều bản thảo, tuy bị thấm mưa nhưng nét bút vẫn rất rõ. Tài Băng Tiêu cười cười, gương mặt tươi cười của nàng ta vĩnh viễn không biết được rốt lại là cao hứng hay bi ai, ngược lại dường như là bệnh nghề nghiệp, sau đó mới hỏi: “Ngươi quả nhiên là người Cát Phổ Tái, hả? Trong này ghi chép cái gì vậy? Hừ, cái gã thủ lĩnh thổ phỉ Hòa tộc đó có gì hay mà ghi chép hả?”
Dương Túc Phong gác Đột Kỵ Thi lên vai, bước lại cầm mớ bản thảo lên xem. Trên đó đều viết theo kiểu chữ phồn thể, khổ nỗi hắn đọc không ra, nhịn không được kì quái hỏi: “Trên đây viết cái gì vậy?”
Tài Băng Tiêu có chút thương xót, đáp: “Là sự tích bình sinh của cái người vừa bị ngài giết chết, Độ Biên Lang. Đáng tiếc, đến giờ này, mọi thứ đều kết thúc.”
Dương Túc Phong hiếu kì nhìn thiếu niên, lấy làm lạ: “Ngươi là người Cát Phổ Tái thật à?” đồng thời đánh giá thiếu niên nữ cải nam trang xinh đẹp này. Trong ấn tượng của hắn, thiếu nữ này giống như đào hát Nhật Bản, vô luận tướng mạo, thần thái đều giống hệt một cô nương Nhật Bản. Duy nhất có một điểm không giống, màu da của cô ta đích xác là con lai, mái tóc hoe hoe vàng. Từ đầu, tà dương đã chiếu cho hắn thấy kết quả nhưng sau chót hắn mới phát hiện, mái tóc vàng hoe của cô ta là trời sinh.
Thiếu niên mĩ lệ lấy hết can đảm ngẩng đầu lên nhìn Dương Túc Phong, nháy mắt hai má đỏ hồng, lại cúi đầu xuống khẽ đáp: “Tôi đúng là người Cát Phổ Tái!”
Dương Túc Phong muốn nói lại thôi, trong lòng dâng lên cảm giác kì dị, không cách gì diễn tả thành lời, cuối cùng buột miệng nói một câu trớt quớt: “Hóa ra cô là người Cát Phổ Tái à!”
Trong truyền thuyết cổ xưa của Y Lan đại lục có một dân tộc thần kì. Bọn họ thiện nghề ca vũ, viết tiểu sử, sở trường tạp kỹ. Bọn họ không ngụ một chỗ cố định, thường thường lưu lạc bốn phương. Có người mãi nghệ mưu sinh, có người thì dựa vào viết tiểu sử mà sống. Nhưng cũng có người không có chỗ dựa, phải lưu lạc đầu đường xó chợ. Bọn họ xem thế gian có đủ sắc thái, nóng rét ấm lạnh. Họ dùng ngôn ngữ thi ca miêu tả tất cả những gì phát sinh trên thế giới này. Cuộc sống xa xỉ của quý tộc vương cung, cuộc sống vất vả của bách tính cùng khổ, tất cả đều được thể hiện đầy đủ trong ca từ của bọn họ, những người ngâm xướng thi ca họp thành một bộ phận ngao du khắp đại lục. Do họ không nhiệt tâm với chính trị, công nông thương nghiệp nên bọn họ vĩnh viễn không được triều đình đế quốc chào đón. Là những kẻ lang thang cô độc, lữ khách thế gian, lặng lẽ mô tả lại mọi chuyện xảy ra trên đại lục. Có người nói, trong lịch sử Y Lan đại lục, ngoại trừ các sử gia cung đình, có thể rành rẽ toàn đại lục chỉ có người Cát Phổ Tái.
Trong con mắt của đa số người, tộc Cát Phổ Tái không nghi ngờ gì là một dân tộc kì lạ. Như thiếu niên mĩ lệ trước mắt, rõ ràng là kì lạ trong những người kì lạ. Không phải nhóm người ngâm xướng thi ca mà thuộc về nhóm tác giả truyện kí không ai biết đến. Bọn họ lặng lẽ bên cạnh cái bóng người khác, tỉ mỉ ghi chép những gì cái bóng của chủ nhân phát sinh. Tự nhiên, bọn họ cũng là cái bóng bên cạnh chủ nhân, vĩnh viễn không bị người khác nhìn thấy.
Tác giả :
Nam Hải Thập Tứ Lang