Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu
Chương 310: Chùa Năng Nhân
Cảng Lỗ Đạt, vương quốc Lỗ Ni Lợi Á.
Thời gian từ sau khi quân Lam Vũ đổ bộ lên cảng Lỗ Đạt đã hơn mười ngày, khói súng chiến tranh tựa hồ đã đi xa. Bến tàu và đường phố cảng Lỗ Đạt đã khôi phục là vẻ yên bình như trước đây, cư dân đương địa cũng khôi phục sinh hoạt như trước đây. Điều khác biệt duy nhất là, so với trước kia, hiện giờ cảng Lỗ Đạt càng hối hả hơn, càng bận rộn hơn.
Trên bãi biển hai phía nam bắc của cảng Lỗ Đạt, vô số nhân viên khảo sát công trình đang khảo sát địa hình, làm công tác chuẩn bị cho công xưởng mới và bến tầu mới sắp được xây dựng. Bên cạnh nhân viên khảo sát công trình, là vô số trang bị máy móc và tài liệu vật tư, bao gồm các loại vật tư cần dùng cho công trình dưới nước như xi măng. Rất nhiều công nhân đang làm công tác thu dọn công trình sơ bộ nhất, chặt đi những cái cây thừa, san phẳng đất đai, vận chuyển đá, chỉ cần khảo sát công trình hoàn tất, lập tức có thể tiến vào giai đoàn xây dựng khẩn trương.
Căn cứ vào quy hoạch kiến thiết cảng Lỗ Đạt do Tài Băng Tiêu mới ban bố, nơi này cần dựng lên hai xưởng đóng tàu cỡ lớn, hai xí nghiệp quân sự cỡ lớn, hai xưởng sắt thép cơ lớn, còn có cả vô số các công trình đồng bộ khác, bao gồm nhà máy nhiệt điện v.v..v bến tàu ở cửa cảng cũng phải mở rộng, ít phải phải đủ cho neo đậu trên hai mươi chiếc thuyền cỡ lớn.
Bến tàu hiện có của cảng Lỗ Đạt cũng được mở rộng, tuyến đường biển được người nhái (thợ lặn) xuống nước dọn dẹn, đã khôi phục lại trạng thái tốt nhất, vô số thuyền vận chuyển nối liền không dứt tới từ bờ bên kia biển Ni Tư cập bến ở nơi này, từ trên thuyến tháo dỡ xuống bao nhiêu vật tư, nhân viên đồng thời đưa đi những nhân viên hàng phục và tù binh của quân đội Lỗ Ni, bọn họ sẽ tiếp thụ cải biên và giáo dục tưởng ở địa khu La Ni Tây Á ở đối diện biển Ni Tư. Nhân viên hợp cách sẽ trở thành một thành viên của quân Lam Vũ. Biển hiện xuất sắc của Lỗ Ni cuồng chiến sĩ trong chiến dịch Lão Hổ Câu làm Dương Túc Phong tin tưởng, vương quốc Lỗ Ni Lợi Á thực sự là nguồn binh lực tốt nhất.
Dưới sự suất lĩnh của đoàn trường Da Luật Cao Phi, trung đoàn thứ hai của hải quân lục chiến đội xuất phát từ cảng Hải Nha đã đổ bộ lên cảng Lỗ Đạt, chuẩn bị chấp hành nhiệm vụ chiến đấu mới. Nhiệm vụ ban đầu của bọn họ chính là tới đảo Sùng Minh chuẩn bị thay thế trung đoàn đệ nhất hải quân lục chiến đội phòng ngự. Nhưng theo công sự phòng ngự của Đảo Sùng Minh dần được hoàn thiện, cùng với đoàn trưởng Dương Thế Dân trung đoàn thủ bị biểu hiện xuất sắc, nhiệm vụ phòng ngự đảo Sùng Minh hiện giờ đã tương đối vững chắc, không cần trung đoàn thứ hai hải quân lục chiến đội tham gia nữa. Cơ quan tình báo quân Lam Vũ ở bờ biển phía đông đại lục Y Lan thiết lập được cơ cấu tình báo tương đối hoàn thiện, một khi nước Mã Toa có chút gió lay cỏ động gì, quân thủ bị quân Lam Vũ ở đảo Sùng Minh có đủ thời gian chuẩn bị chiến đấu.
Đương nhiên, quan trong nhất là các quan binh của trung đoàn thứ nhất hải quân lục chiến đội không chịu rời khỏi đảo Sùng Minh, bọn họ hiểu rõ, bọn họ đồn trú ở tuyến đầu tiên đảo sùng Minh, mục tiêu tiếp theo khẳng định chính là đổ bộ lên đảo Lữ Tống, bọn họ không muốn đem công tác này nhường cho trung đoàn thứ hai. Hơn nữa Dương Túc Phong cũng thấy ở trên mức độ nhất định có một trung đoàn hải quân lục chiến hùng mạnh phụ trách tác chiến ở rừng mưa nhiệt đới vẫn tương đối có lợi. Bất kể là đổ bộ lên đảo Lữ Tống hay là đổ bộ lên bờ đông của đế quốc Đường Xuyên sau này, đều phải đối diện với vô số địa khu rừng mưa nhiệt đới và bán nhiệt đới. Trung đoàn đệ nhất hải quân lục chiến đội nếu như có thể tích đươc lũy kinh nghiệm chiến đấu phong phú trong rừng, chắc chắn sẽ mang tới lợi ích cực lớn trong chiến đấu tương lai.
Về phần nhiệm vụ trung đoàn thứ hai hải quân lục chiến đội chuẩn bị chấp hanh, ngay đoàn trường Da Luật Cao Phi cũng không rõ, đây thuộc về cơ mật tối cao của quân Lam Vũ, hơn nữa hiện tại mấy quan chỉ huy cao cấp đang trong thảo luận.
Pháo đài của cảng Lỗ Ni cũng khôi phục sử dụng, được trang bị tám khẩu pháo trái phá 122 ly, có thể phong tỏa hữu hiện mặt biển. Loại pháo bờ biển cỡ nòng lớn này này chỉ cần một phát pháo đạn là có thể phá hủy một chiến chiến đấu hạm bằng gỗ trọng tải hai nghìn tấn. hạm đội Tô Chẩm Thư và hạm đội Khắc Lai Ô Địch Mã của quân Lam Vũ đều đã rút lui. Hạm đội Tô Chẩm Thư về cảng Tư Đa Khắc chỉnh đốn huấn luyện, còn hạm đội Khắc Lai Ô Địch Mã thì tiến tới đảo Sùng Minh thay thế phòng ngự cho hạm đội Vũ Phi Phàm. Hiện giờ tuần tra ở phụ cận cảng Lỗ Đạt chỉ có hạm đội Khắc Lý Khắc Lan, nhưng hải quân nước Y Mộng của mỹ thiếu niên thiên tài ĐứcTư Phỉ Đế Na thủy chung không xuất hiện, cho nên Khắc Lý Khắc Lan tạm thời còn không có việc gì để làm.
Tin tức người Ngõa Lạp còn sót lại ở Lão Hổ Câu cuối cùng toàn bộ buông vũ khí, toàn bộ đầu hàng quân Lam Vũ đã thông qua vô tuyến điện báo tạch tạch tè tè truyền tới cảng Lỗ Đạt, lần nữa đem đến cho cửa cảng này niềm vui từ tận đáy lòng. Quan quân thông tấn Viên Ánh Lạc cầm điện báo vội vàng rời phủ tổng đốc, bên ngoài có xe ngựa quân dụng chờ đợi, nàng vội vàng lên xe, nói với xa phu: “Tới chùa Năng Nhân.”
Xe ngựa lạnh cạch chuyển động bánh xe, rất nhanh tới được chùa Năng Nhân.
Chùa Năng Nhân chính là một chùa Phật hương hỏa thịnh vượng ở phía bắc cảng Lỗ Đạt, bề ngoài của nó không hề xuất chúng, thậm chí có chút đơn sơ. Nhưng sự tồn tại của bản thân nó đã là một kỳ tích, một kỳ tinh tông sư Phật gia lấy đó làm kiêu ngạo. Mặc dù vẻ ngoài của chùa Năng Nhân chẳng ra làm sao, nhưng trên đại lục Y Vân có thanh danh không nhỏ, có thể gọi là chùa Phật giáo hàng đầu của đại lục Y Vân, được hưởng tiếng thơm, cao tăng bên trong chùa đều rất có tu dưỡng, rất nhiều lão tăng tóc trắng bạc phơ, bọn họ đều đến từ đại lục Y Lan xa xôi, vì thành kính truyền bá văn hóa Phật giáo mà tới đây. Tới đợi đại sư chủ trì Trí Tín, càng là cao tăng vang danh xa gần.
Chùa Năng Nhân, cái tên như ý nghĩa chính là chùa miếu dạy người ta nhân từ.
Lỗ Ni Lợi Á là một quốc gia rất kỳ lạ, cư dân nơi đây đều thành kính tin thờ Lỗ Ni giáo, tôn sùng máu tanh và bạo lực. Từ nhỏ bọn họ được tiếp thu giáo dục là dựa vào vũ lực để vươn lên, tin tưởng nắm đấm chính là nguyên tắc cơ bản. Bởi thế vùng đất Lỗ Ni Lợi Á này xưa nay không thiếu chiến tranh và bạo loạn, cho dù vương quốc Lỗ Ni Lợi Á ngày nay cũng chỉ được kiến lập không quá trăm năm. Trăm năm trước nơi này cũng là một vùng hỗn loạn, điều này từ trên quốc kỳ bụi gai màu đỏ của bọn họ thấy được đầy đủ.
Từ xưa tới nay, Phật giáo tới từ đại lục Y Lan đều muốn chinh phục cư dân của vùng đất bạo lực này, để chứng tỏ sự bác đại tinh thâm của văn hóa Phật giáo, chứng tỏ phật tổ như lại pháp lực thâm hậu không gì không làm được, luôn có rất nhiều cao tăng có tài có trí vượt trùng dương xa xôi, tới Lỗ Ni Lợi Á, hi vọng trồng được hạt giống từ bi của phật tồ lên mảnh đất này, đồng thời chăm chút bảo về nó đâm chồi nảy rễ. Chùa Năng Nhân chính là một trong những chùa miếu được xây dựng sớm nhất ở địa khu Lỗ Ni Lợi Á, chúng là điểm dùng chân đầu tiên mỗi một giáo đồ tới Lỗ Ni Lợi Á sau này, trải qua năm tháng, nếm đủ tang thương, cuối cùng có được vinh dự ngày hôm nay.
Dương Túc Phong vốn chẳng có hứng thú gì với Phật giáo, ở kiếp trước đã không thích hòa thượng và ni cô, cảm thấy bọn họ chính là ký sinh trùng của xã hội, không làm được cho xã hội chút cống hiến nào, ngược lai còn cứ đứng ra đó chỉ chỉ chỏ chỏ nói năng lung tung, cực kỳ phản cảm. Nhưng tổng đốc Trương Hạo Hàm mới nhậm chức của cảng Lỗ Đạt lại có hứng thú nồng liệt với Phật giáo, hơn nữa còn cửu ngưỡng thanh danh của Trí Tín đại sư, cho nên ra sức khuyên rủ Dương Túc Phong tới đây nghe đại sư giảng học phật pháp.
Dương Túc Phong bị hắn dây dưa quá dữ, hơn nữa cuối cùng cũng hiểu, nếu mà mình không đi, Trí Tín đại sư căn bản chẳng để ý tới Trương Hạo Hàm, vì thỏa mãn nguyện vọng được gặp Trí Tín đại sư một lần, Dương Túc Phong dành chấp nhận, bất quá lời không hay vẫn nói trước: “Cái thứ Phật giáo này ta nghe không hiểu, cũng chẳng có kiên nhẫn, bất quá ngươi nói Trí Tín đại sư kể chuyện rất dễ nghe, vậy ta đi nghe ông ta kể chuyện là được.”
Cứ như thế, hai người mới sáng tinh mơ đã tới chùa Năng Nhân, hơn nữa tới bây giờ cũng còn chưa trở về.
Viên Ánh Lạc bước lên bậc thềm của chùa Năng Nhân, Tô Phỉ Mã Vận đang bố trí cảnh giới ở cửa. Ở bốn phía chùa Năng Nhân, đều là quan binh tiểu đoàn cảnh vệ quân bộ súng trên vai đạn lên nòng, trừ mỗi người một khẩu tiểu liên AK ra, mỗi người còn mang theo một khẩu Mauser ổ 20 viên đạn, đứng ở bên ngoài chùa miếu đều là cảnh vệ nam, bọn họ đứng thẳng thành đôi, ánh mắt sáng quắc theo dõi xung quanh bản thân, đem chùa Năng Nhân canh phòng nghiêm nặt. Đây còn là trạm gác công khai Viên Ánh Lạc nhìn thấy, về phần những trạm canh ngầm của các tay súng bắn tỉa nấp ở chỗ kín thì Viên Ánh Lạc không biết, nhưng có thể khẳng định là tuyệt đối không ít.
Cùng với việc quân Lam Vũ tấn công quy mô lớn Lỗ Ni Lợi Á và Tình Xuyên đạo, một lúc trêu chọc vào mấy đối thủ cường đại như Lỗ Ni Lợi Á, vương quốc Cáp Lạp Lôi, Ương Già, phản quân Bành Việt. Hiện giờ còn chọc cả vào người Ngõa Lạp và Ma Ni giáo, có thể gọi là địch của mọi mũi tên. An toàn của Dương Túc Phong trở thành vấn đề lớn nhất, Dương Túc Phong cũng bắt đầu dần nổi lên mặt nước, dẫn tới sự chú ý sát sao của các phe, nghe nói đế quốc Đường Xuyên và nước Mã Toa đều chuyên môn thiết lập tài liệu cá nhân Dương Túc Phong, cập nhật mỗi ngày, hơn nữa tổ chức người chuyên trách bắt đầu nghiên cứu tỉ mỉ về y.
Trong cách nhìn của ban ngành an toàn quân Lam Vũ, thi thoảng, Dương Túc Phong tựa hồ cũng biết chút võ công, có thể trong lúc chỉ mành treo chuông tránh khỏi kẻ địch ám sát, nhưng mà loại giác quan thứ sáu thần kỳ này làm người ta thực sự khó tin, cũng làm người ta tin tưởng còn có có hội thành công lần thứ hai, càng không có ai đem an toàn của y gửi gắm lên loại tỉ lệ một nghìn chỉ có môt này, cho nên dùng phương thức bảo vệ nghiêm ngặt nhất là cần thiết, quân Lam Vũ hiện giờ cũng đã có thực lực thi hành phương sách này.
Đối với người muốn ám sát Dương Túc Phong mà nói, chỉ cần có thể ra tay thành công, sẽ có cơ hội hạ gục Dương Túc Phong rất lớn, giống như lần trước ở Mạt Long gặp phải sự ám sát của Phương Phỉ Thanh Sương vậy, nếu như không phải Cung Tử Yên và U Nhược Tử La kịp thời ra tay, cái mạng nhỏ của Dương Túc Phong sợ rằng đã gần như toi rồi. Tiếp thu kinh nghiệm và giáo huấn lần trước, ban ngành an toàn của quân Lam Vũ quyết định mở rộng phạm vi cảnh giới, đồng thời an bài càng nhiều tay súng bắn tỉa ở trong chỗ tối, đề phòng bất kỳ điều bất ngờ nào.
Cho dù là Viên Ánh Lạc, Tô Phỉ Mã Vận cũng chẳng khách khí, cảnh vệ bên cạnh nàng vẫn kiểm tra giấy tờ chứng nhận của Viên Ánh Lạc như thường, kiểm tra rõ không có gì sơ sót mới chịu cho đi.
Viên Ánh Lạc tựa cười tựa không nhìn Tô Phỉ Mã Vận lạnh lùng hỏi: “Có tin tức gì bất lợi sao? Hay là đặc biệt nhằm vào tôi.”
Tô Phỉ Mã Vận khinh miệt nhìn nàng một cái, hất mái tóc khẽ quay đầu đi, lạnh lùng nói: “Ai thèm đặc biệt nhắm vào cô? Cẩn thận một chút bao giờ cũng không có gì sai, kẻ thù tướng công nhà cô trêu ghẹo vào đúng là không ít.
Viên Ánh Lạc lập tức châm biếm lại, lạnh lùng nói: “Chẳng chẳng phải là tướng công của cô sao?”
Tô Phỉ Mã Vận lạnh lùng bĩu môi, chẳng để ý tới nàng.
Viên Ánh Lạc biết mình và Tô Phỉ Mã Vận không hợp nhau, nàng đã sớm nhận định mình là người nghiêng về phía tỷ muội Phượng Thải Y, cùng Tô Phỉ Thái Vi, Khắc Lệ Tô Na là quan hệ tình địch. Ngoài ánh sáng, mọi người đều là nữ nhân của Dương Túc Phong, hòa hợp êm ấm, nhưng chỗ riêng tư, vì tranh đoạt ân sủng của Dương Túc Phong, mọi người có thể nói là đầy rẫy tâm tư, ngươi tranh ta đoạt, chỉ còn thiếu thẳng thừng ra tay mà thôi.
Nhất là sau khi Tô Lăng Tuyết sinh một nữ nhi, các nàng càng tỏ ra tích cực, trừ Lam Sở Yến tỏ ra không có hứng thú gì với việc sinh con dưỡng cái, thì ngay cả tỷ muội Phượng Thải Y cũng muốn sinh một đứa con trai, chiếm trước tiên cơ về danh phận. Do các nữ nhân khác đều chinh chiến ở bên ngoài, hoặc là tĩnh dưỡng ở Đan Phượng hành cung, nên tự nhiên là vớ bở cho bọn Viên Ánh Lạc và Tô Phỉ Mã Vận. Trong khoảng thời gian này, bầu bạn với Dương Túc Phong nhiều nhất là hai người nàng và đám Tiết Tư Khỉ, thỉnh thoảng còn có Sương Nguyệt Hoa và Đan Nhã Huyến, nhưng thật đáng tiếc, mỗi đêm Dương Túc Phong chẳng phải là không nỗ lực, nhưng thủy chung không chịu khai hoa, ngay cả Tử Duyệt cô nương cũng có chút ù ù cạc cạc, không hiểu rốt cuộc là ra làm sao.
Về điều này, trong lòng Dương Túc Phong hiểu trong lòng, chế độ một chồng nhiều vợ nhiều lúc là hưởng thụ, nhưng nhiều lúc cũng là căn nguyên của phiền toái. Bất quá chỉ cần tranh đấu giữa các nàng không nguy hại tới sự nghiệp của bản thân, nguy hại tới dã tâm của bản thân, thì hắn ngả theo chiều là ra vẻ không biết. Thuận theo tự nhiên, bất kể là Phượng Thải Y hay là Lam Sở Yến và Khắc Lệ Tô Na đều đang hình thành đoàn tỷ muội bên cạnh mình, vì tranh đoạt thân tâm của y mà phấn đấu, Nếu bản thân tùy tiện chèn ép một phe nào đó, cũng không biết sẽ dẫn tới hiệu quả như thế nào, nói không chừng treo cổ tự sát nhảy xuống biển đều có khả năng. Tất cả những điều này, về sau vẫn phải nhờ tới Tiêu Tử Phong nghĩ cách dọn dẹp, với thủ đoạn của nàng, hẳn là có thể áp đảo được đám Phượng Thải Y và Khắc Lệ Tô Na.
Bậc thềm của chùa Năng Nhân đã có hơi chút xuống cấp rồi, vốn là phiến đá từ đá hoa cương trắng muốt tạc ra, sau dưới sự mưa dập gió vùi, trải nắng dầm mưa thời gian dài, đã biến thành màu đen mốc meo, hơn nữa còn có một số chỗ đã bị dẫm nát mép, thiếu một góc lớn. Nhưng không có ai tu bổ, cây leo ở hai bên cũng lâu không được cắt tỉa đã lan tới tận giữa bậc thềm, hơn nữa còn có khuynh hướng tiếp tục lan ra.
Từ nơi này có thể nhìn ra, truyền bá Phật giáo ở vương quốc Lỗ Ni Lợi Á có thể gọi là gánh nặng đường xa, mặc dù bề ngoài chủa Năng Nhân hương hỏa thịnh vượng, nhưng thực tế được bố thí không hề nhiều. Những người dân xung quanh cảng Lỗ Đạt chẳng hề giầu có, hơn nữa còn có giáo đồ Lỗ Ni giáo ngoan cố cản trở và phá hoại. Chùa Năng Nhân có thể sống sót tới hôm nay đã là kỳ tích tương đối vĩ đại rồi.
Vượt qua bậc thềm tàn tạ, chính là một tứ hợp viện rộng rãi, bốn phía đều là tường bao sứt mẻ, giống như bậc thềm, tường bao bốn phía đại khái cũng rất lâu không được tu sửa rồi, trông có cảm giác như sắp đổ sập, nhất là trước đó vài ngày phải trải qua khảo nghiệm của cuồng phong bạo vũ, có một số đoàn tường bao đã có dấu vết nghiêng vẹo rõ ràng, hơn nữa tường gạch đầy nước cũng phát ra mùi vị khó ngửi.
Ở góc mé tường bao phía tây nam, có một cây Bàn Đào rất lớn, cành dầy là rậm, sức sống thỉnh vượng, cùng với tường bao sứt mẻ cũ nát, đá xanh siêu mục nát ở trên mặt đất hình thành sự đối lập rõ ràng. Cho người ta một sự chấn động và thu hút rất lớn, làm người ta cảm giác được chỗ không tầm thường của chùa Năng Nhân. Ở trên thế giới này, cây Bàn Đào gần như là tượng trưng cho Phật giáo. Tục ngữ Phật giáo có câu tục ngữ nhất hoa nhất thế giới, nhất diệp nhất Như Lai, đều từ cây Bàn Đào mà ra.
Cây Bàn Đào này của chùa Năng Nhân, trong Phật giáo của đại lục Y Vân cũng có tên tuổi không nhỏ, nghe nói nếu như có may mắn ăn được một quả đào ở nơi này, thì khi luân hồi chuyển thế sẽ không bị rơi vào mười tám tầng địa ngục, không cần phải bị lửa địa ngục khảo luyện, khiến cho một số tài chủ địa phương giàu có bất nhân đổ xô vào, lũ lượt mưa một lượng lớn đào ở nơi này mang về nhà cất như của báu. Bố thí của chùa Năng Nhân đại bộ phấn chính là do bọn họ mà tới, chỉ có điều, bố thí tới chùa Năng Nhân này, thoáng một cái đã bị bố thí đi mất rồi, bất kể là địa phương nào ở Lỗ Ni Lợi Á, người nghèo đều đếm không kể siết.
Dựa theo luận điểm kính điện được Dương Túc Phong giảng giải ở lễ tốt nghiệp đầu tiên của trường học quan quân cao cấp hải quân quân Lam Vũ, chính là bởi vì Lỗ Ni Lợi Á nghèo, mới sớm có thanh danh Lỗ Ni cuồng chiến sĩ không biết sợ chết, nếu Lỗ Ni Lợi Á cũng giàu có như vương quốc Cách Lai Mỹ, nhân dân nơi này đã không có ý chí kiên cường nữa rồi. Từ sau khi quân Lam Vũ thành lập, trừ một số rất ít nhân viên hàng hải, nguồn binh lực của quân Lam Vũ trên cơ bản không tới từ vương quốc Cách Lai Mỹ. Người Cách Lai Mỹ không muốn tòng quân, quân Lam Vũ cũng không muốn tiếp nhận người Cách Lai Mỹ, đây đã là sự thật bất thành văn.
Dưới cây Bàn Đào cũng có hai nữ cảnh vệ đứng, vũ trang toàn bộ, anh tư mạnh mẽ, đều là người Viên Ánh Lạc quen thuộc. Các nàng thường đảm nhiệm cảnh vệ cho Dương Túc Phong, bất quá mục đích các nàng đứng ở dưới cây Bàn Đào, tựa hồ không phải là nhiệm vụ cảnh vệ bình thường, ngược lại giống như là vì giám thì sự tồn tại một lão tăng nhân. Sau lần tập kích trước của Phương Phỉ Thanh Sương, đám Tô Phỉ Mã Vận và Tiết Tư Khỉ đều có chút thần kinh quá mẫn cảm, ngay cả Dương Túc Phong đi nhà xí cũng thấy có nguy cơ ám sát, bởi thế cho dù Dương Túc Phong đi nhà xí, các nàng hoặc là tự mình đi theo bảo vệ, hoặc là ủy phái tâm phúc bảo vệ, tuyệt đối không cho phép Dương Túc Phong rời khỏi tầm mắt của mình, bởi thế gây ra không biết bao nhiêu lời chê cười và xấu hổ, làm Dương Túc Phong thân ở trong diễm phúc khóc cười không xong.
Bị mấy mỹ nữ ở bên cạnh nhìn, ngươi còn có thể tè được ra không?
Dưới gốc Bàn Đào, đúng là có một lão tăng đang quét lá.
Viên Ánh Lạc nhìn không rõ diện mạo của lão tăng này, nhưng xem ra ít nhất phải hơn sau mươi rồi, đầu tóc râu ria đều đã trắng hết cả, thân thể cũng hơi còng còng, bất quá có chút kỳ quái là, vị lão tăng này trên mặt có rất nhiều vết xẹo, tựa hồ do chiến đấu lâu ngày cùng người tạo thành. Da dẻ của ông ta cũng đen đúa vô cùng, nhưng có một số chỗ lại lộ ra màu trắng khủng bố, giống như là nhiễm bệnh vậy. Loại vết vẹo ăn sâu tới tận xương này, còn có màu da quái dị, trong tín đồ của Phật tựa hồ cũng cực kỳ ít thấy, chẳng trách mà Tô Phỉ Mã Vận phải chuyên môn chỉ định hai cảnh vệ tới chú ý ông ta. Chỉ có điều, Viên Ánh Lạc có chút không hiểu, bộ đội cảnh vệ vì sao không đuổi lão tăng này đi cho xa chứ?
Đi qua dưới cây Bàn Dào, phía sau là một con hẻm nho nhỏ. Cái hẻm này còn coi như sạch sẽ, tu bổ cũng rất tốt, hoa ở hai bên hẻm cũng được chỉnh sửa vô cùng ấn tượng độc đáo, bên trong Bồ Công Anh màu trắng và Đỗ Quyên đang nở rộ, trắng đỏ đan xen, êm ấm như tiểu thư bích ngọc, cho người ta một cảm giác bên ngoài thối nát, bên trong ngọc ngà.
Trong con hẻm cũng có nữ cảnh vệ vũ trang toàn bộ cảnh giác y như vậy, mang theo vẻ mặt lãnh khốc nhìn Viên Ánh Lạc đi tới, trên từng khuôn mặt xinh đẹp đều không có chút cảm xúc nào. Cùng với việc khu vực quân Lam Vũ từng bước mở rộng, ban ngành an toàn có thể chiêu mộ được nhân viên an toàn có trình độ cao cũng ngày càng nhiều. Những nữ cảnh vệ này đều trải qua sàng lọc và khảo nghiệm nhiều lần mới chọn ra được. Tố chất tất nhiên là không tệ, khi ban ngành an toàn cần chiêu mộ nữ cảnh vệ, còn một dạo bị hiểu nhầm là tuyển tú, làm cho toàn thành bàn luận xôn xao, khiến Dương Túc Phong cũng phải xấu hổ, cũng làm cho rất nhiều nữ tử đầy tâm cơ vô cùng thất vọng. Ngầm trách Dương Túc Phong không hiểu phong tình.
Đi vào đại diện, nhưng thấy trên đại điện trống không, chẳng hề có bất kỳ cảnh vệ nào, hai người Tiết Tư Khỉ và Đan Nhã Huyến đang buồn chán dùng mũi bàn chân đá vào một cái đinh nhô lên trên tấm ván bằng gỗ của cửa đại điện, nhìn thấy Viên Ánh Lạc tới, Đan Nhã Huyến áy náy làm dấu ra hiệu với nàng, ý bảo nàng đừng đi vào.
Vì thế Viên Ánh Lạc đứng lại, từ chỗ cửa len lén thò đầu nhìn vào bên trong đại điện.
Hai người Dương Túc Phong và Trương Đạo Hàm đang ngồi xoay lứng về phía cửa, chuyên tâm lắng nghe thủ tọa chùa Năng Nhân đại sư Trí Tín giảng kinh phật.
Viên Ánh Lạc loáng thoáng nghe thấy tiếng của đại sư Trí Tín có vẻ hết sức hòa nhã dễ nghe, giống như có một cỗ mị lực có thể cảm nhiễm người khác. Trương Đạo Hàm gật đầu liên tục, tựa hồ ngộ ra rất nhiều, nhưng Dương Túc Phong thì lại tựa hồ không có biểu tình lĩnh ngộ gì cả, tư thế gần như không có chút động tác nào. Viên Ánh Lạc len lén nhún vai, trong lòng lặng lẽ nói với bản thân, mời Dương Túc Phong tới nghe kinh phật có khác gì gẩy đàn cho trâu nghe? Trong nhiều lần đàm thoại với các tướng lĩnh quân đội cao cấp, Dương Túc Phong đều khịt mũi khinh bỉ, không hề che dấu chút nào thái độ khinh miệt của mình đối với Phật giáo. Không phải là hắn cảm thấy Phật giáo có vấn đề gì, mà là hiện giờ thời thế không đúng, hắn phải dùng máu và sắt để giải quyết vấn đề, mà Phật giáo lại đề xướng đạo lý mở lòng từ bi , buông đồ đao trờ thành phật cùng với ý nghĩ của hắn hoàn toàn không hợp.
Là người phụ trách của ban ngành tình báo, Viên Ánh Lạc đương nhiên biết lai lịch của vị Trí Tín đại sư này, ông ta làm môt vị cao tăng đắc đạo đúng nghĩa. Cho dù là ở trên đại lục Y Lan cũng có thanh danh không nhỏ. Trí Tín đại sư thiếu niên đắc đạo, phật pháp tinh thông, ông ta từng làm trụ trì hai khóa của chùa Bạch Mã. Trong thời gian này lặng lẽ cùng với Thần Tú đại sư của Ngũ Đài Sơn ngang vai ngang vế, nhưng ông chủ động từ bỏ vị trí chủ trì, không ngại gian khổ vượt trùng dương xa xôi, tới Lỗ Ni Lợi Á , đảm nhận nhiệm vụ khai thiên lập địa cho Phật pháp, hơn nữa còn ở nơi này tới mười chín năm, hành vi của ông ta đích thực làm người ta sinh lòng kính trọng.
Lưu phái Phật giáo của đế quốc Đường Xuyên hết sức phức tạp, nổi danh nhất là Thiện Tông và Tịnh Thổ Tông, nhưng lưu phái này tranh đoạt tín đồ và quyền lực với nhau, cho dù bao gồm người lãnh tụ của bọn họ cũng không ngoại lệ. Dùng lời của Dương Túc Phong mà nói thì là chó chắng đối tính ăn phân, bất kể là loại tôn giáo gì, loại đoàn thể gì, mục đích cuối cùng của nó luôn là phân chia lợi ích, đếu đã phân chia lợi ích thì phải có tranh đoạt, dù là cái tranh đoạt này che dấu dưới lý luận đạo mạo trang nghiêm như thế nào, hoặc là khoác bên ngoài tấm áo tôn giáo thần thánh trang nghiêm thế nào.
Trên thực tế, trong nội bộ Phật giáo, Thiện Tông và Tịnh Thổ Tông tranh chấp có căn nguyên từ xưa. Tới đời Trí Tín đại sư, thực lực của Thiện Tông cuối cùng hoàn toàn thua dưới Tịnh Thổ Tông, bởi vì Tịnh Thổ Tông xuất hiện một đại tông sư tài năng hơn người đó chính là Thần Tú đại sư của Ngũ Đài sơn. Trong nhiều lần đối đầu giữa chùa Bạch Mã và Ngũ Đài sơn, chùa Bạch Mã thất bại thảm hại, làm cho Trí Tín đại sư cuối cùng không thể không vượt biển về phía đông, thực sự là không còn mặt mũi nào thấy phụ lão Giang Đông!
*** Đây là lời trước của Hạng Vũ lúc sắp chết :
Trời hại ta, ta vượt qua sông làm gì! Vả chăng Tịch này cùng tám ngàn con em Giang Đông vượt Trường Giang đi về hướng tây, nay không còn lấy một người trở về! Dù cho các bậc cha anh ở Giang Đông thương ta, cho ta làm vương, ta cũng còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa. Dù họ không nói, Tịch này há chẳng thẹn trong lòng sao?
Viên Ánh Lạc đột nhiên nghe thấy Trí Tín đại sư nói: “…. Khi Đường Lãng tới, luôn một mình một bóng, bên người ngay cả cảnh vệ đều không có, nhưng với thân thủ của ông ta, cho dù không có cảnh vệ cùng không sợ gì..”
Viên Ánh Lạc không kìm được dựng lỗ tai lên, chăm chú lắng nghe.
Tiết Tư Khỉ và Đan Nhã Huyến nhìn thấy hành động khác lạ của Viên Ánh Lạc cũng bát giác nghiêng đầu nghe chốc lạt, rồi nhanh chóng bị hấp dẫn.
Thì ra Trí Tín đại sư hiện giờ không phải là đang giảng kinh phật mà là kể chuyện.
Chuyện liên quan tới Đường Lãng.
Không biết bắt đầu từ khi nào, chuyện liên quan tới Đường Lãng tựa hồ luôn có dính líu chút gì đó tới Dương Túc Phong, làm người ta nảy sinh nghi ngờ, làm các nữ nhân bên cạnh Dương Túc Phong mơ hồ cảm thấy Dương Túc Phong và Đường Lãng có thể có quan hệ nào đó. Thậm chí Phượng Phi Phi còn hoài nghi Dương Túc Phong có phải cùng Đường Lãng có quan hệ thân thích gì đó hay không. Nhưng đáng tiếc không có sự thực chuẩn xuác chứng mình. Mà bản thân Dương Túc Phong lại chẳng chút quan tâm tới thân thế của mình, bởi vì y vốn là người ngoại lai tới từ địa cầu, đối với thân thế trên thế giới này chẳng có chút hứng thú gì.
Trong khói đàn hương lượn lờ, Trí Tín đại sư thần sắc nghiêm nghị, chậm rãi kể: “…. Đường Lãng….”
Trên lịch sử của đế quốc Đường Xuyên, truyền thuyết liên quan tới Đường Lãng chỉ có hai cái, cũng là truyền thuyết sinh động nhất, làm người ta tin phục nhất. Một là Đường Lãng tàn nhẫn thích giết người, lãnh khốc vô tình; một cái khác là Đường Lãng thành kính quy y Phật giáo. Tên Đồ tể tàn nhẫn mê chém giết lãnh khốc vô tình không ngờ lại thành kính thờ phụng Phật giáo, đây vốn là chuyện vô cùng mâu thuẫn, nhưng đúng là dã xảy ra trên người Đường Lãng, khiến cho rất nhiều người phải lộ ra vẻ kinh ngạc, Tất cả những chuyện này tạo nên sự thần bí của Đường Lãng, cũng thành bí ẩn hậu nhân say mê nghiên cứu.
Đường Lãng từ một hạm trưởng chiến đấu hạm bình thường làm tới tận nguyên soái hải quân duy nhất trên lịch sử của đế quốc Đường Xuyên. Đúng là có chỗ hơn người, trừ sự thông minh tài trí của ông ta ra, còn có quyết đoán mê chém giết. Ông ta ở trong hải chiến, làm người người ta nghe tiếng sợ vỡ mật nhất, không phải là sự xuất quỷ nhập thần của ông ta, mà là sự lãnh khốc vô tình của ông ta. Mỗi lần chiến đấu kết thúc, quan binh kẻ địch bị ông ta bắt được đều không hề có ngoại lệ bị ông ta nghiêm lệnh đẩy xuống biển, chết đuối.
Ông ta ở trong hải dương cuộn trào sóng nước chính chiến gần năm mươi năm, chưa từng có ngoại lệ, mỗi trận chiến đầu không giữ người sống đã trở thành quy định nghiêm ngặt hơn cả quân kỷ. Trong thời gian năm mươi năm, rốt cuộc có bao nhiêu người bỏ mang ở đại hải vì sự lãnh khốc vô tình của ông ta, thật không thể thống kê được. Bời vì quá là nhiều, chỉ cần lấy một cái vị dụ là có thể hiểu được. Trong cuộc hải chiến với nước Mã Toa năm 1688 thiên nghuyên, hải quân nước Mã Toa chiến bại có hơn sáu vạn quan binh bị Đường Lãng bắt làm tù binh, bao gồm cả quan tư lệnh của bọn họ trong đó, kết quả toàn bộ bị trói hai chân hai tay đẩy vào địa hải nuôi cá mập, làm cá biển của cả Nam Hải sau một bữa no nên đều lần lượt chán thịt người, mấy năm sau đó đều không muốn ăn thịt người.
Trận chiến này, ngay cả một số quan viên đế quốc Đường Xuyên cũng nhìn không thích, cảm thấy Đường Lãng quá máu lạnh, không chút nhân tính, đến nối dâng biểu cùng chống đối ông ta, yêu cầu trừ bò chức vụ của ông ta, bất quá cuối cùng chẳng được việc gì. Đường Lãng cũng không giảm bớt hành vi của mình, vẫn cứ thích gì làm nấy, đánh tới nơi nào, giết tới nơi nào, liền tạo ra một con đường máu trên biển. Do Đường Lãng tàn nhẫn mê giết người, kẻ địch của ông ta hận ông ta thấu xương, hận không thể lột da rút gân ông ta, nhưng thủy chung không một ai có thể chiến thắng Đường Lãng trên biển.
Thế nhưng, cùng với việc Đường Lãng tàn nhẫn hiếu sát, ông ta tựa hồ lại là một tín đồ phật giáo thành kính. Đương nhiên, thành kính chỉ là tương đối mà thôi. Trong những câu truyện được ghi vào sách vở hẳn hoi, mỗi lần Đường Lãng hải chiến trở về, đều sẽ tới trong chùa miếu ăn năn chuộc tội, quỳ mãi không dậy, hết sức chân tâm thật ý, giống như muốn sám hối lỗi lầm của mình. Nhưng một khi rời khỏi chùa miếu, tiến trở về đại hải, lập tức lại khôi phục bản tính tàn khốc vô tình, đối đãi với kẻ địch quyết không mềm lòng, bất kể là đối phương cầu xin thế nào, đều không cho hắn một con đường sống.
Loại tính cách mâu thuẫn này tự nhiên khơi lên hứng thú của các đại sư Phật học, bọn họ cho rằng, Đường Lãng là một hạt mầm tốt, nhưng đáng tiếc lại đi chệch đường, chỉ cần chỉ dạy thật tốt, Đường Lãng hoàn toàn có thể khôi phục trạng thái của người thường. Vì thế bọn họ định ra rất nhiều kế hoạch cụ thể, chuẩn bị đưa Đường Lãng vào trong sinh hoạt bình thường của tín đồ Phật giáo. Thế nhưng, đại sư Phật học thiên hạ vào thời đó, người có phật pháo cao thâm, có năng lực thu Đường Lãng làm độ đệ, không dưới ba bốn chục người, nhưng có gan thu Đường Lãng làm đồ đệ, chỉ có đại sư Thần Tú của Ngũ Đài Sơn.
Năm 1689 thiên nguyên, Đường Lãng chính thức quy y Tỉnh Thổ Tông Ngũ Đài Sơn.
Thần Tú đại sư vì thế mà thanh danh nổi lên, còn Đường Lãng cũng chính thức trở thành đệ tử tục gia của Ngũ Đài Sơn.
Thế nhưng, làm cho các cao tăng Phật giáo thất vọng là, Thần Tú đại sư mặc dù thu Đường Lãng làm đồ đệ, nhưng tựa hồ càng chú trọng dựa vào đó để đề cao thanh danh của cá nhân, chẳng hề cấp cho Đường Lãng chỉ đạo thực sự nào. Ngược lại, mỗi lần từ Ngũ Đài Sơn xuống, biểu hiện hung bạo của Đường Lãng càng lợi hại hơn trước kia. Ông ta đều dựa theo mệnh lệnh của đế quốc Đường Xuyên khai chiến với kẻ địch, nhưng từ sau khi quy y Ngũ Đài Sơn, lại biến thành tệ hại hơn, triều đình không có mệnh lệnh tác chiến, ông ta liền chủ động suất lĩnh hạm đội khổng lồ truy bắt hải tặc khắp nơi, lấy hành hạ giêt chóc hải tặc làm niềm vui, ông ta đi khắp bảy biển, đuổi cho đám hải tắc chó chạy gà bay, sống không an thân. Gần như quảng trường của các thành thị dọc bờ biển đại Lục Y Lan và đại lục Y Vân, đều treo đầy thi thể của đám hải tặc bị thắt cổ.
Khi đó, chính là lúc hải tặc Ca Âu và hải tặc Sở La Môn hoành hành ngang ngược, bọn chúng tùy ý tấn công thương thuyền của đế quốc Đường Xuyên qua lại, tổn hại nghiêm trọng tới lợi ích của đế quốc Đường Xuyên, vì thế triều đình cũng ngầm cho phép loại hành vi gần như điên cuồng này của Đường Lãng. Từ đó trở đi, Đường Lãng hai lần càn quét hải vực Sở La Môn, sáu lần tiến vào biển Gia Lặc Tân cùng hải tặc luân phiên huyết chiến. Nghe nói khi tình hình chiến đấu kịch liệt nhất, thi thể trôi nổi trên mặt biển làm cho chiến đấu hạm không thể tiến lên, tắc nghẽn nghiêm trọng. Gia tộc Lôi Đình thực lực cường đại nhất bị Đường Lãng đánh cho tan thành tro bụi, ngay cả bản thân Hải Lôi Đình cũng bị bắt tới mổ bụng moi gan để thị uy, vì thế mà đám hải tặc khác nghe tiếng là bỏ chạy, căn bản không dám va chạm với Đường Lãng.
Dương Túc Phong đột nhiên nói: “Ta rất lấy làm lạ, Đường Lãng rốt cuộc vì sao mà chết? Vì sao liên quan tới cái chết của ông ta thường không có ai nhắc tới?”
Trí Tín đại sư nói: “Đường Lãng chính là vì u uất mà chết.”
Dương Túc Phong nhíu mày nói: “ U uất ư?”
Trí Tín đại sư nói đầy thâm ý: “Bởi vì trên mặt biển ông ta đã không còn đối thủ nữa.
Dương Túc Phong không khỏi lại lần nữa cau mày, đây mà cũng là lý do?
Trí Tín đại sư nhìn y một cái thật sâu, rồi chậm rãi nói: “Ở nơi cao không khỏi lạnh lẽo, cao thủ tịch mịch, khi một con người sau khi tới cảnh giới vô địch, sẽ cảm thấy sự mệt mỏi và cô độc phát ra từ tận trong lòng, loại cảm giác này người thường rất khó lý giải. Nhưng Thần Tú đại sư đã nói như thế, Đường Lãng cuối cùng chết trong căn phòng của minh ở Ngũ Đài Sơn, thần thái an tường, di ngôn sau đó chỉ có bốn chữ, đó là: vô cùng tịch mịch.”
Trương Đạo Hàm cảm khái nói: “Nghe nói chuyện một buổi, hơn cả mười năm đọc sách. Đường Lãng đúng là một nhân tài hơn đời! Làm người ta nảy sinh kính trọng, khi trời cao tạo ra con người, luôn ban cho mỗi người một chút ưu điểm, một chút khuyết điển. Nhưng ưu điểm và khuyết điểm của Đường Lãng đều bị không cẩn thận phóng đại lên.”
Dương Túc Phong mơ hồ như cảm thấy điều gì, nhưng cuối cùng không nói ra được, nhưng hàng lông mày vẫn không hoàn toàn giãn ra.
Viên Ánh Lạc thấy thời cơ đã tới, vội vàng đưa tình báo lên.
Dương Túc Phong chậm rãi nhận lấy tình báo.
Đây là báo cáo chi tiết liên quan tới Lão Hổ Câu Lam Sở Yến báo tới, mặc dù đã được rút gọn, nhưng vẫn có hơn ba bốn trăm chữ.
Người Ngõa Lạp nam hạ hơn ba vạn sáu nghìn kỵ binh, trừ hơn một nghìn thương binh lưu lại Cao Ninh phủ, còn lại đều bị quân Lam Vũ tiêu diệt, trong đó giết trên hơn một vạn tên, bắt làm tù binh hai vạn bốn ngàn tên. Ngoài ta, quân Lam Vũ còn thu được bốn vạn bốn nghìn con chiến mã còn lành lặng nguyên vẹn.
Kỵ binh người Ngõa Lạp ở lại Cao Ninh phủ biết được tin tức toàn quân bị diệt, lập tức đem cơn giận của mình phát tiết lên người Ma Ni giáo, áp dụng hành động ở Cao Ninh phủ, kết quả rất nhanh bị quân khăn đỏ của Ma Ni giáo trấn áp, tất cả người Ngõa Lạp đêu bị Ma Ni giáo giết sạch sẽ. Giáo chủ Ma Ni giáo Tuyền Tu Hoằng ý thức được quan hệ giữa mình và người Ngõa Lạp đã hoàn toàn bị rạn nứt, vì thế đã làm là làm cho tới cùng, tuyên bố chấp nhận sự lãnh đạo của người Tây Mông, trở thành một quân cờ của người Tây Mông ở địa khu phía nam Mỹ Ni Tư, nhưng trước mặt người Tây Mông còn chưa có câu trả lời.
Dương Túc Phong đứng dậy cáo từ, dưới sự hộ tống của mọi người đi qua con hèm, tới tứ hợp viện.
Ngay tại chính giữa tứ hợp viện, Dương Túc Phong đột nhiên lại cảm thấy một cảm giác rét buốt mau chóng mở rộng trong lòng, chớp mắt đã bao phủ toàn thân. Đây là điềm báo trước mỗi khi gặp phải ám sát đều có, Dương Túc Phong sớm đã hình thành phản xạ có điều kiện, bời thế không cần suy nghĩ nằm sấp xuống phía trước, đồng thời quay đầu lại nhìn, vừa vặn nghe thấy choang một tiếng, một chiếc ám khí xuyên qua vị trí y vừa đứng, đánh lên thanh trường kiếm Đan Nhã Huyến vừa mới rút ra, tức thì đem mũi trường kiếm đánh nát thành mảnh vụn. Bản thân Đan Nhã Huyến cũng bị sức mạnh cường đại chấn động tới phun ra một ngụm máu tươi, loạng choạng lui về phía sau một bước lớn, cuối cùng vẫn không đứng vững được, phịch một tiếng quỳ xuống, dùng đoản kiếm miễn cưỡng chống đỡ thân thể.
Tiết Tư Khỉ lớn tiếng kêu lên: “Có thích khách!”
Gần như cùng lúc đó, tiếng thét chói tai của Sương Nguyệt Hoa vang lên: “Phương Phỉ Thanh Sương.”
Tiếng thét chói tai của Sương Nguyệt Hoa còn chưa tan đí, Dương Túc Phong lại cảm giác được luồng hơi rét buốt kia lại lần nữa từ tận đáy lòng tràn lên, sau đó truyền khắp toàn thân, cảm giác như toàn thân rơi vào hầm băng vậy. Đây là dấu hiệu báo trước một lần tập kích khác, lần nào cũng đúng, không cần suy nghĩ, bất chấp mặt đất ẩm ướt và bẩn thỉu, Dương Túc phong lăn mình tới dưới gốc cây Bàn Đào, thoáng như nghe thấy có thứ gì đó đánh vào vị trị y vừa nằm, tiếp theo đó truyền tới tiếng thét thảm thiết của một nữ cảnh vệ, láng máng còn nghe thấy cả tiếng máu tươi từ trong cơ thể phọt ra, ngay lập tức truyền tới tiếng súng ác liệt, phá vỡ sự yên tĩnh của chùa Năng Nhân.
Tiếng súng xối xả, nhưng tựa hồ không thu được hiệu quả gì, bốn phía đều là tiếng bước chân dồn dập. Cảnh vệ phòng thủ ở bên ngoài chùa Năng Nhân cũng vội vàng chạy vào trong tứ hợp viện, đem chu vi từ hậu viện lấp kín tới một con ruồi cũng không bay lọt. Tiếng súng đã kinh động đám người Trí Tín đại sư, mấy vị lão tăng mi trắng già nua cũng rảo bước xuyên qua con hẻm chạy ra, kinh hải nhìn cảnh tượng xảy ra trước mắt.
Khi Dương Túc Phong nghiêng sườn lăn tren mặt đất, mắt liếc thấy Tô Phỉ Mã Vận đã móc súng ra bắn, nhưng lại tự hồ khó xác định được phương hướng. Ám khí tới quá nhanh quá mạnh, làm cho những người có mặt không thể nào tức tốc phân biệt ra được. Hai nữ cảnh vệ dưới gốc Bàn Đào kia cũng cơ bản là như thế, mặc dù súng lục Mạt Lai Đức đã móc ra, nhưng không nắm chắc được vị trí sở tại của kẻ tập kích. Các nàng chỉ theo bản năng dùng thân thể của mình chắn trước mặt Dương Túc Phong, thay y ngăn cản ám khí không biết từ phương nào tới.
Nữ cảnh vệ bất hạnh bị ám khí đánh trúng kia, đã nằm dài dưới gốc Bàn Đào. Dươi thân thể là một vũng máu đỏ sẫm, Đan Nhã Huyến cúi đầu đưa tay ra đặt lên trên mũi nàng, liền sau đó thương tâm cúi thấp đầu xuống, bên khóe mắt tràn ra giọt lệ trong suốt, hiển nhiên nữ cảnh vệ kia đã ngọc vẫn hương tiêu rồi.
“Ở phương hướng bảy giờ!” Dương Túc Phong vừa kinh hãi vừa giận dữ quát lên.
Đủ các loại tiếng súng tức thì càng thêm dày đặc, tất cả cảnh vệ đều hướng về phía bảy giờ không ngừng nổ súng xạ kích. Súng máy bán tự động, súng tiểu liên, súng Mauser, súng lục Mạt Lai Đức, các loại súng nhất tề khai hỏa, đạn mãnh liệt bắn lên tường bao, tức thì ánh lửa tung tóe. Bất quá đa phần số đạn lại xuyên qua tường bao. Sau một hồi súng nổ mãnh liệt, tường bao cũ nát đã không thể nào chịu đựng được lực xung kích của đạn nữa, ầm ầm đổ xuống.
Phía sau tường bao, chính là một bãi cỏ hoang vu, không hề có bất kỳ chút dấu vế nào của kẻ tập kích, chỉ có cỏ dại bị những viên đạn dày đặc đánh gãy, còn có rất nhiều lá cỏ gai sắc bén có thể cứa đứt da người, đang không ngừng lay động trong gió nhẹ, tự hồ phát ra vẻ khinh miệt với mọi thứ phát sinh ra trong tứ hợp viện. Cỏ gai cũng bị đạn lũ lượt bắn gẫy, bồ công anh treo trên mũi nhọn tức thì bay ngập trời, làm bầu trời thêm nổi bật hết sức mỹ lệ.
Đan Nhã Huyến tức tối khoát tay, tiếng súng mới dần trở nên thưa thớt, cuối cùng hoàn toàn ngừng lại.
Tiết Tư Khỉ dẫn theo hai mươi ba cảnh vệ, cầm súng tiểu liên xông vào vùng cỏ hoang. Sau khi lùng xét kỹ càng, không phát hiện ra dấu vết tồn tại của người sống. Từ đất bùn mềm xốp của mặt đất mà xét , bên trên cũng không hề có dấu chân nào, tựa hồ không có người ẩn nấp. Thế nhưng, các nàng cũng biết rất rõ, với võ công của Phương Phỉ Thanh Sương, là tuyệt đối không thể lưu lại dấu vết trên mặt đất.
Nàng tin tưởng vào cảm giác của Dương Túc Phong, nếu Dương Túc Phong đã cảm giác được Phương Phỉ Thanh Sương ẩn nấp ở nơi này, thì chắc chắn là nàng đã ẩn nấp ở nơi này, nhưng động tác rút đi của Phương Phỉ Thanh Sương thực sự quá nhanh, các nàng không nhìn thấy mà thôi. Nghĩ tới ban cảnh vệ của quân Lam Vũ thiết lập phòng tuyến bên ngoài chùa Năng Nhân nghiêm ngặt như vậy vẫn không thể ngăn cản được sự xuất hiện của Phương Phỉ Thanh Sương, trong lòng nàng không rét mà run.
Bộ đội cảnh vệ còn chưa hết kinh hãi vẫn lập tức triển khai lùng sục quy mô, nhưng không thu hoạch được gì, Phương Phỉ Thanh Sương không lưu lại một chút dấu vết nào.
Hai cánh môi trên dưới của Đan Nhã Huyền khẽ run run, lòng còn sợ hãi đỡ Dương Túc Phong hoàn toàn trấn định lên, đông đảo cảnh vệ vây xúm xít quanh y vẫn không dám tản đi, đem y bao vây chặt chẽ. Ở chỗ Dương Túc Phong đứng vừa rồi, có hai chiếc ám khí bắn lên tảng đá xanh trải trên mặt đặt, hai chiếc ám khí này không giống nhau, một cái phi tiêu lượn vòng hình chữ vạn, còn một cái là tú hoa châm cực kỳ nhỏ bé.
*** Phi tiêu chữ vạn: hình chữ thập với bốn mút cong về phía trái và hướng sang trái
Chính cây tú hoa châm không chút nào đáng để mắt đó đã đánh gãy trường kiếm của Đan Nhã Huyến, làm cho nàng bị nội thương không nhẹ, hiện giờ bên miệng còn có máu tươi chảy ra. Còn chiếc phi tiêu lượn vòng hình chữ vạn kia uy lực tựa hồ càng lớn hơn, nó trực tiếp xuyên qua thân thể nữ cảnh vệ bất hạnh kia, sau đó lại cắm sâu vào trong mặt đất. Do tốc độ của nó thực sự quá nhanh, làm cho khi xuyên qua cơ thể cũng không lưu lại một chút vết máu nào. Khi nó bị móc ra từ trong tấm đá xanh, còn lóe màu xanh đen.
Cây tú hoa châm này, Đan Nhã Huyến và Tiết Tư Khỉ đều nhân ra chắc chắn là ám khí của Phương Phỉ Thanh Sương, các nàng đã rất cẩn thận đề phòng loại ám khí tới lui không hề có tiếng động này rồi, không ngờ rằng cuối cùng nó vẫn xuất hiện. Cò về chiếc phi tiêu lượn vòng hình chữ vạn kia thì các nàng chưa từng thấy qua, cũng chưa từng nghe thấy loại ám khí cổ quái này.
Nhìn thấy trên ngực Dương Túc Phong có vết máu, Đan Nhã Huyến vội vàng cởi áo của y ra kiểm tra, may mắn thân thể của y không bị thụ thương, vết máu đều là của nữ cảnh vệ bất hạnh kia bắn lên. Nhưng các nàng đích xác là bị dọa không nhẹ, vị tăng nhân quét lá trên mặt đất kia nhìn thấy dưới sườn của Dương Túc Phong, tựa hồ phát hiện ra điều gì đó, tức thì sắc mặt tái mét, trông vô cùng kinh khủng, những người có mặt mặc dù cũng chú ý tới, nhưng sức chú ý tạm thời đều còn ở trên người Dương Túc Phong, không rảnh để ý tới ông ta.
Dương Túc Phong khoát tay nói: “Ta không sao cả, mọi người không cần lo lắng, đều trở về vị trí của mình đi, đứng có xúm vào chỗ này nữa.”
Tô Phỉ Mã Vận lúc này mới hạ lệnh cho bộ đội dựa theo vị trí cảnh giới ban đầu lần lượt lui đi. Nhưng tất cả mọi người đều sẵn sàng đón địch, sợ Phương Phỉ Thanh Sương còn sẽ chơi trò hồi mã thương. Mấy nữ nhân có mặt đều biết hết sức rõ ràng chuyện của Dương Túc Phong và Phương Phỉ Thanh Sương, không ai dám lơ là cảnh giác, dưới cơn thịnh nộ, Dương Túc Phong bất chấp tất cả vũ nhục Phương Phỉ Thanh Sương, với cá tính của Phương Phỉ Thanh Sương sao có thể cam tâm tình nguyện chịu đựng vũ nhục, cho nên hiện giờ nàng đã đánh tới cửa rồi.
“Quá nửa là cô ta muốn giết y, sau đó tự sát.” Đây gần là cách nghĩ không hẹn mà giống nhau trong lòng mỗi nữ nhân.
Thế giới mà các nàng sinh sống, mặc dù sinh mạng và trinh tiết của nữ tử bình thường không liên hệ với nhau. Nhưng dù sao danh tiết của nữ nhân vẫn rất quan trọng, nhất là những nữ tử tiếp nhận quan niệm truyền thống của Đường tộc, đều rất để ý tới trinh tiết và thanh bạch. Nhất là dạng nữ tử như Phương Phỉ Thanh Sương, thân là thánh nữ của Ma Ni giáo, sớm đã có quan niệm đạo đức và thói quen tư duy riêng của mình, nàng sao có thể tiếp thụ được những việc đã xảy ra trong căn phòng gỗ ở Mạt Long?
“Đều là chàng gây họa.” Rất nhiều nữ nhân muốn nói với Dương Túc Phong như vậy, nhưng nhìn thấy thần sắc u ám biến đổi không ngừng của y, lời ra tới miệng rồi lại nuốt trở về. Theo uy thế tăng trưởng từng ngày của quân Lam Vũ, trước mặt người ngoài, các nàng không dám tùy tiện có hành động tình tứ. Bất quá mặc dù là thế, sự tình của Phương Phỉ Thanh Sương nếu như để Điệp Tư Thi biết được rồi, vậy báo chí đế quốc chắn chắn lại có một hồi mỉa mai châm chích. Về phần Dương Túc Phong lại có thêm tội danh gì nữa, thì chẳng ai có thể biết được.
Đám Tô Phỉ Mã Vận nhìn thấy mấy vị lão tăng và Trí Tín đại sư đi tới, muốn bắt hết bọn họ trở về thẩm vấn, nhưng bị Dương Túc Phong ngăn lại. Y cho rằng chùa Năng Nhân không cần thiết phải tham gia ám sát mình, người lại thuần túy từ góc độ lợi ích xuất phát, chùa Năng Nhân còn phải nghĩ đủ mọi cách để đảm bảo an toàn cho mình, chỉ có mình bình yên vô sự chiếm được Lỗ Ni Lợi Á, Phật giáo mà bọn họ sùng bái mới có cơ hội phát triển lớn mạnh. Huống chi, người của chùa Năng Nhân có ngu ngốc hơn, cũng không gây khó dễ cho mình ngay trên đất của bản thân.
Dương Túc Phong hơi bình phục lại tâm tình, tới sương phòng bên cạnh đổi một bộ y phục sạch sẽ đi ra, Trí Tín đại sư đã chờ ở cửa.
Trí Tín đại sư chẳng hề để ý tới người bên cạnh Dương Túc Phong chẳng phân biệt phải trái đúng sai, cũng chẳng để ý đám Tô Phỉ Mã Vận như hổ đói nhìn mồi. Mà ánh mắt tập trung lên người Dương Túc Phong, sắc mặt nghiêm túc: “Dương thí chủ, thí chủ có khúc mắc gì với đế quốc Tinh Hà hay không?”
Dương Túc Phong có chút ngạc nhiên, lập tức dứt khoát đáp: “Không có.”
Đế quốc Tinh Hà xa tít tận đại lục Y Lan, sao mình có thể có khúc mắc với bọn họ.
Sắc mặt của Trí Tín đại sư càng lúc càng nghiêm nghị, ánh mắt vẫn sáng rực nhìn chăm chú vào Dương Túc Phong, thâm trầm nói: “Nhưng, chiếc phi tiêu xoay vòng này chỉ có đệ tử của Thánh Điện đế quốc Tinh Hà mới biết sử dụng… hơn nữa, theo lão nạp biết, loại phi tiêu xoay vòng hình chữ vạn này chỉ có nhân vật hạch tâm của Thánh Điện mới sử dụng được. Uy lực của nó đúng là rất lớn, biến ảo khó lường, nhưng không có võ công cao thâm làm gốc rễ, thì căn bản không thể sử dụng được, mà bí quyết sử dụng phi tiêu xoay vòng hình chữ vạn này cũng chỉ có người trong Thánh Điện mới hiểu, những người khác tuyệt đối không thể học theo được. Còn mong Dương thí chủ xuy xét kỹ hơn, xem xem bản thân có phải đã từng qua lại gì với người trong thánh điện hay không.”
Dương Túc Phong đột nhiên nhớ ra gì đó, cảnh diễn ra ngày đó bên sông Thanh Long ở phủ Đan Phượng ngày đó tựa hồ hiện lên trước mắt, người thiếu niên nữ giả nam trang toàn thân áo xanh cùng Phương Phỉ Thanh Sương tình thâm ý thiết, quan hệ gần gủi, lập tức cười khổ: “Đại sư, tôi nhớ ra rồi, tôi đúng là có cùng người của Thánh Điện đế quốc Tinh Hà có qua lại, nhưng là một bằng hữu trong Thánh Điện của Phương Phỉ Thanh Sương, lần này có khả năng là nàng theo Phương Phỉ Thanh Sương tới. Nữ nhân này, nghe nói tên là Nga Nhi Tuyết Liễu…”
Trí Tín đại sư giật mình sợ hãi, vẻ mặt phức tạp, thật lâu sau mới không thể tin nổi lẩm bẩm nói: “Chính là Nga Nhi Tuyết Liễu, quan môn đệ tử của Tân Đế Lôi Lạp… Dương thí sao sao lại có quan hệ với cô ta? Chuyện này… Ôi, sợ rằng là Dương thí chú có chút rắc rồi rồi, Thánh Điện của đế quốc Tinh Hà hành vi cực đoan, theo đuổi nguyên tác có thù tất báo, hình thành trào lưu chính thống, lần này bọn họ hành thích thí chủ không thành công, sợ là…”
Có một số lời ông không nói ra, nhưng người có mặt đều hiểu, đó là người của Thánh Điện không đạt được mục đích tuyệt đối sẽ không ngừng lại.
Dương Túc Phong bất đắc dĩ lắc đầu, cười khổ nói: “Tôi.. cho dù tôi không đi trêu chọc bọn họ, bọn họ cũng sẽ tới chọc vào tôi. Dù sao tôi cũng đã quen rồi, sinh tử tồn vong cũng chẳng có gì mà đáng sợ, tôi đã trải qua rồi, cũng không quá để ý nữa. Nhưng nghe lời đại sư nói, tựa hồ có hiểu biết rất sâu về Thánh Điện đế quốc Tinh Hà, chẳng lẽ khi đại sư còn trẻ từng tới Thánh Điện đế quốc Tinh Hà?”
Trí Tín đại sư chậm rãi nói: “Người trong Thánh Điện mặc dù hành vi cực đoan, nhưng võ công đúng là không tệ. Khi lão nạp còn trẻ, cũng từng tuổi trẻ khí thịnh, coi rẻ Phật pháp, lang bạt khắp nơi, kết quả là chịu thiệt lớn bởi người trong Thánh Điện, sau này mới hiểu, võ công dĩ nhiên là quan trọng, nhưng cảnh giới của con người càng quan trọng hơn. Sau chuyện này, liền chuyên tâm vào phật pháp, mới có hoàn cảnh ngày hôm nay. Dương thí chủ, thí chủ một lòng muốn thiên hạ giàu có, nhưng tâm cảnh của thí chủ, chưa chắc đã được bình hòa như lão nạp hiện giờ…”
Dương Túc Phong lơ đễnh lắc đầu, bình thản nói: “Đại sư, tôi thật lòng thật ý đa tạ đại sư dạy bảo. Nhưng đại sư muốn tôi nghiên cứu phật pháp, rèn luyện tâm cảnh thì tôi không làm được. Không phải là tôi coi thường sự vĩ đại của Như Lai Phật Tổ, cũng không phải tôi khinh rẻ trí tuệ của đại sư, mà là tình cảnh của tôi hiện giờ không cho phép tôi tôn thờ Phật pháp. Ngày nay thời loạn, cách giữ mình tốt nhất là vũ lực, cái chuyện người là dao thớt ta thịt cá, bảo tôi vươn cổ ra đợi chết tôi sẽ không làm. Nếu như tối không phấn đấu phản kháng, chẳng những tính mạng của tôi khó giữ, dù là người bên cạnh tôi cũng phải gặp tai ương. Tình thế chính trị như hiện nay không phải là đám phán và nhường nhịn là có thể giải quyết, chỉ có máu và lửa mới có thể tạo ra thế giới hoàn toàn mới. Đại sư, lời tôi nói vô cùng thẳng thắn, nếu như có chỗ nào đắc tội, xin đại sư thứ lỗi. Nơi này là đất thanh tịnh của cửa Phật, chúng tôi toàn thân trên dưới đều mang sát khí, đúng là không hợp tới chỗ này lắm.”
Trí tín đại sư thở dài nói: “Thôi vậy, ở trong loạn thế, không có gì gọi là đúng sai. Thí chủ trí tại thiên hạ, là chuyện xấu cũng là chuyện tốt. Bất quá xin thứ cho lão nạp bất tài, với ý kiến của lão nạp, thích khách nữ thí chủ còn lại tựa hồ có quan hệ mật thiết với Dương thí chủ. Hơn nữa vị thí chủ này từng nấn ná ở bổn tự một đoạn thời gian. Có liên hệ mật thiết với bổn tự…”
Dương Túc Phong tức thì sắc mặc hơi biến đổi, thâm trầm nói: “Phương Phỉ Thanh Sương tới chùa Năng Nhân của các vị ư?”
Trí Tín đại sư ánh mắt trong vắt mà thâm trầm, chậm rãi nói: “Đã hơn một tháng rồi. Lão nạp cùng có một chút hoang mang khi có khách nhân như thế, chính là nữ thí chủ tên là Phương Phỉ Thanh Sương như Dương thí chủ nói. Nhưng khi đó lão nạp và đông đảo các vị sư huynh đệ đều không biết thân phận thực sự của nàng, chỉ cảm thấy nàng thực sự đáng thương, vì thế thu giữ nàng ở lại bổn tự mấy ngày. Không ngờ rằng, chuyện này thì ra có quan hệ thật lớn với Dương thí chủ.”
Dương Túc Phong nửa tin nửa ngờ hỏi: “Thực sự là thế sao? Cô ấy tới nơi này ư? Sao cô ấy có thể tới nơi này?”
Phương Phỉ Thanh Sương không ngờ lại chẳng lập tức trở về nơi ở của mình, chẳng lẽ là thực sự không dám trở về Ma Ni giáo nữa? Hay là còn vì nguyên nhân khác? Sau cái ngày ở đảo Sùng Minh đó, liền không còn có tin tức của Phương Phỉ Thanh Sương nữa, có người còn cho rằng nàng bị lăng nhục như thế quá nửa là đã chọn một nơi không có bóng người lặng lẽ tự sát rồi. Với thân phận của nàng, một khi chuyện ở Mạt Long truyền đi, quả thực là sống không bằng chết.
Trí Tín đại sư không nhanh không chậm nói: “Đúng thế, khi đó mưa xa gió giật, không có ai nghỉ trọ, chỉ có vị nữ thí chủ này. Lúc đó nàng bị thương không nhẹ, sắc mặt nhợt nhạt vô cùng, con mắt không chút ánh sáng, hơn nữa tựa hồ trên đường cũng trải qua nhiều lần chiến đấu, thương thế ngầy càng nghiêm trọng… bọn lão nạp cứu lấy nàng, liền sau đó phát giác ra chỗ không tầm thường của nàng, vì thế vẫn luôn giữ nàng ở lại, cẩn thận chữa trị cho nàng…”
Dương Túc Phong có chút mù mờ hỏi: “Cô ấy có chỗ nào đặc biệt?”
Trí Tín đại sư nói: “Nội công của vị nữ thí chủ này, là Phật môn chính tông của chúng tôi, nhưng ngoại công lại hoàn toàn là con đường âm hiểm ác độc, mỗi chiêu đều là chiêu thức độc ác dồn người ta vào chỗ chết. Cho nên chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, không hiểu vì sao võ công nội ngoại của nàng lại trái ngược lớn như thế…”
Dương Túc Phong có chút ngạc nhiên nói: “Không ngờ cố ấy là đệ tử Phật môn các vị, thật đúng là…”
Y muốn nói là mặ
Thời gian từ sau khi quân Lam Vũ đổ bộ lên cảng Lỗ Đạt đã hơn mười ngày, khói súng chiến tranh tựa hồ đã đi xa. Bến tàu và đường phố cảng Lỗ Đạt đã khôi phục là vẻ yên bình như trước đây, cư dân đương địa cũng khôi phục sinh hoạt như trước đây. Điều khác biệt duy nhất là, so với trước kia, hiện giờ cảng Lỗ Đạt càng hối hả hơn, càng bận rộn hơn.
Trên bãi biển hai phía nam bắc của cảng Lỗ Đạt, vô số nhân viên khảo sát công trình đang khảo sát địa hình, làm công tác chuẩn bị cho công xưởng mới và bến tầu mới sắp được xây dựng. Bên cạnh nhân viên khảo sát công trình, là vô số trang bị máy móc và tài liệu vật tư, bao gồm các loại vật tư cần dùng cho công trình dưới nước như xi măng. Rất nhiều công nhân đang làm công tác thu dọn công trình sơ bộ nhất, chặt đi những cái cây thừa, san phẳng đất đai, vận chuyển đá, chỉ cần khảo sát công trình hoàn tất, lập tức có thể tiến vào giai đoàn xây dựng khẩn trương.
Căn cứ vào quy hoạch kiến thiết cảng Lỗ Đạt do Tài Băng Tiêu mới ban bố, nơi này cần dựng lên hai xưởng đóng tàu cỡ lớn, hai xí nghiệp quân sự cỡ lớn, hai xưởng sắt thép cơ lớn, còn có cả vô số các công trình đồng bộ khác, bao gồm nhà máy nhiệt điện v.v..v bến tàu ở cửa cảng cũng phải mở rộng, ít phải phải đủ cho neo đậu trên hai mươi chiếc thuyền cỡ lớn.
Bến tàu hiện có của cảng Lỗ Đạt cũng được mở rộng, tuyến đường biển được người nhái (thợ lặn) xuống nước dọn dẹn, đã khôi phục lại trạng thái tốt nhất, vô số thuyền vận chuyển nối liền không dứt tới từ bờ bên kia biển Ni Tư cập bến ở nơi này, từ trên thuyến tháo dỡ xuống bao nhiêu vật tư, nhân viên đồng thời đưa đi những nhân viên hàng phục và tù binh của quân đội Lỗ Ni, bọn họ sẽ tiếp thụ cải biên và giáo dục tưởng ở địa khu La Ni Tây Á ở đối diện biển Ni Tư. Nhân viên hợp cách sẽ trở thành một thành viên của quân Lam Vũ. Biển hiện xuất sắc của Lỗ Ni cuồng chiến sĩ trong chiến dịch Lão Hổ Câu làm Dương Túc Phong tin tưởng, vương quốc Lỗ Ni Lợi Á thực sự là nguồn binh lực tốt nhất.
Dưới sự suất lĩnh của đoàn trường Da Luật Cao Phi, trung đoàn thứ hai của hải quân lục chiến đội xuất phát từ cảng Hải Nha đã đổ bộ lên cảng Lỗ Đạt, chuẩn bị chấp hành nhiệm vụ chiến đấu mới. Nhiệm vụ ban đầu của bọn họ chính là tới đảo Sùng Minh chuẩn bị thay thế trung đoàn đệ nhất hải quân lục chiến đội phòng ngự. Nhưng theo công sự phòng ngự của Đảo Sùng Minh dần được hoàn thiện, cùng với đoàn trưởng Dương Thế Dân trung đoàn thủ bị biểu hiện xuất sắc, nhiệm vụ phòng ngự đảo Sùng Minh hiện giờ đã tương đối vững chắc, không cần trung đoàn thứ hai hải quân lục chiến đội tham gia nữa. Cơ quan tình báo quân Lam Vũ ở bờ biển phía đông đại lục Y Lan thiết lập được cơ cấu tình báo tương đối hoàn thiện, một khi nước Mã Toa có chút gió lay cỏ động gì, quân thủ bị quân Lam Vũ ở đảo Sùng Minh có đủ thời gian chuẩn bị chiến đấu.
Đương nhiên, quan trong nhất là các quan binh của trung đoàn thứ nhất hải quân lục chiến đội không chịu rời khỏi đảo Sùng Minh, bọn họ hiểu rõ, bọn họ đồn trú ở tuyến đầu tiên đảo sùng Minh, mục tiêu tiếp theo khẳng định chính là đổ bộ lên đảo Lữ Tống, bọn họ không muốn đem công tác này nhường cho trung đoàn thứ hai. Hơn nữa Dương Túc Phong cũng thấy ở trên mức độ nhất định có một trung đoàn hải quân lục chiến hùng mạnh phụ trách tác chiến ở rừng mưa nhiệt đới vẫn tương đối có lợi. Bất kể là đổ bộ lên đảo Lữ Tống hay là đổ bộ lên bờ đông của đế quốc Đường Xuyên sau này, đều phải đối diện với vô số địa khu rừng mưa nhiệt đới và bán nhiệt đới. Trung đoàn đệ nhất hải quân lục chiến đội nếu như có thể tích đươc lũy kinh nghiệm chiến đấu phong phú trong rừng, chắc chắn sẽ mang tới lợi ích cực lớn trong chiến đấu tương lai.
Về phần nhiệm vụ trung đoàn thứ hai hải quân lục chiến đội chuẩn bị chấp hanh, ngay đoàn trường Da Luật Cao Phi cũng không rõ, đây thuộc về cơ mật tối cao của quân Lam Vũ, hơn nữa hiện tại mấy quan chỉ huy cao cấp đang trong thảo luận.
Pháo đài của cảng Lỗ Ni cũng khôi phục sử dụng, được trang bị tám khẩu pháo trái phá 122 ly, có thể phong tỏa hữu hiện mặt biển. Loại pháo bờ biển cỡ nòng lớn này này chỉ cần một phát pháo đạn là có thể phá hủy một chiến chiến đấu hạm bằng gỗ trọng tải hai nghìn tấn. hạm đội Tô Chẩm Thư và hạm đội Khắc Lai Ô Địch Mã của quân Lam Vũ đều đã rút lui. Hạm đội Tô Chẩm Thư về cảng Tư Đa Khắc chỉnh đốn huấn luyện, còn hạm đội Khắc Lai Ô Địch Mã thì tiến tới đảo Sùng Minh thay thế phòng ngự cho hạm đội Vũ Phi Phàm. Hiện giờ tuần tra ở phụ cận cảng Lỗ Đạt chỉ có hạm đội Khắc Lý Khắc Lan, nhưng hải quân nước Y Mộng của mỹ thiếu niên thiên tài ĐứcTư Phỉ Đế Na thủy chung không xuất hiện, cho nên Khắc Lý Khắc Lan tạm thời còn không có việc gì để làm.
Tin tức người Ngõa Lạp còn sót lại ở Lão Hổ Câu cuối cùng toàn bộ buông vũ khí, toàn bộ đầu hàng quân Lam Vũ đã thông qua vô tuyến điện báo tạch tạch tè tè truyền tới cảng Lỗ Đạt, lần nữa đem đến cho cửa cảng này niềm vui từ tận đáy lòng. Quan quân thông tấn Viên Ánh Lạc cầm điện báo vội vàng rời phủ tổng đốc, bên ngoài có xe ngựa quân dụng chờ đợi, nàng vội vàng lên xe, nói với xa phu: “Tới chùa Năng Nhân.”
Xe ngựa lạnh cạch chuyển động bánh xe, rất nhanh tới được chùa Năng Nhân.
Chùa Năng Nhân chính là một chùa Phật hương hỏa thịnh vượng ở phía bắc cảng Lỗ Đạt, bề ngoài của nó không hề xuất chúng, thậm chí có chút đơn sơ. Nhưng sự tồn tại của bản thân nó đã là một kỳ tích, một kỳ tinh tông sư Phật gia lấy đó làm kiêu ngạo. Mặc dù vẻ ngoài của chùa Năng Nhân chẳng ra làm sao, nhưng trên đại lục Y Vân có thanh danh không nhỏ, có thể gọi là chùa Phật giáo hàng đầu của đại lục Y Vân, được hưởng tiếng thơm, cao tăng bên trong chùa đều rất có tu dưỡng, rất nhiều lão tăng tóc trắng bạc phơ, bọn họ đều đến từ đại lục Y Lan xa xôi, vì thành kính truyền bá văn hóa Phật giáo mà tới đây. Tới đợi đại sư chủ trì Trí Tín, càng là cao tăng vang danh xa gần.
Chùa Năng Nhân, cái tên như ý nghĩa chính là chùa miếu dạy người ta nhân từ.
Lỗ Ni Lợi Á là một quốc gia rất kỳ lạ, cư dân nơi đây đều thành kính tin thờ Lỗ Ni giáo, tôn sùng máu tanh và bạo lực. Từ nhỏ bọn họ được tiếp thu giáo dục là dựa vào vũ lực để vươn lên, tin tưởng nắm đấm chính là nguyên tắc cơ bản. Bởi thế vùng đất Lỗ Ni Lợi Á này xưa nay không thiếu chiến tranh và bạo loạn, cho dù vương quốc Lỗ Ni Lợi Á ngày nay cũng chỉ được kiến lập không quá trăm năm. Trăm năm trước nơi này cũng là một vùng hỗn loạn, điều này từ trên quốc kỳ bụi gai màu đỏ của bọn họ thấy được đầy đủ.
Từ xưa tới nay, Phật giáo tới từ đại lục Y Lan đều muốn chinh phục cư dân của vùng đất bạo lực này, để chứng tỏ sự bác đại tinh thâm của văn hóa Phật giáo, chứng tỏ phật tổ như lại pháp lực thâm hậu không gì không làm được, luôn có rất nhiều cao tăng có tài có trí vượt trùng dương xa xôi, tới Lỗ Ni Lợi Á, hi vọng trồng được hạt giống từ bi của phật tồ lên mảnh đất này, đồng thời chăm chút bảo về nó đâm chồi nảy rễ. Chùa Năng Nhân chính là một trong những chùa miếu được xây dựng sớm nhất ở địa khu Lỗ Ni Lợi Á, chúng là điểm dùng chân đầu tiên mỗi một giáo đồ tới Lỗ Ni Lợi Á sau này, trải qua năm tháng, nếm đủ tang thương, cuối cùng có được vinh dự ngày hôm nay.
Dương Túc Phong vốn chẳng có hứng thú gì với Phật giáo, ở kiếp trước đã không thích hòa thượng và ni cô, cảm thấy bọn họ chính là ký sinh trùng của xã hội, không làm được cho xã hội chút cống hiến nào, ngược lai còn cứ đứng ra đó chỉ chỉ chỏ chỏ nói năng lung tung, cực kỳ phản cảm. Nhưng tổng đốc Trương Hạo Hàm mới nhậm chức của cảng Lỗ Đạt lại có hứng thú nồng liệt với Phật giáo, hơn nữa còn cửu ngưỡng thanh danh của Trí Tín đại sư, cho nên ra sức khuyên rủ Dương Túc Phong tới đây nghe đại sư giảng học phật pháp.
Dương Túc Phong bị hắn dây dưa quá dữ, hơn nữa cuối cùng cũng hiểu, nếu mà mình không đi, Trí Tín đại sư căn bản chẳng để ý tới Trương Hạo Hàm, vì thỏa mãn nguyện vọng được gặp Trí Tín đại sư một lần, Dương Túc Phong dành chấp nhận, bất quá lời không hay vẫn nói trước: “Cái thứ Phật giáo này ta nghe không hiểu, cũng chẳng có kiên nhẫn, bất quá ngươi nói Trí Tín đại sư kể chuyện rất dễ nghe, vậy ta đi nghe ông ta kể chuyện là được.”
Cứ như thế, hai người mới sáng tinh mơ đã tới chùa Năng Nhân, hơn nữa tới bây giờ cũng còn chưa trở về.
Viên Ánh Lạc bước lên bậc thềm của chùa Năng Nhân, Tô Phỉ Mã Vận đang bố trí cảnh giới ở cửa. Ở bốn phía chùa Năng Nhân, đều là quan binh tiểu đoàn cảnh vệ quân bộ súng trên vai đạn lên nòng, trừ mỗi người một khẩu tiểu liên AK ra, mỗi người còn mang theo một khẩu Mauser ổ 20 viên đạn, đứng ở bên ngoài chùa miếu đều là cảnh vệ nam, bọn họ đứng thẳng thành đôi, ánh mắt sáng quắc theo dõi xung quanh bản thân, đem chùa Năng Nhân canh phòng nghiêm nặt. Đây còn là trạm gác công khai Viên Ánh Lạc nhìn thấy, về phần những trạm canh ngầm của các tay súng bắn tỉa nấp ở chỗ kín thì Viên Ánh Lạc không biết, nhưng có thể khẳng định là tuyệt đối không ít.
Cùng với việc quân Lam Vũ tấn công quy mô lớn Lỗ Ni Lợi Á và Tình Xuyên đạo, một lúc trêu chọc vào mấy đối thủ cường đại như Lỗ Ni Lợi Á, vương quốc Cáp Lạp Lôi, Ương Già, phản quân Bành Việt. Hiện giờ còn chọc cả vào người Ngõa Lạp và Ma Ni giáo, có thể gọi là địch của mọi mũi tên. An toàn của Dương Túc Phong trở thành vấn đề lớn nhất, Dương Túc Phong cũng bắt đầu dần nổi lên mặt nước, dẫn tới sự chú ý sát sao của các phe, nghe nói đế quốc Đường Xuyên và nước Mã Toa đều chuyên môn thiết lập tài liệu cá nhân Dương Túc Phong, cập nhật mỗi ngày, hơn nữa tổ chức người chuyên trách bắt đầu nghiên cứu tỉ mỉ về y.
Trong cách nhìn của ban ngành an toàn quân Lam Vũ, thi thoảng, Dương Túc Phong tựa hồ cũng biết chút võ công, có thể trong lúc chỉ mành treo chuông tránh khỏi kẻ địch ám sát, nhưng mà loại giác quan thứ sáu thần kỳ này làm người ta thực sự khó tin, cũng làm người ta tin tưởng còn có có hội thành công lần thứ hai, càng không có ai đem an toàn của y gửi gắm lên loại tỉ lệ một nghìn chỉ có môt này, cho nên dùng phương thức bảo vệ nghiêm ngặt nhất là cần thiết, quân Lam Vũ hiện giờ cũng đã có thực lực thi hành phương sách này.
Đối với người muốn ám sát Dương Túc Phong mà nói, chỉ cần có thể ra tay thành công, sẽ có cơ hội hạ gục Dương Túc Phong rất lớn, giống như lần trước ở Mạt Long gặp phải sự ám sát của Phương Phỉ Thanh Sương vậy, nếu như không phải Cung Tử Yên và U Nhược Tử La kịp thời ra tay, cái mạng nhỏ của Dương Túc Phong sợ rằng đã gần như toi rồi. Tiếp thu kinh nghiệm và giáo huấn lần trước, ban ngành an toàn của quân Lam Vũ quyết định mở rộng phạm vi cảnh giới, đồng thời an bài càng nhiều tay súng bắn tỉa ở trong chỗ tối, đề phòng bất kỳ điều bất ngờ nào.
Cho dù là Viên Ánh Lạc, Tô Phỉ Mã Vận cũng chẳng khách khí, cảnh vệ bên cạnh nàng vẫn kiểm tra giấy tờ chứng nhận của Viên Ánh Lạc như thường, kiểm tra rõ không có gì sơ sót mới chịu cho đi.
Viên Ánh Lạc tựa cười tựa không nhìn Tô Phỉ Mã Vận lạnh lùng hỏi: “Có tin tức gì bất lợi sao? Hay là đặc biệt nhằm vào tôi.”
Tô Phỉ Mã Vận khinh miệt nhìn nàng một cái, hất mái tóc khẽ quay đầu đi, lạnh lùng nói: “Ai thèm đặc biệt nhắm vào cô? Cẩn thận một chút bao giờ cũng không có gì sai, kẻ thù tướng công nhà cô trêu ghẹo vào đúng là không ít.
Viên Ánh Lạc lập tức châm biếm lại, lạnh lùng nói: “Chẳng chẳng phải là tướng công của cô sao?”
Tô Phỉ Mã Vận lạnh lùng bĩu môi, chẳng để ý tới nàng.
Viên Ánh Lạc biết mình và Tô Phỉ Mã Vận không hợp nhau, nàng đã sớm nhận định mình là người nghiêng về phía tỷ muội Phượng Thải Y, cùng Tô Phỉ Thái Vi, Khắc Lệ Tô Na là quan hệ tình địch. Ngoài ánh sáng, mọi người đều là nữ nhân của Dương Túc Phong, hòa hợp êm ấm, nhưng chỗ riêng tư, vì tranh đoạt ân sủng của Dương Túc Phong, mọi người có thể nói là đầy rẫy tâm tư, ngươi tranh ta đoạt, chỉ còn thiếu thẳng thừng ra tay mà thôi.
Nhất là sau khi Tô Lăng Tuyết sinh một nữ nhi, các nàng càng tỏ ra tích cực, trừ Lam Sở Yến tỏ ra không có hứng thú gì với việc sinh con dưỡng cái, thì ngay cả tỷ muội Phượng Thải Y cũng muốn sinh một đứa con trai, chiếm trước tiên cơ về danh phận. Do các nữ nhân khác đều chinh chiến ở bên ngoài, hoặc là tĩnh dưỡng ở Đan Phượng hành cung, nên tự nhiên là vớ bở cho bọn Viên Ánh Lạc và Tô Phỉ Mã Vận. Trong khoảng thời gian này, bầu bạn với Dương Túc Phong nhiều nhất là hai người nàng và đám Tiết Tư Khỉ, thỉnh thoảng còn có Sương Nguyệt Hoa và Đan Nhã Huyến, nhưng thật đáng tiếc, mỗi đêm Dương Túc Phong chẳng phải là không nỗ lực, nhưng thủy chung không chịu khai hoa, ngay cả Tử Duyệt cô nương cũng có chút ù ù cạc cạc, không hiểu rốt cuộc là ra làm sao.
Về điều này, trong lòng Dương Túc Phong hiểu trong lòng, chế độ một chồng nhiều vợ nhiều lúc là hưởng thụ, nhưng nhiều lúc cũng là căn nguyên của phiền toái. Bất quá chỉ cần tranh đấu giữa các nàng không nguy hại tới sự nghiệp của bản thân, nguy hại tới dã tâm của bản thân, thì hắn ngả theo chiều là ra vẻ không biết. Thuận theo tự nhiên, bất kể là Phượng Thải Y hay là Lam Sở Yến và Khắc Lệ Tô Na đều đang hình thành đoàn tỷ muội bên cạnh mình, vì tranh đoạt thân tâm của y mà phấn đấu, Nếu bản thân tùy tiện chèn ép một phe nào đó, cũng không biết sẽ dẫn tới hiệu quả như thế nào, nói không chừng treo cổ tự sát nhảy xuống biển đều có khả năng. Tất cả những điều này, về sau vẫn phải nhờ tới Tiêu Tử Phong nghĩ cách dọn dẹp, với thủ đoạn của nàng, hẳn là có thể áp đảo được đám Phượng Thải Y và Khắc Lệ Tô Na.
Bậc thềm của chùa Năng Nhân đã có hơi chút xuống cấp rồi, vốn là phiến đá từ đá hoa cương trắng muốt tạc ra, sau dưới sự mưa dập gió vùi, trải nắng dầm mưa thời gian dài, đã biến thành màu đen mốc meo, hơn nữa còn có một số chỗ đã bị dẫm nát mép, thiếu một góc lớn. Nhưng không có ai tu bổ, cây leo ở hai bên cũng lâu không được cắt tỉa đã lan tới tận giữa bậc thềm, hơn nữa còn có khuynh hướng tiếp tục lan ra.
Từ nơi này có thể nhìn ra, truyền bá Phật giáo ở vương quốc Lỗ Ni Lợi Á có thể gọi là gánh nặng đường xa, mặc dù bề ngoài chủa Năng Nhân hương hỏa thịnh vượng, nhưng thực tế được bố thí không hề nhiều. Những người dân xung quanh cảng Lỗ Đạt chẳng hề giầu có, hơn nữa còn có giáo đồ Lỗ Ni giáo ngoan cố cản trở và phá hoại. Chùa Năng Nhân có thể sống sót tới hôm nay đã là kỳ tích tương đối vĩ đại rồi.
Vượt qua bậc thềm tàn tạ, chính là một tứ hợp viện rộng rãi, bốn phía đều là tường bao sứt mẻ, giống như bậc thềm, tường bao bốn phía đại khái cũng rất lâu không được tu sửa rồi, trông có cảm giác như sắp đổ sập, nhất là trước đó vài ngày phải trải qua khảo nghiệm của cuồng phong bạo vũ, có một số đoàn tường bao đã có dấu vết nghiêng vẹo rõ ràng, hơn nữa tường gạch đầy nước cũng phát ra mùi vị khó ngửi.
Ở góc mé tường bao phía tây nam, có một cây Bàn Đào rất lớn, cành dầy là rậm, sức sống thỉnh vượng, cùng với tường bao sứt mẻ cũ nát, đá xanh siêu mục nát ở trên mặt đất hình thành sự đối lập rõ ràng. Cho người ta một sự chấn động và thu hút rất lớn, làm người ta cảm giác được chỗ không tầm thường của chùa Năng Nhân. Ở trên thế giới này, cây Bàn Đào gần như là tượng trưng cho Phật giáo. Tục ngữ Phật giáo có câu tục ngữ nhất hoa nhất thế giới, nhất diệp nhất Như Lai, đều từ cây Bàn Đào mà ra.
Cây Bàn Đào này của chùa Năng Nhân, trong Phật giáo của đại lục Y Vân cũng có tên tuổi không nhỏ, nghe nói nếu như có may mắn ăn được một quả đào ở nơi này, thì khi luân hồi chuyển thế sẽ không bị rơi vào mười tám tầng địa ngục, không cần phải bị lửa địa ngục khảo luyện, khiến cho một số tài chủ địa phương giàu có bất nhân đổ xô vào, lũ lượt mưa một lượng lớn đào ở nơi này mang về nhà cất như của báu. Bố thí của chùa Năng Nhân đại bộ phấn chính là do bọn họ mà tới, chỉ có điều, bố thí tới chùa Năng Nhân này, thoáng một cái đã bị bố thí đi mất rồi, bất kể là địa phương nào ở Lỗ Ni Lợi Á, người nghèo đều đếm không kể siết.
Dựa theo luận điểm kính điện được Dương Túc Phong giảng giải ở lễ tốt nghiệp đầu tiên của trường học quan quân cao cấp hải quân quân Lam Vũ, chính là bởi vì Lỗ Ni Lợi Á nghèo, mới sớm có thanh danh Lỗ Ni cuồng chiến sĩ không biết sợ chết, nếu Lỗ Ni Lợi Á cũng giàu có như vương quốc Cách Lai Mỹ, nhân dân nơi này đã không có ý chí kiên cường nữa rồi. Từ sau khi quân Lam Vũ thành lập, trừ một số rất ít nhân viên hàng hải, nguồn binh lực của quân Lam Vũ trên cơ bản không tới từ vương quốc Cách Lai Mỹ. Người Cách Lai Mỹ không muốn tòng quân, quân Lam Vũ cũng không muốn tiếp nhận người Cách Lai Mỹ, đây đã là sự thật bất thành văn.
Dưới cây Bàn Đào cũng có hai nữ cảnh vệ đứng, vũ trang toàn bộ, anh tư mạnh mẽ, đều là người Viên Ánh Lạc quen thuộc. Các nàng thường đảm nhiệm cảnh vệ cho Dương Túc Phong, bất quá mục đích các nàng đứng ở dưới cây Bàn Đào, tựa hồ không phải là nhiệm vụ cảnh vệ bình thường, ngược lại giống như là vì giám thì sự tồn tại một lão tăng nhân. Sau lần tập kích trước của Phương Phỉ Thanh Sương, đám Tô Phỉ Mã Vận và Tiết Tư Khỉ đều có chút thần kinh quá mẫn cảm, ngay cả Dương Túc Phong đi nhà xí cũng thấy có nguy cơ ám sát, bởi thế cho dù Dương Túc Phong đi nhà xí, các nàng hoặc là tự mình đi theo bảo vệ, hoặc là ủy phái tâm phúc bảo vệ, tuyệt đối không cho phép Dương Túc Phong rời khỏi tầm mắt của mình, bởi thế gây ra không biết bao nhiêu lời chê cười và xấu hổ, làm Dương Túc Phong thân ở trong diễm phúc khóc cười không xong.
Bị mấy mỹ nữ ở bên cạnh nhìn, ngươi còn có thể tè được ra không?
Dưới gốc Bàn Đào, đúng là có một lão tăng đang quét lá.
Viên Ánh Lạc nhìn không rõ diện mạo của lão tăng này, nhưng xem ra ít nhất phải hơn sau mươi rồi, đầu tóc râu ria đều đã trắng hết cả, thân thể cũng hơi còng còng, bất quá có chút kỳ quái là, vị lão tăng này trên mặt có rất nhiều vết xẹo, tựa hồ do chiến đấu lâu ngày cùng người tạo thành. Da dẻ của ông ta cũng đen đúa vô cùng, nhưng có một số chỗ lại lộ ra màu trắng khủng bố, giống như là nhiễm bệnh vậy. Loại vết vẹo ăn sâu tới tận xương này, còn có màu da quái dị, trong tín đồ của Phật tựa hồ cũng cực kỳ ít thấy, chẳng trách mà Tô Phỉ Mã Vận phải chuyên môn chỉ định hai cảnh vệ tới chú ý ông ta. Chỉ có điều, Viên Ánh Lạc có chút không hiểu, bộ đội cảnh vệ vì sao không đuổi lão tăng này đi cho xa chứ?
Đi qua dưới cây Bàn Dào, phía sau là một con hẻm nho nhỏ. Cái hẻm này còn coi như sạch sẽ, tu bổ cũng rất tốt, hoa ở hai bên hẻm cũng được chỉnh sửa vô cùng ấn tượng độc đáo, bên trong Bồ Công Anh màu trắng và Đỗ Quyên đang nở rộ, trắng đỏ đan xen, êm ấm như tiểu thư bích ngọc, cho người ta một cảm giác bên ngoài thối nát, bên trong ngọc ngà.
Trong con hẻm cũng có nữ cảnh vệ vũ trang toàn bộ cảnh giác y như vậy, mang theo vẻ mặt lãnh khốc nhìn Viên Ánh Lạc đi tới, trên từng khuôn mặt xinh đẹp đều không có chút cảm xúc nào. Cùng với việc khu vực quân Lam Vũ từng bước mở rộng, ban ngành an toàn có thể chiêu mộ được nhân viên an toàn có trình độ cao cũng ngày càng nhiều. Những nữ cảnh vệ này đều trải qua sàng lọc và khảo nghiệm nhiều lần mới chọn ra được. Tố chất tất nhiên là không tệ, khi ban ngành an toàn cần chiêu mộ nữ cảnh vệ, còn một dạo bị hiểu nhầm là tuyển tú, làm cho toàn thành bàn luận xôn xao, khiến Dương Túc Phong cũng phải xấu hổ, cũng làm cho rất nhiều nữ tử đầy tâm cơ vô cùng thất vọng. Ngầm trách Dương Túc Phong không hiểu phong tình.
Đi vào đại diện, nhưng thấy trên đại điện trống không, chẳng hề có bất kỳ cảnh vệ nào, hai người Tiết Tư Khỉ và Đan Nhã Huyến đang buồn chán dùng mũi bàn chân đá vào một cái đinh nhô lên trên tấm ván bằng gỗ của cửa đại điện, nhìn thấy Viên Ánh Lạc tới, Đan Nhã Huyến áy náy làm dấu ra hiệu với nàng, ý bảo nàng đừng đi vào.
Vì thế Viên Ánh Lạc đứng lại, từ chỗ cửa len lén thò đầu nhìn vào bên trong đại điện.
Hai người Dương Túc Phong và Trương Đạo Hàm đang ngồi xoay lứng về phía cửa, chuyên tâm lắng nghe thủ tọa chùa Năng Nhân đại sư Trí Tín giảng kinh phật.
Viên Ánh Lạc loáng thoáng nghe thấy tiếng của đại sư Trí Tín có vẻ hết sức hòa nhã dễ nghe, giống như có một cỗ mị lực có thể cảm nhiễm người khác. Trương Đạo Hàm gật đầu liên tục, tựa hồ ngộ ra rất nhiều, nhưng Dương Túc Phong thì lại tựa hồ không có biểu tình lĩnh ngộ gì cả, tư thế gần như không có chút động tác nào. Viên Ánh Lạc len lén nhún vai, trong lòng lặng lẽ nói với bản thân, mời Dương Túc Phong tới nghe kinh phật có khác gì gẩy đàn cho trâu nghe? Trong nhiều lần đàm thoại với các tướng lĩnh quân đội cao cấp, Dương Túc Phong đều khịt mũi khinh bỉ, không hề che dấu chút nào thái độ khinh miệt của mình đối với Phật giáo. Không phải là hắn cảm thấy Phật giáo có vấn đề gì, mà là hiện giờ thời thế không đúng, hắn phải dùng máu và sắt để giải quyết vấn đề, mà Phật giáo lại đề xướng đạo lý mở lòng từ bi , buông đồ đao trờ thành phật cùng với ý nghĩ của hắn hoàn toàn không hợp.
Là người phụ trách của ban ngành tình báo, Viên Ánh Lạc đương nhiên biết lai lịch của vị Trí Tín đại sư này, ông ta làm môt vị cao tăng đắc đạo đúng nghĩa. Cho dù là ở trên đại lục Y Lan cũng có thanh danh không nhỏ. Trí Tín đại sư thiếu niên đắc đạo, phật pháp tinh thông, ông ta từng làm trụ trì hai khóa của chùa Bạch Mã. Trong thời gian này lặng lẽ cùng với Thần Tú đại sư của Ngũ Đài Sơn ngang vai ngang vế, nhưng ông chủ động từ bỏ vị trí chủ trì, không ngại gian khổ vượt trùng dương xa xôi, tới Lỗ Ni Lợi Á , đảm nhận nhiệm vụ khai thiên lập địa cho Phật pháp, hơn nữa còn ở nơi này tới mười chín năm, hành vi của ông ta đích thực làm người ta sinh lòng kính trọng.
Lưu phái Phật giáo của đế quốc Đường Xuyên hết sức phức tạp, nổi danh nhất là Thiện Tông và Tịnh Thổ Tông, nhưng lưu phái này tranh đoạt tín đồ và quyền lực với nhau, cho dù bao gồm người lãnh tụ của bọn họ cũng không ngoại lệ. Dùng lời của Dương Túc Phong mà nói thì là chó chắng đối tính ăn phân, bất kể là loại tôn giáo gì, loại đoàn thể gì, mục đích cuối cùng của nó luôn là phân chia lợi ích, đếu đã phân chia lợi ích thì phải có tranh đoạt, dù là cái tranh đoạt này che dấu dưới lý luận đạo mạo trang nghiêm như thế nào, hoặc là khoác bên ngoài tấm áo tôn giáo thần thánh trang nghiêm thế nào.
Trên thực tế, trong nội bộ Phật giáo, Thiện Tông và Tịnh Thổ Tông tranh chấp có căn nguyên từ xưa. Tới đời Trí Tín đại sư, thực lực của Thiện Tông cuối cùng hoàn toàn thua dưới Tịnh Thổ Tông, bởi vì Tịnh Thổ Tông xuất hiện một đại tông sư tài năng hơn người đó chính là Thần Tú đại sư của Ngũ Đài sơn. Trong nhiều lần đối đầu giữa chùa Bạch Mã và Ngũ Đài sơn, chùa Bạch Mã thất bại thảm hại, làm cho Trí Tín đại sư cuối cùng không thể không vượt biển về phía đông, thực sự là không còn mặt mũi nào thấy phụ lão Giang Đông!
*** Đây là lời trước của Hạng Vũ lúc sắp chết :
Trời hại ta, ta vượt qua sông làm gì! Vả chăng Tịch này cùng tám ngàn con em Giang Đông vượt Trường Giang đi về hướng tây, nay không còn lấy một người trở về! Dù cho các bậc cha anh ở Giang Đông thương ta, cho ta làm vương, ta cũng còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa. Dù họ không nói, Tịch này há chẳng thẹn trong lòng sao?
Viên Ánh Lạc đột nhiên nghe thấy Trí Tín đại sư nói: “…. Khi Đường Lãng tới, luôn một mình một bóng, bên người ngay cả cảnh vệ đều không có, nhưng với thân thủ của ông ta, cho dù không có cảnh vệ cùng không sợ gì..”
Viên Ánh Lạc không kìm được dựng lỗ tai lên, chăm chú lắng nghe.
Tiết Tư Khỉ và Đan Nhã Huyến nhìn thấy hành động khác lạ của Viên Ánh Lạc cũng bát giác nghiêng đầu nghe chốc lạt, rồi nhanh chóng bị hấp dẫn.
Thì ra Trí Tín đại sư hiện giờ không phải là đang giảng kinh phật mà là kể chuyện.
Chuyện liên quan tới Đường Lãng.
Không biết bắt đầu từ khi nào, chuyện liên quan tới Đường Lãng tựa hồ luôn có dính líu chút gì đó tới Dương Túc Phong, làm người ta nảy sinh nghi ngờ, làm các nữ nhân bên cạnh Dương Túc Phong mơ hồ cảm thấy Dương Túc Phong và Đường Lãng có thể có quan hệ nào đó. Thậm chí Phượng Phi Phi còn hoài nghi Dương Túc Phong có phải cùng Đường Lãng có quan hệ thân thích gì đó hay không. Nhưng đáng tiếc không có sự thực chuẩn xuác chứng mình. Mà bản thân Dương Túc Phong lại chẳng chút quan tâm tới thân thế của mình, bởi vì y vốn là người ngoại lai tới từ địa cầu, đối với thân thế trên thế giới này chẳng có chút hứng thú gì.
Trong khói đàn hương lượn lờ, Trí Tín đại sư thần sắc nghiêm nghị, chậm rãi kể: “…. Đường Lãng….”
Trên lịch sử của đế quốc Đường Xuyên, truyền thuyết liên quan tới Đường Lãng chỉ có hai cái, cũng là truyền thuyết sinh động nhất, làm người ta tin phục nhất. Một là Đường Lãng tàn nhẫn thích giết người, lãnh khốc vô tình; một cái khác là Đường Lãng thành kính quy y Phật giáo. Tên Đồ tể tàn nhẫn mê chém giết lãnh khốc vô tình không ngờ lại thành kính thờ phụng Phật giáo, đây vốn là chuyện vô cùng mâu thuẫn, nhưng đúng là dã xảy ra trên người Đường Lãng, khiến cho rất nhiều người phải lộ ra vẻ kinh ngạc, Tất cả những chuyện này tạo nên sự thần bí của Đường Lãng, cũng thành bí ẩn hậu nhân say mê nghiên cứu.
Đường Lãng từ một hạm trưởng chiến đấu hạm bình thường làm tới tận nguyên soái hải quân duy nhất trên lịch sử của đế quốc Đường Xuyên. Đúng là có chỗ hơn người, trừ sự thông minh tài trí của ông ta ra, còn có quyết đoán mê chém giết. Ông ta ở trong hải chiến, làm người người ta nghe tiếng sợ vỡ mật nhất, không phải là sự xuất quỷ nhập thần của ông ta, mà là sự lãnh khốc vô tình của ông ta. Mỗi lần chiến đấu kết thúc, quan binh kẻ địch bị ông ta bắt được đều không hề có ngoại lệ bị ông ta nghiêm lệnh đẩy xuống biển, chết đuối.
Ông ta ở trong hải dương cuộn trào sóng nước chính chiến gần năm mươi năm, chưa từng có ngoại lệ, mỗi trận chiến đầu không giữ người sống đã trở thành quy định nghiêm ngặt hơn cả quân kỷ. Trong thời gian năm mươi năm, rốt cuộc có bao nhiêu người bỏ mang ở đại hải vì sự lãnh khốc vô tình của ông ta, thật không thể thống kê được. Bời vì quá là nhiều, chỉ cần lấy một cái vị dụ là có thể hiểu được. Trong cuộc hải chiến với nước Mã Toa năm 1688 thiên nghuyên, hải quân nước Mã Toa chiến bại có hơn sáu vạn quan binh bị Đường Lãng bắt làm tù binh, bao gồm cả quan tư lệnh của bọn họ trong đó, kết quả toàn bộ bị trói hai chân hai tay đẩy vào địa hải nuôi cá mập, làm cá biển của cả Nam Hải sau một bữa no nên đều lần lượt chán thịt người, mấy năm sau đó đều không muốn ăn thịt người.
Trận chiến này, ngay cả một số quan viên đế quốc Đường Xuyên cũng nhìn không thích, cảm thấy Đường Lãng quá máu lạnh, không chút nhân tính, đến nối dâng biểu cùng chống đối ông ta, yêu cầu trừ bò chức vụ của ông ta, bất quá cuối cùng chẳng được việc gì. Đường Lãng cũng không giảm bớt hành vi của mình, vẫn cứ thích gì làm nấy, đánh tới nơi nào, giết tới nơi nào, liền tạo ra một con đường máu trên biển. Do Đường Lãng tàn nhẫn mê giết người, kẻ địch của ông ta hận ông ta thấu xương, hận không thể lột da rút gân ông ta, nhưng thủy chung không một ai có thể chiến thắng Đường Lãng trên biển.
Thế nhưng, cùng với việc Đường Lãng tàn nhẫn hiếu sát, ông ta tựa hồ lại là một tín đồ phật giáo thành kính. Đương nhiên, thành kính chỉ là tương đối mà thôi. Trong những câu truyện được ghi vào sách vở hẳn hoi, mỗi lần Đường Lãng hải chiến trở về, đều sẽ tới trong chùa miếu ăn năn chuộc tội, quỳ mãi không dậy, hết sức chân tâm thật ý, giống như muốn sám hối lỗi lầm của mình. Nhưng một khi rời khỏi chùa miếu, tiến trở về đại hải, lập tức lại khôi phục bản tính tàn khốc vô tình, đối đãi với kẻ địch quyết không mềm lòng, bất kể là đối phương cầu xin thế nào, đều không cho hắn một con đường sống.
Loại tính cách mâu thuẫn này tự nhiên khơi lên hứng thú của các đại sư Phật học, bọn họ cho rằng, Đường Lãng là một hạt mầm tốt, nhưng đáng tiếc lại đi chệch đường, chỉ cần chỉ dạy thật tốt, Đường Lãng hoàn toàn có thể khôi phục trạng thái của người thường. Vì thế bọn họ định ra rất nhiều kế hoạch cụ thể, chuẩn bị đưa Đường Lãng vào trong sinh hoạt bình thường của tín đồ Phật giáo. Thế nhưng, đại sư Phật học thiên hạ vào thời đó, người có phật pháo cao thâm, có năng lực thu Đường Lãng làm độ đệ, không dưới ba bốn chục người, nhưng có gan thu Đường Lãng làm đồ đệ, chỉ có đại sư Thần Tú của Ngũ Đài Sơn.
Năm 1689 thiên nguyên, Đường Lãng chính thức quy y Tỉnh Thổ Tông Ngũ Đài Sơn.
Thần Tú đại sư vì thế mà thanh danh nổi lên, còn Đường Lãng cũng chính thức trở thành đệ tử tục gia của Ngũ Đài Sơn.
Thế nhưng, làm cho các cao tăng Phật giáo thất vọng là, Thần Tú đại sư mặc dù thu Đường Lãng làm đồ đệ, nhưng tựa hồ càng chú trọng dựa vào đó để đề cao thanh danh của cá nhân, chẳng hề cấp cho Đường Lãng chỉ đạo thực sự nào. Ngược lại, mỗi lần từ Ngũ Đài Sơn xuống, biểu hiện hung bạo của Đường Lãng càng lợi hại hơn trước kia. Ông ta đều dựa theo mệnh lệnh của đế quốc Đường Xuyên khai chiến với kẻ địch, nhưng từ sau khi quy y Ngũ Đài Sơn, lại biến thành tệ hại hơn, triều đình không có mệnh lệnh tác chiến, ông ta liền chủ động suất lĩnh hạm đội khổng lồ truy bắt hải tặc khắp nơi, lấy hành hạ giêt chóc hải tặc làm niềm vui, ông ta đi khắp bảy biển, đuổi cho đám hải tắc chó chạy gà bay, sống không an thân. Gần như quảng trường của các thành thị dọc bờ biển đại Lục Y Lan và đại lục Y Vân, đều treo đầy thi thể của đám hải tặc bị thắt cổ.
Khi đó, chính là lúc hải tặc Ca Âu và hải tặc Sở La Môn hoành hành ngang ngược, bọn chúng tùy ý tấn công thương thuyền của đế quốc Đường Xuyên qua lại, tổn hại nghiêm trọng tới lợi ích của đế quốc Đường Xuyên, vì thế triều đình cũng ngầm cho phép loại hành vi gần như điên cuồng này của Đường Lãng. Từ đó trở đi, Đường Lãng hai lần càn quét hải vực Sở La Môn, sáu lần tiến vào biển Gia Lặc Tân cùng hải tặc luân phiên huyết chiến. Nghe nói khi tình hình chiến đấu kịch liệt nhất, thi thể trôi nổi trên mặt biển làm cho chiến đấu hạm không thể tiến lên, tắc nghẽn nghiêm trọng. Gia tộc Lôi Đình thực lực cường đại nhất bị Đường Lãng đánh cho tan thành tro bụi, ngay cả bản thân Hải Lôi Đình cũng bị bắt tới mổ bụng moi gan để thị uy, vì thế mà đám hải tặc khác nghe tiếng là bỏ chạy, căn bản không dám va chạm với Đường Lãng.
Dương Túc Phong đột nhiên nói: “Ta rất lấy làm lạ, Đường Lãng rốt cuộc vì sao mà chết? Vì sao liên quan tới cái chết của ông ta thường không có ai nhắc tới?”
Trí Tín đại sư nói: “Đường Lãng chính là vì u uất mà chết.”
Dương Túc Phong nhíu mày nói: “ U uất ư?”
Trí Tín đại sư nói đầy thâm ý: “Bởi vì trên mặt biển ông ta đã không còn đối thủ nữa.
Dương Túc Phong không khỏi lại lần nữa cau mày, đây mà cũng là lý do?
Trí Tín đại sư nhìn y một cái thật sâu, rồi chậm rãi nói: “Ở nơi cao không khỏi lạnh lẽo, cao thủ tịch mịch, khi một con người sau khi tới cảnh giới vô địch, sẽ cảm thấy sự mệt mỏi và cô độc phát ra từ tận trong lòng, loại cảm giác này người thường rất khó lý giải. Nhưng Thần Tú đại sư đã nói như thế, Đường Lãng cuối cùng chết trong căn phòng của minh ở Ngũ Đài Sơn, thần thái an tường, di ngôn sau đó chỉ có bốn chữ, đó là: vô cùng tịch mịch.”
Trương Đạo Hàm cảm khái nói: “Nghe nói chuyện một buổi, hơn cả mười năm đọc sách. Đường Lãng đúng là một nhân tài hơn đời! Làm người ta nảy sinh kính trọng, khi trời cao tạo ra con người, luôn ban cho mỗi người một chút ưu điểm, một chút khuyết điển. Nhưng ưu điểm và khuyết điểm của Đường Lãng đều bị không cẩn thận phóng đại lên.”
Dương Túc Phong mơ hồ như cảm thấy điều gì, nhưng cuối cùng không nói ra được, nhưng hàng lông mày vẫn không hoàn toàn giãn ra.
Viên Ánh Lạc thấy thời cơ đã tới, vội vàng đưa tình báo lên.
Dương Túc Phong chậm rãi nhận lấy tình báo.
Đây là báo cáo chi tiết liên quan tới Lão Hổ Câu Lam Sở Yến báo tới, mặc dù đã được rút gọn, nhưng vẫn có hơn ba bốn trăm chữ.
Người Ngõa Lạp nam hạ hơn ba vạn sáu nghìn kỵ binh, trừ hơn một nghìn thương binh lưu lại Cao Ninh phủ, còn lại đều bị quân Lam Vũ tiêu diệt, trong đó giết trên hơn một vạn tên, bắt làm tù binh hai vạn bốn ngàn tên. Ngoài ta, quân Lam Vũ còn thu được bốn vạn bốn nghìn con chiến mã còn lành lặng nguyên vẹn.
Kỵ binh người Ngõa Lạp ở lại Cao Ninh phủ biết được tin tức toàn quân bị diệt, lập tức đem cơn giận của mình phát tiết lên người Ma Ni giáo, áp dụng hành động ở Cao Ninh phủ, kết quả rất nhanh bị quân khăn đỏ của Ma Ni giáo trấn áp, tất cả người Ngõa Lạp đêu bị Ma Ni giáo giết sạch sẽ. Giáo chủ Ma Ni giáo Tuyền Tu Hoằng ý thức được quan hệ giữa mình và người Ngõa Lạp đã hoàn toàn bị rạn nứt, vì thế đã làm là làm cho tới cùng, tuyên bố chấp nhận sự lãnh đạo của người Tây Mông, trở thành một quân cờ của người Tây Mông ở địa khu phía nam Mỹ Ni Tư, nhưng trước mặt người Tây Mông còn chưa có câu trả lời.
Dương Túc Phong đứng dậy cáo từ, dưới sự hộ tống của mọi người đi qua con hèm, tới tứ hợp viện.
Ngay tại chính giữa tứ hợp viện, Dương Túc Phong đột nhiên lại cảm thấy một cảm giác rét buốt mau chóng mở rộng trong lòng, chớp mắt đã bao phủ toàn thân. Đây là điềm báo trước mỗi khi gặp phải ám sát đều có, Dương Túc Phong sớm đã hình thành phản xạ có điều kiện, bời thế không cần suy nghĩ nằm sấp xuống phía trước, đồng thời quay đầu lại nhìn, vừa vặn nghe thấy choang một tiếng, một chiếc ám khí xuyên qua vị trí y vừa đứng, đánh lên thanh trường kiếm Đan Nhã Huyến vừa mới rút ra, tức thì đem mũi trường kiếm đánh nát thành mảnh vụn. Bản thân Đan Nhã Huyến cũng bị sức mạnh cường đại chấn động tới phun ra một ngụm máu tươi, loạng choạng lui về phía sau một bước lớn, cuối cùng vẫn không đứng vững được, phịch một tiếng quỳ xuống, dùng đoản kiếm miễn cưỡng chống đỡ thân thể.
Tiết Tư Khỉ lớn tiếng kêu lên: “Có thích khách!”
Gần như cùng lúc đó, tiếng thét chói tai của Sương Nguyệt Hoa vang lên: “Phương Phỉ Thanh Sương.”
Tiếng thét chói tai của Sương Nguyệt Hoa còn chưa tan đí, Dương Túc Phong lại cảm giác được luồng hơi rét buốt kia lại lần nữa từ tận đáy lòng tràn lên, sau đó truyền khắp toàn thân, cảm giác như toàn thân rơi vào hầm băng vậy. Đây là dấu hiệu báo trước một lần tập kích khác, lần nào cũng đúng, không cần suy nghĩ, bất chấp mặt đất ẩm ướt và bẩn thỉu, Dương Túc phong lăn mình tới dưới gốc cây Bàn Đào, thoáng như nghe thấy có thứ gì đó đánh vào vị trị y vừa nằm, tiếp theo đó truyền tới tiếng thét thảm thiết của một nữ cảnh vệ, láng máng còn nghe thấy cả tiếng máu tươi từ trong cơ thể phọt ra, ngay lập tức truyền tới tiếng súng ác liệt, phá vỡ sự yên tĩnh của chùa Năng Nhân.
Tiếng súng xối xả, nhưng tựa hồ không thu được hiệu quả gì, bốn phía đều là tiếng bước chân dồn dập. Cảnh vệ phòng thủ ở bên ngoài chùa Năng Nhân cũng vội vàng chạy vào trong tứ hợp viện, đem chu vi từ hậu viện lấp kín tới một con ruồi cũng không bay lọt. Tiếng súng đã kinh động đám người Trí Tín đại sư, mấy vị lão tăng mi trắng già nua cũng rảo bước xuyên qua con hẻm chạy ra, kinh hải nhìn cảnh tượng xảy ra trước mắt.
Khi Dương Túc Phong nghiêng sườn lăn tren mặt đất, mắt liếc thấy Tô Phỉ Mã Vận đã móc súng ra bắn, nhưng lại tự hồ khó xác định được phương hướng. Ám khí tới quá nhanh quá mạnh, làm cho những người có mặt không thể nào tức tốc phân biệt ra được. Hai nữ cảnh vệ dưới gốc Bàn Đào kia cũng cơ bản là như thế, mặc dù súng lục Mạt Lai Đức đã móc ra, nhưng không nắm chắc được vị trí sở tại của kẻ tập kích. Các nàng chỉ theo bản năng dùng thân thể của mình chắn trước mặt Dương Túc Phong, thay y ngăn cản ám khí không biết từ phương nào tới.
Nữ cảnh vệ bất hạnh bị ám khí đánh trúng kia, đã nằm dài dưới gốc Bàn Đào. Dươi thân thể là một vũng máu đỏ sẫm, Đan Nhã Huyến cúi đầu đưa tay ra đặt lên trên mũi nàng, liền sau đó thương tâm cúi thấp đầu xuống, bên khóe mắt tràn ra giọt lệ trong suốt, hiển nhiên nữ cảnh vệ kia đã ngọc vẫn hương tiêu rồi.
“Ở phương hướng bảy giờ!” Dương Túc Phong vừa kinh hãi vừa giận dữ quát lên.
Đủ các loại tiếng súng tức thì càng thêm dày đặc, tất cả cảnh vệ đều hướng về phía bảy giờ không ngừng nổ súng xạ kích. Súng máy bán tự động, súng tiểu liên, súng Mauser, súng lục Mạt Lai Đức, các loại súng nhất tề khai hỏa, đạn mãnh liệt bắn lên tường bao, tức thì ánh lửa tung tóe. Bất quá đa phần số đạn lại xuyên qua tường bao. Sau một hồi súng nổ mãnh liệt, tường bao cũ nát đã không thể nào chịu đựng được lực xung kích của đạn nữa, ầm ầm đổ xuống.
Phía sau tường bao, chính là một bãi cỏ hoang vu, không hề có bất kỳ chút dấu vế nào của kẻ tập kích, chỉ có cỏ dại bị những viên đạn dày đặc đánh gãy, còn có rất nhiều lá cỏ gai sắc bén có thể cứa đứt da người, đang không ngừng lay động trong gió nhẹ, tự hồ phát ra vẻ khinh miệt với mọi thứ phát sinh ra trong tứ hợp viện. Cỏ gai cũng bị đạn lũ lượt bắn gẫy, bồ công anh treo trên mũi nhọn tức thì bay ngập trời, làm bầu trời thêm nổi bật hết sức mỹ lệ.
Đan Nhã Huyến tức tối khoát tay, tiếng súng mới dần trở nên thưa thớt, cuối cùng hoàn toàn ngừng lại.
Tiết Tư Khỉ dẫn theo hai mươi ba cảnh vệ, cầm súng tiểu liên xông vào vùng cỏ hoang. Sau khi lùng xét kỹ càng, không phát hiện ra dấu vết tồn tại của người sống. Từ đất bùn mềm xốp của mặt đất mà xét , bên trên cũng không hề có dấu chân nào, tựa hồ không có người ẩn nấp. Thế nhưng, các nàng cũng biết rất rõ, với võ công của Phương Phỉ Thanh Sương, là tuyệt đối không thể lưu lại dấu vết trên mặt đất.
Nàng tin tưởng vào cảm giác của Dương Túc Phong, nếu Dương Túc Phong đã cảm giác được Phương Phỉ Thanh Sương ẩn nấp ở nơi này, thì chắc chắn là nàng đã ẩn nấp ở nơi này, nhưng động tác rút đi của Phương Phỉ Thanh Sương thực sự quá nhanh, các nàng không nhìn thấy mà thôi. Nghĩ tới ban cảnh vệ của quân Lam Vũ thiết lập phòng tuyến bên ngoài chùa Năng Nhân nghiêm ngặt như vậy vẫn không thể ngăn cản được sự xuất hiện của Phương Phỉ Thanh Sương, trong lòng nàng không rét mà run.
Bộ đội cảnh vệ còn chưa hết kinh hãi vẫn lập tức triển khai lùng sục quy mô, nhưng không thu hoạch được gì, Phương Phỉ Thanh Sương không lưu lại một chút dấu vết nào.
Hai cánh môi trên dưới của Đan Nhã Huyền khẽ run run, lòng còn sợ hãi đỡ Dương Túc Phong hoàn toàn trấn định lên, đông đảo cảnh vệ vây xúm xít quanh y vẫn không dám tản đi, đem y bao vây chặt chẽ. Ở chỗ Dương Túc Phong đứng vừa rồi, có hai chiếc ám khí bắn lên tảng đá xanh trải trên mặt đặt, hai chiếc ám khí này không giống nhau, một cái phi tiêu lượn vòng hình chữ vạn, còn một cái là tú hoa châm cực kỳ nhỏ bé.
*** Phi tiêu chữ vạn: hình chữ thập với bốn mút cong về phía trái và hướng sang trái
Chính cây tú hoa châm không chút nào đáng để mắt đó đã đánh gãy trường kiếm của Đan Nhã Huyến, làm cho nàng bị nội thương không nhẹ, hiện giờ bên miệng còn có máu tươi chảy ra. Còn chiếc phi tiêu lượn vòng hình chữ vạn kia uy lực tựa hồ càng lớn hơn, nó trực tiếp xuyên qua thân thể nữ cảnh vệ bất hạnh kia, sau đó lại cắm sâu vào trong mặt đất. Do tốc độ của nó thực sự quá nhanh, làm cho khi xuyên qua cơ thể cũng không lưu lại một chút vết máu nào. Khi nó bị móc ra từ trong tấm đá xanh, còn lóe màu xanh đen.
Cây tú hoa châm này, Đan Nhã Huyến và Tiết Tư Khỉ đều nhân ra chắc chắn là ám khí của Phương Phỉ Thanh Sương, các nàng đã rất cẩn thận đề phòng loại ám khí tới lui không hề có tiếng động này rồi, không ngờ rằng cuối cùng nó vẫn xuất hiện. Cò về chiếc phi tiêu lượn vòng hình chữ vạn kia thì các nàng chưa từng thấy qua, cũng chưa từng nghe thấy loại ám khí cổ quái này.
Nhìn thấy trên ngực Dương Túc Phong có vết máu, Đan Nhã Huyến vội vàng cởi áo của y ra kiểm tra, may mắn thân thể của y không bị thụ thương, vết máu đều là của nữ cảnh vệ bất hạnh kia bắn lên. Nhưng các nàng đích xác là bị dọa không nhẹ, vị tăng nhân quét lá trên mặt đất kia nhìn thấy dưới sườn của Dương Túc Phong, tựa hồ phát hiện ra điều gì đó, tức thì sắc mặt tái mét, trông vô cùng kinh khủng, những người có mặt mặc dù cũng chú ý tới, nhưng sức chú ý tạm thời đều còn ở trên người Dương Túc Phong, không rảnh để ý tới ông ta.
Dương Túc Phong khoát tay nói: “Ta không sao cả, mọi người không cần lo lắng, đều trở về vị trí của mình đi, đứng có xúm vào chỗ này nữa.”
Tô Phỉ Mã Vận lúc này mới hạ lệnh cho bộ đội dựa theo vị trí cảnh giới ban đầu lần lượt lui đi. Nhưng tất cả mọi người đều sẵn sàng đón địch, sợ Phương Phỉ Thanh Sương còn sẽ chơi trò hồi mã thương. Mấy nữ nhân có mặt đều biết hết sức rõ ràng chuyện của Dương Túc Phong và Phương Phỉ Thanh Sương, không ai dám lơ là cảnh giác, dưới cơn thịnh nộ, Dương Túc Phong bất chấp tất cả vũ nhục Phương Phỉ Thanh Sương, với cá tính của Phương Phỉ Thanh Sương sao có thể cam tâm tình nguyện chịu đựng vũ nhục, cho nên hiện giờ nàng đã đánh tới cửa rồi.
“Quá nửa là cô ta muốn giết y, sau đó tự sát.” Đây gần là cách nghĩ không hẹn mà giống nhau trong lòng mỗi nữ nhân.
Thế giới mà các nàng sinh sống, mặc dù sinh mạng và trinh tiết của nữ tử bình thường không liên hệ với nhau. Nhưng dù sao danh tiết của nữ nhân vẫn rất quan trọng, nhất là những nữ tử tiếp nhận quan niệm truyền thống của Đường tộc, đều rất để ý tới trinh tiết và thanh bạch. Nhất là dạng nữ tử như Phương Phỉ Thanh Sương, thân là thánh nữ của Ma Ni giáo, sớm đã có quan niệm đạo đức và thói quen tư duy riêng của mình, nàng sao có thể tiếp thụ được những việc đã xảy ra trong căn phòng gỗ ở Mạt Long?
“Đều là chàng gây họa.” Rất nhiều nữ nhân muốn nói với Dương Túc Phong như vậy, nhưng nhìn thấy thần sắc u ám biến đổi không ngừng của y, lời ra tới miệng rồi lại nuốt trở về. Theo uy thế tăng trưởng từng ngày của quân Lam Vũ, trước mặt người ngoài, các nàng không dám tùy tiện có hành động tình tứ. Bất quá mặc dù là thế, sự tình của Phương Phỉ Thanh Sương nếu như để Điệp Tư Thi biết được rồi, vậy báo chí đế quốc chắn chắn lại có một hồi mỉa mai châm chích. Về phần Dương Túc Phong lại có thêm tội danh gì nữa, thì chẳng ai có thể biết được.
Đám Tô Phỉ Mã Vận nhìn thấy mấy vị lão tăng và Trí Tín đại sư đi tới, muốn bắt hết bọn họ trở về thẩm vấn, nhưng bị Dương Túc Phong ngăn lại. Y cho rằng chùa Năng Nhân không cần thiết phải tham gia ám sát mình, người lại thuần túy từ góc độ lợi ích xuất phát, chùa Năng Nhân còn phải nghĩ đủ mọi cách để đảm bảo an toàn cho mình, chỉ có mình bình yên vô sự chiếm được Lỗ Ni Lợi Á, Phật giáo mà bọn họ sùng bái mới có cơ hội phát triển lớn mạnh. Huống chi, người của chùa Năng Nhân có ngu ngốc hơn, cũng không gây khó dễ cho mình ngay trên đất của bản thân.
Dương Túc Phong hơi bình phục lại tâm tình, tới sương phòng bên cạnh đổi một bộ y phục sạch sẽ đi ra, Trí Tín đại sư đã chờ ở cửa.
Trí Tín đại sư chẳng hề để ý tới người bên cạnh Dương Túc Phong chẳng phân biệt phải trái đúng sai, cũng chẳng để ý đám Tô Phỉ Mã Vận như hổ đói nhìn mồi. Mà ánh mắt tập trung lên người Dương Túc Phong, sắc mặt nghiêm túc: “Dương thí chủ, thí chủ có khúc mắc gì với đế quốc Tinh Hà hay không?”
Dương Túc Phong có chút ngạc nhiên, lập tức dứt khoát đáp: “Không có.”
Đế quốc Tinh Hà xa tít tận đại lục Y Lan, sao mình có thể có khúc mắc với bọn họ.
Sắc mặt của Trí Tín đại sư càng lúc càng nghiêm nghị, ánh mắt vẫn sáng rực nhìn chăm chú vào Dương Túc Phong, thâm trầm nói: “Nhưng, chiếc phi tiêu xoay vòng này chỉ có đệ tử của Thánh Điện đế quốc Tinh Hà mới biết sử dụng… hơn nữa, theo lão nạp biết, loại phi tiêu xoay vòng hình chữ vạn này chỉ có nhân vật hạch tâm của Thánh Điện mới sử dụng được. Uy lực của nó đúng là rất lớn, biến ảo khó lường, nhưng không có võ công cao thâm làm gốc rễ, thì căn bản không thể sử dụng được, mà bí quyết sử dụng phi tiêu xoay vòng hình chữ vạn này cũng chỉ có người trong Thánh Điện mới hiểu, những người khác tuyệt đối không thể học theo được. Còn mong Dương thí chủ xuy xét kỹ hơn, xem xem bản thân có phải đã từng qua lại gì với người trong thánh điện hay không.”
Dương Túc Phong đột nhiên nhớ ra gì đó, cảnh diễn ra ngày đó bên sông Thanh Long ở phủ Đan Phượng ngày đó tựa hồ hiện lên trước mắt, người thiếu niên nữ giả nam trang toàn thân áo xanh cùng Phương Phỉ Thanh Sương tình thâm ý thiết, quan hệ gần gủi, lập tức cười khổ: “Đại sư, tôi nhớ ra rồi, tôi đúng là có cùng người của Thánh Điện đế quốc Tinh Hà có qua lại, nhưng là một bằng hữu trong Thánh Điện của Phương Phỉ Thanh Sương, lần này có khả năng là nàng theo Phương Phỉ Thanh Sương tới. Nữ nhân này, nghe nói tên là Nga Nhi Tuyết Liễu…”
Trí Tín đại sư giật mình sợ hãi, vẻ mặt phức tạp, thật lâu sau mới không thể tin nổi lẩm bẩm nói: “Chính là Nga Nhi Tuyết Liễu, quan môn đệ tử của Tân Đế Lôi Lạp… Dương thí sao sao lại có quan hệ với cô ta? Chuyện này… Ôi, sợ rằng là Dương thí chú có chút rắc rồi rồi, Thánh Điện của đế quốc Tinh Hà hành vi cực đoan, theo đuổi nguyên tác có thù tất báo, hình thành trào lưu chính thống, lần này bọn họ hành thích thí chủ không thành công, sợ là…”
Có một số lời ông không nói ra, nhưng người có mặt đều hiểu, đó là người của Thánh Điện không đạt được mục đích tuyệt đối sẽ không ngừng lại.
Dương Túc Phong bất đắc dĩ lắc đầu, cười khổ nói: “Tôi.. cho dù tôi không đi trêu chọc bọn họ, bọn họ cũng sẽ tới chọc vào tôi. Dù sao tôi cũng đã quen rồi, sinh tử tồn vong cũng chẳng có gì mà đáng sợ, tôi đã trải qua rồi, cũng không quá để ý nữa. Nhưng nghe lời đại sư nói, tựa hồ có hiểu biết rất sâu về Thánh Điện đế quốc Tinh Hà, chẳng lẽ khi đại sư còn trẻ từng tới Thánh Điện đế quốc Tinh Hà?”
Trí Tín đại sư chậm rãi nói: “Người trong Thánh Điện mặc dù hành vi cực đoan, nhưng võ công đúng là không tệ. Khi lão nạp còn trẻ, cũng từng tuổi trẻ khí thịnh, coi rẻ Phật pháp, lang bạt khắp nơi, kết quả là chịu thiệt lớn bởi người trong Thánh Điện, sau này mới hiểu, võ công dĩ nhiên là quan trọng, nhưng cảnh giới của con người càng quan trọng hơn. Sau chuyện này, liền chuyên tâm vào phật pháp, mới có hoàn cảnh ngày hôm nay. Dương thí chủ, thí chủ một lòng muốn thiên hạ giàu có, nhưng tâm cảnh của thí chủ, chưa chắc đã được bình hòa như lão nạp hiện giờ…”
Dương Túc Phong lơ đễnh lắc đầu, bình thản nói: “Đại sư, tôi thật lòng thật ý đa tạ đại sư dạy bảo. Nhưng đại sư muốn tôi nghiên cứu phật pháp, rèn luyện tâm cảnh thì tôi không làm được. Không phải là tôi coi thường sự vĩ đại của Như Lai Phật Tổ, cũng không phải tôi khinh rẻ trí tuệ của đại sư, mà là tình cảnh của tôi hiện giờ không cho phép tôi tôn thờ Phật pháp. Ngày nay thời loạn, cách giữ mình tốt nhất là vũ lực, cái chuyện người là dao thớt ta thịt cá, bảo tôi vươn cổ ra đợi chết tôi sẽ không làm. Nếu như tối không phấn đấu phản kháng, chẳng những tính mạng của tôi khó giữ, dù là người bên cạnh tôi cũng phải gặp tai ương. Tình thế chính trị như hiện nay không phải là đám phán và nhường nhịn là có thể giải quyết, chỉ có máu và lửa mới có thể tạo ra thế giới hoàn toàn mới. Đại sư, lời tôi nói vô cùng thẳng thắn, nếu như có chỗ nào đắc tội, xin đại sư thứ lỗi. Nơi này là đất thanh tịnh của cửa Phật, chúng tôi toàn thân trên dưới đều mang sát khí, đúng là không hợp tới chỗ này lắm.”
Trí tín đại sư thở dài nói: “Thôi vậy, ở trong loạn thế, không có gì gọi là đúng sai. Thí chủ trí tại thiên hạ, là chuyện xấu cũng là chuyện tốt. Bất quá xin thứ cho lão nạp bất tài, với ý kiến của lão nạp, thích khách nữ thí chủ còn lại tựa hồ có quan hệ mật thiết với Dương thí chủ. Hơn nữa vị thí chủ này từng nấn ná ở bổn tự một đoạn thời gian. Có liên hệ mật thiết với bổn tự…”
Dương Túc Phong tức thì sắc mặc hơi biến đổi, thâm trầm nói: “Phương Phỉ Thanh Sương tới chùa Năng Nhân của các vị ư?”
Trí Tín đại sư ánh mắt trong vắt mà thâm trầm, chậm rãi nói: “Đã hơn một tháng rồi. Lão nạp cùng có một chút hoang mang khi có khách nhân như thế, chính là nữ thí chủ tên là Phương Phỉ Thanh Sương như Dương thí chủ nói. Nhưng khi đó lão nạp và đông đảo các vị sư huynh đệ đều không biết thân phận thực sự của nàng, chỉ cảm thấy nàng thực sự đáng thương, vì thế thu giữ nàng ở lại bổn tự mấy ngày. Không ngờ rằng, chuyện này thì ra có quan hệ thật lớn với Dương thí chủ.”
Dương Túc Phong nửa tin nửa ngờ hỏi: “Thực sự là thế sao? Cô ấy tới nơi này ư? Sao cô ấy có thể tới nơi này?”
Phương Phỉ Thanh Sương không ngờ lại chẳng lập tức trở về nơi ở của mình, chẳng lẽ là thực sự không dám trở về Ma Ni giáo nữa? Hay là còn vì nguyên nhân khác? Sau cái ngày ở đảo Sùng Minh đó, liền không còn có tin tức của Phương Phỉ Thanh Sương nữa, có người còn cho rằng nàng bị lăng nhục như thế quá nửa là đã chọn một nơi không có bóng người lặng lẽ tự sát rồi. Với thân phận của nàng, một khi chuyện ở Mạt Long truyền đi, quả thực là sống không bằng chết.
Trí Tín đại sư không nhanh không chậm nói: “Đúng thế, khi đó mưa xa gió giật, không có ai nghỉ trọ, chỉ có vị nữ thí chủ này. Lúc đó nàng bị thương không nhẹ, sắc mặt nhợt nhạt vô cùng, con mắt không chút ánh sáng, hơn nữa tựa hồ trên đường cũng trải qua nhiều lần chiến đấu, thương thế ngầy càng nghiêm trọng… bọn lão nạp cứu lấy nàng, liền sau đó phát giác ra chỗ không tầm thường của nàng, vì thế vẫn luôn giữ nàng ở lại, cẩn thận chữa trị cho nàng…”
Dương Túc Phong có chút mù mờ hỏi: “Cô ấy có chỗ nào đặc biệt?”
Trí Tín đại sư nói: “Nội công của vị nữ thí chủ này, là Phật môn chính tông của chúng tôi, nhưng ngoại công lại hoàn toàn là con đường âm hiểm ác độc, mỗi chiêu đều là chiêu thức độc ác dồn người ta vào chỗ chết. Cho nên chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, không hiểu vì sao võ công nội ngoại của nàng lại trái ngược lớn như thế…”
Dương Túc Phong có chút ngạc nhiên nói: “Không ngờ cố ấy là đệ tử Phật môn các vị, thật đúng là…”
Y muốn nói là mặ
Tác giả :
Nam Hải Thập Tứ Lang