Emily Trên Dải Cầu Vồng
Chương 5: Thà ít còn hơn không
Một đêm khuya tháng Tám, nghe thấy tiếng huýt sáo ra hiệu của Teddy vọng vào từ con đường Ngày Mai, Emily bèn lẻn ra ngoài gặp cậu. Cậu có tin mới... cứ nhìn đôi mắt sáng long lanh của cậu là đủ đoán ra được.
“Emily ơi,” cậu kêu lên đầy phấn khích, “rốt cuộc tớ cũng được tới Shrewsbury rồi! Tối nay mẹ tớ vừa bảo mẹ đã quyết định sẽ cho phép tớ đi!”
Emily rất mừng... nhưng vẫn không tránh khỏi xen lẫn một nỗi buồn phiền kỳ lạ, và cô tự trách bản thân vì đã nảy sinh cảm xúc đó. Trang trại Trăng Non sẽ quạnh quẽ cô đơn đến thế nào đây khi ba người bạn thân thiết lâu năm của cô đều đã đi mất! Cho đến tận giây phút này, cô mới chợt nhận ra cô coi trọng tình bạn cùng Teddy biết bao nhiêu. Trong hết thảy những viễn cảnh tương lai gần cô tự vẽ ra cho bản thân, hình ảnh Teddy vẫn luôn luôn hiện diện. Cô vẫn luôn coi sự có mặt của Teddy là hiển nhiên. Giờ thì sẽ chẳng còn ai nữa... đến cả chú Dean cũng không, vì chú Dean lại sắp thực hiện chuyến du hành mùa đông như thường lệ... hoặc tới Ai Cập hoặc tới Nhật Bản, có lẽ phải đợi đến phút chót chú mới quyết định được. Cô biết làm gì đây? Tất cả những cuốn sổ Jimmy trên trần thế này liệu có thay thế nổi vị trí của những người bạn thân thiết bằng xương bằng thịt của cô không?
“Chỉ mong sao cậu cũng được đi!” Teddy nói, trong lúc cả hai dạo bước trên đường Ngày Mai – nhưng giờ thì gần như đã biến thành đường Hôm Nay rồi, vì những cây thích non rậm rạp lớn nhanh như thổi đã cao vút hẳn lên.
“Mong ước không thôi thì có ích lợi gì đâu. Thôi đừng nhắc đến chuyện này nữa... chỉ khiến tớ thêm buồn thôi,” Emily nói nhát gừng.
“Ôi dào, dù sao chúng mình vẫn còn những kỳ nghỉ cuối tuần mà. Mà tớ đi được lần này cũng là nhờ công cậu đấy. Chính vì nghe những lời cậu nói tối hôm nọ ở khu nghĩa địa mà mẹ đã cho phép tớ đi. Tớ biết từ sau hôm đó, mẹ tớ vẫn suy nghĩ chuyện đó suốt, vì cứ thỉnh thoảng mẹ lại buột ra một câu nào đó. Tuần vừa rồi, có hôm tớ nghe thấy mẹ tớ lẩm bẩm, 'Làm mẹ thật khủng khiếp... thật khủng khiếp khi làm mẹ mà phải chịu đựng những chuyện như thế này. Ấy vậy mà con bé đó còn gọi tôi là kẻ ích kỷ cơ đấy!' Rồi có lần khác, mẹ tớ nói, 'Nếu ta muốn nắm giữ thứ duy nhất còn lại cho ta trên cuộc đời này thì có phải là ích kỷ không?' Nhưng tối nay lúc mẹ bảo tớ có thể đi, thái độ của bà dễ chịu lắm. Tớ biết người làng vẫn bảo mẹ tớ không được tỉnh táo lắm, và đôi lúc đúng là mẹ tớ hơi kỳ quái thật. Nhưng chỉ những lúc có mặt người khác mới như thế. Cậu không biết được những lúc chỉ có riêng hai mẹ con với nhau, mẹ tớ dịu dàng và tình cảm đến thế nào đâu, Emily ạ. Tớ không muốn bỏ mẹ ở nhà mà đi. Nhưng tớ phải học hành lên chứ!”
“Tớ rất mừng nếu những gì tớ nói đã thay đổi được suy nghĩ của bác ấy, nhưng bác ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho tớ về chuyện đó đâu. Từ bữa đó đến giờ bác ấy vẫn luôn ghét tớ... cậu biết thừa như thế còn gì. Cậu biết thừa cứ mỗi lần tớ đến Vạt Cúc Ngải, bác ấy lại nhìn tớ theo kiểu gì rồi đấy... ôi, bác ấy rất lịch sự với tớ. Nhưng còn đôi mắt của bác ấy kia, Teddy ạ.”
“Tớ biết,” Teddy nói, không mấy thoải mái. “Nhưng đừng khắt khe với mẹ tớ quá, Emily ạ. Tớ đảm bảo không phải lúc nào mẹ tớ cũng thế đâu... mặc dù từ lúc tớ biết ý thức thì mẹ tớ đã như thế rồi. Tớ không biết bất cứ điều gì về mẹ hồi trước đó. Mẹ tớ chẳng bao giờ kể gì cho tớ... tớ không biết chút gì về cha tớ. Mẹ chẳng nói gì về cha cả. Thậm chí tớ còn chẳng biết vết sẹo trên mặt mẹ tớ do đâu mà có nữa.”
“Tớ nghĩ là tâm trí mẹ cậu chẳng có vấn đề gì cả đâu, thật đấy,” Emily nói chậm rãi. “Nhưng tớ nghĩ có chuyện gì đó khiến bác ấy vướng bận... luôn bận tâm về nó... một điều gì đó bác ấy không tài nào quên, không tài nào rũ bỏ khỏi đầu được. Teddy này, tớ dám chắc mẹ cậu bị ám mất rồi. Tất nhiên, tớ không có ý nói là bị ma mãnh hay bất kỳ thứ ngớ ngẩn nào đó kiểu vậy ám. Mà là bị ám bởi một suy nghĩ khủng khiếp nào đó.”
“Tớ biết mẹ tớ không vui vẻ hạnh phúc gì cho cam,” Teddy nói, “và tất nhiên nhà tớ vốn nghèo. Tối nay mẹ tớ đã nói rõ mẹ chỉ có thể cho tớ đi học ở Shrewsbury trong vòng ba năm thôi... mẹ chỉ đủ sức chu cấp được cho tớ đến chừng ấy. Nhưng chỉ cần như thế tớ cũng đã có được bước khởi đầu rồi... sau đó thì tớ sẽ tìm ra cách để trụ tiếp. Tớ biết tớ có thể làm được. Tớ sẽ thu xếp ổn thỏa chuyện đó với mẹ.”
“Rồi sau này, thể nào cậu cũng sẽ trở thành một họa sĩ vĩ đại,” Emily mơ màng nói.
Họ đã đi đến cuối đường Ngày Mai. Bãi cỏ ven hồ đang trải dài trước mặt, bị phủ trắng bởi cả một biển hoa cúc. Người nông dân ghét hoa cúc vì coi chúng chỉ là loài cỏ dại gây hại, nhưng giữa một buổi hoàng hôn mùa hè, nếu đứng nhìn lại từ Vùng Đất Của Niềm Vui Đã Mất, cả một cánh đồng trắng xóa hoa cúc ấy thật chẳng khác gì khung cảnh trong mơ. Bên dưới chúng, hồ Blair sáng lấp lánh như bông huệ tây vàng khổng lồ. Còn trên ngọn đồi phía Tây, Ngôi Nhà Tuyệt Vọng nhỏ nhắn náu mình giữa những bóng đổ, có lẽ đang mơ màng tưởng nhớ đến một cô dâu dối trá chưa từng một lần đặt chân đến nơi này. Vạt Cúc Ngải tối đen như mực. Liệu có phải bà Kent đang cô đơn ở đó, nức nở trong bóng tối, chỉ biết làm bạn cùng nỗi khao khát tình yêu thương vừa bí ẩn vừa vật vã?
Emily đang ngước nhìn bầu trời hoàng hôn; đôi mắt cô nhìn chăm chú, khuôn mặt xanh xao toát lên vẻ kiếm tìm. Cô không còn cảm giác buồn bã hay chán chường nữa, chẳng hiểu sao chỉ cần có Teddy bên cạnh thì cô chẳng bao giờ lưu giữ cảm giác đó lâu được. Trên khắp cõi trần này, chẳng có thứ âm nhạc nào giống như giọng nói của cậu. Dường như chỉ cần có cậu, bỗng nhiên điều tốt đẹp nào cũng có thể biến thành sự thật. Cô không thể đến Shrewsbury... nhưng cô vẫn có thể làm việc và học hành ngay tại Trăng Non... ôi chao, cô sẽ làm việc và học hành như thế nào đây. Một năm nữa được ở bên thầy Carpenter sẽ ích lợi cho cô lắm đây... có lẽ cũng chẳng kém cạnh gì Shrewsbury. Cô cũng đã có Đường Apls của mình mà leo lên rồi... cô sẽ leo lên đó, cho dù trên đường có bao nhiêu trở ngại đi chăng nữa... cho dù cô có nhận được bất cứ sự giúp đỡ nào hay không.
“Đến lúc đó, tớ sẽ vẽ lại hình ảnh cậu ngay lúc này đây,” Teddy nói, “và đặt tên cho bức tranh là Jeanne d'Arc... khuôn mặt tràn ngập sinh khí... đang lắng nghe tiếng lòng của mình.”
Cho dù tiếng lòng của cô có như thế nào đi chăng nữa thì tối đó, đến lúc lên giường đi ngủ, tâm trạng Emily vẫn có phần hơi chán nản, rồi đến lúc tỉnh dậy sáng hôm sau thì chẳng hiểu sao cô cứ đinh ninh trong dạ là ngày hôm đó thể nào cô cũng sẽ nhận được tin tốt lành nào đó – một cảm giác đinh ninh mãi vẫn không phai nhạt cho dù đã bao nhiêu tiếng đồng hồ trôi qua vẫn theo đúng cái cung cách sáo mòn quen thuộc của những ngày thứ Bảy tại Trăng Non, vẫn là những khoảng thời gian tất bật dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm để ngôi nhà chào đón ngày Chủ nhật, đồng thời chạn thức ăn lại được bổ sung đầy đặn. Ngày hôm đó vừa lạnh vừa ẩm ướt, với những màn sương mù nương theo ngọn gió Đông kéo về từ biển, phủ chụp màn sương lên khắp Trăng Non và khu vườn cũ.
Đến lúc trời chạng vạng, cơn mưa xám lay phay bắt đầu giăng giăng, trong khi tin tức tốt lành thì mãi vẫn chẳng thấy tăm hơi. Emily vừa lau chùi xong xuôi đám đế nến bằng đồng, trong lúc đó vẫn không quên sáng tác một bài thơ có tên Khúc ca về cơn mưa, thì bà Laura cho biết bà Elizabeth muốn gặp cô trong phòng khách.
Trong trí nhớ của Emily, những cuộc trò chuyện trong phòng khách giữa cô và bà Elizabeth chẳng được dễ chịu gì cho cam. Có vắt óc mãi cô cũng không nghĩ ra được dạo gần đây có việc gì, đã hoàn thành cũng vậy mà vẫn đang dang dở cũng vậy, có khả năng dẫn đến cuộc nói chuyện này, dầu vậy cô vẫn run run đi vào phòng khách: cho dù bà Elizabeth định nói gì với cô thì ắt hẳn đó cũng là chuyện đặc biệt quan trọng, nếu không đã chẳng cần phải nói trong phòng khách. Đây chỉ là một trong những thói quen vặt vãnh của bà Elizabeth thôi. Daffy, con mèo to xác, lẻn vào bên cạnh cô như một cái bóng xám lặng lẽ. Cô hy vọng bà Elizabeth sẽ không đuổi nó ra; có nó bên cạnh cô thì cô sẽ được trấn an phần nào: một con mèo luôn là kẻ hậu thuẫn hiệu quả, miễn nó đứng về phe ta!
Bà Elizabeth đang đan; bà trông có vẻ nghiêm nghị nhưng không có dấu hiệu khó chịu hay giận dữ. Bà chẳng buồn quan tâm đến Daff, chỉ thầm nghĩ Emily nhìn mới cao làm sao khi đứng giữa căn phòng lâu đời trang nghiêm dưới ánh chiều chạng vạng. Bọn trẻ con cứ gọi là lớn nhanh như thổi! Dường như mới ngày hôm kia thôi, Juliet xinh đẹp, thẳng thắn... bà Elizabeth Murray kiên quyết gạt hết những suy nghĩ của mình sang một bên.
“Ngồi xuống đi, Emily,” bà nói. “Ta có chuyện cần nói với cháu.”
Emily ngồi xuống. Daffy cũng bắt chước theo, khoan khoái cuộn đuôi lại quanh chân. Emily đột nhiên có cảm giác tay nhớp nháp, miệng khô khốc. Cô chỉ ước gì lúc này mình cũng đang đan lát. Thật khó chịu làm sao khi cứ ngồi thừ ra ở đây, chẳng có việc gì làm, băn khoăn không biết sắp có chuyện gì sắp xảy ra. Chuyện đã xảy ra lại là điều cô chưa bao giờ nghĩ đến. Bà Elizabeth, sau khi thong thả đan xong một vòng tròn trên chiếc tất của bà, nói thẳng vào vấn đề:
“Emily, tuần tới cháu có muốn đến Shrewsbury không?”
Đến Shrewsbury? Cô có nghe nhầm không vậy?
“Ôi, bác Elizabeth!” cô thốt lên.
“Ta đã bàn bạc rất kỹ chuyện này với các bác của cháu,” bà Elizabeth nói. “Mọi người đều đồng ý với ta rằng cháu nên được học lên cao hơn. Tất nhiên sẽ tốn một khoản chi phí đáng kể... không, đừng ngắt lời ta. Ta không thích bị ngắt lời đâu... nhưng bác Ruth sẽ trả một nửa phí tổn, coi như đóng góp nuôi dưỡng cháu... Emily, đừng có ngắt lời ta! Bác Oliver sẽ trả nốt phần phí tổn còn lại; bác Wallace sẽ chu cấp sách vở cho cháu, còn ta sẽ phụ trách khoản quần áo. Tất nhiên, cháu sẽ tùy sức mà giúp bác Ruth chăm lo nhà cửa, coi như phần nào đền đáp lại lòng tốt của bác ấy. Chỉ cần đáp ứng được điều kiện đưa ra, cháu sẽ được tới Shrewsbury ba năm.”
Điều kiện gì đây? Emily - chỉ muốn nhảy múa ca hát và cười lên khanh khách khắp căn phòng khách lâu đời vốn xưa nay chưa từng có bất kỳ người nhà Murray nào, kể cả mẹ cô, dám to gan nhảy múa cười đùa trong đó – đành miễn cưỡng ép mình ngồi thẳng đơ như pho tượng trên chiếc ghế đệm và thầm hỏi mình câu hỏi đó. Trong sự chờ đợi hồi hộp, cô phần nào cảm thấy thời khắc này xem ra cũng khá kịch tính.
“Ba năm ở Shrewsbury,” bà Elizabeth tiếp tục, “cũng sẽ ích lợi với cháu chẳng kém gì ba năm ở Queen; tất nhiên, ngoại trừ việc cháu sẽ không lấy được chứng nhận hành nghề giáo viên, mà với cháu thì chuyện đó cũng chẳng thành vấn đề, cháu đâu có tự mình kiếm sống. Nhưng, như ta đã nói đó, sẽ có một điều kiện.”
Tại sao bác Elizabeth không nói luôn xem điều kiện đó là gì? Emily gần như không thể chịu đựng nổi sự chờ đợi hồi hộp này nữa. Liệu có khả năng bà Elizabeth phần nào e ngại việc nhắc đích xác cái điều kiện đó không? Chuyện trò câu giờ không phải là thói quen của bà. Lẽ nào nó khủng khiếp đến thế ư?
“Cháu phải hứa,” bà Elizabeth nghiêm nghị nói, “rằng trong suốt ba năm ở Shrewsbury, cháu sẽ từ bỏ hoàn toàn việc viết lách vớ vẩn của cháu... hoàn toàn, ngoại trừ những bài luận mà có lẽ nhà trường sẽ yêu cầu.”
Emily ngồi bất động... và bình tĩnh. Một bên là không Shrewsbury; còn một bên, không còn thơ, không còn những câu chuyện và “nghiên cứu”, không còn những cuốn sổ Jimmy thú vị đa dạng sắc màu. Cô không cần thêm một giây phút nào để cân nhắc quyết định của mình.
“Cháu không hứa thế được, bác Elizabeth ạ,” cô nói kiên quyết.
Bà Elizabeth sửng sốt đánh rơi cả mảnh tất đang đan. Bà không ngờ sẽ có chuyện này. Bà cứ đinh ninh rằng với khát khao được tới Shrewsbury ấy, Emily sẽ sẵn sàng chấp nhận bất kỳ điều kiện nào để đổi lấy cơ hội được đi, nhất là một điều kiện vặt vãnh như thế, vốn theo bà Elizabeth thì chỉ thuần túy liên quan đến việc dẹp bỏ thói bướng bỉnh đi thôi.
“Ý cháu là cháu sẽ không từ bỏ việc viết lách vớ vẩn của cháu để đổi lấy sự giáo dục mà lúc nào cháu cũng giả vờ là vô cùng mong muốn?” bà tra vấn.
“Không phải cháu không làm mà chỉ là cháu không thể,” Emily giải thích, đầy thất vọng. Cô đã biết rõ bà Elizabeth có lẽ sẽ không hiểu được, bà Elizabeth vốn chẳng bao giờ hiểu được điều này. “Cháu không thể không viết được, bác Elizabeth. Nó ăn vào trong máu của cháu rồi. Ép buộc cháu cũng chẳng ích lợi gì cả. Cháu muốn được đi học thật, không phải chuyện giả vờ, nhưng cháu không thể đánh đổi bằng việc từ bỏ chuyện viết lách. Cháu không thể giữ được một lời hứa như thế, vậy thì có hứa cũng được việc gì đâu ạ?”
“Vậy thì cháu cứ ở nhà đi,” bà Elizabeth giận dữ nói.
Emily những tưởng bà sẽ đứng dậy bước ra khỏi phòng. Ấy vậy nhưng bà Elizabeth lại nhấc cái tất lên và trở lại công việc đan lát trong tâm trạng vô cùng phẫn nộ. Thành thật mà nói, bà Elizabeth cảm thấy sửng sốt đến mức phi lý. Bà thật lòng muốn cho Emily đến Shrewsbury. Truyền thống đòi hỏi rất nhiều ở cô, và hết thảy mọi người trong nhà đều cho rằng họ nên cho cô đi. Chính bà là người đưa ra ý tưởng về điều kiện này. Bà tưởng rằng đây là một cơ hội tốt để dẹp bỏ thói quen ngu ngốc lãng phí thời gian và tiền bạc không – giống – người – nhà – Muray chút nào, và bà không mảy may nghi ngờ sự thành công của kế hoạch này, vì bà biết rõ Emily muốn đi như thế nào. Ấy vậy mà giờ thì xem cái con bé bướng bỉnh vô ơn bạc nghĩa, ngu ngốc thiếu lý trí này đi – “bản chất Starr đang lộ ra rồi đấy,” bà Elizabeth hậm hực nghĩ, chẳng còn nhớ gì đến cái dòng máu Shipley vẫn đang chảy trong huyết quản cô! Bà biết làm gì đây? Đúc rút từ chính kinh nghiệm bản thân, bà biết quá rõ một khi Emily đã hạ quyết tâm thì chẳng gì có thể lay chuyển được cô, và bà cũng biết rõ mặc dù cả ông Wallace, ông Oliver lẫn bà Ruth đều giống như bà, luôn cho rằng niềm đam mê viết lách của Emily quá ngốc nghếch và phi truyền thống, nhưng họ sẽ không ủng hộ yêu cầu của bà – Elizabeth. Bà Elizabeth Murray nhìn thấy rõ thể nào mọi người cũng sẽ quay lưng hoàn toàn lại với bà, và bà Elizabeth Murray cũng không thích viễn cảnh này chút nào. Nhẽ ra bà phải lay chuyển được, với thái độ tự nguyện, đứa bé gầy gò xanh xao đang ngồi trên cái ghế đệm ngay trước mặt bà kia. Đứa bé ấy yếu ớt đến thế, thơ trẻ đến thế, ấy vậy nhưng cũng khó lay chuyển đến thế. Suốt ba năm qua, bà Elizabeth Murray đã nỗ lực chữa trị thói viết lách dại dột, ngốc nghếch này của Emily, nhưng cũng bằng ấy năm, bà, một con người trước nay chưa từng thất bại trước bất kỳ việc gì, lại không thể thực hiện được điều này. Đâu thể dùng cách bỏ đói hòng khuất phục cô; mà ngoài biện pháp đó ra thì có vẻ chẳng còn cách nào hiệu quả cả.
Bà Elizabeth giận dữ ngồi đan, trong khi Emily ngồi bất động, vật lộn với cảm giác thất vọng cay đắng đan xen lẫn nỗi ấm ức trước sự bất công. Cô đã hạ quyết tâm sẽ không khóc trước mặt bà Elizabeth, nhưng thật khó lòng nuốt ngược nước mắt vào trong. Cô chỉ mong sao Daff đừng có gừ gừ với cái vẻ thỏa mãn lồ lộ như thế, cứ như thể trong mắt của một chú mèo xám, hết thảy sự đời đều vô cùng hoàn hảo vậy. Cô ước gì bà Elizabeth bảo cô đi ra ngoài. Nhưng bà Elizabeth lại chỉ giận dữ ngồi đan chẳng nói chẳng rằng. Toàn bộ sự việc này phần nào giống như một cơn ác mộng. Gió đang mạnh dần lên, mưa bắt đầu quật vào ô cửa sổ, và dường như bao thế hệ Murray đã yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng đang từ những khung ảnh tối màu nhìn xuống bằng ánh mắt khiển trách. Họ không hề cảm thông với những ánh chớp, những cuốn sổ Jimmy cũng như những con đường Alps; không hề cảm thông với nỗ lực theo đuổi những thứ cao sang thần thánh dù cám dỗ nhưng chẳng mấy thuận tai quen mắt. Nhưng, bất chấp cảm giác thất vọng đang chất chứa trong lòng, Emily vẫn không thể không nghĩ rằng tình huống này mà được vận dụng vào một cảnh bi kịch trong tiểu thuyết thì thật tuyệt vời biết nhường nào.
Cửa mở và ông Jimmy khẽ khàng bước vào. Ông Jimmy đã biết rõ sắp có chuyện gì và nãy giờ vẫn chủ tâm bình tĩnh lắng nghe đằng sau cánh cửa. Ông biết Emily sẽ không đời nào hứa hẹn một chuyện như thế; ông từng nói với bà Elizabeth như vậy tại cuộc họp gia đình mười ngày trước. Ông chỉ là đơn giản là Jimmy Murray, nhưng ông hiểu một điều mà bà Elizabeth Murray khôn ngoan không tài nào hiểu được.
“Có chuyện gì vậy?” ông hỏi, đưa mắt từ người này sang người kia.
“Chẳng có chuyện gì cả,” bà Elizabeth ngạo mạn nói. “Ta vừa đề nghị sẽ cho Emily đi học, và con bé đã từ chối rồi. Tất nhiên, con bé muốn làm gì thì cứ tùy ý thôi.”
“Ai mà tùy ý nổi khi sau lưng có đến cả nghìn bậc tổ tiên chứ,” ông Jimmy nói bằng chất giọng kỳ dị vốn vẫn được ông sử dụng mỗi lần nói đến những vấn đề kiểu này. Cách nói đó lần nào cũng khiến bà Elizabeth rùng cả mình; bà không bao giờ có thể quên được sự kỳ dị của ông chính do lỗi của bà mà ra cả. “Emily không thể hứa như chị mong muốn được. Cháu có hứa được không, Emily?”
“Không ạ.” Cho dù đã cố kiềm chế, hai giọt nước mắt to tướng vẫn lăn xuống hai bên má Emily.
“Nếu cháu có thể,” ông Jimmy nói, “cháu sẽ hứa chuyện đó vì ta chứ, đúng không?”
Emily gật đầu.
“Chị đòi hỏi quá đáng quá, Elizabeth,” ông Jimmy nói với người phụ nữ đang giận dữ ngồi đan. “Chị đòi hỏi con bé phải từ bỏ hoàn toàn đam mê viết lách... này nhé, giả sử chị chỉ yêu cầu nó từ bỏ một phần nào đó thôi thì sao... Emily này, nếu bác ấy chỉ yêu cầu cháu từ bỏ một phần nào đó thôi thì sao? Cháu có thể làm được không?”
“Một phần nào là sao ạ?” Emily thận trọng hỏi.
“Chà, ví như bất kỳ thứ gì không phải sự thực chẳng hạn.” Ông Jimmy rụt rè bước đến chỗ Emily rồi đặt một bàn tay lên vai cô vẻ khẩn nài. Bà Elizabeth vẫn không ngơi tay đan, nhưng đường đan đã chậm rãi hẳn lại. “Ví như những câu chuyện chẳng hạn, Emily. Bác ấy đặc biệt không thích những câu chuyện cháu sáng tác ra. Bác ấy nghĩ chúng chỉ thuần là dối trá. Bác ấy không mấy quan tâm đến những thứ khác. Cháu không nghĩ là cháu có thể từ bỏ việc viết truyện trong ba năm sao, Emily? Được học tập là một điều tuyệt vời. Chỉ vì muốn được đi học mà bà Archibald của cháu đã phải tằn tiện vất vả lắm đấy; ta đã nghe bà kể lại chuyện đó không ít lần rồi. Thế nào, Emily?”
Emily nghĩ nhanh trong đầu. Cô thích sáng tác truyện: thật khó lòng từ bỏ việc đó. Nhưng nếu mỗi khi cảm hứng dâng trào, cô vẫn có thể viết lại bằng thơ những tưởng tượng bay bổng của mình... và còn cả những phác thảo nhân vật khác thường trong cuốn sổ Jimmy... ghi chép về các sự kiện xảy ra trong ngày... dí dỏm... châm biếm... bi thảm... thì có lẽ cô vẫn có thể chịu đựng được.
“Thử thuyết phục bác ấy đi, thử thuyết phục đi,” ông Jimmy thì thầm. “Xoa dịu bác ấy một chút. Cháu nợ bác ấy nhiều lắm, Emily ạ. Nhượng bộ bác ấy đi.”
“Bác Elizabeth,” Emily rụt rè nói. “Nếu bác cho cháu đến Shrewsbury, cháu hứa trong vòng ba năm sẽ không viết bất cứ thứ gì không đúng sự thực. Thế có được không ạ? Bởi vì cháu chỉ có thể hứa được đến thế thôi.”
Bà Elizabeth đan nốt hai vòng tất nữa rồi mới hạ cố đáp lời. Cả ông Jimmy lẫn Emily đều tưởng bà sẽ chẳng thèm đáp lại. Ấy thế nhưng bà đột nhiên gấp hết đồ đan lại và đứng dậy.
“Rất tốt. Cứ làm như thế đi. Tất nhiên, ta phản đối nhiều nhất là những câu chuyện của cháu: về những thứ còn lại, ta nghĩ là bác Ruth sẽ chăm lo cẩn thận khiến cháu chẳng còn thời gian đâu mà lãng phí vào chúng nữa.”
Bà Elizabeth đường bệ bước ra ngoài, lòng thầm nhẹ nhõm vô cùng vì bà đã không phải gánh chịu thất bại thảm hại, mà vẫn được chiếu cố để có thể rút lui trong danh dự khỏi một tình huống phức tạp. Ông Jimmy vỗ vỗ mái đầu đen nhánh của Emily.
“Tốt lắm, Emily. Cháu biết đấy, bướng bỉnh quá là không được. Và ba năm có phải là cả đời đâu, mèo con.”
Không phải là cả đời thật: nhưng đối với một đứa trẻ mới mười bốn tuổi đầu thì cũng có khác gì đâu. Tối đó, lúc đã lên giường, Emily khóc thầm cho tới tận khi chìm vào giấc ngủ; và rồi, tỉnh dậy lúc ba giờ sáng, giữa đêm khuya tối đen như mực, gió vần vũ thét gào trên bãi biển phương Bắc không biết đã qua bao đời người, cô nhỏm dậy, thắp một ngọn nến rồi ngồi vào bàn, mô tả lại toàn bộ cảnh huống này trong cuốn sổ Jimmy; cân nhắc từng từ từng chữ cốt sao cho không lời nào viết ra lại không phản ánh nghiêm ngặt thực tế!
“Emily ơi,” cậu kêu lên đầy phấn khích, “rốt cuộc tớ cũng được tới Shrewsbury rồi! Tối nay mẹ tớ vừa bảo mẹ đã quyết định sẽ cho phép tớ đi!”
Emily rất mừng... nhưng vẫn không tránh khỏi xen lẫn một nỗi buồn phiền kỳ lạ, và cô tự trách bản thân vì đã nảy sinh cảm xúc đó. Trang trại Trăng Non sẽ quạnh quẽ cô đơn đến thế nào đây khi ba người bạn thân thiết lâu năm của cô đều đã đi mất! Cho đến tận giây phút này, cô mới chợt nhận ra cô coi trọng tình bạn cùng Teddy biết bao nhiêu. Trong hết thảy những viễn cảnh tương lai gần cô tự vẽ ra cho bản thân, hình ảnh Teddy vẫn luôn luôn hiện diện. Cô vẫn luôn coi sự có mặt của Teddy là hiển nhiên. Giờ thì sẽ chẳng còn ai nữa... đến cả chú Dean cũng không, vì chú Dean lại sắp thực hiện chuyến du hành mùa đông như thường lệ... hoặc tới Ai Cập hoặc tới Nhật Bản, có lẽ phải đợi đến phút chót chú mới quyết định được. Cô biết làm gì đây? Tất cả những cuốn sổ Jimmy trên trần thế này liệu có thay thế nổi vị trí của những người bạn thân thiết bằng xương bằng thịt của cô không?
“Chỉ mong sao cậu cũng được đi!” Teddy nói, trong lúc cả hai dạo bước trên đường Ngày Mai – nhưng giờ thì gần như đã biến thành đường Hôm Nay rồi, vì những cây thích non rậm rạp lớn nhanh như thổi đã cao vút hẳn lên.
“Mong ước không thôi thì có ích lợi gì đâu. Thôi đừng nhắc đến chuyện này nữa... chỉ khiến tớ thêm buồn thôi,” Emily nói nhát gừng.
“Ôi dào, dù sao chúng mình vẫn còn những kỳ nghỉ cuối tuần mà. Mà tớ đi được lần này cũng là nhờ công cậu đấy. Chính vì nghe những lời cậu nói tối hôm nọ ở khu nghĩa địa mà mẹ đã cho phép tớ đi. Tớ biết từ sau hôm đó, mẹ tớ vẫn suy nghĩ chuyện đó suốt, vì cứ thỉnh thoảng mẹ lại buột ra một câu nào đó. Tuần vừa rồi, có hôm tớ nghe thấy mẹ tớ lẩm bẩm, 'Làm mẹ thật khủng khiếp... thật khủng khiếp khi làm mẹ mà phải chịu đựng những chuyện như thế này. Ấy vậy mà con bé đó còn gọi tôi là kẻ ích kỷ cơ đấy!' Rồi có lần khác, mẹ tớ nói, 'Nếu ta muốn nắm giữ thứ duy nhất còn lại cho ta trên cuộc đời này thì có phải là ích kỷ không?' Nhưng tối nay lúc mẹ bảo tớ có thể đi, thái độ của bà dễ chịu lắm. Tớ biết người làng vẫn bảo mẹ tớ không được tỉnh táo lắm, và đôi lúc đúng là mẹ tớ hơi kỳ quái thật. Nhưng chỉ những lúc có mặt người khác mới như thế. Cậu không biết được những lúc chỉ có riêng hai mẹ con với nhau, mẹ tớ dịu dàng và tình cảm đến thế nào đâu, Emily ạ. Tớ không muốn bỏ mẹ ở nhà mà đi. Nhưng tớ phải học hành lên chứ!”
“Tớ rất mừng nếu những gì tớ nói đã thay đổi được suy nghĩ của bác ấy, nhưng bác ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho tớ về chuyện đó đâu. Từ bữa đó đến giờ bác ấy vẫn luôn ghét tớ... cậu biết thừa như thế còn gì. Cậu biết thừa cứ mỗi lần tớ đến Vạt Cúc Ngải, bác ấy lại nhìn tớ theo kiểu gì rồi đấy... ôi, bác ấy rất lịch sự với tớ. Nhưng còn đôi mắt của bác ấy kia, Teddy ạ.”
“Tớ biết,” Teddy nói, không mấy thoải mái. “Nhưng đừng khắt khe với mẹ tớ quá, Emily ạ. Tớ đảm bảo không phải lúc nào mẹ tớ cũng thế đâu... mặc dù từ lúc tớ biết ý thức thì mẹ tớ đã như thế rồi. Tớ không biết bất cứ điều gì về mẹ hồi trước đó. Mẹ tớ chẳng bao giờ kể gì cho tớ... tớ không biết chút gì về cha tớ. Mẹ chẳng nói gì về cha cả. Thậm chí tớ còn chẳng biết vết sẹo trên mặt mẹ tớ do đâu mà có nữa.”
“Tớ nghĩ là tâm trí mẹ cậu chẳng có vấn đề gì cả đâu, thật đấy,” Emily nói chậm rãi. “Nhưng tớ nghĩ có chuyện gì đó khiến bác ấy vướng bận... luôn bận tâm về nó... một điều gì đó bác ấy không tài nào quên, không tài nào rũ bỏ khỏi đầu được. Teddy này, tớ dám chắc mẹ cậu bị ám mất rồi. Tất nhiên, tớ không có ý nói là bị ma mãnh hay bất kỳ thứ ngớ ngẩn nào đó kiểu vậy ám. Mà là bị ám bởi một suy nghĩ khủng khiếp nào đó.”
“Tớ biết mẹ tớ không vui vẻ hạnh phúc gì cho cam,” Teddy nói, “và tất nhiên nhà tớ vốn nghèo. Tối nay mẹ tớ đã nói rõ mẹ chỉ có thể cho tớ đi học ở Shrewsbury trong vòng ba năm thôi... mẹ chỉ đủ sức chu cấp được cho tớ đến chừng ấy. Nhưng chỉ cần như thế tớ cũng đã có được bước khởi đầu rồi... sau đó thì tớ sẽ tìm ra cách để trụ tiếp. Tớ biết tớ có thể làm được. Tớ sẽ thu xếp ổn thỏa chuyện đó với mẹ.”
“Rồi sau này, thể nào cậu cũng sẽ trở thành một họa sĩ vĩ đại,” Emily mơ màng nói.
Họ đã đi đến cuối đường Ngày Mai. Bãi cỏ ven hồ đang trải dài trước mặt, bị phủ trắng bởi cả một biển hoa cúc. Người nông dân ghét hoa cúc vì coi chúng chỉ là loài cỏ dại gây hại, nhưng giữa một buổi hoàng hôn mùa hè, nếu đứng nhìn lại từ Vùng Đất Của Niềm Vui Đã Mất, cả một cánh đồng trắng xóa hoa cúc ấy thật chẳng khác gì khung cảnh trong mơ. Bên dưới chúng, hồ Blair sáng lấp lánh như bông huệ tây vàng khổng lồ. Còn trên ngọn đồi phía Tây, Ngôi Nhà Tuyệt Vọng nhỏ nhắn náu mình giữa những bóng đổ, có lẽ đang mơ màng tưởng nhớ đến một cô dâu dối trá chưa từng một lần đặt chân đến nơi này. Vạt Cúc Ngải tối đen như mực. Liệu có phải bà Kent đang cô đơn ở đó, nức nở trong bóng tối, chỉ biết làm bạn cùng nỗi khao khát tình yêu thương vừa bí ẩn vừa vật vã?
Emily đang ngước nhìn bầu trời hoàng hôn; đôi mắt cô nhìn chăm chú, khuôn mặt xanh xao toát lên vẻ kiếm tìm. Cô không còn cảm giác buồn bã hay chán chường nữa, chẳng hiểu sao chỉ cần có Teddy bên cạnh thì cô chẳng bao giờ lưu giữ cảm giác đó lâu được. Trên khắp cõi trần này, chẳng có thứ âm nhạc nào giống như giọng nói của cậu. Dường như chỉ cần có cậu, bỗng nhiên điều tốt đẹp nào cũng có thể biến thành sự thật. Cô không thể đến Shrewsbury... nhưng cô vẫn có thể làm việc và học hành ngay tại Trăng Non... ôi chao, cô sẽ làm việc và học hành như thế nào đây. Một năm nữa được ở bên thầy Carpenter sẽ ích lợi cho cô lắm đây... có lẽ cũng chẳng kém cạnh gì Shrewsbury. Cô cũng đã có Đường Apls của mình mà leo lên rồi... cô sẽ leo lên đó, cho dù trên đường có bao nhiêu trở ngại đi chăng nữa... cho dù cô có nhận được bất cứ sự giúp đỡ nào hay không.
“Đến lúc đó, tớ sẽ vẽ lại hình ảnh cậu ngay lúc này đây,” Teddy nói, “và đặt tên cho bức tranh là Jeanne d'Arc... khuôn mặt tràn ngập sinh khí... đang lắng nghe tiếng lòng của mình.”
Cho dù tiếng lòng của cô có như thế nào đi chăng nữa thì tối đó, đến lúc lên giường đi ngủ, tâm trạng Emily vẫn có phần hơi chán nản, rồi đến lúc tỉnh dậy sáng hôm sau thì chẳng hiểu sao cô cứ đinh ninh trong dạ là ngày hôm đó thể nào cô cũng sẽ nhận được tin tốt lành nào đó – một cảm giác đinh ninh mãi vẫn không phai nhạt cho dù đã bao nhiêu tiếng đồng hồ trôi qua vẫn theo đúng cái cung cách sáo mòn quen thuộc của những ngày thứ Bảy tại Trăng Non, vẫn là những khoảng thời gian tất bật dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm để ngôi nhà chào đón ngày Chủ nhật, đồng thời chạn thức ăn lại được bổ sung đầy đặn. Ngày hôm đó vừa lạnh vừa ẩm ướt, với những màn sương mù nương theo ngọn gió Đông kéo về từ biển, phủ chụp màn sương lên khắp Trăng Non và khu vườn cũ.
Đến lúc trời chạng vạng, cơn mưa xám lay phay bắt đầu giăng giăng, trong khi tin tức tốt lành thì mãi vẫn chẳng thấy tăm hơi. Emily vừa lau chùi xong xuôi đám đế nến bằng đồng, trong lúc đó vẫn không quên sáng tác một bài thơ có tên Khúc ca về cơn mưa, thì bà Laura cho biết bà Elizabeth muốn gặp cô trong phòng khách.
Trong trí nhớ của Emily, những cuộc trò chuyện trong phòng khách giữa cô và bà Elizabeth chẳng được dễ chịu gì cho cam. Có vắt óc mãi cô cũng không nghĩ ra được dạo gần đây có việc gì, đã hoàn thành cũng vậy mà vẫn đang dang dở cũng vậy, có khả năng dẫn đến cuộc nói chuyện này, dầu vậy cô vẫn run run đi vào phòng khách: cho dù bà Elizabeth định nói gì với cô thì ắt hẳn đó cũng là chuyện đặc biệt quan trọng, nếu không đã chẳng cần phải nói trong phòng khách. Đây chỉ là một trong những thói quen vặt vãnh của bà Elizabeth thôi. Daffy, con mèo to xác, lẻn vào bên cạnh cô như một cái bóng xám lặng lẽ. Cô hy vọng bà Elizabeth sẽ không đuổi nó ra; có nó bên cạnh cô thì cô sẽ được trấn an phần nào: một con mèo luôn là kẻ hậu thuẫn hiệu quả, miễn nó đứng về phe ta!
Bà Elizabeth đang đan; bà trông có vẻ nghiêm nghị nhưng không có dấu hiệu khó chịu hay giận dữ. Bà chẳng buồn quan tâm đến Daff, chỉ thầm nghĩ Emily nhìn mới cao làm sao khi đứng giữa căn phòng lâu đời trang nghiêm dưới ánh chiều chạng vạng. Bọn trẻ con cứ gọi là lớn nhanh như thổi! Dường như mới ngày hôm kia thôi, Juliet xinh đẹp, thẳng thắn... bà Elizabeth Murray kiên quyết gạt hết những suy nghĩ của mình sang một bên.
“Ngồi xuống đi, Emily,” bà nói. “Ta có chuyện cần nói với cháu.”
Emily ngồi xuống. Daffy cũng bắt chước theo, khoan khoái cuộn đuôi lại quanh chân. Emily đột nhiên có cảm giác tay nhớp nháp, miệng khô khốc. Cô chỉ ước gì lúc này mình cũng đang đan lát. Thật khó chịu làm sao khi cứ ngồi thừ ra ở đây, chẳng có việc gì làm, băn khoăn không biết sắp có chuyện gì sắp xảy ra. Chuyện đã xảy ra lại là điều cô chưa bao giờ nghĩ đến. Bà Elizabeth, sau khi thong thả đan xong một vòng tròn trên chiếc tất của bà, nói thẳng vào vấn đề:
“Emily, tuần tới cháu có muốn đến Shrewsbury không?”
Đến Shrewsbury? Cô có nghe nhầm không vậy?
“Ôi, bác Elizabeth!” cô thốt lên.
“Ta đã bàn bạc rất kỹ chuyện này với các bác của cháu,” bà Elizabeth nói. “Mọi người đều đồng ý với ta rằng cháu nên được học lên cao hơn. Tất nhiên sẽ tốn một khoản chi phí đáng kể... không, đừng ngắt lời ta. Ta không thích bị ngắt lời đâu... nhưng bác Ruth sẽ trả một nửa phí tổn, coi như đóng góp nuôi dưỡng cháu... Emily, đừng có ngắt lời ta! Bác Oliver sẽ trả nốt phần phí tổn còn lại; bác Wallace sẽ chu cấp sách vở cho cháu, còn ta sẽ phụ trách khoản quần áo. Tất nhiên, cháu sẽ tùy sức mà giúp bác Ruth chăm lo nhà cửa, coi như phần nào đền đáp lại lòng tốt của bác ấy. Chỉ cần đáp ứng được điều kiện đưa ra, cháu sẽ được tới Shrewsbury ba năm.”
Điều kiện gì đây? Emily - chỉ muốn nhảy múa ca hát và cười lên khanh khách khắp căn phòng khách lâu đời vốn xưa nay chưa từng có bất kỳ người nhà Murray nào, kể cả mẹ cô, dám to gan nhảy múa cười đùa trong đó – đành miễn cưỡng ép mình ngồi thẳng đơ như pho tượng trên chiếc ghế đệm và thầm hỏi mình câu hỏi đó. Trong sự chờ đợi hồi hộp, cô phần nào cảm thấy thời khắc này xem ra cũng khá kịch tính.
“Ba năm ở Shrewsbury,” bà Elizabeth tiếp tục, “cũng sẽ ích lợi với cháu chẳng kém gì ba năm ở Queen; tất nhiên, ngoại trừ việc cháu sẽ không lấy được chứng nhận hành nghề giáo viên, mà với cháu thì chuyện đó cũng chẳng thành vấn đề, cháu đâu có tự mình kiếm sống. Nhưng, như ta đã nói đó, sẽ có một điều kiện.”
Tại sao bác Elizabeth không nói luôn xem điều kiện đó là gì? Emily gần như không thể chịu đựng nổi sự chờ đợi hồi hộp này nữa. Liệu có khả năng bà Elizabeth phần nào e ngại việc nhắc đích xác cái điều kiện đó không? Chuyện trò câu giờ không phải là thói quen của bà. Lẽ nào nó khủng khiếp đến thế ư?
“Cháu phải hứa,” bà Elizabeth nghiêm nghị nói, “rằng trong suốt ba năm ở Shrewsbury, cháu sẽ từ bỏ hoàn toàn việc viết lách vớ vẩn của cháu... hoàn toàn, ngoại trừ những bài luận mà có lẽ nhà trường sẽ yêu cầu.”
Emily ngồi bất động... và bình tĩnh. Một bên là không Shrewsbury; còn một bên, không còn thơ, không còn những câu chuyện và “nghiên cứu”, không còn những cuốn sổ Jimmy thú vị đa dạng sắc màu. Cô không cần thêm một giây phút nào để cân nhắc quyết định của mình.
“Cháu không hứa thế được, bác Elizabeth ạ,” cô nói kiên quyết.
Bà Elizabeth sửng sốt đánh rơi cả mảnh tất đang đan. Bà không ngờ sẽ có chuyện này. Bà cứ đinh ninh rằng với khát khao được tới Shrewsbury ấy, Emily sẽ sẵn sàng chấp nhận bất kỳ điều kiện nào để đổi lấy cơ hội được đi, nhất là một điều kiện vặt vãnh như thế, vốn theo bà Elizabeth thì chỉ thuần túy liên quan đến việc dẹp bỏ thói bướng bỉnh đi thôi.
“Ý cháu là cháu sẽ không từ bỏ việc viết lách vớ vẩn của cháu để đổi lấy sự giáo dục mà lúc nào cháu cũng giả vờ là vô cùng mong muốn?” bà tra vấn.
“Không phải cháu không làm mà chỉ là cháu không thể,” Emily giải thích, đầy thất vọng. Cô đã biết rõ bà Elizabeth có lẽ sẽ không hiểu được, bà Elizabeth vốn chẳng bao giờ hiểu được điều này. “Cháu không thể không viết được, bác Elizabeth. Nó ăn vào trong máu của cháu rồi. Ép buộc cháu cũng chẳng ích lợi gì cả. Cháu muốn được đi học thật, không phải chuyện giả vờ, nhưng cháu không thể đánh đổi bằng việc từ bỏ chuyện viết lách. Cháu không thể giữ được một lời hứa như thế, vậy thì có hứa cũng được việc gì đâu ạ?”
“Vậy thì cháu cứ ở nhà đi,” bà Elizabeth giận dữ nói.
Emily những tưởng bà sẽ đứng dậy bước ra khỏi phòng. Ấy vậy nhưng bà Elizabeth lại nhấc cái tất lên và trở lại công việc đan lát trong tâm trạng vô cùng phẫn nộ. Thành thật mà nói, bà Elizabeth cảm thấy sửng sốt đến mức phi lý. Bà thật lòng muốn cho Emily đến Shrewsbury. Truyền thống đòi hỏi rất nhiều ở cô, và hết thảy mọi người trong nhà đều cho rằng họ nên cho cô đi. Chính bà là người đưa ra ý tưởng về điều kiện này. Bà tưởng rằng đây là một cơ hội tốt để dẹp bỏ thói quen ngu ngốc lãng phí thời gian và tiền bạc không – giống – người – nhà – Muray chút nào, và bà không mảy may nghi ngờ sự thành công của kế hoạch này, vì bà biết rõ Emily muốn đi như thế nào. Ấy vậy mà giờ thì xem cái con bé bướng bỉnh vô ơn bạc nghĩa, ngu ngốc thiếu lý trí này đi – “bản chất Starr đang lộ ra rồi đấy,” bà Elizabeth hậm hực nghĩ, chẳng còn nhớ gì đến cái dòng máu Shipley vẫn đang chảy trong huyết quản cô! Bà biết làm gì đây? Đúc rút từ chính kinh nghiệm bản thân, bà biết quá rõ một khi Emily đã hạ quyết tâm thì chẳng gì có thể lay chuyển được cô, và bà cũng biết rõ mặc dù cả ông Wallace, ông Oliver lẫn bà Ruth đều giống như bà, luôn cho rằng niềm đam mê viết lách của Emily quá ngốc nghếch và phi truyền thống, nhưng họ sẽ không ủng hộ yêu cầu của bà – Elizabeth. Bà Elizabeth Murray nhìn thấy rõ thể nào mọi người cũng sẽ quay lưng hoàn toàn lại với bà, và bà Elizabeth Murray cũng không thích viễn cảnh này chút nào. Nhẽ ra bà phải lay chuyển được, với thái độ tự nguyện, đứa bé gầy gò xanh xao đang ngồi trên cái ghế đệm ngay trước mặt bà kia. Đứa bé ấy yếu ớt đến thế, thơ trẻ đến thế, ấy vậy nhưng cũng khó lay chuyển đến thế. Suốt ba năm qua, bà Elizabeth Murray đã nỗ lực chữa trị thói viết lách dại dột, ngốc nghếch này của Emily, nhưng cũng bằng ấy năm, bà, một con người trước nay chưa từng thất bại trước bất kỳ việc gì, lại không thể thực hiện được điều này. Đâu thể dùng cách bỏ đói hòng khuất phục cô; mà ngoài biện pháp đó ra thì có vẻ chẳng còn cách nào hiệu quả cả.
Bà Elizabeth giận dữ ngồi đan, trong khi Emily ngồi bất động, vật lộn với cảm giác thất vọng cay đắng đan xen lẫn nỗi ấm ức trước sự bất công. Cô đã hạ quyết tâm sẽ không khóc trước mặt bà Elizabeth, nhưng thật khó lòng nuốt ngược nước mắt vào trong. Cô chỉ mong sao Daff đừng có gừ gừ với cái vẻ thỏa mãn lồ lộ như thế, cứ như thể trong mắt của một chú mèo xám, hết thảy sự đời đều vô cùng hoàn hảo vậy. Cô ước gì bà Elizabeth bảo cô đi ra ngoài. Nhưng bà Elizabeth lại chỉ giận dữ ngồi đan chẳng nói chẳng rằng. Toàn bộ sự việc này phần nào giống như một cơn ác mộng. Gió đang mạnh dần lên, mưa bắt đầu quật vào ô cửa sổ, và dường như bao thế hệ Murray đã yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng đang từ những khung ảnh tối màu nhìn xuống bằng ánh mắt khiển trách. Họ không hề cảm thông với những ánh chớp, những cuốn sổ Jimmy cũng như những con đường Alps; không hề cảm thông với nỗ lực theo đuổi những thứ cao sang thần thánh dù cám dỗ nhưng chẳng mấy thuận tai quen mắt. Nhưng, bất chấp cảm giác thất vọng đang chất chứa trong lòng, Emily vẫn không thể không nghĩ rằng tình huống này mà được vận dụng vào một cảnh bi kịch trong tiểu thuyết thì thật tuyệt vời biết nhường nào.
Cửa mở và ông Jimmy khẽ khàng bước vào. Ông Jimmy đã biết rõ sắp có chuyện gì và nãy giờ vẫn chủ tâm bình tĩnh lắng nghe đằng sau cánh cửa. Ông biết Emily sẽ không đời nào hứa hẹn một chuyện như thế; ông từng nói với bà Elizabeth như vậy tại cuộc họp gia đình mười ngày trước. Ông chỉ là đơn giản là Jimmy Murray, nhưng ông hiểu một điều mà bà Elizabeth Murray khôn ngoan không tài nào hiểu được.
“Có chuyện gì vậy?” ông hỏi, đưa mắt từ người này sang người kia.
“Chẳng có chuyện gì cả,” bà Elizabeth ngạo mạn nói. “Ta vừa đề nghị sẽ cho Emily đi học, và con bé đã từ chối rồi. Tất nhiên, con bé muốn làm gì thì cứ tùy ý thôi.”
“Ai mà tùy ý nổi khi sau lưng có đến cả nghìn bậc tổ tiên chứ,” ông Jimmy nói bằng chất giọng kỳ dị vốn vẫn được ông sử dụng mỗi lần nói đến những vấn đề kiểu này. Cách nói đó lần nào cũng khiến bà Elizabeth rùng cả mình; bà không bao giờ có thể quên được sự kỳ dị của ông chính do lỗi của bà mà ra cả. “Emily không thể hứa như chị mong muốn được. Cháu có hứa được không, Emily?”
“Không ạ.” Cho dù đã cố kiềm chế, hai giọt nước mắt to tướng vẫn lăn xuống hai bên má Emily.
“Nếu cháu có thể,” ông Jimmy nói, “cháu sẽ hứa chuyện đó vì ta chứ, đúng không?”
Emily gật đầu.
“Chị đòi hỏi quá đáng quá, Elizabeth,” ông Jimmy nói với người phụ nữ đang giận dữ ngồi đan. “Chị đòi hỏi con bé phải từ bỏ hoàn toàn đam mê viết lách... này nhé, giả sử chị chỉ yêu cầu nó từ bỏ một phần nào đó thôi thì sao... Emily này, nếu bác ấy chỉ yêu cầu cháu từ bỏ một phần nào đó thôi thì sao? Cháu có thể làm được không?”
“Một phần nào là sao ạ?” Emily thận trọng hỏi.
“Chà, ví như bất kỳ thứ gì không phải sự thực chẳng hạn.” Ông Jimmy rụt rè bước đến chỗ Emily rồi đặt một bàn tay lên vai cô vẻ khẩn nài. Bà Elizabeth vẫn không ngơi tay đan, nhưng đường đan đã chậm rãi hẳn lại. “Ví như những câu chuyện chẳng hạn, Emily. Bác ấy đặc biệt không thích những câu chuyện cháu sáng tác ra. Bác ấy nghĩ chúng chỉ thuần là dối trá. Bác ấy không mấy quan tâm đến những thứ khác. Cháu không nghĩ là cháu có thể từ bỏ việc viết truyện trong ba năm sao, Emily? Được học tập là một điều tuyệt vời. Chỉ vì muốn được đi học mà bà Archibald của cháu đã phải tằn tiện vất vả lắm đấy; ta đã nghe bà kể lại chuyện đó không ít lần rồi. Thế nào, Emily?”
Emily nghĩ nhanh trong đầu. Cô thích sáng tác truyện: thật khó lòng từ bỏ việc đó. Nhưng nếu mỗi khi cảm hứng dâng trào, cô vẫn có thể viết lại bằng thơ những tưởng tượng bay bổng của mình... và còn cả những phác thảo nhân vật khác thường trong cuốn sổ Jimmy... ghi chép về các sự kiện xảy ra trong ngày... dí dỏm... châm biếm... bi thảm... thì có lẽ cô vẫn có thể chịu đựng được.
“Thử thuyết phục bác ấy đi, thử thuyết phục đi,” ông Jimmy thì thầm. “Xoa dịu bác ấy một chút. Cháu nợ bác ấy nhiều lắm, Emily ạ. Nhượng bộ bác ấy đi.”
“Bác Elizabeth,” Emily rụt rè nói. “Nếu bác cho cháu đến Shrewsbury, cháu hứa trong vòng ba năm sẽ không viết bất cứ thứ gì không đúng sự thực. Thế có được không ạ? Bởi vì cháu chỉ có thể hứa được đến thế thôi.”
Bà Elizabeth đan nốt hai vòng tất nữa rồi mới hạ cố đáp lời. Cả ông Jimmy lẫn Emily đều tưởng bà sẽ chẳng thèm đáp lại. Ấy thế nhưng bà đột nhiên gấp hết đồ đan lại và đứng dậy.
“Rất tốt. Cứ làm như thế đi. Tất nhiên, ta phản đối nhiều nhất là những câu chuyện của cháu: về những thứ còn lại, ta nghĩ là bác Ruth sẽ chăm lo cẩn thận khiến cháu chẳng còn thời gian đâu mà lãng phí vào chúng nữa.”
Bà Elizabeth đường bệ bước ra ngoài, lòng thầm nhẹ nhõm vô cùng vì bà đã không phải gánh chịu thất bại thảm hại, mà vẫn được chiếu cố để có thể rút lui trong danh dự khỏi một tình huống phức tạp. Ông Jimmy vỗ vỗ mái đầu đen nhánh của Emily.
“Tốt lắm, Emily. Cháu biết đấy, bướng bỉnh quá là không được. Và ba năm có phải là cả đời đâu, mèo con.”
Không phải là cả đời thật: nhưng đối với một đứa trẻ mới mười bốn tuổi đầu thì cũng có khác gì đâu. Tối đó, lúc đã lên giường, Emily khóc thầm cho tới tận khi chìm vào giấc ngủ; và rồi, tỉnh dậy lúc ba giờ sáng, giữa đêm khuya tối đen như mực, gió vần vũ thét gào trên bãi biển phương Bắc không biết đã qua bao đời người, cô nhỏm dậy, thắp một ngọn nến rồi ngồi vào bàn, mô tả lại toàn bộ cảnh huống này trong cuốn sổ Jimmy; cân nhắc từng từ từng chữ cốt sao cho không lời nào viết ra lại không phản ánh nghiêm ngặt thực tế!
Tác giả :
Lucy Maud Montgomery