Emily Trên Dải Cầu Vồng
Chương 3: Đêm thao thức
Trong chúng ta, nhiều người vẫn còn nhớ như in thời điểm đích xác chúng ta tiến tới một cột mốc quan trọng nào đó trên đường đời... thời điểm diệu kỳ khi chúng ta tạm biệt thuở ấu thơ để bước vào quãng đời thiếu nữ; thời điểm lung linh huyền hoặc – hay có lẽ là choáng váng kinh hoàng – từ khi thiếu nữ bất chợt biến thành người phụ nữ trưởng thành; thời điểm ớn lạnh khi ta phải đối diện với cái thực tế rằng thời thanh xuân đã dứt khoát lùi lại đằng sau ta; thời điểm sầu bi, thanh thản khi ý thức được dòng chảy thời gian. Emily Starr không bao giờ quên được buổi tối cô trải qua cột mốc đầu tiên, và vĩnh viễn bỏ lại thời thơ ấu phía sau.
Mỗi trải nghiệm đều góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm phong phú, và trải nghiệm càng sâu, sự phong phú mà nó mang lại càng lớn. Buổi tối kinh hoàng, bí ẩn và rạo rực một cách kỳ lạ đó đã trao cho cả trí óc lẫn trái tim cô một sự trưởng thành như đã được đúc kết qua hàng bao nhiêu năm.
Đó là một đêm đầu tháng Bảy. Cả ngày trời nóng hầm hập. Bà Elizabeth bị thời tiết này làm cho bức bối đến độ quyết định sẽ không tham dự buổi cầu nguyện tập thể. Bà Laura, ông Jimmy và Emily vẫn đi. Trước khi rời nhà, Emily đã hỏi xin bà Elizabeth và được cho phép về nhà cùng Ilse Burnley sau buổi lễ, thậm chí còn được ở lại qua đêm. Đây đúng là một niềm vui sướng hiếm hoi. Bà Elizabeth không mấy khi đồng ý chuyện vắng nhà qua đêm.
Nhưng bác sĩ Burnley đang phải đi xa, còn người quản gia tạm thời phải nghỉ việc vì rạn mắt cá chân. Ilse đã rủ Emily tối đó đến ở cùng, và Emily được phép làm vậy. Ilse không biết chuyện này – thật ra, cô chẳng mấy hy vọng lời đề nghị được chấp thuận – nhưng rồi sẽ được thông báo tại buổi cầu nguyện tập thể. Giá Ilse không đến muộn thì Emily đã nói cho cô biết chuyện trước khi buổi cầu nguyện “tiến hành” rồi, và như vậy rất có thể sẽ tránh được những sự cố không may trong tối đó; nhưng, như thường lệ, Ilse đã đến muộn, thành ra cái sảy nảy cái ung.
Emily ngồi trên hàng ghế cầu nguyện của nhà thờ Murray, ngay sát đầu giáo đường, cạnh khung cửa sổ trổ ra vạt linh sam và cây thích bao quanh ngôi nhà thờ nhỏ màu trắng. Buổi cầu nguyện tập thể này không phải buổi tụ họp định kỳ hằng tuần vốn chỉ lác đác vài con chiên ngoan đạo như thường lệ. Nó là một “buổi họp mặt đặc biệt”, được tổ chức để chuẩn bị cho ngày Chủ nhật cộng đồng sắp tới, và diễn giả không phải là cha Johnson trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết luôn khiến Emily háo hức lắng nghe bất chấp sai sót ngớ ngẩn của cô ở bữa tối của Hội Phụ nữ Cứu trợ hôm vừa rồi, mà là một nhà truyền giáo được Shrewsbury cho mượn một tối. Nhờ danh tiếng của ông ta mà nhà thờ đông nghịt người, ấy vậy nhưng sau đó hầu như ai cũng tuyên bố thà nghe cha Johnson của họ giảng còn hơn. Emily nhìn ông ta chăm chú, đầy xét đoán và rút ra kết luận ông ta ăn nói quá ngọt xớt và chẳng ra dáng con người cao quý gì hết. Cô nghe ông ta đọc từ đầu đến cuối một bài kinh, thầm nghĩ,
“Đưa ra lời khuyên sáng suốt của Chúa và lăng mạ quỷ thì đâu phải cầu nguyện chứ.”
Sau khi lắng nghe diễn thuyết vài phút, cô rút ra kết luận ông ta chỉ là một kẻ tư duy phi lý, thích bày trò giật gân và khoái gây chuyện lùm xùm, vậy là cô dửng dưng phớt lờ ông ta để thả mình vào cõi mơ –một chuyện nhìn chung cô có thể làm tùy ý mỗi khi trong lòng bất an muốn trốn thoát hiện thực trái ngang.
Ngoài trời, ánh trăng vẫn đang được sàng qua những tán thích và linh sam, lắc rắc đổ xuống cơn mưa bạc, mặc dù một đụn mây đầy đe dọa đang đùn lên đặc dần phía chân trời Tây Bắc, và tiếng sấm ầm ì văng vẳng phá tan bầu không khí tĩnh lặng giữa đêm hè oi ả, một đêm hầu như tịnh không chút gió, dù thỉnh thoảng bất chợt một luồng khí quẹt ngang đám cây cối, nghe giống tiếng thở dài hơn là một cơn gió nhẹ, và xô bóng cây túm tụm thành những hình thù kỳ dị đang nhảy múa. Vẻ đẹp thanh bình quen thuộc hòa quyện cùng những dấu hiệu báo bão đang về nhuộm bầu không khí ban đêm bằng một sắc màu kỳ lạ khiến Emily mê mẩn, và cô tận dụng hẳn phân nửa thời gian diễn thuyết của nhà truyền giáo để soạn thảo trong tâm trí bản thân miêu tả về cảnh tượng này dành cho cuốn sổ của Jimmy. Thời gian còn lại, cô nghiên cứu từng người một trong số các thính giả lọt vào tầm nhìn. Trong các cuộc hội họp giữa chốn công cộng, Emily chẳng bao giờ chán trò này, và càng lớn cô càng thích hơn. Thú vị xiết bao khi nghiên cứu những khuôn mặt mỗi người một vẻ ấy, khi ngẫm ngợi dò đoán vô vàn câu chuyện cuộc đời được viết trên đó bằng nét chữ tượng hình bí ẩn thời Ai Cập cổ đại. Hết thảy những người đàn ông đàn bà đó, ai cũng có những nỗi niềm thầm kín, những cuộc đời bí mật không tỏ cùng bất kỳ ai ngoài chính bản thân và Chúa. Người ngoài chỉ có thể suy đoán về họ, và Emily rất say mê trò chơi suy đoán này. Quả thực, nhiều khi, cô còn cảm thấy dường như mọi thứ không chỉ dừng lại ở mức suy đoán, dường như trong một vài khoảnh khắc đặc biệt nào đó, cô có thể bước vào tâm hồn họ, có thể đọc được trong đó những động cơ, những đam mê vốn vị đào sâu chôn chặt mà có lẽ vẫn là một bí ẩn ngay cả với những người sở hữu chúng. Bao giờ cũng vậy, chỉ cần cái khả năng ấy trỗi dậy là Emily lại khó lòng cưỡng nổi khao khát được làm điều này, dẫu rằng ngay cả khi đã đành lòng nhượng bộ, cô vẫn không bao giờ thoát khỏi cảm giác áy náy, cho rằng mình đang xâm phạm vào đời tư của kẻ khác. Chuyện này khác hẳn với việc sải rộng đôi cánh tưởng tượng bay vào một thế giới sáng tạo trong tâm tưởng, khác hẳn với vẻ đẹp tinh tế, huyền ảo của “ánh chớp”; ở cả hai trường hợp đó, cô không có bất kỳ giây phút lưỡng lự hay ngần ngại nào. Nhưng khi rón rén bước xuyên qua một cánh cửa đang tạm thời mở khóa như thế, rồi thoáng nhìn thấy những thứ vốn không được bày tỏ, không thể bày tỏ đang được che đậy trong sâu thẳm trái tim và tâm hồn người khác, hành động đó, bên cạnh ý thức về sức mạnh của nó, luôn mang đến một nhận thức về sự cấm đoạn, thậm chí là ý thức về sự báng bổ thánh thần. Tuy nhiên, Emily không biết liệu có khi nào cô cưỡng lại nổi sức quyến rũ của nó không... lần nào cũng như lần nào, cô luôn liếc qua cánh cửa và nhìn hết thứ này đến thứ kia, rồi tới lúc đó mới nhận thức được mình đang làm gì. Hầu như chúng luôn là những điều khủng khiếp. Bí mật thường khủng khiếp. Những thứ đẹp đẽ chẳng mấy khi bị che giấu làm gì... chỉ những thứ xấu xa, méo mó mới hay bị thế.
“Vào thời xa xưa, Elder Forsyth chắc hẳn là kẻ ưa hành hạ người khác,” cô nghĩ. “Nhìn mặt ông ta giống thế lắm. Ngay lúc này đây, ông ta đang thích nhà truyền giáo vì ông ấy đang giảng về địa ngục, và Elder Forsyth chắc mẩm mọi kẻ thù của ông ta đều xuống đó hết. Đúng vậy, thế nên ông ta mới lộ vẻ mãn nguyện như thế. Mình nghĩ hằng đêm, bà Bowes vẫn cưỡi chổi bay lượn trên trời. Bà ta có vẻ thế lắm. Bốn trăm năm trước, bà ta hẳn phải là phù thủy, và Elder Forsyth đã đóng cọc thiêu cháy bà ta. Bà ta căm ghét hết thảy mọi người... hẳn phải kinh khủng lắm khi căm ghét tất cả mọi người, khi để tâm hồn tràn ngập hận thù. Chắc chắn mình phải tìm cách miêu tả một người như thế trong cuốn sổ Jimmy. Không biết liệu hận thù căm ghét có xua đuổi toàn bộ tình yêu thương ra khỏi tâm hồn bà ta không, không biết trong đó còn rơi rớt lại chút yêu thương nào dành cho bất kỳ ai hay bất kỳ thứ gì không. Nếu có thì rất có thể nó sẽ cứu vớt bà ta. Đây đúng là một ý tưởng hay để viết truyện. Trước khi đi ngủ mình phải ghi lại mới được, mình sẽ mượn Ilse ít giấy vậy. Không cần... cuốn sách thánh ca của mình vẫn còn sót ít giấy trắng. Mình sẽ viết lại luôn.
“Không biết tất cả những người này sẽ nói gì nếu đột nhiên được hỏi họ mong muốn gì nhất, và bắt buộc phải trả lời thành thật nhỉ. Không biết trong số những cặp vợ chồng kia, có bao nhiêu người mong muốn được thay đổi nhỉ? Vợ chồng Chris Farrar chắc là có... chuyện đó ai mà chẳng biết. Chẳng hiểu tại sao, mình cứ cảm thấy chắc chắn James Beatty và vợ ông ta cũng thế. Họ có vẻ khá hài lòng về nhau, nhưng có một lần, mình bắt gặp bà ấy nhìn ông ta đúng lúc bà ấy không ngờ có người đang quan sát; ôi chao, cứ như thể qua đôi mắt bà ấy, mình đã nhìn thấu tận tâm hồn bà ấy, và bà ấy căm ghét ông ta... sợ hãi ông ta. Giờ bà ấy đang ngồi kia, ngay cạnh ông ta, nhỏ bé, gầy còm, ăn mặc lạc mốt, tóc bạc da mồi cả rồi, nhưng bà ấy, chính bản thân bà ấy, là một ngọn lửa phản kháng cháy đỏ hừng hực. Điều bà ấy mong muốn là được thoát khỏi ông ta... hay chỉ cần phản kháng lại dù chỉ một lần. Thế là bà ấy thỏa mãn rồi.
“Chú Dean ngồi kia... mình thật không hiểu điều gì đã mang chú ấy đến buổi cầu nguyện tập thể chứ? Vẻ mặt chú ấy rất nghiêm túc, nhưng ánh mắt chú ấy thì tràn ngập vẻ giễu cợt dành cho ông Sampson... mà ông Sampson đang nói gì vậy nhỉ?... Ôi chao, lại chuyện gì đó về các trinh nữ khôn ngoan[1] đây mà. Mình ghét các trinh nữ khôn ngoan, mình thấy họ ích kỷ khủng khiếp. Nhẽ ra họ có thể san sẻ cho những cô gái khờ dại tội nghiệp kia một ít dầu. Mình không tin là sự ngợi ca mà Chúa Jesus dành cho họ sẽ nhiều hơn sự ngợi ca mà Người muốn dành cho viên quản gia bất lương; theo mình thấy, Người chỉ đang cố gắng cảnh báo những người khờ dại để họ không được tỏ ra bất cẩn và khờ dại thôi, vì nếu họ mà như thế, những kẻ khôn ngoan ích kỷ sẽ chẳng đời nào giúp đỡ họ. Không hiểu liệu có đáng bị coi là xấu xa không nếu mình cảm thấy thà ở bên ngoài với những người khờ dại để mà cố gắng an ủi giúp đỡ họ, còn hơn là ở bên trong tiệc tùng cùng những kẻ khôn ngoan. Như thế còn thú vị hơn nhiều.
[1] Dụ ngôn về Mười trinh nữ chép trong sách Phúc âm Matthew: Mười cô trinh nữ cầm đèn đón chàng rể. Năm cô được xem là khờ dại vì mang đèn mà không mang thêm dầu, còn năm cô kia được cho là khôn ngoan vì mang đèn còn chuẩn bị cả bình dầu đầy. Chờ mãi chưa thấy chàng rể đến nên cả mười cô đều ngủ thiếp đi. Nửa đêm, có tiếng hô: Chàng rể đến. Nhưng lúc này, đèn của năm cô khờ dại đều hết dầu nên tắt ngóm. Mượn dầu thì không được, các cô đành chạy ra quán mua. Nhưng mua xong dầu về đến nơi thì cửa đã đóng, tiệc cưới đã bắt đầu. Năm cô khờ dại đành phải ra về trong hối tiếc.
“Kia là bà Kent và Teddy. Ôi chao, bà ấy khát khao cháy bỏng một thứ... mình không biết là thứ gì, nhưng nó là thứ bà ấy không bao giờ có thể giành được, và khát vọng giành được nó đã dằn vặt bà ấy suốt cả ngày lẫn đêm. Bởi vậy bà ấy mới suốt ngày kè kè bên Teddy như thế, mình biết mà. Nhưng mình không biết cái gì đã khiến bà ấy khác hẳn so với những phụ nữ khác. Mình không bao giờ có thể liếc vào trong tâm hồn bà ấy... bà ấy ngăn chặn mọi ánh nhìn... cánh cửa chẳng khi nào lỏng then mở khóa.
“Còn mình mong muốn gì nhất nhỉ? Đó chính là leo lên tận đỉnh con đường Alps,
“ 'Và viết lên trên bảng danh sách chói ngời
Cái tên hèn mọn của một người phụ nữ.'
“Tất cả chúng ta đều đói. Tất cả chúng ta đều muốn một chút bánh mì sự sống... ấy vậy nhưng ông Sampson lại không thể trao nó cho chúng ta. Không biết ông ấy muốn gì nhất nhỉ? Tâm hồn ông ấy cứ sền sệt đến nỗi chẳng thể nhìn thấu được. Ông ấy có vô vàn mong muốn hèn hạ... ông ấy chẳng mong muốn bất kỳ thứ gì đủ độ để bị nó chi phối. Cha Johnson muốn giúp đỡ mọi người và thuyết phục mọi người làm điều đúng đắn... cha thật tâm muốn thế. Còn mong mỏi cháy bỏng nhất của dì Janey là được chứng kiến toàn bộ thế giới ngoại đạo đều cải sang Cơ Đốc giáo. Tâm hồn dì ấy không ẩn chứa bất kỳ ước mong đen tối nào. Mình biết thầy Carpenter muốn gì... cơ hội từng tuột mất một lần nữa quay trở lại. Katherine Morris muốn tìm lại tuổi thanh xuân... bà ấy căm ghét mọi đứa con gái trẻ tuổi hơn như bọn mình bởi vì bọn mình trẻ trung. Cụ Malcolm Strang chỉ ước ao được sống... chỉ cần thêm một năm nữa thôi... lần nào cũng chỉ cần thêm một năm nữa... chỉ cần được sống... chỉ cần không phải chết. Hẳn phải khủng khiếp biết bao nhiêu khi sống mà chẳng có mục đích gì ngoại trừ trốn chạy cái chết. Nhưng ông ấy vẫn tin vào thiên đường... ông ấy vẫn chắc mẩm rồi sẽ đến đó. Ông già tội nghiệp ấy, giá như có thể nhìn thấy ánh chớp của mình đây dù chỉ một lần thôi thì ắt hẳn ông ấy đã chẳng bày tỏ thái độ ghét cay ghét đắng như thế khi nghĩ về cái chết. Còn Mary Strang lại muốn chết... trước khi một thứ khủng khiếp nào đó mà bà ấy e sợ sẽ hành hạ bà ấy cho tới chết. Nghe nói đó là bệnh ung thư. Còn có ông Morrison Khùng đang ở khu vực dành cho ban đồng ca nữa... mọi người đều biết ông ấy muốn gì... tìm thấy Annie của ông ấy. Tom Sibley thì có lẽ muốn mặt trăng... và biết rõ anh ta không bao giờ có thể lấy được nó... bởi vậy người ta mới bảo anh ta hơi điên điên khùng khùng. Amy Crabbe muốn Max Terry quay lại với chị ấy... ngoài chuyện đó ra thì chẳng còn gì quan trọng cả.
“Ngày mai mình sẽ phải viết hết những chuyện này vào cuốn sổ Jimmy. Chúng thật hấp dẫn xiết bao... nhưng, xét cho cùng, mình vẫn thích viết về những điều tốt đẹp hơn. Chỉ có điều, ở chúng lại có một ý vị mà những thứ tốt đẹp không có được. Những cánh rừng ngoài kia... trông chúng lạ kỳ xiết bao giữa bóng tối và ánh sáng bạc. Ánh trăng đang trùm lên những tấm bia một một tấm màn kỳ lạ, khiến cho ngay cả những tấm bia xấu xí cũng trở nên đẹp đẽ hẳn. Nhưng trời nóng hầm hập, trong này chẳng khác gì cái lò nung, còn tiếng sấm ầm ì càng lúc càng dội lại gần hơn. Hy vọng Ilse và mình kịp về nhà trước khi bão nổi. Ôi chao, ngài Sampson à, ngài Sampson, Chúa đâu có phải vị Chúa giận dữ... ngài mà nói thế thì chứng tỏ ngài chẳng hiểu gì về Người hết... tôi dám chắc Người vô cùng phiền muộn khi chúng ta tỏ ra khờ dại xấu xa, nhưng Người không phát điên phát khùng lên. Chúa của ngài và Chúa của bà Ellen Greene giống nhau như hai giọt nước vậy. Tôi chỉ muốn đứng bật dậy nói với ngài như thế, nhưng giữa nhà thờ mà trả lời một cách xấc xược thì chẳng phù hợp với truyền thống của nhà Murray chút nào. Ngài đã bôi xấu Chúa... trong khi Người tốt đẹp nhường ấy. Tôi căm ghét ngài vì đã bôi xấu Chúa, đồ béo ị lùn tịt.”
Và rồi đúng lúc đó, ông Sampson, vốn đã vài lần để ý đến ánh mắt thăm dò chăm chú của Emily và cứ đinh ninh ta đây đang gây được ấn tượng cực kỳ lớn lao khiến cô gái ý thức được rõ ràng tình trạng không được cứu vớt của bản thân, kết thúc bài giảng bằng những lời khẩn nài chốt hạ vô cùng khẩn thiết, và ngồi xuống. Vốn đang phải chen chúc giữa bầu không khí ngột ngạt bức bí của ngôi nhà thờ đông đúc lờ mờ ánh đèn, các khán thính giả đều nhẹ nhõm thở phào ra thành tiếng, và gần như chẳng buồn đợi đến lúc hát thánh ca và đọc kinh Tạ ơn, họ cứ thế ùn ùn kéo ra ngoài tìm đến với bầu không khí trong lành hơn. Mắc kẹt giữa dòng người và bị tách ra khỏi bà Laura, Emily bị đẩy dạt ra bên, xuyên qua cánh cửa dẫn vào khu vực dàn đồng ca mà lọt vào ngay bên trái bục giảng kinh. Phải mất một lúc cô mới chật vật thoát ra khỏi đám đông và hối hả vòng ra phía trước, hy vọng sẽ gặp được Ilse ở đó. Ở đây lại là một đám đông nữa, nhưng chẳng mấy chốc đã vãn người, tuy nhiên cô vẫn không thấy bóng dáng Ilse đâu. Đột nhiên, Emily nhận ra cô không mang theo quyển thánh ca. Cô vội vã lao ngược trở lại chỗ cửa dẫn vào khu vực dàn đồng ca. Chắc hẳn cô đã bỏ quên cuốn sách thánh ca ở chỗ ghế ngồi... trong khi lẽ ra không bao giờ được phép để quên nó ở đó. Cốt để cho an toàn, cô đã kẹp vào giữa cuốn thánh ca mẩu giấy lưu lại vài ghi chép rời rạc được cô lén lút viết trong thời gian xướng bài thánh ca cuối cùng - một bản miêu tả khá chua cay về cô Potter gầy giơ xương thuộc dàn hợp xướng, mấy câu châm biếm nhằm vào chính cha Sampson, thêm cả một vài tưởng tượng ngẫu nhiên mà cô muốn giấu kín nhất vì nó chất chứa một phần giấc mơ và sự tưởng tượng hẳn sẽ khiến cho bất cứ sự nhòm ngó nào từ những đôi mắt xa lạ cũng trở thành hành động báng bổ thánh thần.
Lúc cô vào trong, cụ Jacob Banks, ông lão vừa mù dở vừa nghễnh ngãng nhận nhiệm vụ trông nom nhà thờ, đang tắt dần đèn đóm. Ông đã tắt đến hai cây đèn trên tường phía sau bục giảng kinh. Emily vớ lấy cuốn thánh ca của cô đang để trên giá... chẳng thấy mẩu giấy của cô đâu. Dưới ánh sáng lờ mờ do ông Jacob Banks đã tắt nốt cây đèn cuối cùng, cô nhìn thấy nó nằm trên sàn nhà, dưới cái ghế cầu nguyện phía trước. Cô quỳ xuống, vươn tay ra với lấy mẩu giấy. Giữa lúc đó, cụ Jacob bước ra ngoài và khóa cánh cửa dẫn vào khu vực dàn thánh ca.
Emily không nhận ra ông lão trông coi nhà thờ đã đi mất; ngôi nhà thờ vẫn đang lờ mờ sáng dưới sự chiếu rọi của vầng trăng cho đến lúc này vẫn chưa bị nhấn chìm sau những đám mây dông đang không ngừng đùn lên cuồn cuộn. Ấy vậy nhưng hóa ra đó vẫn không phải mẩu giấy cô cần tìm... không hiểu nổi nó đang ở đâu nữa?... ồ, rốt cuộc thì cũng thấy nó đây rồi. Emily nhặt mẩu giấy lên và chạy tới bên cánh cửa, nhưng cửa lại không mở.
Đến lúc đó, Emily mới nhận ra ông cụ Jacob Banks đã đi mất, chỉ còn lại một mình cô trong nhà thờ. Cô hì hục tìm cách mở cửa nhưng chỉ hoài công vô ích, rồi cô gọi ông cụ Banks nhưng cũng chẳng có tác dụng gì. Cuối cùng, cô lao đi giữa hai hàng ghế, chạy ra hiên trước. Giữa chừng, cô nghe thấy tiếng cỗ xe độc mã cuối cùng ken két xoay đầu bên cổng vào rồi chạy đi mất: cùng lúc đó, mặt trăng đột ngột bị những đám mây đen sì nuốt chửng và ngôi nhà thờ mất hút giữa bóng tối - bóng tối dày đặc, oi ả, bức bối, gần như có thể sờ mó được. Emily thét lên trong nỗi hoảng loạn bất ngờ... nện thình thịch vào cửa ra vào... điên cuồng vặn tay nắm cửa... rồi lại kêu lên. Ôi, mọi người đâu thể đi hết rồi cơ chứ... chắc chắn ai đó sẽ nghe thấy tiếng cô! “Bác Laura ơi”... “Bác Jimmy ơi”... “Ilse”... rồi cuối cùng rền rĩ tuyệt vọng... “Ôi, Teddy ơi... Teddy!”
Một dải chớp trắng xanh quét qua hiên, ngay sau đó tiếng sấm gầm lên. Một trong những cơn bão tồi tệ nhất biên niên sử làng Hồ Blair đã bắt đầu... và Emily Starr thì bị nhốt một mình trong ngôi nhà thờ tối tăm giữa rừng thích... cô, vốn luôn luôn ấp ủ trong lòng một nỗi sợ hãi vô cớ mang tính bản năng trước những cơn dông bão, một nỗi hoảng sợ cô không bao giờ có thể xóa than mà chỉ đủ sức kiềm chế được phần nào.
Run rẩy, cô đổ sụp xuống bậc cầu thang dẫn đến khu vực dàn đồng ca, và cứ cuộn người thu lu ở đó. Chắc chắn sẽ có người quay lại khi phát hiện ra cô đang mất tích. Nhưng liệu có ai phát hiện ra không? Ai sẽ nhớ tới cô chứ? Bác Laura và Jimmy vẫn chắc mẩm cô đang ở cùng Ilse như đã dự tính. Trong khi Ilse, hiển nhiên đã đi mất rồi, thì vẫn đinh ninh Emily không đi cùng mình được và bởi vậy cô sẽ cho rằng cô đã trở về trang trại Trăng Non. Không ai biết cô đang ở đâu... sẽ chẳng ai quay lại tìm cô cả. Cô sẽ phải ở lại đây, giữa chốn tối tăm, hoang vu, đáng sợ âm âm tiếng vang này... ngay lúc này đây, ngôi nhà thờ cô vốn nắm rõ như lòng bàn tay và yêu thương hết mực bởi những mối liên kết bao năm với lớp giáo lý, với bài ca và những khuôn mặt chất phác của bao bạn bè thân mến đã trở thành một nơi chốn xa lạ, ma quái tràn ngập những nỗi khiếp hãi đầy ám ảnh. Chẳng có lối thoát nào hết. Những ô cửa sổ kín như bưng không tài nảo mở được. Nhà thờ được thông gió bằng những khung kính áp trần hệt những ô cửa sổ con con, được mở ra đóng vào bằng cách kéo một sợi dây thép. Cô không thể leo lên tới tận đó, mà ngay cả có tới được đó thì cô cũng chẳng thể chui qua được.
Cô thụp xuống co rúm người trên bậc cầu thang, cả người run lên bần bật. Đến lúc này, sấm chớp nối tiếp nhau hết đợt này đến đợt khác, gần như không ngừng nghỉ: mưa quất vào cửa sổ, không phải từng hạt từng hạt mà giáng thành màn, thỉnh thoảng lại tuôn xối xả như quăng cả loạt mưa đá vào ô cửa. Gió đột nhiên nổi lên cuồn cuộn theo cơn bão, rú rít thét gào quanh nhà thờ. Đây không phải “Bà Gió” mỏng manh sương khói với đôi cánh dơi, người bạn thân thiết từ thuở ấu thơ của cô, mà là cả một đoàn phù thủy đang la hét. “Hoàng tử Quyền năng của Khí chế ngự gió,” cô từng có lần nghe ông Morrison Khùng nói thế. Sao lúc này cô lại nghĩ tới ông Morrison Khùng nhỉ? Chẳng hiểu sao cửa sổ cứ lạch cạch liên hồi thế chứ, y như thể đang bị những tên kỵ sĩ ma quái cưỡi bão đạp gió rung lắc vậy! Cô từng nghe người ta kể lại một câu chuyện rợn người, rằng cách đây vài năm, có người đã nghe thấy tiếng đàn organ vang lên giữa đêm trong ngôi nhà thờ vắng hoe vắng hoắt. Cứ thử tưởng tượng bây giờ tự nhiên tiếng nhạc bắt đầu vang lên xem! Có vẻ như chẳng sự tưởng tượng nào lại quá mức quái dị hay khủng khiếp đến độ chẳng thể trở thành hiện thực. Có phải cầu thang đang kêu kẽo kẹt không nhỉ? Bóng tối giữa những đợt chớp lóe ngột ngạt đến độ khiến người ta có cảm giác nó dày cồm cộp. Quá hoảng loạn sợ bị nó sờ vào người, Emily chỉ biết vùi mặt vào trong.
Tuy nhiên, ngay sau đó, cô lấy lại can đảm và bắt đầu ngẫm ra phản ứng của cô lúc này không hề phù hợp với truyền thống của nhà Murray. Người nhà Murray không được phép suy sụp như thế này. Người nhà Murray sẽ không hoảng loạn một cách ngớ ngẩn giữa bão táp sấm chớp. Các bậc tổ tiên nhà Murray đang yên giấc trong khu nghĩa địa riêng phía bên kia hồ hẳn sẽ khinh thường một kẻ hậu duệ thoái hóa như cô. Bác Elizabeth hẳn sẽ bảo đó là biểu hiện của chất Starr trong cô. Cô phải dũng cảm hơn: xét cho cùng, cô đã trải qua những thời khắc còn tồi tệ hơn thế này nhiều... cái đêm cô ăn phải quả táo độc của ông John Ngạo Mạn... buổi chiều cô ngã khỏi vách đá trên vịnh Malvern. Chuyện này xảy đến quá đột ngột, thành ra trước khi kịp huy động lòng can đảm để chống chọi lại thì cô đã chìm trong cơn hoảng sợ mất rồi. Cô phải xốc lại tinh thần mới được. Sẽ chẳng có chuyện đáng sợ gì xảy ra với cô hết... chẳng có gì tồi tệ hơn chuyện phải ở lại suốt đêm trong nhà thờ. Đến sáng mai, cô có thể thu hút sự chú ý của người qua đường nào đó. Giờ cô đã ở đây hơn một tiếng đồng hồ rồi, và nào đã có gì xảy ra đâu cơ chứ, trừ chuyện tóc cô quả thật đã bạc trắng mất rồi, vì theo cô hiểu đôi khi tóc tai vẫn hay bị thế lắm. Thỉnh thoảng, ở chân tóc cứ râm ran một cảm giác là lạ. Emily nắm chặt bím tóc đuôi sam dài, sẵn sàng chờ ánh chớp tiếp theo. Khi chớp lóe lên, cô nhìn thấy rõ mái tóc mình vẫn nguyên màu đen nhánh. Cô thở phào nhẹ nhõm, bắt đầu thấy tinh thần phấn chấn hơn hẳn. Bão đang tan. Những hồi sấm càng lúc càng yếu dần và thưa thớt hơn, tuy nhiên mưa vẫn không ngừng rơi, gió vẫn quay cuồng gào rú quanh nhà thờ, đổ những âm thanh rền rĩ kỳ quái xuyên qua lỗ khóa to tướng.
Emily xốc thẳng lại vai, thận trọng thả hai chân xuống một bậc thang thấp hơn. Có lẽ tốt hơn hết, cô nên thử quay trở vào trong nhà thờ xem sao. Nếu một đợt sấm sét nữa nổi lên, gác chuông có khi bị đánh trúng cũng không chừng; theo cô nhớ, các gác chuông chẳng lần nào thoát khỏi bị sét đánh cả: nó rất có khả năng đâm sầm xuống mái vòm ngay trên đầu cô. Cô sẽ vào trong nhà và ngồi xuống dãy ghế cầu nguyện dành riêng cho nhà Murray: cô sẽ bình tĩnh, biết xét đoán và thật tự chủ: cô rất lấy làm xấu hổ vì nỗi hoảng loạn vừa rồi, nhưng nó khiếp thật đấy chứ.
Giờ đây, bao phủ quanh cô là màn đêm nặng nề mượt như nhung, tuy nhiên vẫn gợi lên một cảm giác kỳ quái giống hệt lúc nãy, cái cảm giác dường như chỉ cần vươn tay ra là ta sẽ chạm vào bóng tối, có lẽ tại sự nóng nực và ẩm ướt của đêm tháng Bảy. Hàng hiên này nhỏ hẹp quá, nếu vào trong nhà thờ, cô sẽ không còn thấy ngột ngạt bức bối như thế nữa.
Emily đưa tay ra định túm lấy tay vịn cầu thang hòng làm điểm tựa kéo người đứng dậy trên đôi chân run rẩy. Bàn tay cô chạm vào... không phải tay vịn cầu thang... lạy Chúa lòng lành, cái gì vậy nhỉ?... thứ gì đó lông lá... tiếng thét kinh hoàng đông cứng trên môi Emily... những bước chân êm ái bước xuống dãy bậc thang bên cạnh cô, ánh chớp lóe sáng và ngay dưới chân cầu thang là một con chó đen khổng lồ, nó quay mình ngước nhìn cô trước khi bị nuốt vào trong bóng tối đang đen đặc trở lại. Dẫu vậy, cô vẫn kịp thoáng nhìn thấy đôi mắt đỏ rực của nó chiếu thẳng vào cô, y hệt đôi mắt quỷ.
Chân tóc của Emily lại bắt đầu râm ran trở lại, một sợi xích khổng lồ lạnh ngăn ngắt bắt đầu chậm rãi trườn lên xương sống cô. Cô không thể cử động được ngay cả khi tính mạng đang phụ thuộc vào điều đó. Thậm chí cô không kêu lên nổi. Điều duy nhất cô có thể nghĩ tới trước hết là con chó săn đáng sợ của Manx Castle trong Peveril xứ Peak. Trong một vài phút, nỗi kinh hãi của cô cuồn cuộn dâng trào đến độ rốt cuộc chính cơ thể cô cũng trở nên rời rã khó chịu. Rồi, bằng một nỗ lực với sự quyết tâm không hề giống như của một đứa trẻ - tôi đồ rằng vào giây phút đó Emily đã hoàn toàn không còn là một đứa trẻ nữa rồi - cô xốc lại khả năng tự chủ. Cô sẽ không đầu hàng nỗi sợ hãi; cô nghiến răng, siết chặt đôi bàn tay đang run bần bật; cô sẽ dũng cảm... suy nghĩ hợp tình hợp lý. Đó chỉ là một con chó rất bình thường ở làng Hồ Blair đi theo chân chủ nhân, một cậu nhóc nghịch ngợm nào đó, vào trong khu vực dành cho dàn đồng ca, rồi bị rớt lại phía sau. Chuyện như thế này trước kia cũng từng xảy ra rồi. Ánh chớp lóe sáng soi tỏ cho cô thấy rõ hành lang giờ đang vắng hoe. Rõ ràng con chó đã vào bên trong nhà thờ. Emily quyết định sẽ cứ ở yên tại chỗ. Dù đã hết hoảng loạn nhưng cô không muốn giữa đêm hôm lại đột nhiên chạm phải một cái mũi lạnh ngắt hay một mạng sườn lông lá. Cô không tài nào quên được cái cảm giác khủng khiếp của giây phút cô chạm vào sinh vật đó.
Giờ ắt hẳn đã mười hai giờ rồi; khi buổi cầu nguyện tan thì đã là mười giờ tối. Cơn bão hầu như đã tắt hẳn tiếng. Thỉnh thoảng vẫn vang lên tiếng chuyển động và tiếng gió rít gào, nhưng con lại là sự thinh lặng, chỉ bị phá vỡ bởi tiếng mưa đang dần nhỏ hạt. Tiếng sấm vẫn ầm ì yếu ớt và chớp tỉnh thoảng vẫn lóe lên, nhưng ánh sáng đã dịu hơn, mờ nhạt hơn, không phải ánh chói lòa rạch ngang bầu trời dường như bao bọc tòa nhà này dưới thứ ánh sáng xanh quá rực rỡ đến độ không chịu nổi, khiến mắt cô nhức nhối. Dần dần, trái tim cô bắt đầu đập bình thường trở lại. Tư duy lý trí đã tìm lại được sức mạnh. Mặc dù không hề thích thú với tình cảnh hiện thời, nhưng cô bắt đầu phát hiện ra ở nó những khả năng đầy kịch tính. Chao ôi, thật là một chương hay ho xiết bao dành cho cuốn nhật ký của cô - hay cuốn sổ Jimmy; và, hơn thế nữa, dành cho cuốn tiểu thuyết mà một ngày nào đó sẽ được cô chấp bút! Đây là một tình huống dành riêng cho nhân vật nữ chính; tất nhiên cuối cùng rồi nữ chính này sẽ được nam chính giải cứu. Emily bắt đầu xây dựng cốt truyện... thêm thắt cho nó... trau chuốt nó... săn tìm từ ngữ để biểu đạt nó. Xét cho cùng, chuyện này cũng có phần... thú vị. Duy có điều, cô chỉ mong sao biết được con chó kia từ đâu đến. Ánh chớp nhợt nhạt lập lòe trên những tấm bia một mà cô có thể nhìn thấy xuyên qua khung cửa sổ hàng hiên phía đối diện kia mới kỳ quái làm sao! Dưới ánh sáng lúc tỏ lúc mờ, thung lũng thân thuộc phía xa xa kia trông mới khác lạ làm sao! Gió rền rĩ, thở than và phàn nàn mới dữ làm sao... nhưng nó đã trở lại là Bà Gió của riêng cô. Bà Gió là một trong những sản phẩm từ thuở ấu thơ đã được cô mang theo vào quãng đời thiếu nữ, và giờ đây, cô đang được nó an ủi bằng ý thức về một mối thân tình lâu năm. Những kỵ sĩ gió của cơn bão đã biến mất, người bạn tưởng tượng của cô đã quay về. Emily thở một hơi dài hầu như mãn nguyện. Điều tồi tệ nhất đã qua... và thật tình, chẳng phải cô đã cư xử rất đúng mực đó sao? Cô cảm thấy lòng tự trọng của mình bắt đầu quay trở lại.
Đột nhiên Emily biết cô không chỉ ở một mình!
Cô không thể nói được tại sao mình lại biết thế. Cô không nghe thấy gì... không nhìn thấy gì... không cảm thấy gì: ấy vậy nhưng, vượt trên hết thảy mọi nghi ngờ hay tranh cãi, cô biết rằng có một Sự Hiện Diện trong bóng tối giữa dãy cầu thang phía trên cô. Cô xoay người ngước nhìn lên. Nhìn như thế quả thật rất đáng sợ, nhưng dù sao nếu cảm thấy Thứ Gì Đó đang ở trước mặt ta thì vẫn đỡ kinh khủng hơn chán so với việc cảm thấy nó đang ở phía sau. Cô trợn mắt điên cuồng nhìn chằm chằm vào bóng tối, nhưng chẳng thể nhìn thấy gì. Rồi sau đó... cô nghe thấy một tiếng cười khe khẽ vang lên phía trên mình... một tiếng cười suýt chút nữa đã khiến tim cô ngừng đập... tiếng cười phi nhân, vô cùng đáng sợ của một kẻ tâm trí không bình thường. Chẳng cần phải nhờ đến ánh chớp chiếu sáng thì cô mới nhận ra ông Morrison Khùng đang ở đâu đó giữa dãy cầu thang bên trên cô. Nhưng ánh chớp đã lóe lên... cô nhìn thấy ông ta... cô cảm thấy dường như mình đang chìm dần vào trong một cái vực băng lạnh lẽo nào đó... thậm chí cô còn chẳng kêu lên được. Mãi mãi cô sẽ không bao giờ quên hình ảnh ông ta, được ánh chớp khảm vào trong trí não cô. Ông ta cúi lom khom phía trên cô năm bậc cầu thang, mái đầu hoa râm đâm bổ về phía trước. Cô nhìn thấy ánh sáng điên cuồng trong mắt ông ta; bộ răng vàng khè như nanh chó sói nhe ra dưới nụ cười mỉm đáng sợ; bàn tay gầy guộc khều khào đỏ như máu vươn về phía trước, suýt nữa chạm tới vai cô.
Cơn hoảng loạn vượt qua ngoài tầm kiểm soát đập vỡ tan tành trạng thái mụ mị của Emily. Cô đứng bật dậy, kinh hãi bật lên một tiếng thét đinh tai nhức óc.
“Teddy! Teddy! Cứu tớ với!” cô điên cuồng ré lên.
Cô không biết tại sao mình lại gọi Teddy; thậm chí cô còn chẳng nhận ra mình đã gọi cậu; mãi tận sau này cô mới nhớ đến nó, giống như người ta có thể nhớ lại tiếng thét đã đánh thức mình dậy giữa cơn ác mộng; cô chỉ biết rằng mình phải cầu viện sự trợ giúp, rằng cô sẽ chết mất nếu bàn tay khủng khiếp kia chạm vào cô. Nó không được phép chạm vào cô.
Chẳng khác gì một người điên, cô nhảy phắt xuống cầu thang, lao vào trong nhà thờ và chạy lên giữa hai hàng ghế. Cô phải ẩn mình trước khi tia chớp tiếp theo xuất hiện, nhưng không phải trong dãy ghế của nhà Murray. Hẳn ông ta sẽ đến đó tìm cô. Cô nhào vào một dãy ghế giữa phòng và núp xuống sát sàn nhà tận trong góc. Mồ hôi lạnh như băng toát ra ướt đẫm toàn thân cô. Nỗi kinh sợ không thể kiểm soát thít chặt từng sợi tế bào trong người cô. Điều duy nhất cô có thể nghĩ tới là không được phép để nó chạm vào người... cái bàn tay đỏ như máu của ông già khùng đó.
Mỗi giây trôi qua tưởng chừng như hàng năm trời. Ngay sau đó, cô nghe thấy tiếng bước chân... tiếng bước chân lúc gần lúc xa nhưng dường như đang từ từ tiến tới gần cô hơn. Đột nhiên, cô nhận ra ông ta đang làm gì. Ông ta định mò đến từng dãy ghế để sờ soạng tìm cô thay vì đợi ánh chớp. Vậy ra ông ta vẫn đang tìm bà ấy, cô từng nghe nói thỉnh thoảng ông ta lại bám theo các cô gái vì cứ ngỡ họ là Annie. Nếu bắt được họ rồi, ông ta sẽ dùng một tay giữ họ lại, còn tay kia dịu dàng lùa vào tóc và vuốt ve khuôn mặt họ, trong khi không ngừng lập cập lẩm bẩm những lời âu yếm ngu ngốc. Ông ta chẳng làm hại ai bao giờ, nhưng cũng chẳng đời nào thả tự do cho bất cứ ai tới tận khi họ được người khác giải cứu. Người ta đồn rằng Mary Paxton ở Ao Thành Kiến không bao giờ còn bình thường trở lại được nữa; trí não cô bé vĩnh viễn không thể phục hồi sau cú sốc.
Emily biết rõ chẳng sớm thì muộn rồi cũng đến lúc ông ta tới được dãy ghế nơi cô đang núp... sờ soạng xung quanh bằng đôi bàn tay ấy! Điều duy nhất giúp cô giữ được lý trí mặc dù cơ thể đã cứng đờ là ý nghĩ rằng nếu cô mất ý thức, hai bàn tay đó sẽ chạm vào cô... giữ lấy cô... vuốt ve cô. Nhờ ánh sáng từ luồng chớp tiếp theo, có thể thấy rõ ông ta đang bước vào dãy cầu nguyện ngay bên cạnh. Emily vùng dậy, lao ra ngoài chạy sang đầu bên kia nhà thờ. Cô lại ẩn mình lần nữa: ông ta sẽ tìm ra cô, nhưng cô vẫn có thể tiếp tục lẩn tránh: chuyện này có thể lặp đi lặp lại cho tới hết đêm: sức mạnh của một gã điên sẽ dẻo dai hơn so với của cô: cuối cùng có khi cô sẽ gục xuống vì kiệt sức, và ông ta sẽ chộp lấy cô ngay lập tức.
Đối với Emily mà nói, trò chơi trốn tìm điên rồ này kéo dài có khi đến hàng mấy tiếng đồng hồ rồi. Nhưng thực ra, mới chỉ qua nửa tiếng đồng hồ. Cô hầu như chẳng thể suy nghĩ tỉnh táo được nữa, cũng chẳng hơn gì so với kẻ săn đuổi điên khùng đang bám theo kia. Cô chỉ thuần túy là một sinh vật trong cơn hoảng loạn đang gào thét, luồn núp, nhảy trốn. Hết lần này đến lần khác, ông ta săn đuổi cô bằng thái độ nhẫn nại xảo quyệt và bền bỉ. Lần cuối cùng, cô ở ngay sát một cánh cửa thông với hành lang, và trong cơn tuyệt vọng, cô đâm bổ qua cánh cửa rồi đóng sập nó lại ngay trước mũi ông ta. Bằng chút tàn lực còn lại, cô cố hết sức bám chặt tay nắm cửa, ngăn ông ta xoay vặn. Giữa lúc đang vật lộn, cô nghe thấy - có phải cô đang mơ không nhỉ? - giọng Teddy gọi tên cô vọng từ dãy cầu thang lộ thiên phía bên kia cánh cửa ngoài.
“Emily... Emily... cậu có ở đó không?”
Cô không biết cậu đến bằng cách nào... cô chẳng hề băn khoăn thắc mắc... cô chỉ biết rằng cậu đã ở đó!
“Teddy, tớ bị nhốt trong nhà thờ!” cô thét lên... “và ông Morrison Khùng đang ở đây... ôi... nhanh lên... nhanh lên... cứu tớ với... cứu tớ với!”
“Chìa khóa cửa đang treo chỗ cái đinh trên kia ngay phía bên phải ấy!” Teddy kêu to. “Cậu lấy chìa để mở cửa được không? Nếu không thì tớ sẽ đập vỡ cửa sổ hiên.”
Đúng lúc đó, mây tản ra và ánh trăng đổ tràn khắp hàng hiên. Nhờ đó, cô nhìn thấy rõ mồn một chiếc chìa khóa to tướng đang treo cao trên bức tường bên cạnh cửa ra vào. Cô nhảy bổ về phía trước, chộp lấy chiếc chìa khóa đúng lúc lão Morrison Khùng giật tung cánh cửa và lao vào hiên, con chó bám theo sát gót. Emily mở khóa cửa ngoài và loạng choạng ngã vào vòng tay rộng mở của Teddy vừa kịp lúc để tránh thoát được bàn tay máu đang vươn ra đó. Cô nghe thấy lão Morrison Khùng ré lên một âm thanh hoang dã, quái dị chất chứa nỗi thất vọng khi cô chạy thoát khỏi lão.
Run rẩy, nức nở, cô bám chặt lấy Teddy.
“Ôi, Teddy, đưa tớ ra khỏi đây đi... đưa tớ đi nhanh lên... ôi, đừng để ông ta chạm vào tớ, Teddy... đừng để ông ta chạm vào tớ!”
Đẩy cô ra sau lưng mình, Teddy đứng mặt đối mặt với lão Morrison Khùng trên bậc thềm đá.
“Sao ông dám dọa cậu ấy sợ đến thế?” cậu giận dữ chất vấn.
Dưới ánh trăng, lão Morrison Khùng mỉm cười đầy vẻ khẩn nài. Đột nhiên, toàn bộ vẻ dữ tợn lẫn hung bạo của ông ta tan biến như bong bóng xà phòng... chỉ còn lại một ông lão đau khổ mải tìm kiếm thứ thuộc về mình.
“Ta muốn Annie,” ông ta lẩm bẩm. “Annie đâu rồi? Ta cứ ngỡ đã tìm thấy cô ấy ở kia. Ta chỉ muốn tìm thấy Annie xinh đẹp của ta thôi.”
“Ở đây làm gì có Annie,” Teddy nói, siết chặt bàn tay nhỏ bé lạnh cóng của Emily.
“Cậu có biết Annie ở đâu không?” lão Morrison Khùng khẩn khoản hỏi, khấp khởi hy vọng. “Cậu có biết Annie tóc đen của ta ở đâu không?”
Teddy vẫn bừng bừng giận dữ với lão Morrison Khùng vì dám dọa Emily thất kinh, nhưng lời khẩn nài tội nghiệp của ông lão đã khiến cậu xúc động... và chất nghệ sĩ trong cậu đã đáp lại sự phối màu của bức tranh hiển hiện trên cái nền là ngôi nhà thờ màu trắng chan chứa ánh trăng. Cậu nung nấu ý định vẽ hình lão Morrion Khùng đang đứng đó, cao và hốc hác, khoác trên người tấm áo choàng che bụi màu xám, bộ râu cùng mái tóc dài bạc trắng, đôi mắt trũng sâu thăm thẳm đau đáu một cuộc tìm kiếm bất tận.
“Không... không... cháu không biết bà ấy ở đâu,” cậu dịu dàng nói, “nhưng cháu tin chắc rồi sẽ có lúc ông tìm thấy bà ấy.”
Lão Morrison Khùng thở dài.
“Ôi chao, đúng vậy. Rồi sẽ đến lúc ta bắt kịp cô ấy. Đến đây nào, chó của ta, chúng ta sẽ tìm cô ấy.”
Theo sau là con chó già màu đen, ông lão bước xuống thềm, băng qua bãi cỏ và bước dọc con đường dài ướt đẫm rợp bóng cây. Và như vậy, ông ta đã bước ra khỏi cuộc đời của Emily. Cô không bao giờ gặp lại lão Morrison Khùng nữa. Nhưng cô dõi mắt theo ông ta với sự thấu hiểu, và tha thứ cho ông. Dưới con mắt của cô, Morrison Khùng chỉ là một lão già ghê tởm, nhưng ông ta lại không nhìn nhận bản thân mình như thế; ông ta là một người tình hào hiệp đang kiếm tìm cô dâu thân thương đã mất tích của mình. Vẻ đẹp đáng thương ẩn chứa trong hành trình kiếm tìm của ông ta đã hấp dẫn cô, cho dù giữa lúc cô vẫn đang run bần bật bởi cả tiếng đồng hồ phải chịu nỗi thống khổ.
“Tội nghiệp lão Morrison,” cô nức nở trong lúc Teddy phải nửa dắt nửa dìu cô tới một trong những tấm bia mộ bằng phẳng lâu năm bên hông nhà thờ.
Cả hai ngồi lại đó cho tới khi Emily lấy lại bình tĩnh và rồi xoay xở kể được đầu đuôi câu chuyện, hay nói đúng ra là các tình tiết đại khái. Cô cảm thấy mình chẳng bao giờ có thể kể lại được-có lẽ thậm chí chẳng thể viết vào một cuốn sổ Jimmy - trọn vẹn nỗi hoảng loạn đang nhạt dần cửa những giờ phút ấy. Điều đó đã vượt ra ngoài khả năng truyền tải ngôn ngữ.
“Ấy thế nhưng nghĩ mà xem,” cô nức nở, “cái chìa khóa vẫn nằm đó suốt. Từ trước đến giờ tớ chẳng biết gì về chuyện đó hết.”
“Lúc nào ông cụ Jacob Banks cũng lấy cái chìa to khóa cửa ra vào từ bên trong, rồi treo lên cái đinh đó,” Teddy nói. “Ông ấy khóa cửa vào khu vực dành cho dàn đồng ca bằng cái chìa khóa nhỏ mang theo về nhà. Ông ấy vẫn luôn làm thế kể từ hồi mất cái chìa khóa to ba năm trước và phải hàng mấy tuần sau mới tìm lại nó được.”
Đến lúc này Emily mới sực nhớ ra sự xuất hiện của Teddy mới kỳ lạ làm sao.
“Sao cậu lại tình cờ đến đây vậy, Teddy?”
“Thì tớ nghe thấy cậu gọi tớ mà,” cậu nói. “Có phải cậu đã gọi tớ không?”
“Đúng vậy,” Emily ngập ngừng nói, “Tớ đã gọi cậu lúc vừa mới nhìn thấy lão Morrison Khùng. Nhưng cậu không thể nghe thấy tớ được, Teddy... cậu không thể. Vạt Cúc Ngải cách đây cả dặm cơ mà.”
“Tớ đã nghe thấy cậu thật mà,” Teddy bướng bỉnh đáp. “Lúc đấy tớ đang ngủ và bị nó đánh thức. Cậu gọi, 'Teddy, Teddy, cứu tớ với'; từ xưa đến giờ, chưa bao giờ tớ nghe giọng cậu rõ ràng hơn thế. Tớ bèn bật dậy, quáng quàng mặc quần áo và đến đây nhanh hết mức.”
“Sao cậu biết tớ đang ở đây?”
“Sao à... tớ không biết nữa,” Teddy nói, vẻ bối rối. “Tớ có dừng lại nghĩ ngợi gì đâu... chỉ là lúc nghe thấy cậu gọi, dường như tớ biết rõ cậu đang ở trong nhà thờ, và tớ phải hết sức nhanh chóng đến đây. Chuyện này... chuyện này đúng thật là... kỳ cục,” cậu kết luận một câu chẳng đâu vào đâu.
“Với tớ thì chuyện này... chuyện này... hơi đáng sợ.” Emily run rẩy cả người. “Bác Elizabeth nói tớ có linh cảm tốt... cậu có nhớ chuyện về mẹ Ilse không? Thầy Carpenter nói tớ là một cô đồng... tớ không biết chính xác nghĩa của từ đó, nhưng tớ thà không phải người như thế còn hơn.”
Cô lại run lên. Teddy những tưởng cô đang lạnh, và vì chẳng có bất kỳ thứ gì khác để khoác lên người cô, cậu bèn vòng tay ôm lấy cô... với chút ngập ngừng, chỉ e sẽ xúc phạm đến lòng kiêu hãnh nhà Murray cũng như lòng tự trọng nhà Murray. Emily không thấy lạnh về mặt thể xác, nhưng tâm hồn cô thì lại dấy lên cảm giác ớn lạnh. Trong cuộc triệu tập lạ lùng ấy, có một thứ siêu nhiên nào đó – một điều huyền bí nào đó mà cô không tài nào hiểu được – đã lướt qua cô ngay sát sạt. Trong vô thức, cô nép sát vào trong lòng Teddy hơn chút nữa, nhận thức được một cách sâu sắc sự dịu dàng âu yếm của cậu thiếu niên ẩn dưới lớp vỏ dè dặt xa cách. Cô chợt nhận ra cô yêu quý Teddy hơn bất kỳ người nào khác... thậm chí còn hơn cả bác Laura, hơn cả Ilse hay chú Dean.
Teddy siết chặt vòng tay hơn một chút.
“Dù sao đi nữa, tớ rất mừng vì đã đến đây kịp thời,” cậu nói. “Nếu không, lão già điên khùng đó có thể dọa cậu sợ đến chết mất rồi.”
Hai người cứ yên lặng ngồi như thế vài phút. Dường như mọi thứ đều chìm đắm trong bầu không khí huy hoàng đẹp đẽ... và phần nào siêu thực. Emily ngỡ mình ắt hẳn phải đang trong cơn mơ, hoặc đang phiêu du vào một trong những câu chuyện diệu kỳ nào đó do chính cô sáng tác. Bão đã tan, vầng trăng lại một lần nữa tỏa sáng vằng vặc. Bầu không khí trong lành mát lạnh được dệt bằng những giọng nói đầy quyến rũ, nào là giọng nói lúc nhặt lúc khoan của những hạt mưa đang ngã khỏi những cành thích run rẩy sau lưng họ, nào là giọng nói kỳ dị của Bà Gió quanh ngôi nhà thờ màu trắng, tiếng biển xa xăm khêu gợi trí tò mò, và trong trẻo hơn, hiếm hoi hơn là những giọng nói khe khẽ xa xăm rời rạc của đêm. Emily nghe thấy hết thảy những giọng nói đó, dường như không phải bằng đôi tai của cơ thể mà thực chất là nhờ đôi tai của tâm hồn, bởi vì từ trước đến nay cô chưa bao giờ nghe thấy chúng. Ở phía xa kia là cánh đồng, con đường và những khu rừng nhỏ, khêu gợi và khó nắm bắt một cách đến là thú vị, như thế đang tắm mình dưới ánh trăng mà nghiền ngẫm về những bí mật của thế giới yêu tinh. Những cây cúc màu trắng bạc gật gù đong đưa trên những ngôi mộ rải khắp khu nghĩa địa, cả những ngôi mộ vẫn được người đời nhớ tới lẫn những ngôi mộ đã chìm vào quên lãng. Một con cú nấp trên cây thông già bật cười khanh khách một mình. Nghe thấy thứ âm thanh đầy ma mị ấy, ánh chớp huyền bí của Emily quét khắp người cô, làm cả người cô lắc lư như đang trong cơn gió mạnh. Trong cảm nhận của Emily, dường như cô và Teddy đang đơn độc trong một thế giới mới diệu kỳ, một thế giới được dệt nên từ tuổi trẻ, từ sự bí ẩn cùng niềm vui, và chỉ dành riêng cho cô và Teddy. Dường như chính bản thân họ đã hòa vào trong thứ hương đêm phảng phất ngan ngát mát rượi, trong tiếng cười của con cú, trong những cây cúc đang nở rộ giữa bầu không khí mờ mờ ảo ảo.
Về phần Teddy, cậu đang cảm thấy Emily thật xinh xắn biết nhường nào dưới ánh trăng nhạt nhòa kia, với đôi mắt huyền bí ẩn dưới hàng mi rợp bóng, với những lọn tóc nhỏ sẫm màu ve vuốt cần cổ trắng như sữa. Cậu siết chặt vòng tay thêm chút nữa... ấy vậy nhưng lòng kiêu hãnh nhà Murray cùng phẩm giá nhà Murray vẫn không mảy may phản đối.
“Emily,” Teddy thì thầm, “cậu là cô gái đáng yêu nhất trên đời.”
Những câu chữ vốn đã được hàng triệu hàng triệu cậu bé dành tặng hàng triệu hàng triệu cô bé, quá quen thuộc đến độ đáng nhẽ ra chẳng còn giá trị gì. Ấy vậy nhưng khi ta nghe thấy câu ấy lần đầu tiên, giữa một thời khắc thanh xuân diệu kỳ nào đó, chúng vẫn mới mẻ, trong trẻo và lạ kỳ đến độ như thể mới vừa lững lờ trôi dạt qua những dãy hàng rào của vườn Địa Đàng. Cô gái ạ, bất kể cô là ai, bất kể cô bao nhiêu tuổi, thì hãy cứ thành thật mà thú nhận rằng cái giây phút đó cô lần đầu tiên nghe thấy những lời nói này bật ra khỏi đôi môi một chàng trai dấu yêu đang bẽn lẽn nào đó chính là thời khắc tuyệt vời nhất trong đời. Cả người Emily, từ đỉnh đầu cho tới tận những ngón chân đang xỏ trong đôi dép lê, đều run lên trước cảm giác về một sự ngọt ngào chưa từng thấy và cơ hồ thật đáng sợ, một cảm giác tác động đến nhận thức theo đúng cách “ánh chớp” đã tác động đến tâm hồn cô. Thật dễ lý giải và hoàn toàn chẳng có gì đáng trách nếu điều tiếp theo có thể là một nụ hôn. Emily đoán rằng Teddy sắp hôn cô; Teddy biết cậu định làm thế; và rất có khả năng cậu sẽ không phải nhận một cái tát vào mặt như Geoff North.
Nhưng chuyện lại không diễn ra theo hướng đó. Một bóng đen lướt vào giữa cổng và băng qua bãi cỏ ẩm ướt, dừng lại ngay cạnh họ, rồi chạm vào vai Teddy, đúng lúc cậu vừa cúi mái đầu đen bóng xuống. Cậu ngước nhìn lên, gần như chết sững. Emily ngước nhìn lên. Bà Kent đang đứng đó, đầu trần, khuôn mặt hằn vết sẹo được chiếu sáng vằng vặc dưới ánh trăng, đôi mắt chan chứa nỗi bi thương nhìn thẳng vào họ.
Cả Emily lẫn Teddy đều đứng bật dậy đột ngột đến độ có vẻ như đúng ra nên nói là cả hai đã bị nảy bật lên mới phải. Thế giới thần tiên của Emily tan biến như bong bóng xà phòng. Cô đang ở trong một thế giới hoàn toàn khác... một thế giới phi lý, nực cười. Đúng vậy, nực cười. Tất cả mọi thứ bất chợt trở nên nực cười hẳn. Còn gì có thể nực cười hơn chuyện bị mẹ Teddy bắt quả tang cô đang ngồi đây với Teddy, lúc hai giờ đêm... cái từ kinh khủng mà mãi dạo gần đây cô mới nghe nói đên lần đầu tiên là gì ấy nhỉ? Ồ, phải rồi, tán tỉnh... chính thế đấy... tán tỉnh nhau trên ngôi mộ tám mươi năm tuổi của George Horton? Rồi người ta sẽ nhìn chuyện này theo chiều hướng đấy cho mà xem. Sao lại có chuyện như thế được cơ chứ, vừa lúc trước còn đẹp đẽ dường ấy, thế mà chỉ chớp mắt đã thành ra nực cười đến thế? Nỗi xấu hổ như ngọn lửa bừng bừng thiêu đốt cô từ chân cho tới đầu. Còn Teddy... cô biết Teddy đang cảm thấy mình chẳng khác gì một tên ngốc.
Với bà Kent thì chuyện này chẳng có gì nực cười hết... nó thật đáng sợ. Nhìn từ nỗi ghen tuông quái dị của bà, sự cố này thấm đẫm cái ý nghĩa hung gở nhất. Bà nhìn Emily bằng đôi mắt trũng sâu dường như chỉ muốn ăn tươi nuốt sống đối phương.
“Vậy ra cô đang tính kế cướp mất con trai tôi đấy,” bà nói. “Nó là tất cả những gì tôi có, ấy vậy mà cô lại rắp tâm cướp nó khỏi tay tôi.”
“Ôi, mẹ ơi, vì Chúa, mẹ hãy tỏ ra đúng đắn chút đi!” Teddy lầm bầm.
“Nó...nó còn bảo tôi tỏ ra đúng đắn cơ đấy,” bà thảm thiết kêu lên với vầng trăng. “Đúng đắn cơ đấy!”
“Vâng, đúng đắn,” Teddy giận dữ nói. “Có cái gì đâu mà ngậu nhặng hết cả lên như thế chứ. Emily tình cờ bị nhốt trong nhà thờ và cả ông Morrison Khùng cũng ở đó, dọa bạn ấy sợ gần chết. Con đến giúp bạn ấy thoát ra ngoài, và bọn con chỉ ngồi nán lại đây mấy phút đợi cho bạn ấy hết hoảng sợ để có thể đi bộ về nhà được. Chuyện chỉ thế thôi.”
“Sao con biết cô ta ở đây?” bà Kent truy hỏi.
Thực thế, tại sao kia chứ! Đấy là một câu hỏi không dễ gì trả lời. Sự thật có vẻ giống một câu chuyện bịa đặt ngớ ngẩn, xuẩn ngốc. Dẫu vậy, Teddy vẫn nhắc lại.
“Bạn ấy gọi con,” cậu nói thẳng thừng.
“Và con nghe thấy cô ta... từ cách xa hàng dặm. Con tưởng mẹ tin chuyện đó hả?” bà Kent vừa nói vừa cười sằng sặc.
Đến lúc này, Emily đã bình tĩnh trở lại sau cơn hoảng loạn. Từ khi được chào đời với cái tên Emily Byrd Starr, cô chưa khi nào bị lúng túng quá lâu. Cô ngạo nghễ đứng thẳng dậy, và trong ánh sáng lờ mờ ấy, bất chấp những đường nét Starr của mình, trông cô không khác gì một Elizabeth Murray thời còn trẻ hơn bây giờ ba mươi tuổi.
“Cho dù bà có tin hay không thì đó là sự thật, thưa bà Kent,” cô kiêu kỳ nói. “Cháu không cướp con trai bà... cháu không muốn cậu ấy... cậu ấy cứ việc đi đi.”
“Trước tiên tớ sẽ đưa cậu về nhà đã, Emily,” Teddy nói. Cậu khoanh tay lại, ngửa đầu ra sau và cố tỏ ra oai nghiêm y như Emily. Cậu cảm thấy nỗ lực đó đã thất bại một cách thảm hại, ấy vậy nhưng thái độ đó vẫn tác động mạnh mẽ đến bà Kent. Bà òa lên nức nở.
“Đi đi... đi đi,” bà nói. “Cứ đi với cô ta đi... mặc kệ mẹ muốn ra sao thì ra.”
Đến lúc này thì Emily đã giận dữ đến tột độ. Nếu người đàn bà chẳng thèm biết trời cao đất dày này cứ một mực đòi gây chuyện thì cũng tốt thôi: sẽ có chuyện đáng cho bà ta xem.
“Cháu sẽ không để cậu ấy đưa về nhà,” cô lạnh lùng nói. “Teddy, đi với mẹ cậu đi.”
“Ái chà, cô ra lệnh cho nó đấy à? Vậy là nó phải răm rắp tuân theo lời cô phỏng?” bà Kent kêu lên, có vẻ như đã hoàn toàn mất kiểm soát. Thân hình nhỏ thó của bà rung lên bần bật theo nhịp những cơn thổn thức dữ dội. Bà bóp chặt hai bàn tay.
“Nó sẽ tự mình lựa chọn,” bà kêu lên. “Nó sẽ đi cùng cô... hoặc đến với tôi. Chọn đi, Teddy, tự mình quyết định đi. Con đừng có nghe cô ta sai bảo. Chọn đi!”
Một lần nữa không thể kiềm chế được thái độ quá khích của mình, bà giơ tay lên chĩa thẳng vào Teddy tội nghiệp.
Lúc này, Teddy vừa thấy khổ sở lại vừa nhen nhóm nỗi tức giận, một cảm giác quen thuộc đối với bất kỳ tên đàn ông con trai nào khi phải tận mắt chứng kiến hai người phụ nữ tranh cãi về anh ta. Cậu chỉ mong sao mình đang ở nơi nào đó cách xa cả nghìn dặm. Thật chẳng khác gì một mớ bòng bong... mà lại còn cư xử lố bịch đến thế này trước mặt Emily nữa chứ! Thế quái nào mà mẹ cậu lại không thể xử sự giống như bao nhiêu bà mẹ khác chứ? Việc gì mà bà cứ phải tỏ ra căng thẳng rồi sồn sồn lên như thế chứ? Cậu biết thừa dân làng Hồ Blair vẫn kháo nhau rằng bà “hơi ấm đầu”. Cậu không tin câu chuyện ngồi lê đôi mách đó. Nhưng... nhưng... chà, nói tóm lại đây đúng là một mớ bòng bong. Lần nào ta cũng phải quay lại với nó. Cậu biết làm gì đây? Cậu biết rõ nếu cậu đưa Emily về nhà, mẹ cậu rồi sẽ khóc lóc cầu nguyện hết ngày này sang ngày khác cho xem. Nhưng mặt khác, thật không thể tưởng tượng nổi cậu có thể bỏ mặc Emily sau khi cô vừa trải qua kinh nghiệm đáng sợ như thế trong nhà thờ, rồi để kệ cô băng qua con đường quạnh quẽ kia. Nhưng giờ Emily đã làm chủ tình hình. Cô đang tức giận tột độ với nỗi tức giận lạnh băng của ông cụ Hugh Murray vốn không đời nào tự tiêu tán bằng màn quát tháo chẳng đâu vào với đâu mà sẽ đánh thẳng vào vấn đề trọng điểm.
“Bà là kẻ ích kỷ ngu ngốc,” côn nói, “và rồi bà sẽ khiến con trai bà phải căm ghét bà.”
“Ích kỷ! Cô gọi ta là kẻ ích kỷ đấy à,” bà Kent nức nở. “Ta chỉ sống vì Teddy thôi... thằng bé là lý do duy nhất để ta sống trên đời này.”
“Bà đúng là người ích kỷ.” Giờ Emily đang đứng thẳng: đôi mắt cô tối lại, giọng cô sắc như dao, khuôn mặt cô lồ lộ “nét mặt nhà Murray”, và dưới ánh trăng nhợt nhạt, nó phần nào khiến người ta sợ hãi. Dù đã cất tiếng, cô vẫn băn khoăn không hiểu làm sao mình lại chắc chắn về những chuyện ấy đến thế. Nhưng đúng là cô biết vậy thật. “Bà cứ tưởng bà yêu cậu ấy... nhưng bà chỉ yêu chính bản thân mình thôi. Bà nhất quyết muốn phá hỏng cuộc đời cậu ấy. Bà sẽ không cho cậu ấy đến Shrewsbury, bởi vì nếu rời xa cậu ấy, bà sẽ thấy đau khổ. Bà để nỗi ghen tuông đối với tất cả những gì cậu ấy quan tâm gặm nhấm trái tim bà, và để nó điều khiển bà. Bà không vì cậu ấy mà chấp nhận bất kỳ nỗi đau dù nhỏ bé đâu. Bà không xứng đáng làm mẹ. Teddy là một thiên tài... tất cả mọi người đều nói thế. Lẽ ra bà phải thấy tự hào vì cậu ấy... lẽ ra bà phải cho cậu ấy cơ hội. Nhưng bà đâu có làm thế... và rồi sẽ có ngày cậu ấy căm ghét bà vì chuyện đó... đúng đấy, rồi cậu ấy sẽ như thế cho xem.”
“Ôi, không, không,” bà Kent rền rĩ. Bà giơ cả hai bàn tay lên như muốn đỡ đòn và co rúm người lại nép vào Teddy. “Ôi, cô thật độc ác... độc ác. Cô làm sao biết ta đã phải chịu đựng những gì... cô là
Mỗi trải nghiệm đều góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm phong phú, và trải nghiệm càng sâu, sự phong phú mà nó mang lại càng lớn. Buổi tối kinh hoàng, bí ẩn và rạo rực một cách kỳ lạ đó đã trao cho cả trí óc lẫn trái tim cô một sự trưởng thành như đã được đúc kết qua hàng bao nhiêu năm.
Đó là một đêm đầu tháng Bảy. Cả ngày trời nóng hầm hập. Bà Elizabeth bị thời tiết này làm cho bức bối đến độ quyết định sẽ không tham dự buổi cầu nguyện tập thể. Bà Laura, ông Jimmy và Emily vẫn đi. Trước khi rời nhà, Emily đã hỏi xin bà Elizabeth và được cho phép về nhà cùng Ilse Burnley sau buổi lễ, thậm chí còn được ở lại qua đêm. Đây đúng là một niềm vui sướng hiếm hoi. Bà Elizabeth không mấy khi đồng ý chuyện vắng nhà qua đêm.
Nhưng bác sĩ Burnley đang phải đi xa, còn người quản gia tạm thời phải nghỉ việc vì rạn mắt cá chân. Ilse đã rủ Emily tối đó đến ở cùng, và Emily được phép làm vậy. Ilse không biết chuyện này – thật ra, cô chẳng mấy hy vọng lời đề nghị được chấp thuận – nhưng rồi sẽ được thông báo tại buổi cầu nguyện tập thể. Giá Ilse không đến muộn thì Emily đã nói cho cô biết chuyện trước khi buổi cầu nguyện “tiến hành” rồi, và như vậy rất có thể sẽ tránh được những sự cố không may trong tối đó; nhưng, như thường lệ, Ilse đã đến muộn, thành ra cái sảy nảy cái ung.
Emily ngồi trên hàng ghế cầu nguyện của nhà thờ Murray, ngay sát đầu giáo đường, cạnh khung cửa sổ trổ ra vạt linh sam và cây thích bao quanh ngôi nhà thờ nhỏ màu trắng. Buổi cầu nguyện tập thể này không phải buổi tụ họp định kỳ hằng tuần vốn chỉ lác đác vài con chiên ngoan đạo như thường lệ. Nó là một “buổi họp mặt đặc biệt”, được tổ chức để chuẩn bị cho ngày Chủ nhật cộng đồng sắp tới, và diễn giả không phải là cha Johnson trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết luôn khiến Emily háo hức lắng nghe bất chấp sai sót ngớ ngẩn của cô ở bữa tối của Hội Phụ nữ Cứu trợ hôm vừa rồi, mà là một nhà truyền giáo được Shrewsbury cho mượn một tối. Nhờ danh tiếng của ông ta mà nhà thờ đông nghịt người, ấy vậy nhưng sau đó hầu như ai cũng tuyên bố thà nghe cha Johnson của họ giảng còn hơn. Emily nhìn ông ta chăm chú, đầy xét đoán và rút ra kết luận ông ta ăn nói quá ngọt xớt và chẳng ra dáng con người cao quý gì hết. Cô nghe ông ta đọc từ đầu đến cuối một bài kinh, thầm nghĩ,
“Đưa ra lời khuyên sáng suốt của Chúa và lăng mạ quỷ thì đâu phải cầu nguyện chứ.”
Sau khi lắng nghe diễn thuyết vài phút, cô rút ra kết luận ông ta chỉ là một kẻ tư duy phi lý, thích bày trò giật gân và khoái gây chuyện lùm xùm, vậy là cô dửng dưng phớt lờ ông ta để thả mình vào cõi mơ –một chuyện nhìn chung cô có thể làm tùy ý mỗi khi trong lòng bất an muốn trốn thoát hiện thực trái ngang.
Ngoài trời, ánh trăng vẫn đang được sàng qua những tán thích và linh sam, lắc rắc đổ xuống cơn mưa bạc, mặc dù một đụn mây đầy đe dọa đang đùn lên đặc dần phía chân trời Tây Bắc, và tiếng sấm ầm ì văng vẳng phá tan bầu không khí tĩnh lặng giữa đêm hè oi ả, một đêm hầu như tịnh không chút gió, dù thỉnh thoảng bất chợt một luồng khí quẹt ngang đám cây cối, nghe giống tiếng thở dài hơn là một cơn gió nhẹ, và xô bóng cây túm tụm thành những hình thù kỳ dị đang nhảy múa. Vẻ đẹp thanh bình quen thuộc hòa quyện cùng những dấu hiệu báo bão đang về nhuộm bầu không khí ban đêm bằng một sắc màu kỳ lạ khiến Emily mê mẩn, và cô tận dụng hẳn phân nửa thời gian diễn thuyết của nhà truyền giáo để soạn thảo trong tâm trí bản thân miêu tả về cảnh tượng này dành cho cuốn sổ của Jimmy. Thời gian còn lại, cô nghiên cứu từng người một trong số các thính giả lọt vào tầm nhìn. Trong các cuộc hội họp giữa chốn công cộng, Emily chẳng bao giờ chán trò này, và càng lớn cô càng thích hơn. Thú vị xiết bao khi nghiên cứu những khuôn mặt mỗi người một vẻ ấy, khi ngẫm ngợi dò đoán vô vàn câu chuyện cuộc đời được viết trên đó bằng nét chữ tượng hình bí ẩn thời Ai Cập cổ đại. Hết thảy những người đàn ông đàn bà đó, ai cũng có những nỗi niềm thầm kín, những cuộc đời bí mật không tỏ cùng bất kỳ ai ngoài chính bản thân và Chúa. Người ngoài chỉ có thể suy đoán về họ, và Emily rất say mê trò chơi suy đoán này. Quả thực, nhiều khi, cô còn cảm thấy dường như mọi thứ không chỉ dừng lại ở mức suy đoán, dường như trong một vài khoảnh khắc đặc biệt nào đó, cô có thể bước vào tâm hồn họ, có thể đọc được trong đó những động cơ, những đam mê vốn vị đào sâu chôn chặt mà có lẽ vẫn là một bí ẩn ngay cả với những người sở hữu chúng. Bao giờ cũng vậy, chỉ cần cái khả năng ấy trỗi dậy là Emily lại khó lòng cưỡng nổi khao khát được làm điều này, dẫu rằng ngay cả khi đã đành lòng nhượng bộ, cô vẫn không bao giờ thoát khỏi cảm giác áy náy, cho rằng mình đang xâm phạm vào đời tư của kẻ khác. Chuyện này khác hẳn với việc sải rộng đôi cánh tưởng tượng bay vào một thế giới sáng tạo trong tâm tưởng, khác hẳn với vẻ đẹp tinh tế, huyền ảo của “ánh chớp”; ở cả hai trường hợp đó, cô không có bất kỳ giây phút lưỡng lự hay ngần ngại nào. Nhưng khi rón rén bước xuyên qua một cánh cửa đang tạm thời mở khóa như thế, rồi thoáng nhìn thấy những thứ vốn không được bày tỏ, không thể bày tỏ đang được che đậy trong sâu thẳm trái tim và tâm hồn người khác, hành động đó, bên cạnh ý thức về sức mạnh của nó, luôn mang đến một nhận thức về sự cấm đoạn, thậm chí là ý thức về sự báng bổ thánh thần. Tuy nhiên, Emily không biết liệu có khi nào cô cưỡng lại nổi sức quyến rũ của nó không... lần nào cũng như lần nào, cô luôn liếc qua cánh cửa và nhìn hết thứ này đến thứ kia, rồi tới lúc đó mới nhận thức được mình đang làm gì. Hầu như chúng luôn là những điều khủng khiếp. Bí mật thường khủng khiếp. Những thứ đẹp đẽ chẳng mấy khi bị che giấu làm gì... chỉ những thứ xấu xa, méo mó mới hay bị thế.
“Vào thời xa xưa, Elder Forsyth chắc hẳn là kẻ ưa hành hạ người khác,” cô nghĩ. “Nhìn mặt ông ta giống thế lắm. Ngay lúc này đây, ông ta đang thích nhà truyền giáo vì ông ấy đang giảng về địa ngục, và Elder Forsyth chắc mẩm mọi kẻ thù của ông ta đều xuống đó hết. Đúng vậy, thế nên ông ta mới lộ vẻ mãn nguyện như thế. Mình nghĩ hằng đêm, bà Bowes vẫn cưỡi chổi bay lượn trên trời. Bà ta có vẻ thế lắm. Bốn trăm năm trước, bà ta hẳn phải là phù thủy, và Elder Forsyth đã đóng cọc thiêu cháy bà ta. Bà ta căm ghét hết thảy mọi người... hẳn phải kinh khủng lắm khi căm ghét tất cả mọi người, khi để tâm hồn tràn ngập hận thù. Chắc chắn mình phải tìm cách miêu tả một người như thế trong cuốn sổ Jimmy. Không biết liệu hận thù căm ghét có xua đuổi toàn bộ tình yêu thương ra khỏi tâm hồn bà ta không, không biết trong đó còn rơi rớt lại chút yêu thương nào dành cho bất kỳ ai hay bất kỳ thứ gì không. Nếu có thì rất có thể nó sẽ cứu vớt bà ta. Đây đúng là một ý tưởng hay để viết truyện. Trước khi đi ngủ mình phải ghi lại mới được, mình sẽ mượn Ilse ít giấy vậy. Không cần... cuốn sách thánh ca của mình vẫn còn sót ít giấy trắng. Mình sẽ viết lại luôn.
“Không biết tất cả những người này sẽ nói gì nếu đột nhiên được hỏi họ mong muốn gì nhất, và bắt buộc phải trả lời thành thật nhỉ. Không biết trong số những cặp vợ chồng kia, có bao nhiêu người mong muốn được thay đổi nhỉ? Vợ chồng Chris Farrar chắc là có... chuyện đó ai mà chẳng biết. Chẳng hiểu tại sao, mình cứ cảm thấy chắc chắn James Beatty và vợ ông ta cũng thế. Họ có vẻ khá hài lòng về nhau, nhưng có một lần, mình bắt gặp bà ấy nhìn ông ta đúng lúc bà ấy không ngờ có người đang quan sát; ôi chao, cứ như thể qua đôi mắt bà ấy, mình đã nhìn thấu tận tâm hồn bà ấy, và bà ấy căm ghét ông ta... sợ hãi ông ta. Giờ bà ấy đang ngồi kia, ngay cạnh ông ta, nhỏ bé, gầy còm, ăn mặc lạc mốt, tóc bạc da mồi cả rồi, nhưng bà ấy, chính bản thân bà ấy, là một ngọn lửa phản kháng cháy đỏ hừng hực. Điều bà ấy mong muốn là được thoát khỏi ông ta... hay chỉ cần phản kháng lại dù chỉ một lần. Thế là bà ấy thỏa mãn rồi.
“Chú Dean ngồi kia... mình thật không hiểu điều gì đã mang chú ấy đến buổi cầu nguyện tập thể chứ? Vẻ mặt chú ấy rất nghiêm túc, nhưng ánh mắt chú ấy thì tràn ngập vẻ giễu cợt dành cho ông Sampson... mà ông Sampson đang nói gì vậy nhỉ?... Ôi chao, lại chuyện gì đó về các trinh nữ khôn ngoan[1] đây mà. Mình ghét các trinh nữ khôn ngoan, mình thấy họ ích kỷ khủng khiếp. Nhẽ ra họ có thể san sẻ cho những cô gái khờ dại tội nghiệp kia một ít dầu. Mình không tin là sự ngợi ca mà Chúa Jesus dành cho họ sẽ nhiều hơn sự ngợi ca mà Người muốn dành cho viên quản gia bất lương; theo mình thấy, Người chỉ đang cố gắng cảnh báo những người khờ dại để họ không được tỏ ra bất cẩn và khờ dại thôi, vì nếu họ mà như thế, những kẻ khôn ngoan ích kỷ sẽ chẳng đời nào giúp đỡ họ. Không hiểu liệu có đáng bị coi là xấu xa không nếu mình cảm thấy thà ở bên ngoài với những người khờ dại để mà cố gắng an ủi giúp đỡ họ, còn hơn là ở bên trong tiệc tùng cùng những kẻ khôn ngoan. Như thế còn thú vị hơn nhiều.
[1] Dụ ngôn về Mười trinh nữ chép trong sách Phúc âm Matthew: Mười cô trinh nữ cầm đèn đón chàng rể. Năm cô được xem là khờ dại vì mang đèn mà không mang thêm dầu, còn năm cô kia được cho là khôn ngoan vì mang đèn còn chuẩn bị cả bình dầu đầy. Chờ mãi chưa thấy chàng rể đến nên cả mười cô đều ngủ thiếp đi. Nửa đêm, có tiếng hô: Chàng rể đến. Nhưng lúc này, đèn của năm cô khờ dại đều hết dầu nên tắt ngóm. Mượn dầu thì không được, các cô đành chạy ra quán mua. Nhưng mua xong dầu về đến nơi thì cửa đã đóng, tiệc cưới đã bắt đầu. Năm cô khờ dại đành phải ra về trong hối tiếc.
“Kia là bà Kent và Teddy. Ôi chao, bà ấy khát khao cháy bỏng một thứ... mình không biết là thứ gì, nhưng nó là thứ bà ấy không bao giờ có thể giành được, và khát vọng giành được nó đã dằn vặt bà ấy suốt cả ngày lẫn đêm. Bởi vậy bà ấy mới suốt ngày kè kè bên Teddy như thế, mình biết mà. Nhưng mình không biết cái gì đã khiến bà ấy khác hẳn so với những phụ nữ khác. Mình không bao giờ có thể liếc vào trong tâm hồn bà ấy... bà ấy ngăn chặn mọi ánh nhìn... cánh cửa chẳng khi nào lỏng then mở khóa.
“Còn mình mong muốn gì nhất nhỉ? Đó chính là leo lên tận đỉnh con đường Alps,
“ 'Và viết lên trên bảng danh sách chói ngời
Cái tên hèn mọn của một người phụ nữ.'
“Tất cả chúng ta đều đói. Tất cả chúng ta đều muốn một chút bánh mì sự sống... ấy vậy nhưng ông Sampson lại không thể trao nó cho chúng ta. Không biết ông ấy muốn gì nhất nhỉ? Tâm hồn ông ấy cứ sền sệt đến nỗi chẳng thể nhìn thấu được. Ông ấy có vô vàn mong muốn hèn hạ... ông ấy chẳng mong muốn bất kỳ thứ gì đủ độ để bị nó chi phối. Cha Johnson muốn giúp đỡ mọi người và thuyết phục mọi người làm điều đúng đắn... cha thật tâm muốn thế. Còn mong mỏi cháy bỏng nhất của dì Janey là được chứng kiến toàn bộ thế giới ngoại đạo đều cải sang Cơ Đốc giáo. Tâm hồn dì ấy không ẩn chứa bất kỳ ước mong đen tối nào. Mình biết thầy Carpenter muốn gì... cơ hội từng tuột mất một lần nữa quay trở lại. Katherine Morris muốn tìm lại tuổi thanh xuân... bà ấy căm ghét mọi đứa con gái trẻ tuổi hơn như bọn mình bởi vì bọn mình trẻ trung. Cụ Malcolm Strang chỉ ước ao được sống... chỉ cần thêm một năm nữa thôi... lần nào cũng chỉ cần thêm một năm nữa... chỉ cần được sống... chỉ cần không phải chết. Hẳn phải khủng khiếp biết bao nhiêu khi sống mà chẳng có mục đích gì ngoại trừ trốn chạy cái chết. Nhưng ông ấy vẫn tin vào thiên đường... ông ấy vẫn chắc mẩm rồi sẽ đến đó. Ông già tội nghiệp ấy, giá như có thể nhìn thấy ánh chớp của mình đây dù chỉ một lần thôi thì ắt hẳn ông ấy đã chẳng bày tỏ thái độ ghét cay ghét đắng như thế khi nghĩ về cái chết. Còn Mary Strang lại muốn chết... trước khi một thứ khủng khiếp nào đó mà bà ấy e sợ sẽ hành hạ bà ấy cho tới chết. Nghe nói đó là bệnh ung thư. Còn có ông Morrison Khùng đang ở khu vực dành cho ban đồng ca nữa... mọi người đều biết ông ấy muốn gì... tìm thấy Annie của ông ấy. Tom Sibley thì có lẽ muốn mặt trăng... và biết rõ anh ta không bao giờ có thể lấy được nó... bởi vậy người ta mới bảo anh ta hơi điên điên khùng khùng. Amy Crabbe muốn Max Terry quay lại với chị ấy... ngoài chuyện đó ra thì chẳng còn gì quan trọng cả.
“Ngày mai mình sẽ phải viết hết những chuyện này vào cuốn sổ Jimmy. Chúng thật hấp dẫn xiết bao... nhưng, xét cho cùng, mình vẫn thích viết về những điều tốt đẹp hơn. Chỉ có điều, ở chúng lại có một ý vị mà những thứ tốt đẹp không có được. Những cánh rừng ngoài kia... trông chúng lạ kỳ xiết bao giữa bóng tối và ánh sáng bạc. Ánh trăng đang trùm lên những tấm bia một một tấm màn kỳ lạ, khiến cho ngay cả những tấm bia xấu xí cũng trở nên đẹp đẽ hẳn. Nhưng trời nóng hầm hập, trong này chẳng khác gì cái lò nung, còn tiếng sấm ầm ì càng lúc càng dội lại gần hơn. Hy vọng Ilse và mình kịp về nhà trước khi bão nổi. Ôi chao, ngài Sampson à, ngài Sampson, Chúa đâu có phải vị Chúa giận dữ... ngài mà nói thế thì chứng tỏ ngài chẳng hiểu gì về Người hết... tôi dám chắc Người vô cùng phiền muộn khi chúng ta tỏ ra khờ dại xấu xa, nhưng Người không phát điên phát khùng lên. Chúa của ngài và Chúa của bà Ellen Greene giống nhau như hai giọt nước vậy. Tôi chỉ muốn đứng bật dậy nói với ngài như thế, nhưng giữa nhà thờ mà trả lời một cách xấc xược thì chẳng phù hợp với truyền thống của nhà Murray chút nào. Ngài đã bôi xấu Chúa... trong khi Người tốt đẹp nhường ấy. Tôi căm ghét ngài vì đã bôi xấu Chúa, đồ béo ị lùn tịt.”
Và rồi đúng lúc đó, ông Sampson, vốn đã vài lần để ý đến ánh mắt thăm dò chăm chú của Emily và cứ đinh ninh ta đây đang gây được ấn tượng cực kỳ lớn lao khiến cô gái ý thức được rõ ràng tình trạng không được cứu vớt của bản thân, kết thúc bài giảng bằng những lời khẩn nài chốt hạ vô cùng khẩn thiết, và ngồi xuống. Vốn đang phải chen chúc giữa bầu không khí ngột ngạt bức bí của ngôi nhà thờ đông đúc lờ mờ ánh đèn, các khán thính giả đều nhẹ nhõm thở phào ra thành tiếng, và gần như chẳng buồn đợi đến lúc hát thánh ca và đọc kinh Tạ ơn, họ cứ thế ùn ùn kéo ra ngoài tìm đến với bầu không khí trong lành hơn. Mắc kẹt giữa dòng người và bị tách ra khỏi bà Laura, Emily bị đẩy dạt ra bên, xuyên qua cánh cửa dẫn vào khu vực dàn đồng ca mà lọt vào ngay bên trái bục giảng kinh. Phải mất một lúc cô mới chật vật thoát ra khỏi đám đông và hối hả vòng ra phía trước, hy vọng sẽ gặp được Ilse ở đó. Ở đây lại là một đám đông nữa, nhưng chẳng mấy chốc đã vãn người, tuy nhiên cô vẫn không thấy bóng dáng Ilse đâu. Đột nhiên, Emily nhận ra cô không mang theo quyển thánh ca. Cô vội vã lao ngược trở lại chỗ cửa dẫn vào khu vực dàn đồng ca. Chắc hẳn cô đã bỏ quên cuốn sách thánh ca ở chỗ ghế ngồi... trong khi lẽ ra không bao giờ được phép để quên nó ở đó. Cốt để cho an toàn, cô đã kẹp vào giữa cuốn thánh ca mẩu giấy lưu lại vài ghi chép rời rạc được cô lén lút viết trong thời gian xướng bài thánh ca cuối cùng - một bản miêu tả khá chua cay về cô Potter gầy giơ xương thuộc dàn hợp xướng, mấy câu châm biếm nhằm vào chính cha Sampson, thêm cả một vài tưởng tượng ngẫu nhiên mà cô muốn giấu kín nhất vì nó chất chứa một phần giấc mơ và sự tưởng tượng hẳn sẽ khiến cho bất cứ sự nhòm ngó nào từ những đôi mắt xa lạ cũng trở thành hành động báng bổ thánh thần.
Lúc cô vào trong, cụ Jacob Banks, ông lão vừa mù dở vừa nghễnh ngãng nhận nhiệm vụ trông nom nhà thờ, đang tắt dần đèn đóm. Ông đã tắt đến hai cây đèn trên tường phía sau bục giảng kinh. Emily vớ lấy cuốn thánh ca của cô đang để trên giá... chẳng thấy mẩu giấy của cô đâu. Dưới ánh sáng lờ mờ do ông Jacob Banks đã tắt nốt cây đèn cuối cùng, cô nhìn thấy nó nằm trên sàn nhà, dưới cái ghế cầu nguyện phía trước. Cô quỳ xuống, vươn tay ra với lấy mẩu giấy. Giữa lúc đó, cụ Jacob bước ra ngoài và khóa cánh cửa dẫn vào khu vực dàn thánh ca.
Emily không nhận ra ông lão trông coi nhà thờ đã đi mất; ngôi nhà thờ vẫn đang lờ mờ sáng dưới sự chiếu rọi của vầng trăng cho đến lúc này vẫn chưa bị nhấn chìm sau những đám mây dông đang không ngừng đùn lên cuồn cuộn. Ấy vậy nhưng hóa ra đó vẫn không phải mẩu giấy cô cần tìm... không hiểu nổi nó đang ở đâu nữa?... ồ, rốt cuộc thì cũng thấy nó đây rồi. Emily nhặt mẩu giấy lên và chạy tới bên cánh cửa, nhưng cửa lại không mở.
Đến lúc đó, Emily mới nhận ra ông cụ Jacob Banks đã đi mất, chỉ còn lại một mình cô trong nhà thờ. Cô hì hục tìm cách mở cửa nhưng chỉ hoài công vô ích, rồi cô gọi ông cụ Banks nhưng cũng chẳng có tác dụng gì. Cuối cùng, cô lao đi giữa hai hàng ghế, chạy ra hiên trước. Giữa chừng, cô nghe thấy tiếng cỗ xe độc mã cuối cùng ken két xoay đầu bên cổng vào rồi chạy đi mất: cùng lúc đó, mặt trăng đột ngột bị những đám mây đen sì nuốt chửng và ngôi nhà thờ mất hút giữa bóng tối - bóng tối dày đặc, oi ả, bức bối, gần như có thể sờ mó được. Emily thét lên trong nỗi hoảng loạn bất ngờ... nện thình thịch vào cửa ra vào... điên cuồng vặn tay nắm cửa... rồi lại kêu lên. Ôi, mọi người đâu thể đi hết rồi cơ chứ... chắc chắn ai đó sẽ nghe thấy tiếng cô! “Bác Laura ơi”... “Bác Jimmy ơi”... “Ilse”... rồi cuối cùng rền rĩ tuyệt vọng... “Ôi, Teddy ơi... Teddy!”
Một dải chớp trắng xanh quét qua hiên, ngay sau đó tiếng sấm gầm lên. Một trong những cơn bão tồi tệ nhất biên niên sử làng Hồ Blair đã bắt đầu... và Emily Starr thì bị nhốt một mình trong ngôi nhà thờ tối tăm giữa rừng thích... cô, vốn luôn luôn ấp ủ trong lòng một nỗi sợ hãi vô cớ mang tính bản năng trước những cơn dông bão, một nỗi hoảng sợ cô không bao giờ có thể xóa than mà chỉ đủ sức kiềm chế được phần nào.
Run rẩy, cô đổ sụp xuống bậc cầu thang dẫn đến khu vực dàn đồng ca, và cứ cuộn người thu lu ở đó. Chắc chắn sẽ có người quay lại khi phát hiện ra cô đang mất tích. Nhưng liệu có ai phát hiện ra không? Ai sẽ nhớ tới cô chứ? Bác Laura và Jimmy vẫn chắc mẩm cô đang ở cùng Ilse như đã dự tính. Trong khi Ilse, hiển nhiên đã đi mất rồi, thì vẫn đinh ninh Emily không đi cùng mình được và bởi vậy cô sẽ cho rằng cô đã trở về trang trại Trăng Non. Không ai biết cô đang ở đâu... sẽ chẳng ai quay lại tìm cô cả. Cô sẽ phải ở lại đây, giữa chốn tối tăm, hoang vu, đáng sợ âm âm tiếng vang này... ngay lúc này đây, ngôi nhà thờ cô vốn nắm rõ như lòng bàn tay và yêu thương hết mực bởi những mối liên kết bao năm với lớp giáo lý, với bài ca và những khuôn mặt chất phác của bao bạn bè thân mến đã trở thành một nơi chốn xa lạ, ma quái tràn ngập những nỗi khiếp hãi đầy ám ảnh. Chẳng có lối thoát nào hết. Những ô cửa sổ kín như bưng không tài nảo mở được. Nhà thờ được thông gió bằng những khung kính áp trần hệt những ô cửa sổ con con, được mở ra đóng vào bằng cách kéo một sợi dây thép. Cô không thể leo lên tới tận đó, mà ngay cả có tới được đó thì cô cũng chẳng thể chui qua được.
Cô thụp xuống co rúm người trên bậc cầu thang, cả người run lên bần bật. Đến lúc này, sấm chớp nối tiếp nhau hết đợt này đến đợt khác, gần như không ngừng nghỉ: mưa quất vào cửa sổ, không phải từng hạt từng hạt mà giáng thành màn, thỉnh thoảng lại tuôn xối xả như quăng cả loạt mưa đá vào ô cửa. Gió đột nhiên nổi lên cuồn cuộn theo cơn bão, rú rít thét gào quanh nhà thờ. Đây không phải “Bà Gió” mỏng manh sương khói với đôi cánh dơi, người bạn thân thiết từ thuở ấu thơ của cô, mà là cả một đoàn phù thủy đang la hét. “Hoàng tử Quyền năng của Khí chế ngự gió,” cô từng có lần nghe ông Morrison Khùng nói thế. Sao lúc này cô lại nghĩ tới ông Morrison Khùng nhỉ? Chẳng hiểu sao cửa sổ cứ lạch cạch liên hồi thế chứ, y như thể đang bị những tên kỵ sĩ ma quái cưỡi bão đạp gió rung lắc vậy! Cô từng nghe người ta kể lại một câu chuyện rợn người, rằng cách đây vài năm, có người đã nghe thấy tiếng đàn organ vang lên giữa đêm trong ngôi nhà thờ vắng hoe vắng hoắt. Cứ thử tưởng tượng bây giờ tự nhiên tiếng nhạc bắt đầu vang lên xem! Có vẻ như chẳng sự tưởng tượng nào lại quá mức quái dị hay khủng khiếp đến độ chẳng thể trở thành hiện thực. Có phải cầu thang đang kêu kẽo kẹt không nhỉ? Bóng tối giữa những đợt chớp lóe ngột ngạt đến độ khiến người ta có cảm giác nó dày cồm cộp. Quá hoảng loạn sợ bị nó sờ vào người, Emily chỉ biết vùi mặt vào trong.
Tuy nhiên, ngay sau đó, cô lấy lại can đảm và bắt đầu ngẫm ra phản ứng của cô lúc này không hề phù hợp với truyền thống của nhà Murray. Người nhà Murray không được phép suy sụp như thế này. Người nhà Murray sẽ không hoảng loạn một cách ngớ ngẩn giữa bão táp sấm chớp. Các bậc tổ tiên nhà Murray đang yên giấc trong khu nghĩa địa riêng phía bên kia hồ hẳn sẽ khinh thường một kẻ hậu duệ thoái hóa như cô. Bác Elizabeth hẳn sẽ bảo đó là biểu hiện của chất Starr trong cô. Cô phải dũng cảm hơn: xét cho cùng, cô đã trải qua những thời khắc còn tồi tệ hơn thế này nhiều... cái đêm cô ăn phải quả táo độc của ông John Ngạo Mạn... buổi chiều cô ngã khỏi vách đá trên vịnh Malvern. Chuyện này xảy đến quá đột ngột, thành ra trước khi kịp huy động lòng can đảm để chống chọi lại thì cô đã chìm trong cơn hoảng sợ mất rồi. Cô phải xốc lại tinh thần mới được. Sẽ chẳng có chuyện đáng sợ gì xảy ra với cô hết... chẳng có gì tồi tệ hơn chuyện phải ở lại suốt đêm trong nhà thờ. Đến sáng mai, cô có thể thu hút sự chú ý của người qua đường nào đó. Giờ cô đã ở đây hơn một tiếng đồng hồ rồi, và nào đã có gì xảy ra đâu cơ chứ, trừ chuyện tóc cô quả thật đã bạc trắng mất rồi, vì theo cô hiểu đôi khi tóc tai vẫn hay bị thế lắm. Thỉnh thoảng, ở chân tóc cứ râm ran một cảm giác là lạ. Emily nắm chặt bím tóc đuôi sam dài, sẵn sàng chờ ánh chớp tiếp theo. Khi chớp lóe lên, cô nhìn thấy rõ mái tóc mình vẫn nguyên màu đen nhánh. Cô thở phào nhẹ nhõm, bắt đầu thấy tinh thần phấn chấn hơn hẳn. Bão đang tan. Những hồi sấm càng lúc càng yếu dần và thưa thớt hơn, tuy nhiên mưa vẫn không ngừng rơi, gió vẫn quay cuồng gào rú quanh nhà thờ, đổ những âm thanh rền rĩ kỳ quái xuyên qua lỗ khóa to tướng.
Emily xốc thẳng lại vai, thận trọng thả hai chân xuống một bậc thang thấp hơn. Có lẽ tốt hơn hết, cô nên thử quay trở vào trong nhà thờ xem sao. Nếu một đợt sấm sét nữa nổi lên, gác chuông có khi bị đánh trúng cũng không chừng; theo cô nhớ, các gác chuông chẳng lần nào thoát khỏi bị sét đánh cả: nó rất có khả năng đâm sầm xuống mái vòm ngay trên đầu cô. Cô sẽ vào trong nhà và ngồi xuống dãy ghế cầu nguyện dành riêng cho nhà Murray: cô sẽ bình tĩnh, biết xét đoán và thật tự chủ: cô rất lấy làm xấu hổ vì nỗi hoảng loạn vừa rồi, nhưng nó khiếp thật đấy chứ.
Giờ đây, bao phủ quanh cô là màn đêm nặng nề mượt như nhung, tuy nhiên vẫn gợi lên một cảm giác kỳ quái giống hệt lúc nãy, cái cảm giác dường như chỉ cần vươn tay ra là ta sẽ chạm vào bóng tối, có lẽ tại sự nóng nực và ẩm ướt của đêm tháng Bảy. Hàng hiên này nhỏ hẹp quá, nếu vào trong nhà thờ, cô sẽ không còn thấy ngột ngạt bức bối như thế nữa.
Emily đưa tay ra định túm lấy tay vịn cầu thang hòng làm điểm tựa kéo người đứng dậy trên đôi chân run rẩy. Bàn tay cô chạm vào... không phải tay vịn cầu thang... lạy Chúa lòng lành, cái gì vậy nhỉ?... thứ gì đó lông lá... tiếng thét kinh hoàng đông cứng trên môi Emily... những bước chân êm ái bước xuống dãy bậc thang bên cạnh cô, ánh chớp lóe sáng và ngay dưới chân cầu thang là một con chó đen khổng lồ, nó quay mình ngước nhìn cô trước khi bị nuốt vào trong bóng tối đang đen đặc trở lại. Dẫu vậy, cô vẫn kịp thoáng nhìn thấy đôi mắt đỏ rực của nó chiếu thẳng vào cô, y hệt đôi mắt quỷ.
Chân tóc của Emily lại bắt đầu râm ran trở lại, một sợi xích khổng lồ lạnh ngăn ngắt bắt đầu chậm rãi trườn lên xương sống cô. Cô không thể cử động được ngay cả khi tính mạng đang phụ thuộc vào điều đó. Thậm chí cô không kêu lên nổi. Điều duy nhất cô có thể nghĩ tới trước hết là con chó săn đáng sợ của Manx Castle trong Peveril xứ Peak. Trong một vài phút, nỗi kinh hãi của cô cuồn cuộn dâng trào đến độ rốt cuộc chính cơ thể cô cũng trở nên rời rã khó chịu. Rồi, bằng một nỗ lực với sự quyết tâm không hề giống như của một đứa trẻ - tôi đồ rằng vào giây phút đó Emily đã hoàn toàn không còn là một đứa trẻ nữa rồi - cô xốc lại khả năng tự chủ. Cô sẽ không đầu hàng nỗi sợ hãi; cô nghiến răng, siết chặt đôi bàn tay đang run bần bật; cô sẽ dũng cảm... suy nghĩ hợp tình hợp lý. Đó chỉ là một con chó rất bình thường ở làng Hồ Blair đi theo chân chủ nhân, một cậu nhóc nghịch ngợm nào đó, vào trong khu vực dành cho dàn đồng ca, rồi bị rớt lại phía sau. Chuyện như thế này trước kia cũng từng xảy ra rồi. Ánh chớp lóe sáng soi tỏ cho cô thấy rõ hành lang giờ đang vắng hoe. Rõ ràng con chó đã vào bên trong nhà thờ. Emily quyết định sẽ cứ ở yên tại chỗ. Dù đã hết hoảng loạn nhưng cô không muốn giữa đêm hôm lại đột nhiên chạm phải một cái mũi lạnh ngắt hay một mạng sườn lông lá. Cô không tài nào quên được cái cảm giác khủng khiếp của giây phút cô chạm vào sinh vật đó.
Giờ ắt hẳn đã mười hai giờ rồi; khi buổi cầu nguyện tan thì đã là mười giờ tối. Cơn bão hầu như đã tắt hẳn tiếng. Thỉnh thoảng vẫn vang lên tiếng chuyển động và tiếng gió rít gào, nhưng con lại là sự thinh lặng, chỉ bị phá vỡ bởi tiếng mưa đang dần nhỏ hạt. Tiếng sấm vẫn ầm ì yếu ớt và chớp tỉnh thoảng vẫn lóe lên, nhưng ánh sáng đã dịu hơn, mờ nhạt hơn, không phải ánh chói lòa rạch ngang bầu trời dường như bao bọc tòa nhà này dưới thứ ánh sáng xanh quá rực rỡ đến độ không chịu nổi, khiến mắt cô nhức nhối. Dần dần, trái tim cô bắt đầu đập bình thường trở lại. Tư duy lý trí đã tìm lại được sức mạnh. Mặc dù không hề thích thú với tình cảnh hiện thời, nhưng cô bắt đầu phát hiện ra ở nó những khả năng đầy kịch tính. Chao ôi, thật là một chương hay ho xiết bao dành cho cuốn nhật ký của cô - hay cuốn sổ Jimmy; và, hơn thế nữa, dành cho cuốn tiểu thuyết mà một ngày nào đó sẽ được cô chấp bút! Đây là một tình huống dành riêng cho nhân vật nữ chính; tất nhiên cuối cùng rồi nữ chính này sẽ được nam chính giải cứu. Emily bắt đầu xây dựng cốt truyện... thêm thắt cho nó... trau chuốt nó... săn tìm từ ngữ để biểu đạt nó. Xét cho cùng, chuyện này cũng có phần... thú vị. Duy có điều, cô chỉ mong sao biết được con chó kia từ đâu đến. Ánh chớp nhợt nhạt lập lòe trên những tấm bia một mà cô có thể nhìn thấy xuyên qua khung cửa sổ hàng hiên phía đối diện kia mới kỳ quái làm sao! Dưới ánh sáng lúc tỏ lúc mờ, thung lũng thân thuộc phía xa xa kia trông mới khác lạ làm sao! Gió rền rĩ, thở than và phàn nàn mới dữ làm sao... nhưng nó đã trở lại là Bà Gió của riêng cô. Bà Gió là một trong những sản phẩm từ thuở ấu thơ đã được cô mang theo vào quãng đời thiếu nữ, và giờ đây, cô đang được nó an ủi bằng ý thức về một mối thân tình lâu năm. Những kỵ sĩ gió của cơn bão đã biến mất, người bạn tưởng tượng của cô đã quay về. Emily thở một hơi dài hầu như mãn nguyện. Điều tồi tệ nhất đã qua... và thật tình, chẳng phải cô đã cư xử rất đúng mực đó sao? Cô cảm thấy lòng tự trọng của mình bắt đầu quay trở lại.
Đột nhiên Emily biết cô không chỉ ở một mình!
Cô không thể nói được tại sao mình lại biết thế. Cô không nghe thấy gì... không nhìn thấy gì... không cảm thấy gì: ấy vậy nhưng, vượt trên hết thảy mọi nghi ngờ hay tranh cãi, cô biết rằng có một Sự Hiện Diện trong bóng tối giữa dãy cầu thang phía trên cô. Cô xoay người ngước nhìn lên. Nhìn như thế quả thật rất đáng sợ, nhưng dù sao nếu cảm thấy Thứ Gì Đó đang ở trước mặt ta thì vẫn đỡ kinh khủng hơn chán so với việc cảm thấy nó đang ở phía sau. Cô trợn mắt điên cuồng nhìn chằm chằm vào bóng tối, nhưng chẳng thể nhìn thấy gì. Rồi sau đó... cô nghe thấy một tiếng cười khe khẽ vang lên phía trên mình... một tiếng cười suýt chút nữa đã khiến tim cô ngừng đập... tiếng cười phi nhân, vô cùng đáng sợ của một kẻ tâm trí không bình thường. Chẳng cần phải nhờ đến ánh chớp chiếu sáng thì cô mới nhận ra ông Morrison Khùng đang ở đâu đó giữa dãy cầu thang bên trên cô. Nhưng ánh chớp đã lóe lên... cô nhìn thấy ông ta... cô cảm thấy dường như mình đang chìm dần vào trong một cái vực băng lạnh lẽo nào đó... thậm chí cô còn chẳng kêu lên được. Mãi mãi cô sẽ không bao giờ quên hình ảnh ông ta, được ánh chớp khảm vào trong trí não cô. Ông ta cúi lom khom phía trên cô năm bậc cầu thang, mái đầu hoa râm đâm bổ về phía trước. Cô nhìn thấy ánh sáng điên cuồng trong mắt ông ta; bộ răng vàng khè như nanh chó sói nhe ra dưới nụ cười mỉm đáng sợ; bàn tay gầy guộc khều khào đỏ như máu vươn về phía trước, suýt nữa chạm tới vai cô.
Cơn hoảng loạn vượt qua ngoài tầm kiểm soát đập vỡ tan tành trạng thái mụ mị của Emily. Cô đứng bật dậy, kinh hãi bật lên một tiếng thét đinh tai nhức óc.
“Teddy! Teddy! Cứu tớ với!” cô điên cuồng ré lên.
Cô không biết tại sao mình lại gọi Teddy; thậm chí cô còn chẳng nhận ra mình đã gọi cậu; mãi tận sau này cô mới nhớ đến nó, giống như người ta có thể nhớ lại tiếng thét đã đánh thức mình dậy giữa cơn ác mộng; cô chỉ biết rằng mình phải cầu viện sự trợ giúp, rằng cô sẽ chết mất nếu bàn tay khủng khiếp kia chạm vào cô. Nó không được phép chạm vào cô.
Chẳng khác gì một người điên, cô nhảy phắt xuống cầu thang, lao vào trong nhà thờ và chạy lên giữa hai hàng ghế. Cô phải ẩn mình trước khi tia chớp tiếp theo xuất hiện, nhưng không phải trong dãy ghế của nhà Murray. Hẳn ông ta sẽ đến đó tìm cô. Cô nhào vào một dãy ghế giữa phòng và núp xuống sát sàn nhà tận trong góc. Mồ hôi lạnh như băng toát ra ướt đẫm toàn thân cô. Nỗi kinh sợ không thể kiểm soát thít chặt từng sợi tế bào trong người cô. Điều duy nhất cô có thể nghĩ tới là không được phép để nó chạm vào người... cái bàn tay đỏ như máu của ông già khùng đó.
Mỗi giây trôi qua tưởng chừng như hàng năm trời. Ngay sau đó, cô nghe thấy tiếng bước chân... tiếng bước chân lúc gần lúc xa nhưng dường như đang từ từ tiến tới gần cô hơn. Đột nhiên, cô nhận ra ông ta đang làm gì. Ông ta định mò đến từng dãy ghế để sờ soạng tìm cô thay vì đợi ánh chớp. Vậy ra ông ta vẫn đang tìm bà ấy, cô từng nghe nói thỉnh thoảng ông ta lại bám theo các cô gái vì cứ ngỡ họ là Annie. Nếu bắt được họ rồi, ông ta sẽ dùng một tay giữ họ lại, còn tay kia dịu dàng lùa vào tóc và vuốt ve khuôn mặt họ, trong khi không ngừng lập cập lẩm bẩm những lời âu yếm ngu ngốc. Ông ta chẳng làm hại ai bao giờ, nhưng cũng chẳng đời nào thả tự do cho bất cứ ai tới tận khi họ được người khác giải cứu. Người ta đồn rằng Mary Paxton ở Ao Thành Kiến không bao giờ còn bình thường trở lại được nữa; trí não cô bé vĩnh viễn không thể phục hồi sau cú sốc.
Emily biết rõ chẳng sớm thì muộn rồi cũng đến lúc ông ta tới được dãy ghế nơi cô đang núp... sờ soạng xung quanh bằng đôi bàn tay ấy! Điều duy nhất giúp cô giữ được lý trí mặc dù cơ thể đã cứng đờ là ý nghĩ rằng nếu cô mất ý thức, hai bàn tay đó sẽ chạm vào cô... giữ lấy cô... vuốt ve cô. Nhờ ánh sáng từ luồng chớp tiếp theo, có thể thấy rõ ông ta đang bước vào dãy cầu nguyện ngay bên cạnh. Emily vùng dậy, lao ra ngoài chạy sang đầu bên kia nhà thờ. Cô lại ẩn mình lần nữa: ông ta sẽ tìm ra cô, nhưng cô vẫn có thể tiếp tục lẩn tránh: chuyện này có thể lặp đi lặp lại cho tới hết đêm: sức mạnh của một gã điên sẽ dẻo dai hơn so với của cô: cuối cùng có khi cô sẽ gục xuống vì kiệt sức, và ông ta sẽ chộp lấy cô ngay lập tức.
Đối với Emily mà nói, trò chơi trốn tìm điên rồ này kéo dài có khi đến hàng mấy tiếng đồng hồ rồi. Nhưng thực ra, mới chỉ qua nửa tiếng đồng hồ. Cô hầu như chẳng thể suy nghĩ tỉnh táo được nữa, cũng chẳng hơn gì so với kẻ săn đuổi điên khùng đang bám theo kia. Cô chỉ thuần túy là một sinh vật trong cơn hoảng loạn đang gào thét, luồn núp, nhảy trốn. Hết lần này đến lần khác, ông ta săn đuổi cô bằng thái độ nhẫn nại xảo quyệt và bền bỉ. Lần cuối cùng, cô ở ngay sát một cánh cửa thông với hành lang, và trong cơn tuyệt vọng, cô đâm bổ qua cánh cửa rồi đóng sập nó lại ngay trước mũi ông ta. Bằng chút tàn lực còn lại, cô cố hết sức bám chặt tay nắm cửa, ngăn ông ta xoay vặn. Giữa lúc đang vật lộn, cô nghe thấy - có phải cô đang mơ không nhỉ? - giọng Teddy gọi tên cô vọng từ dãy cầu thang lộ thiên phía bên kia cánh cửa ngoài.
“Emily... Emily... cậu có ở đó không?”
Cô không biết cậu đến bằng cách nào... cô chẳng hề băn khoăn thắc mắc... cô chỉ biết rằng cậu đã ở đó!
“Teddy, tớ bị nhốt trong nhà thờ!” cô thét lên... “và ông Morrison Khùng đang ở đây... ôi... nhanh lên... nhanh lên... cứu tớ với... cứu tớ với!”
“Chìa khóa cửa đang treo chỗ cái đinh trên kia ngay phía bên phải ấy!” Teddy kêu to. “Cậu lấy chìa để mở cửa được không? Nếu không thì tớ sẽ đập vỡ cửa sổ hiên.”
Đúng lúc đó, mây tản ra và ánh trăng đổ tràn khắp hàng hiên. Nhờ đó, cô nhìn thấy rõ mồn một chiếc chìa khóa to tướng đang treo cao trên bức tường bên cạnh cửa ra vào. Cô nhảy bổ về phía trước, chộp lấy chiếc chìa khóa đúng lúc lão Morrison Khùng giật tung cánh cửa và lao vào hiên, con chó bám theo sát gót. Emily mở khóa cửa ngoài và loạng choạng ngã vào vòng tay rộng mở của Teddy vừa kịp lúc để tránh thoát được bàn tay máu đang vươn ra đó. Cô nghe thấy lão Morrison Khùng ré lên một âm thanh hoang dã, quái dị chất chứa nỗi thất vọng khi cô chạy thoát khỏi lão.
Run rẩy, nức nở, cô bám chặt lấy Teddy.
“Ôi, Teddy, đưa tớ ra khỏi đây đi... đưa tớ đi nhanh lên... ôi, đừng để ông ta chạm vào tớ, Teddy... đừng để ông ta chạm vào tớ!”
Đẩy cô ra sau lưng mình, Teddy đứng mặt đối mặt với lão Morrison Khùng trên bậc thềm đá.
“Sao ông dám dọa cậu ấy sợ đến thế?” cậu giận dữ chất vấn.
Dưới ánh trăng, lão Morrison Khùng mỉm cười đầy vẻ khẩn nài. Đột nhiên, toàn bộ vẻ dữ tợn lẫn hung bạo của ông ta tan biến như bong bóng xà phòng... chỉ còn lại một ông lão đau khổ mải tìm kiếm thứ thuộc về mình.
“Ta muốn Annie,” ông ta lẩm bẩm. “Annie đâu rồi? Ta cứ ngỡ đã tìm thấy cô ấy ở kia. Ta chỉ muốn tìm thấy Annie xinh đẹp của ta thôi.”
“Ở đây làm gì có Annie,” Teddy nói, siết chặt bàn tay nhỏ bé lạnh cóng của Emily.
“Cậu có biết Annie ở đâu không?” lão Morrison Khùng khẩn khoản hỏi, khấp khởi hy vọng. “Cậu có biết Annie tóc đen của ta ở đâu không?”
Teddy vẫn bừng bừng giận dữ với lão Morrison Khùng vì dám dọa Emily thất kinh, nhưng lời khẩn nài tội nghiệp của ông lão đã khiến cậu xúc động... và chất nghệ sĩ trong cậu đã đáp lại sự phối màu của bức tranh hiển hiện trên cái nền là ngôi nhà thờ màu trắng chan chứa ánh trăng. Cậu nung nấu ý định vẽ hình lão Morrion Khùng đang đứng đó, cao và hốc hác, khoác trên người tấm áo choàng che bụi màu xám, bộ râu cùng mái tóc dài bạc trắng, đôi mắt trũng sâu thăm thẳm đau đáu một cuộc tìm kiếm bất tận.
“Không... không... cháu không biết bà ấy ở đâu,” cậu dịu dàng nói, “nhưng cháu tin chắc rồi sẽ có lúc ông tìm thấy bà ấy.”
Lão Morrison Khùng thở dài.
“Ôi chao, đúng vậy. Rồi sẽ đến lúc ta bắt kịp cô ấy. Đến đây nào, chó của ta, chúng ta sẽ tìm cô ấy.”
Theo sau là con chó già màu đen, ông lão bước xuống thềm, băng qua bãi cỏ và bước dọc con đường dài ướt đẫm rợp bóng cây. Và như vậy, ông ta đã bước ra khỏi cuộc đời của Emily. Cô không bao giờ gặp lại lão Morrison Khùng nữa. Nhưng cô dõi mắt theo ông ta với sự thấu hiểu, và tha thứ cho ông. Dưới con mắt của cô, Morrison Khùng chỉ là một lão già ghê tởm, nhưng ông ta lại không nhìn nhận bản thân mình như thế; ông ta là một người tình hào hiệp đang kiếm tìm cô dâu thân thương đã mất tích của mình. Vẻ đẹp đáng thương ẩn chứa trong hành trình kiếm tìm của ông ta đã hấp dẫn cô, cho dù giữa lúc cô vẫn đang run bần bật bởi cả tiếng đồng hồ phải chịu nỗi thống khổ.
“Tội nghiệp lão Morrison,” cô nức nở trong lúc Teddy phải nửa dắt nửa dìu cô tới một trong những tấm bia mộ bằng phẳng lâu năm bên hông nhà thờ.
Cả hai ngồi lại đó cho tới khi Emily lấy lại bình tĩnh và rồi xoay xở kể được đầu đuôi câu chuyện, hay nói đúng ra là các tình tiết đại khái. Cô cảm thấy mình chẳng bao giờ có thể kể lại được-có lẽ thậm chí chẳng thể viết vào một cuốn sổ Jimmy - trọn vẹn nỗi hoảng loạn đang nhạt dần cửa những giờ phút ấy. Điều đó đã vượt ra ngoài khả năng truyền tải ngôn ngữ.
“Ấy thế nhưng nghĩ mà xem,” cô nức nở, “cái chìa khóa vẫn nằm đó suốt. Từ trước đến giờ tớ chẳng biết gì về chuyện đó hết.”
“Lúc nào ông cụ Jacob Banks cũng lấy cái chìa to khóa cửa ra vào từ bên trong, rồi treo lên cái đinh đó,” Teddy nói. “Ông ấy khóa cửa vào khu vực dành cho dàn đồng ca bằng cái chìa khóa nhỏ mang theo về nhà. Ông ấy vẫn luôn làm thế kể từ hồi mất cái chìa khóa to ba năm trước và phải hàng mấy tuần sau mới tìm lại nó được.”
Đến lúc này Emily mới sực nhớ ra sự xuất hiện của Teddy mới kỳ lạ làm sao.
“Sao cậu lại tình cờ đến đây vậy, Teddy?”
“Thì tớ nghe thấy cậu gọi tớ mà,” cậu nói. “Có phải cậu đã gọi tớ không?”
“Đúng vậy,” Emily ngập ngừng nói, “Tớ đã gọi cậu lúc vừa mới nhìn thấy lão Morrison Khùng. Nhưng cậu không thể nghe thấy tớ được, Teddy... cậu không thể. Vạt Cúc Ngải cách đây cả dặm cơ mà.”
“Tớ đã nghe thấy cậu thật mà,” Teddy bướng bỉnh đáp. “Lúc đấy tớ đang ngủ và bị nó đánh thức. Cậu gọi, 'Teddy, Teddy, cứu tớ với'; từ xưa đến giờ, chưa bao giờ tớ nghe giọng cậu rõ ràng hơn thế. Tớ bèn bật dậy, quáng quàng mặc quần áo và đến đây nhanh hết mức.”
“Sao cậu biết tớ đang ở đây?”
“Sao à... tớ không biết nữa,” Teddy nói, vẻ bối rối. “Tớ có dừng lại nghĩ ngợi gì đâu... chỉ là lúc nghe thấy cậu gọi, dường như tớ biết rõ cậu đang ở trong nhà thờ, và tớ phải hết sức nhanh chóng đến đây. Chuyện này... chuyện này đúng thật là... kỳ cục,” cậu kết luận một câu chẳng đâu vào đâu.
“Với tớ thì chuyện này... chuyện này... hơi đáng sợ.” Emily run rẩy cả người. “Bác Elizabeth nói tớ có linh cảm tốt... cậu có nhớ chuyện về mẹ Ilse không? Thầy Carpenter nói tớ là một cô đồng... tớ không biết chính xác nghĩa của từ đó, nhưng tớ thà không phải người như thế còn hơn.”
Cô lại run lên. Teddy những tưởng cô đang lạnh, và vì chẳng có bất kỳ thứ gì khác để khoác lên người cô, cậu bèn vòng tay ôm lấy cô... với chút ngập ngừng, chỉ e sẽ xúc phạm đến lòng kiêu hãnh nhà Murray cũng như lòng tự trọng nhà Murray. Emily không thấy lạnh về mặt thể xác, nhưng tâm hồn cô thì lại dấy lên cảm giác ớn lạnh. Trong cuộc triệu tập lạ lùng ấy, có một thứ siêu nhiên nào đó – một điều huyền bí nào đó mà cô không tài nào hiểu được – đã lướt qua cô ngay sát sạt. Trong vô thức, cô nép sát vào trong lòng Teddy hơn chút nữa, nhận thức được một cách sâu sắc sự dịu dàng âu yếm của cậu thiếu niên ẩn dưới lớp vỏ dè dặt xa cách. Cô chợt nhận ra cô yêu quý Teddy hơn bất kỳ người nào khác... thậm chí còn hơn cả bác Laura, hơn cả Ilse hay chú Dean.
Teddy siết chặt vòng tay hơn một chút.
“Dù sao đi nữa, tớ rất mừng vì đã đến đây kịp thời,” cậu nói. “Nếu không, lão già điên khùng đó có thể dọa cậu sợ đến chết mất rồi.”
Hai người cứ yên lặng ngồi như thế vài phút. Dường như mọi thứ đều chìm đắm trong bầu không khí huy hoàng đẹp đẽ... và phần nào siêu thực. Emily ngỡ mình ắt hẳn phải đang trong cơn mơ, hoặc đang phiêu du vào một trong những câu chuyện diệu kỳ nào đó do chính cô sáng tác. Bão đã tan, vầng trăng lại một lần nữa tỏa sáng vằng vặc. Bầu không khí trong lành mát lạnh được dệt bằng những giọng nói đầy quyến rũ, nào là giọng nói lúc nhặt lúc khoan của những hạt mưa đang ngã khỏi những cành thích run rẩy sau lưng họ, nào là giọng nói kỳ dị của Bà Gió quanh ngôi nhà thờ màu trắng, tiếng biển xa xăm khêu gợi trí tò mò, và trong trẻo hơn, hiếm hoi hơn là những giọng nói khe khẽ xa xăm rời rạc của đêm. Emily nghe thấy hết thảy những giọng nói đó, dường như không phải bằng đôi tai của cơ thể mà thực chất là nhờ đôi tai của tâm hồn, bởi vì từ trước đến nay cô chưa bao giờ nghe thấy chúng. Ở phía xa kia là cánh đồng, con đường và những khu rừng nhỏ, khêu gợi và khó nắm bắt một cách đến là thú vị, như thế đang tắm mình dưới ánh trăng mà nghiền ngẫm về những bí mật của thế giới yêu tinh. Những cây cúc màu trắng bạc gật gù đong đưa trên những ngôi mộ rải khắp khu nghĩa địa, cả những ngôi mộ vẫn được người đời nhớ tới lẫn những ngôi mộ đã chìm vào quên lãng. Một con cú nấp trên cây thông già bật cười khanh khách một mình. Nghe thấy thứ âm thanh đầy ma mị ấy, ánh chớp huyền bí của Emily quét khắp người cô, làm cả người cô lắc lư như đang trong cơn gió mạnh. Trong cảm nhận của Emily, dường như cô và Teddy đang đơn độc trong một thế giới mới diệu kỳ, một thế giới được dệt nên từ tuổi trẻ, từ sự bí ẩn cùng niềm vui, và chỉ dành riêng cho cô và Teddy. Dường như chính bản thân họ đã hòa vào trong thứ hương đêm phảng phất ngan ngát mát rượi, trong tiếng cười của con cú, trong những cây cúc đang nở rộ giữa bầu không khí mờ mờ ảo ảo.
Về phần Teddy, cậu đang cảm thấy Emily thật xinh xắn biết nhường nào dưới ánh trăng nhạt nhòa kia, với đôi mắt huyền bí ẩn dưới hàng mi rợp bóng, với những lọn tóc nhỏ sẫm màu ve vuốt cần cổ trắng như sữa. Cậu siết chặt vòng tay thêm chút nữa... ấy vậy nhưng lòng kiêu hãnh nhà Murray cùng phẩm giá nhà Murray vẫn không mảy may phản đối.
“Emily,” Teddy thì thầm, “cậu là cô gái đáng yêu nhất trên đời.”
Những câu chữ vốn đã được hàng triệu hàng triệu cậu bé dành tặng hàng triệu hàng triệu cô bé, quá quen thuộc đến độ đáng nhẽ ra chẳng còn giá trị gì. Ấy vậy nhưng khi ta nghe thấy câu ấy lần đầu tiên, giữa một thời khắc thanh xuân diệu kỳ nào đó, chúng vẫn mới mẻ, trong trẻo và lạ kỳ đến độ như thể mới vừa lững lờ trôi dạt qua những dãy hàng rào của vườn Địa Đàng. Cô gái ạ, bất kể cô là ai, bất kể cô bao nhiêu tuổi, thì hãy cứ thành thật mà thú nhận rằng cái giây phút đó cô lần đầu tiên nghe thấy những lời nói này bật ra khỏi đôi môi một chàng trai dấu yêu đang bẽn lẽn nào đó chính là thời khắc tuyệt vời nhất trong đời. Cả người Emily, từ đỉnh đầu cho tới tận những ngón chân đang xỏ trong đôi dép lê, đều run lên trước cảm giác về một sự ngọt ngào chưa từng thấy và cơ hồ thật đáng sợ, một cảm giác tác động đến nhận thức theo đúng cách “ánh chớp” đã tác động đến tâm hồn cô. Thật dễ lý giải và hoàn toàn chẳng có gì đáng trách nếu điều tiếp theo có thể là một nụ hôn. Emily đoán rằng Teddy sắp hôn cô; Teddy biết cậu định làm thế; và rất có khả năng cậu sẽ không phải nhận một cái tát vào mặt như Geoff North.
Nhưng chuyện lại không diễn ra theo hướng đó. Một bóng đen lướt vào giữa cổng và băng qua bãi cỏ ẩm ướt, dừng lại ngay cạnh họ, rồi chạm vào vai Teddy, đúng lúc cậu vừa cúi mái đầu đen bóng xuống. Cậu ngước nhìn lên, gần như chết sững. Emily ngước nhìn lên. Bà Kent đang đứng đó, đầu trần, khuôn mặt hằn vết sẹo được chiếu sáng vằng vặc dưới ánh trăng, đôi mắt chan chứa nỗi bi thương nhìn thẳng vào họ.
Cả Emily lẫn Teddy đều đứng bật dậy đột ngột đến độ có vẻ như đúng ra nên nói là cả hai đã bị nảy bật lên mới phải. Thế giới thần tiên của Emily tan biến như bong bóng xà phòng. Cô đang ở trong một thế giới hoàn toàn khác... một thế giới phi lý, nực cười. Đúng vậy, nực cười. Tất cả mọi thứ bất chợt trở nên nực cười hẳn. Còn gì có thể nực cười hơn chuyện bị mẹ Teddy bắt quả tang cô đang ngồi đây với Teddy, lúc hai giờ đêm... cái từ kinh khủng mà mãi dạo gần đây cô mới nghe nói đên lần đầu tiên là gì ấy nhỉ? Ồ, phải rồi, tán tỉnh... chính thế đấy... tán tỉnh nhau trên ngôi mộ tám mươi năm tuổi của George Horton? Rồi người ta sẽ nhìn chuyện này theo chiều hướng đấy cho mà xem. Sao lại có chuyện như thế được cơ chứ, vừa lúc trước còn đẹp đẽ dường ấy, thế mà chỉ chớp mắt đã thành ra nực cười đến thế? Nỗi xấu hổ như ngọn lửa bừng bừng thiêu đốt cô từ chân cho tới đầu. Còn Teddy... cô biết Teddy đang cảm thấy mình chẳng khác gì một tên ngốc.
Với bà Kent thì chuyện này chẳng có gì nực cười hết... nó thật đáng sợ. Nhìn từ nỗi ghen tuông quái dị của bà, sự cố này thấm đẫm cái ý nghĩa hung gở nhất. Bà nhìn Emily bằng đôi mắt trũng sâu dường như chỉ muốn ăn tươi nuốt sống đối phương.
“Vậy ra cô đang tính kế cướp mất con trai tôi đấy,” bà nói. “Nó là tất cả những gì tôi có, ấy vậy mà cô lại rắp tâm cướp nó khỏi tay tôi.”
“Ôi, mẹ ơi, vì Chúa, mẹ hãy tỏ ra đúng đắn chút đi!” Teddy lầm bầm.
“Nó...nó còn bảo tôi tỏ ra đúng đắn cơ đấy,” bà thảm thiết kêu lên với vầng trăng. “Đúng đắn cơ đấy!”
“Vâng, đúng đắn,” Teddy giận dữ nói. “Có cái gì đâu mà ngậu nhặng hết cả lên như thế chứ. Emily tình cờ bị nhốt trong nhà thờ và cả ông Morrison Khùng cũng ở đó, dọa bạn ấy sợ gần chết. Con đến giúp bạn ấy thoát ra ngoài, và bọn con chỉ ngồi nán lại đây mấy phút đợi cho bạn ấy hết hoảng sợ để có thể đi bộ về nhà được. Chuyện chỉ thế thôi.”
“Sao con biết cô ta ở đây?” bà Kent truy hỏi.
Thực thế, tại sao kia chứ! Đấy là một câu hỏi không dễ gì trả lời. Sự thật có vẻ giống một câu chuyện bịa đặt ngớ ngẩn, xuẩn ngốc. Dẫu vậy, Teddy vẫn nhắc lại.
“Bạn ấy gọi con,” cậu nói thẳng thừng.
“Và con nghe thấy cô ta... từ cách xa hàng dặm. Con tưởng mẹ tin chuyện đó hả?” bà Kent vừa nói vừa cười sằng sặc.
Đến lúc này, Emily đã bình tĩnh trở lại sau cơn hoảng loạn. Từ khi được chào đời với cái tên Emily Byrd Starr, cô chưa khi nào bị lúng túng quá lâu. Cô ngạo nghễ đứng thẳng dậy, và trong ánh sáng lờ mờ ấy, bất chấp những đường nét Starr của mình, trông cô không khác gì một Elizabeth Murray thời còn trẻ hơn bây giờ ba mươi tuổi.
“Cho dù bà có tin hay không thì đó là sự thật, thưa bà Kent,” cô kiêu kỳ nói. “Cháu không cướp con trai bà... cháu không muốn cậu ấy... cậu ấy cứ việc đi đi.”
“Trước tiên tớ sẽ đưa cậu về nhà đã, Emily,” Teddy nói. Cậu khoanh tay lại, ngửa đầu ra sau và cố tỏ ra oai nghiêm y như Emily. Cậu cảm thấy nỗ lực đó đã thất bại một cách thảm hại, ấy vậy nhưng thái độ đó vẫn tác động mạnh mẽ đến bà Kent. Bà òa lên nức nở.
“Đi đi... đi đi,” bà nói. “Cứ đi với cô ta đi... mặc kệ mẹ muốn ra sao thì ra.”
Đến lúc này thì Emily đã giận dữ đến tột độ. Nếu người đàn bà chẳng thèm biết trời cao đất dày này cứ một mực đòi gây chuyện thì cũng tốt thôi: sẽ có chuyện đáng cho bà ta xem.
“Cháu sẽ không để cậu ấy đưa về nhà,” cô lạnh lùng nói. “Teddy, đi với mẹ cậu đi.”
“Ái chà, cô ra lệnh cho nó đấy à? Vậy là nó phải răm rắp tuân theo lời cô phỏng?” bà Kent kêu lên, có vẻ như đã hoàn toàn mất kiểm soát. Thân hình nhỏ thó của bà rung lên bần bật theo nhịp những cơn thổn thức dữ dội. Bà bóp chặt hai bàn tay.
“Nó sẽ tự mình lựa chọn,” bà kêu lên. “Nó sẽ đi cùng cô... hoặc đến với tôi. Chọn đi, Teddy, tự mình quyết định đi. Con đừng có nghe cô ta sai bảo. Chọn đi!”
Một lần nữa không thể kiềm chế được thái độ quá khích của mình, bà giơ tay lên chĩa thẳng vào Teddy tội nghiệp.
Lúc này, Teddy vừa thấy khổ sở lại vừa nhen nhóm nỗi tức giận, một cảm giác quen thuộc đối với bất kỳ tên đàn ông con trai nào khi phải tận mắt chứng kiến hai người phụ nữ tranh cãi về anh ta. Cậu chỉ mong sao mình đang ở nơi nào đó cách xa cả nghìn dặm. Thật chẳng khác gì một mớ bòng bong... mà lại còn cư xử lố bịch đến thế này trước mặt Emily nữa chứ! Thế quái nào mà mẹ cậu lại không thể xử sự giống như bao nhiêu bà mẹ khác chứ? Việc gì mà bà cứ phải tỏ ra căng thẳng rồi sồn sồn lên như thế chứ? Cậu biết thừa dân làng Hồ Blair vẫn kháo nhau rằng bà “hơi ấm đầu”. Cậu không tin câu chuyện ngồi lê đôi mách đó. Nhưng... nhưng... chà, nói tóm lại đây đúng là một mớ bòng bong. Lần nào ta cũng phải quay lại với nó. Cậu biết làm gì đây? Cậu biết rõ nếu cậu đưa Emily về nhà, mẹ cậu rồi sẽ khóc lóc cầu nguyện hết ngày này sang ngày khác cho xem. Nhưng mặt khác, thật không thể tưởng tượng nổi cậu có thể bỏ mặc Emily sau khi cô vừa trải qua kinh nghiệm đáng sợ như thế trong nhà thờ, rồi để kệ cô băng qua con đường quạnh quẽ kia. Nhưng giờ Emily đã làm chủ tình hình. Cô đang tức giận tột độ với nỗi tức giận lạnh băng của ông cụ Hugh Murray vốn không đời nào tự tiêu tán bằng màn quát tháo chẳng đâu vào với đâu mà sẽ đánh thẳng vào vấn đề trọng điểm.
“Bà là kẻ ích kỷ ngu ngốc,” côn nói, “và rồi bà sẽ khiến con trai bà phải căm ghét bà.”
“Ích kỷ! Cô gọi ta là kẻ ích kỷ đấy à,” bà Kent nức nở. “Ta chỉ sống vì Teddy thôi... thằng bé là lý do duy nhất để ta sống trên đời này.”
“Bà đúng là người ích kỷ.” Giờ Emily đang đứng thẳng: đôi mắt cô tối lại, giọng cô sắc như dao, khuôn mặt cô lồ lộ “nét mặt nhà Murray”, và dưới ánh trăng nhợt nhạt, nó phần nào khiến người ta sợ hãi. Dù đã cất tiếng, cô vẫn băn khoăn không hiểu làm sao mình lại chắc chắn về những chuyện ấy đến thế. Nhưng đúng là cô biết vậy thật. “Bà cứ tưởng bà yêu cậu ấy... nhưng bà chỉ yêu chính bản thân mình thôi. Bà nhất quyết muốn phá hỏng cuộc đời cậu ấy. Bà sẽ không cho cậu ấy đến Shrewsbury, bởi vì nếu rời xa cậu ấy, bà sẽ thấy đau khổ. Bà để nỗi ghen tuông đối với tất cả những gì cậu ấy quan tâm gặm nhấm trái tim bà, và để nó điều khiển bà. Bà không vì cậu ấy mà chấp nhận bất kỳ nỗi đau dù nhỏ bé đâu. Bà không xứng đáng làm mẹ. Teddy là một thiên tài... tất cả mọi người đều nói thế. Lẽ ra bà phải thấy tự hào vì cậu ấy... lẽ ra bà phải cho cậu ấy cơ hội. Nhưng bà đâu có làm thế... và rồi sẽ có ngày cậu ấy căm ghét bà vì chuyện đó... đúng đấy, rồi cậu ấy sẽ như thế cho xem.”
“Ôi, không, không,” bà Kent rền rĩ. Bà giơ cả hai bàn tay lên như muốn đỡ đòn và co rúm người lại nép vào Teddy. “Ôi, cô thật độc ác... độc ác. Cô làm sao biết ta đã phải chịu đựng những gì... cô là
Tác giả :
Lucy Maud Montgomery