Emily Trên Dải Cầu Vồng
Chương 21: Một giọt máu đào hơn ao nước lã
Mãi tới gần sáng Emily mới chợp mắt được. Bão đã tan và cảnh vật quanh nhà cũ của ông John toát lên vẻ ma mị dưới ánh trăng đang lặn khi cuối cùng cô cũng trôi vào giấc ngủ, mang theo niềm vui vì đã hoàn thành công việc; vì cô đã nghĩ xong về câu chuyện của mình. Giờ thì chẳng còn phải làm gì nữa, chỉ cần ghi lại cốt truyện vào cuốn sổ Jimmy thôi. Cô sẽ không cảm thấy an ổn chừng nào còn chưa viết được chúng ra giấy trắng mực đen. Cô sẽ không tìm cách viết truyện này ngay bây giờ; ồ, sẽ không viết cho tới nhiều năm nữa. Cô sẽ phải đợi cho tới khi thời gian và kinh nghiệm biến ngòi bút của cô thành công cụ có khả năng mang sự công bằng đến cho nhận thức của cô - bởi vì theo đuổi ý tưởng suốt cả một đêm xuất thần là điều quan trọng, nhưng cũng quan trọng không kém là ghi lại ý tưởng đó ra giấy theo một bút pháp sẽ tái tạo được một phần mười sức quyến rũ và ý nghĩa ban đầu của nó.
Emily bị đánh thức bởi Ilse, lúc này đang ngồi bên mé giường, trông nhợt nhạt và tiều tụy, nhưng đôi mắt màu hổ phách lại tràn ngập niềm vui không thể chế ngự.
“Chà, ngủ một giấc xong là tớ rũ sạch cơn trác táng rồi, Emily Starr ạ. Và sáng nay dạ dày tớ ổn định. Món rượu whisky của ông Malcolm đã làm nó yên ổn rồi; dẫu rằng theo ý tớ thì ba phần khổ vì bệnh còn bảy phần khổ vì phương thuốc ấy đấy. Có lẽ cậu vẫn băn khoăn không hiểu tại sao tối qua tớ chẳng chuyện trò gì.”
“Tớ nghĩ cậu say quá rồi chẳng trò chuyện gì được,” Emily thẳng thắn nói.
Ilse cười khúc khích.
“Có mà tớ say quá rồi nên không thể không nói ấy chứ. Lúc đến chỗ sofa, tớ đã qua cơn choáng váng rồi và tớ muốn nói, Emily ạ; chao ôi, tớ muốn nói! Và tớ muốn nói những chuyện ngu ngốc nhất, kể ra hết những điều tớ biết hay suy nghĩ. Chỉ có điều, tớ vẫn còn đủ lý trí để biết rõ rằng tớ không được phép nói những chuyện đó, nếu không tớ sẽ vĩnh viễn biến mình thành con ngốc; và tớ cảm thấy nếu tớ nói dù chỉ một lời thì nó cũng sẽ chẳng khác nào vừa tháo nút chai; tất cả sẽ tuôn ra tồng tộc. Vậy nên tớ khóa miệng lại, không nói năng gì. Tớ rùng cả mình khi nghĩ đến những chuyện mình có thể đã nói... và nói trước mặt Perry nữa chứ. Cậu sẽ không bao giờ còn bắt gặp Ilse bé bỏng chè chén lu bù nữa đâu. Từ hôm nay trở đi, tớ sẽ sửa mình.”
“Tớ chỉ không hiểu được,” Emily nói, “làm sao mà với cái gì cũng vậy, chỉ cần một lượng nhỏ xíu như thế cũng khiến đầu óc cậu đảo lộn hết cả lên.”
“Ôi chao, cậu biết mẹ tớ là một người nhà Mitchell rồi còn gì. Ai mà chẳng biết người nhà Mitchell chỉ cần nhấp một thìa rượu là đã ngã lăn cu chiêng ra rồi. Đó chính là một trong những trở ngại mang tính dòng họ đấy. Nào, tỉnh táo lên, tình yêu của tôi, người bạn thẳng thắn của tôi. Cánh con trai đang đốt lửa rồi, và Perry nói chúng ta có thể chế được một bữa ngon lành từ thịt lợn, đậu và bánh quy. Tớ đói ngấu đến nỗi có thể ăn sạch bách cả hộp đây này.”
Chính lúc Emily khua khoắng trong chạn tìm ít muối, cô đã có một khám phá vĩ đại. Ở tận trong góc ngăn chạn trên cùng, có một chồng sách cũ bụi bặm, hẳn là từ thời ông bà John và Almira Shaw - những sổ sách kế toán, niên giám, nhật ký mốc meo cũ rích. Emily lôi chồng sách xuống và khi nhặt lên xem, cô phát hiện ra trong đó có một cuốn sổ lưu bút cũ. Một tờ giấy xộc xệch long cả ra ngoài. Khi Emily đặt tờ giấy về chỗ cũ, đôi mắt cô rơi xuống tên bài thơ được dán lên trên. Cô cầm bài thơ lên, và lập tức hơi trở nên dồn dập hẳn. Huyền thoại Abegweit - bài thơ đã giúp Evelyn giành giải thưởng! Nó nằm đây, trong cuốn lưu bút ngả vàng cũ kỹ đã ít nhất hai mươi năm tuổi - chính xác đến từng từ, chỉ có điều Evelyn đã cắt bớt hai khổ để phù hợp với yêu cầu về độ dài.
“Mà lại là hai khổ thơ hay nhất chứ,” Emily khinh thường nghĩ. “Đúng kiểu Evelyn! Cô ta rõ ràng không có con mắt văn chương gì cả.”
Emily đặt lại đống sách vào trong kệ, nhưng cô tuồn trang giấy bị long khỏi sổ kia vào túi, và lơ đãng ăn phần bữa sáng được dành cho mình. Giờ thì cánh con trai đã bắt tay vào mở đường. Perry và Teddy tìm thấy một cái xẻng trong kho và chẳng mấy chốc đã khai thông được một lối dẫn ra đường cái. Cuối cùng, sau một cuốc xe dẫu chậm chạp nhưng yên ổn, nhóm bạn cũng về đến nhà và nhận thấy ở trang trại Trăng Non, mọi người vẫn bồn chồn lo lắng không biết số phận bốn cô cậu ra sao, và ai nấy đều có phần hốt hoảng khi được biết họ đã phải qua đêm trong ngôi nhà cũ của ông John.
“Cháu có khả năng bị cảm lạnh chết mất ấy chứ,” bà Elizabeth nghiêm nghị nói.
“Thì cũng có cách nào khác đâu ạ. Nếu không vậy thì sẽ bị chết cóng giữa trời tuyết mất,” Emily nói, và chẳng ai nói gì về vấn đề này nữa. Vì họ đã về nhà an toàn và chẳng ai cảm lạnh, còn cần phải nói gì khác nữa chứ? Đó chính là cách nhìn nhận vấn đề theo kiểu Trăng Non. Cách nhìn Shrewsbury thì có phần khác. Nhưng cách nhìn Shrewsbury không lộ rõ ngay lập tức. Đến tối thứ Hai, toàn bộ câu chuyện đã lan khắp Shrewsbury - Ilse kể lại nó ở trường và miêu tả trận say rượu của mình bằng thái độ hăm hở tột độ, giữa những tiếng cười đùa hú hét của bạn bè. Tối hôm đó, lần đầu tiên trong đời chủ động tìm gặp Evelyn Blake, Emily thấy Evelyn có vẻ khá hài lòng với chuyện này.
“Cậu không thể khiến Ilse ngừng kể câu chuyện đó đi được à, bạn thân mến?”
“Câu chuyện nào?”
“Sao chứ, chuyện say rượu tối thứ Sáu vừa rồi ấy - buổi tối cậu và cậu ta ở cùng Teddy Kent và Perry Miller trong cái ngôi nhà cũ trên Ao Thành Kiến đó đấy,” Evelyn nói nhẹ nhàng.
Emily bất chợt đỏ bừng cả mặt. Trong giọng Evelyn có cái gì đó - dường như cái thực tế trong sáng bỗng nhiên bị khoác lên sắc thái ý nghĩa đầy nham hiểm. Liệu có phải Evelyn đang chủ tâm tỏ ra xấc láo?
“Tôi chẳng hiểu tại sao bạn ấy lại không nên kể câu chuyện đó chứ.” Emily lạnh nhạt nói. “Đấy là một chuyện đùa hay ho về bạn ấy mà.”
“Nhưng cậu biết thừa mọi người sẽ nói gì rồi đấy,” Evelyn nói, giọng lịch sự. “Mọi chuyện có hơi... không phù hợp. Tất nhiên, cậu đâu thể ngăn mình bị kẹt giữa cơn bão... tôi cho là thế... nhưng Ilse sẽ chỉ làm mọi chuyện tệ hơn thôi. Cậu ta quá bất cẩn... chẳng lẽ cậu không có bất kỳ ảnh hưởng nào đối với cậu ta hay sao, Emily?”
“Tôi không đến đây để thảo luận về vấn đề đó,” Emily nói thẳng thừng. “Tôi đến để chỉ cho cậu xem một thứ tôi đã tìm thấy trong căn nhà cũ của ông John.
Cô chìa tờ lưu bút ra. Evelyn thất thần nhìn tờ giấy một lát. Rồi khuôn mặt cô nàng đỏ lên, chỗ hồng chỗ tía đầy khả nghi. Không kịp suy nghĩ, cô nàng giơ tay ra như thể muốn chộp lấy tờ giấy, nhưng Emily đã nhanh chóng thu nó lại. Đôi mắt hai người gặp nhau. Trong giây phút đó, Emily cảm thấy cuối cùng thì họ cũng hòa điểm với nhau.
Cô đợi Evelyn lên tiếng. Sau một lúc, Evelyn cũng nói; giọng sưng sỉa:
“Thế đấy, cậu định làm gì với nó hả?”
“Tôi vẫn chưa quyết định,” Emily nói.
Đôi mắt nâu dài xảo trá của Evelyn quét lên khuôn mặt Emily, vẻ xảo quyệt và dò hỏi.
“Hẳn là cậu định đưa nó cho tiến sĩ Hardy và làm tôi mất mặt trước cả trường chứ gì?”
“Ái chà, chẳng phải cậu xứng đáng bị thế còn gì?” Emily phán xét.
“Tôi... muốn giành được giải thưởng đó vì cha tôi đã hứa nếu tôi chiến thắng thì hè năm tới sẽ cho tôi đến Vancouver chơi,” Evelyn lẩm bẩm, đột nhiên trở nên suy sụp. “Tôi... tôi muốn đi đến phát điên lên được. Ôi, đừng tiết lộ chuyện của tôi, Emily... cha tôi sẽ giận dữ lắm. Tôi... tôi sẽ cho cậu bộ Parkman... tôi sẽ làm bất kỳ điều gì... miễn là đừng...”
Evelyn òa khóc. Emily chẳng muốn nhìn thấy cảnh tượng này.
“Tôi không muốn bộ Parkman của cậu,” cô nói. “Nhưng có một chuyện cậu cần phải làm. Cậu phải thú nhận với bác Ruth rằng chính cậu đã vẽ râu lên mặt tôi hôm có bài thi tiếng Anh chứ không phải Ilse.”
Evelyn lau sạch nước mắt, nuốt lời muốn nói vào trong lòng.
“Đấy chỉ là chuyện đùa thôi mà,” cô nàng nức nở.
“Đến mức nói dối về chuyện đó thì không còn là đùa nữa,” Emily lạnh lùng nói.
“Sao cậu... sao cậu... thẳng thừng thế.” Evelyn săm soi một hồi cũng tìm ra được một điểm khô ráo trên chiếc khăn tay. “Chỉ thuần túy trêu đùa thôi mà. Tôi phải chạy từ hiệu sách về để làm thế đấy. Tất nhiên, tôi cứ tưởng lúc tỉnh dậy cậu sẽ soi gương chứ. Tôi kh... không nghĩ là cậu cứ thế mà đến trường. Mà tôi cũng không biết là bác cậu lại coi chuyện này to tát thế. Tất nhiên... tôi sẽ nói với bác ấy... nếu cậu... nếu cậu...”
“Viết ra và ký tên vào đi,” Emily nói, chẳng chút lưu tình.
Evelyn viết ra và ký tên.
“Cậu sẽ đưa cho tôi... cái đó chứ,” cô nàng khẩn nài, bàn tay khẩn khoản vươn về phía tờ lưu bút.
“Ồ, không đâu, tôi sẽ giữ cái này,” Emily nói.
“Vậy thì xét cho cùng, có gì đảm bảo là cậu sẽ không nói... một ngày nào đó?” Evelyn khịt khịt mũi.
“Cậu có lời hứa của một người nhà Starr rồi,” Emily ngạo mạn nói.
Cô mỉm cười đi ra. Cuối cùng, cô đã giành chiến thắng trong cuộc chiến trường kỳ. Và cô đang nắm trong tay bằng chứng cuối cùng cũng rửa sạch tội lỗi của Ilse trong mắt bà Ruth.
Bà Ruth khịt mũi liên hồi trước tờ giấy Evelyn viết và hỏi hết câu này đến câu khác nhằm tìm xem Emily dọa dẫm cách nào mà lại kiếm được lời thú nhận ấy. Nhưng vì chẳng thể giội gáo nước lạnh lên niềm thỏa mãn của Emily trước chiến thắng này và biết rõ ông Allan Burnley vẫn luôn khó chịu với bà từ hồi bà xua đuổi con gái ông, bà thầm lấy làm mừng vì đã có một lý do phá bỏ lệnh cấm này.
“Vậy thì tốt rồi. Ta đã nói với cháu rằng Ilse có thể đến đây khi nào cháu tìm ra bằng chứng thích đáng chứng minh cho ta thấy con bé không chơi trò đó. Cháu đã chứng minh được, và ta sẽ giữ lời. Ta vốn là người công bằng mà,” bà Ruth kết luận - có lẽ lúc này chính bà mới là người phụ nữ bất công nhất trên đời.
Cho đến lúc đó thì mọi chuyện ổn thỏa cả. Nhưng nếu Evelyn muốn trả thù thì cô nàng đã được thưởng thức trọn vẹn men say của nó vào ba tuần sau, mà chẳng cần phải nhấc một ngón tay hay uốn một tấc lưỡi nào để đổ thêm dầu vào lửa. Toàn thể Shewsbury sôi sục với lời đồn thổi về cái đêm bão gió đó - nào là bóng gió, nào là bóp méo sự việc và cả bịa đặt hoàn toàn. Emily bị mất mặt tại buổi trà chiều ở nhà Janet Thompson đến độ phải về nhà trong cảnh mặt mày trắng bệch vì nhục nhã. Ilse giận dữ đến phát điên.
“Tớ sẽ chẳng buồn bận tâm nếu quả thực tớ đã say sưa bê bết và sung sướng với nó,” cô giậm chân tuyên bố hùng hồn. “Nhưng tớ đâu có say đến độ thấy sung sướng chứ; mà chỉ say đủ để thấy mình thật lố bịch thôi. Có nhiều khi, Emily ạ, tớ cảm thấy sẽ thật tuyệt vời xiết bao nếu tớ là một con mèo, còn những mụ già Shrewsbury này chỉ là một lũ chuột nhắt. Nhưng hãy cứ vui vẻ đi. Thật lòng mà nói, tớ chẳng thèm quan tâm. Chuyện này chẳng mấy chốc sẽ trôi vào quên lãng. Chúng ta sẽ chiến đấu.”
“Cậu đâu thể chiến đấu với những lời bóng gió chứ,” Emily chua chát nói.
Ilse không quan tâm; nhưng Emily lại vô cùng để tâm. Lòng kiêu hãnh Murray buốt nhói đến mức không thể nào chịu nổi. Và càng lúc, nó càng nhức nhối hơn. Câu chuyện đêm bão đó còn được biến thành chuyện cười đăng trên một tờ báo lá cải xuất bản ở một thị trấn vùng nội địa và được xào xáo từ các bức thư “giật gân” gửi đến tòa soạn từ khắp mọi nơi trên miền duyên hải. Chưa từng có bất kỳ ai thừa nhận đã đọc nó, nhưng gần như tất cả mọi người đểu biết tất cả mọi thứ được viết ở đó; ngoại trừ bà Ruth, vốn chẳng bao giờ thèm mó đến báo với chí. Không cái tên nào được nhắc đến, nhưng tất cả mọi người đều biết bài báo muốn ám chỉ ai, và chẳng ai không nhận ra cái nọc độc đầy nham hiểm mà nó tiết ra. Emily những tưởng mình sẽ chết vì nhục nhã mất. Và cú đòn hiểm ác nhất là câu chuyện được kể lại ấy quá thô tục, quá xấu xí; và nó đã biến cái buổi tối đẹp đẽ tràn ngập niềm vui, sự khám phá cùng sự sáng tạo mê ly trong ngôi nhà cũ của ông John trở nên thô tục và xấu xí. Cô những tưởng thời khắc đó sẽ mãi mãi là một trong những ký ức đẹp đẽ nhất của cô. Và giờ thì thế này đây! Teddy và Perry tức điên lên và chỉ muốn giết người, nhưng các cậu ấy có thể giết ai bây giờ? Như Emily đã nói với hai cậu, dẫu họ có nói gì làm gì thì cũng chỉ làm tình hình thêm tồi tệ mà thôi. Sau vụ đăng tải bài báo đó, chuyện đã đủ tệ hại lắm rồi. Emily không được mời đến buổi vũ hội của Florence Blake diễn ra vào tuần sau - sự kiện xã hội trọng đại của mùa đông. Cô bị gạt ra khỏi bữa tiệc trượt băng của Hattie Denoon. Một vài mệnh phụ phu nhân ở Shewsbury chẳng thèm nhìn ngó gì cô khi họ gặp nhau trên phố. Những người khác thì đẩy cô ra xa cả ngàn dặm bằng cái vẻ lịch sự lạnh lùng, nhạt nhẽo. Có mấy cậu thanh niên quanh thị trấn lại tỏ thái độ thân thiện đến kỳ cục. Một người trong số đó, vốn hoàn toàn không quen biết gì với cô, đã bắt chuyện với cô ở bưu điện một tối nọ. Emily quay người nhìn cậu ta. Dẫu khổ sở và xấu hổ đến thế, cô vẫn là cháu gái của Archibald Murray. Mãi cho tới tận khi đã cách bưu điện tận ba khối nhà, cậu thanh niên tội nghiệp ấy mới có thể bình thường trở lại và ý thức được mình đang ở đâu. Cho tới tận giờ, cậu vẫn không tài nào quên được khi Emily Byrd Starr tức giận, đôi mắt cô trông như thế nào.
Nhưng cho dù cái ánh mắt Murray ấy có thể phá hủy hoàn toàn một kẻ phạm tội vô cùng cứng rắn thì nó lại vẫn không thể ngăn chặn những câu chuyện giật gân. Cô đau khổ cảm thấy tất cả mọi người đều tin vào những câu chuyện đó. Theo Emily được nghe kể lại, cô Percy ở thư viện cho biết cô ta luôn thấy không thể tin tưởng nụ cười của Emily Starr; rằng cô ta luôn cảm thấy chắc chắn nó được chủ tâm khoác cho cái vẻ khêu gợi và cám dỗ. Emily có cảm giác cô, cũng giống y như đức vua Henry tội nghiệp, sẽ chẳng bao giờ còn mỉm cười trở lại được nữa. Người ta nhớ lại rằng hồi bảy mươi năm trước, bà cụ Nancy Priest cũng ngông cuồng bừa bãi ra trò; và chẳng phải hồi còn trẻ, chính phu nhân Dutton cũng dính phải tai tiếng đấy thôi? Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, các vị biết đấy. Mẹ cô cũng từng bỏ nhà theo trai, đúng không nào? Lại còn mẹ Ilse nữa chứ? Tất nhiên, bà ta đã chết vì bị ngã xuống cái giếng cũ nhà ông Lee, nhưng nếu không bị thế thì ai mà biết được bà ta sẽ làm gì cơ chứ? Rồi còn cái câu chuyện từ thời nảo thời nào về vụ tắm trần trên bãi cát ở Hồ Blair. Nói tóm lại, còn lâu các vị mới thấy có cô gái đứng đắn nào lại có cái mắt cá chân giống như của Emily. Chắc chắn họ chẳng có cái thứ đấy đâu.
Thậm chí, anh chàng Andrew ngây thơ và không được chào đón cũng không còn ghé qua vào các tối thứ Sáu nữa. Chuyện này thực sự là một cú đòn đau. Emily vẫn luôn thấy Andrew là kẻ phiền phức và sợ chết khiếp những buổi tối thứ Sáu anh ta ghé thăm. Hễ chộp được cơ hội nào là cô chỉ nhăm nhăm tống khứ anh ta đi cho nhanh. Nhưng bạn cần phải thấy rằng việc Andrew tự nguyện khăn gói ra đi lại mang phong vị khác hẳn. Emily không khỏi siết chặt hai bàn tay khi nghĩ đến chuyện này.
Cô còn nhận được một tin tức cay đắng rằng Hiệu trưởng Hardy tuyên bố cô nên rút lui khỏi cương vị lớp trưởng lớp cuối cấp. Emily hất cao đầu. Từ chức? Thú nhận thất bại và thừa nhận tội lỗi? Còn lâu cô mới làm thế?
“Tớ có thể táng cho lão ấy một phát vào đầu,” Ilse nói. “Emily Starr, đừng có lo lắng về chuyện này. Cái đám lừa già lập cập nghĩ như thế nào thì có gì quan trọng chứ? Tớ mặc xác cho các vị thần địa ngục xử trí họ. Một tháng nữa là họ lại có vô khối thứ để mà xâu xé cho thỏa thích và sẽ quên chuyện này thôi.”
“Tớ sẽ không bao giờ quên được,” Emily xúc động nói. “Từ giờ cho tới chết, tớ sẽ vẫn nhớ nỗi nhục nhã đã phải trải qua trong mấy tuần này. Còn bây giờ, Ilse ạ, bà Tolliver đã viết thư đề nghị tớ từ bỏ chỗ của mình trong cuộc bán hàng phúc thiện của nhà thờ Thánh John.”
“Emily Starr... bà ấy không làm thế chứ!”
“Bà ấy làm thế đấy. Ồ, tất nhiên, bà ấy ngụy trang bằng cách viện cớ bà ấy muốn dành chỗ cho người họ hàng từ New York đang ở chơi, nhưng tớ hiểu mà. Và trên thư còn viết ‘Cô Starr thân mến’, cậu nhìn mà xem, trong khi mấy tuần trước vẫn còn là ‘Emily yêu dấu nhất đời’. Tất cả mọi người ở nhà thờ Thánh John rồi sẽ biết tại sao tớ bị đẩy ra ngoài. Trong khi chính bà ấy suýt nữa đã quỳ xuống van xin bác Ruth cho tớ nhận quầy bán hàng. Bác Ruth đâu có muốn cho tớ tham gia chứ.”
“Bác Ruth của cậu sẽ nói gì về chuyện này đây?”
“Ôi, đó mới là phần tồi tệ nhất, Ilse ạ. Giờ thì bác ấy ắt hẳn sẽ biết thôi. Từ lúc phải nằm bẹp vì đau thần kinh tọa, bác ấy chưa nghe được gì về chuyện này hết. Tớ cứ luôn thấp thỏm chỉ sợ bác ấy phát hiện ra rồi thì sẽ kinh khủng lắm. Giờ thì bác ấy bắt đầu đi lại được rồi, nên tất nhiên dù gì thì gì, chẳng mấy mà bác ấy sẽ nghe nhắc đến chuyện này thôi. Trong khi tớ chẳng có tinh thần đâu để mà đấu lý với bác ấy. Ôi, mọi chuyện chẳng khác gì một cơn ác mộng.”
“Dân thị trấn này toàn những kẻ đầu óc nhỏ mọn, xảo quyệt, hẹp hòi, ti tiện đến thế đấy,” Ilse nói, và lập tức thấy dễ chịu hẳn. Nhưng Emily không thể xoa dịu tâm hồn đau khổ của cô bằng một tràng tính từ được chọn lọc. Cô cũng chẳng thể viết lại nỗi khổ sở của mình và bởi vậy cũng không cách gì giải thoát bản thân khỏi nó được. Chẳng còn thêm những dòng ghi chép nhanh trong cuốn sổ Jimmy, chẳng còn thêm những bài viết trong nhật ký, chẳng còn truyện thơ mới. Giờ thì ánh chớp chẳng bao giờ đến nữa... chẳng bao giờ còn trở lại nữa. Sẽ không bao giờ còn gặp lại những cơn phấn khích bí mật diệu kỳ không ai có thể sẻ chia khi ta chìm đắm trong sự thấu hiểu và sáng tạo. Cuộc sống đã trở nên nghèo nàn hơn, nhạt nhòa hơn, mờ đục và không chút đáng yêu. Nhìn đâu cũng chẳng thấy được vẻ đẹp; thậm chí không thấy ngay cả trong không gian tháng Ba đượm màu trắng vàng hiu quạnh của Trăng Non, khi cô quay về nhà dịp cuối tuần. Cô khát khao được về nhà, nơi chẳng ai tin những điều xấu xa về cô. Ở Trăng Non, không ai nghe phong thanh gì về những chuyện đang được thầm thì bàn tán ở Shrewsbury. Nhưng chính sự không biết này lại khiến Emily khổ sở không yên. Chẳng mấy chốc mọi người rồi cũng sẽ biết; họ sẽ bị tổn thương, sẽ u sầu trước cái thực tế rằng một Murray, thậm chí ngay cả một Murray ngây thơ, cũng trở thành mục tiêu của vụ bê bối. Và ai mà biết họ sẽ nhìn nhận thế nào về sự cố Ilse gặp phải với món rượu Scotch của Malcolm chứ? Emily gần như thấy nhẹ cả người khi quay trở lại Shrewsbury. Cô tưởng tượng ra sự gièm pha trong hết thảy những lời thầy hiệu trưởng Hardy nói; tưởng tượng ra sắc thái sỉ nhục kín đáo trong mọi lời bình luân, mọi ánh mắt của bạn học. Chỉ độc Evelyn Blake làm bộ làm tịch như bạn bè và người biện hộ của cô, và đây mới chính là nhát dao tàn nhẫn hơn cả. Emily không biết liệu có gì nguy hiểm và xảo trá đằng sau cái điệu bộ giả tạo của Evelyn hay không; nhưng cô biết thừa thái độ khoa trương nào thân thiện, nào trung thành, nào tin tưởng chắc chắn bất chấp bằng cớ không gì tranh cãi nổi ấy mới chính là thứ dường như khiến cô bị vấy bẩn hơn hết thảy những lời đơm đặt bàn tán. Evelyn đi khắp nơi cam đoan với tất cả mọi người rằng cô nàng không tin một lời nào chống lại “Emily thân mến tội nghiệp”. Emily thân mến tội nghiệp có thể cười tươi mà chứng kiến cô ta chết đuối; hoặc cô ta cho là mình có thể làm thế.
Trong lúc đó, bà Ruth, vốn bị giam hãm trong nhà mất vài tuần vì chứng đau thần kinh tọa và bị nó hành cho thành cắm cảu đến nỗi dẫu bạn bè hay kẻ thù thì cũng đều không dám bóng gió với bà bất cứ điều gì về lời đồn thổi dính đến cháu gái bà, cũng bắt đầu để ý. Chứng đau thần kinh tọa của bà đã dứt và để bà được thoải mái dồn toàn tâm toàn trí vào những thứ khác. Ngẫm lại, bà nhớ ra mấy ngày gần đây, Emily không được ngon miệng lắm, và bà ngờ rằng cô cũng không ngủ. Ngay khi nghi ngờ này lóe lên trong đầu, bà Ruth bèn hành động luôn. Những lo lắng bí mật không được khoan dung dưới mái nhà của bà.
“Emily, ta muốn biết cháu đang có chuyện gì,” bà cật vấn vào một chiều thứ Bảy khi Emily, nhợt nhạt và lơ đãng, mắt thâm quầng, một lần nữa không ăn gì trong bữa tối.
Chút huyết sắc ửng lên trên khuôn mặt Emily. Vậy là cái giây phút cô khiếp sợ đã đến rồi. Ắt hẳn bà Ruth đã nghe kể lại tường tận mọi chuyện. Và Emily khổ sở nhận ra cô không đủ dũng cảm để chịu đựng cuộc chất vấn tất yếu sẽ xảy ra tiếp theo, cũng chẳng có tinh thần đâu để mà bình tĩnh tương đầu với nhưng câu hỏi tại sao, vì lí do gì của bà Ruth. Cô biết rõ mọi chuyện sẽ ra sao: kinh hoàng trước sự tình diễn ra ở nhà ông John - như thể bất kỳ ai cũng có thể ngăn chặn được nó; bực tức bởi lời đồn thổi - như thể Emily phải chịu trách nhiệm cho nó; cam đoan này nọ rằng từ xưa đến nay bà vẫn luôn tin chắc sẽ có lúc xảy ra chuyện như thế này; và rồi những tháng ngày không thể chịu nổi với những nhắc nhở, những lời gièm pha về sự việc. Emily thầm cảm thấy kinh tởm đến buồn nôn trước toàn bộ viễn cảnh này. Mất một lúc lâu, cô không cất lên được lời nào.
“Cháu đang làm gì vậy hả?” bà Ruth vẫn kiên trì hỏi.
Emily nghiến chặt răng. Thật không thể chịu đựng nổi, nhưng vẫn phải chịu đựng thôi. Câu chuyện phải được kể ra; điều duy nhất phải làm là làm sao để nó được kể càng sớm càng tốt.
“Cháu chẳng làm gì sai cả, bác Ruth. Cháu chỉ làm một chuyện khiến người ta hiểu nhầm thôi.”
Bà Ruth khịt mũi. Nhưng bà lắng nghe toàn bộ câu chuyện Emily mà không cắt ngang lần nào. Emily kể lại một cách ngắn gọn hết mức, cảm thấy mình như thể một kẻ tội phạm đang đứng trước bục nhân chứng, còn bà Ruth vừa là thẩm phán, vừa là bổi thẩm đoàn lẫn công tố viên. Khi đã kể xong, cô ngồi im lặng, chờ đợi một lời bình phẩm đặc trưng của bà Ruth.
“Thế người ta làm om sòm hết cả lên vì cái gì vậy?” bà Ruth hỏi.
Emily không biết nói sao cho đúng. Cô nhìn bà Ruth chằm chằm.
“Họ... họ vẫn đang nghĩ... và nói đủ mọi điều kinh khủng,” cô ngập ngừng. “Bác biết đấy... ở dưới Shrewsbury được chở che yên ổn này, người ta đâu có nhận ra một cơn bão sẽ như thế nào. Và, tất nhiên, mỗi người kể lại câu chuyện đều thêm mắm giặm muối một chút; đến lúc câu chuyện lan tràn khắp Shrewsbury thì tất cả bọn cháu đều say cả.”
“Điều khiến ta bực mình,” bà Ruth nói, “là các cháu lại đi rêu rao chuyện này khắp cả Shrewsbury. Vì lý do quái quỷ nào mà các cháu lại không chịu giữ kín mọi chuyện vậy hả?”
“Thế thì sẽ thành ranh mãnh mất,” con quỷ trong Emily đột nhiên nhảy vọt ra nói câu này. Giờ đây, khi câu chuyện đã được công khai, cô cảm thấy tinh thần phấn khởi đến độ suýt nữa đã cười phá lên.
“Ranh mãnh! Đó là sự khôn ngoan,” bà Ruth khịt mũi. “Nhưng, tất nhiên, Ilse làm sao giữ mồm giữ miệng được chứ. Ta nói mãi với cháu rồi, Emily, một người bạn ngu ngốc còn nguy hiểm gấp mười lần một kẻ thù. Nhưng cháu lo lắng đến chết dần chết mòn vì cái gì kia chứ? Lương tâm cháu trong sạch. Lời đồn thổi này rồi sẽ sớm chết thôi.”
“Hiệu trưởng Hardy nói cháu nên từ chức lớp trưởng,” Emily nói.
“Jim Hardy! Thế đấy, cha ông ta từng làm thuê cho ông nội ta suốt nhiều năm,” bà Ruth nói bằng giọng khinh bỉ tột cùng, “Jim Hardy lại tưởng rằng cháu gái ta sẽ cư xử không đúng đắn sao?”
Emily không hiểu ra làm sao nữa. Cô nghĩ ắt hẳn mình đang nằm mơ. Người phụ nữ khác thường này có phải bác Ruth không vậy? Đây không thể là bà Ruth được. Emily đang phải đương đầu với một trong những mâu thuẫn bản năng của nhân loại. Cô dần dần nhận thức được rằng ta có thể chống lại họ hàng ta, bất đồng ý kiến với họ, thậm chí căm ghét họ, nhưng giữa ta và họ vẫn luôn tồn tại một sợi dây liên kết. Bằng cách nào đó, các sợi gân của ta, các dây thần kinh của ta xoắn quýt cùng của họ. Bao giờ chẳng vậy, một giọt máu đào hơn ao nước lã. Cứ mặc kệ cho người ngoài công kích đi; thế thôi. Ít nhất bà Ruth cũng có một trong những đức tính của nhà Murray - trung thành với dòng họ.
“Đừng lo về Jim Hardy,” bà Ruth nói. “Ta sẽ nhanh chóng xử lý ông ta. Ta sẽ mở mắt cho mọi người thấy liệu mà giữ miệng lưỡi tránh xa nhà Murray ra.”
“Nhưng bà Tolliver đã yêu cầu cháu nhường cho họ hàng của bà ấy quầy hàng của cháu trong buổi bán hàng từ thiện,” Emily nói. “Bác biết như thế nghĩa là gì đấy.”
“Ta biết Polly Tolliver là môt kẻ giàu xổi ngu ngốc,” bà Ruth độp lại. “Từ hồi Nat Tolliver lấy nhân viên tốc ký của ông ta làm vợ, nhà thờ Thánh John chẳng còn như cũ nữa. Mười năm trước, bà ta còn là một cô nàng chân đất chạy quanh các ngõ hẻm của Charlottetown. Đến lũ mèo cũng chẳng cho bà ta vào trong. Giờ thì bà ta lại ra cái vẻ nữ hoàng và rắp tâm điều hành nhà thờ nữa. Ta sẽ nhanh chóng cắt hết móng vuốt của bà ta. Mấy tuần trước, bà ta còn lấy làm biết ơn vì có một người nhà Murray góp mặt trong gian hàng của bà ta. Đó là một thành tựu đối với bà ta.Polly Tolliver, đúng là không lẫn vào đâu được. Thế giới đang thành ra cái gì đây chứ?”
Bà Ruth oai vệ lên trên tầng, để mặc Emily hoang mang nhìn những phiền muộn đang dần biến mất. bà Ruth đã lại bước xuống, sẵn sàng cho cuộc chiến. Bà đã uốn tóc, đội chiếc mũ bon nê tốt nhất, mặc bộ váy lụa đen đẹp nhất và khoác chiếc áo choàng bằng da hải cẩu mới nhất. Với cách ăn vận như thế, bà rảo bước tới phố thượng, đến dinh thự Tolliver trên đồi. Bà lưu lại đó nửa tiếng đồng hồ, trò chuyện riêng cùng bà Nat Tolliver. Bà Ruth vốn thấp và đậm người, trông vô cùng tồi tàn và lạc hậu, bất chấp chiếc mũ bon nê mới và cái áo choàng da hải cẩu. Bà Nat ăn mặc rất thời thượng và trang nhã, với bộ váy từ Paris, chiếc kính cầm tay và mái tóc uốn xoăn xinh đẹp - thời đó, mốt uốn tóc xoăn vừa xuất hiện và bà Nat chính là người đầu tiên theo mốt này ở Shrewsbury. Nhưng chiến thắng trong cuộc đối đầu không rơi vào tay bà Tolliver. Không ai biết chính xác nội dung cuộc đối thoại trứ danh ấy. Chắc chắn bà Tolliver sẽ không bao giờ hé môi. Nhưng khi bà Ruth rời khỏi ngôi nhà rộng lớn ấy, bà Tolliver đang vò nhàu bộ váy Paris, còn mái tóc xoăn của bà bồng bềnh giữa đám đệm sofa trong lúc bà lau những giọt nước mắt uất hận và tủi hổ; còn bà Ruth cầm trong bao tay bức thư ngắn bà Tolliver gửi “Emily yêu quý”, cho biết người họ hàng của bà ta sẽ không nhận gian hàng tại hội chợ từ thiện và xin “Emily yêu quý” hãy làm ơn tiếp nhận quầy hàng như kế hoạch ban đầu. Tiến sĩ Hardy là đối tượng đối thoại tiếp theo, và một lần nữa bà Ruth lại ra về, như người ta nhìn thấy, trong tư thế chiến thắng. Cô hầu phục vụ trong nhà Hardy đã nghe thấy rồi sau đó kể lại cho mọi người một câu trong cuộc trao đổi đó, mặc dầu chẳng ai tin nổi bà Ruth từng nói như thế thật với tiến sĩ Hardy đeo kính oai nghiêm.
“Tôi biết ông vốn là thắng ngốc, Jim Hardy, nhưng vì Chúa, hãy giả vở tỏ ra ông không phải gã ngu năm phút thôi được không!”
Không, không đời nào có chuyện đó. Tất nhiên, chính cô hầu kia đã bịa chuyện.
“Cháu không còn gặp thêm nhiều rắc rối nữa đâu, Emily,” bà Ruth nói khi đã quay về nhà. “Polly và Jim đã no đủ rồi. Khi mọi người thấy cháu có mặt tại hội chợ từ thiện, họ sẽ nhanh chóng nhận ra gió đang thổi chiều nào để mà thuận thế giương buồm xoay theo chiều đó. Ta vẫn còn vài chuyện để nói với vài người trong thị trấn khi nào có cơ hội. Tình hình rồi sẽ thành gay go ra trò nếu các cô cậu đứng đắn không thể thoát khỏi nguy cơ chết cóng mà lại không bị người ta đơm đặt về chuyện đó. Đừng suy nghĩ về chuyện này nữa, Emily. Hãy nhớ là cháu luôn có gia đình hậu thuẫn.”
Lúc bà Ruth đã lên tầng, Emily bước đến bên tấm gương. Cô nghiêng tấm gương theo góc độ phù hợp và trao cho Emily - trong - gương nụ cười mỉm chậm rãi, quyến rũ và khiêu khích.
“Không biết mình cất cuốn sổ Jimmy ở đâu,” Emily nghĩ. “Mình phải bổ sung một vài đường nét cho bản phác thảo của mình về bác Ruth mới được.”
Emily bị đánh thức bởi Ilse, lúc này đang ngồi bên mé giường, trông nhợt nhạt và tiều tụy, nhưng đôi mắt màu hổ phách lại tràn ngập niềm vui không thể chế ngự.
“Chà, ngủ một giấc xong là tớ rũ sạch cơn trác táng rồi, Emily Starr ạ. Và sáng nay dạ dày tớ ổn định. Món rượu whisky của ông Malcolm đã làm nó yên ổn rồi; dẫu rằng theo ý tớ thì ba phần khổ vì bệnh còn bảy phần khổ vì phương thuốc ấy đấy. Có lẽ cậu vẫn băn khoăn không hiểu tại sao tối qua tớ chẳng chuyện trò gì.”
“Tớ nghĩ cậu say quá rồi chẳng trò chuyện gì được,” Emily thẳng thắn nói.
Ilse cười khúc khích.
“Có mà tớ say quá rồi nên không thể không nói ấy chứ. Lúc đến chỗ sofa, tớ đã qua cơn choáng váng rồi và tớ muốn nói, Emily ạ; chao ôi, tớ muốn nói! Và tớ muốn nói những chuyện ngu ngốc nhất, kể ra hết những điều tớ biết hay suy nghĩ. Chỉ có điều, tớ vẫn còn đủ lý trí để biết rõ rằng tớ không được phép nói những chuyện đó, nếu không tớ sẽ vĩnh viễn biến mình thành con ngốc; và tớ cảm thấy nếu tớ nói dù chỉ một lời thì nó cũng sẽ chẳng khác nào vừa tháo nút chai; tất cả sẽ tuôn ra tồng tộc. Vậy nên tớ khóa miệng lại, không nói năng gì. Tớ rùng cả mình khi nghĩ đến những chuyện mình có thể đã nói... và nói trước mặt Perry nữa chứ. Cậu sẽ không bao giờ còn bắt gặp Ilse bé bỏng chè chén lu bù nữa đâu. Từ hôm nay trở đi, tớ sẽ sửa mình.”
“Tớ chỉ không hiểu được,” Emily nói, “làm sao mà với cái gì cũng vậy, chỉ cần một lượng nhỏ xíu như thế cũng khiến đầu óc cậu đảo lộn hết cả lên.”
“Ôi chao, cậu biết mẹ tớ là một người nhà Mitchell rồi còn gì. Ai mà chẳng biết người nhà Mitchell chỉ cần nhấp một thìa rượu là đã ngã lăn cu chiêng ra rồi. Đó chính là một trong những trở ngại mang tính dòng họ đấy. Nào, tỉnh táo lên, tình yêu của tôi, người bạn thẳng thắn của tôi. Cánh con trai đang đốt lửa rồi, và Perry nói chúng ta có thể chế được một bữa ngon lành từ thịt lợn, đậu và bánh quy. Tớ đói ngấu đến nỗi có thể ăn sạch bách cả hộp đây này.”
Chính lúc Emily khua khoắng trong chạn tìm ít muối, cô đã có một khám phá vĩ đại. Ở tận trong góc ngăn chạn trên cùng, có một chồng sách cũ bụi bặm, hẳn là từ thời ông bà John và Almira Shaw - những sổ sách kế toán, niên giám, nhật ký mốc meo cũ rích. Emily lôi chồng sách xuống và khi nhặt lên xem, cô phát hiện ra trong đó có một cuốn sổ lưu bút cũ. Một tờ giấy xộc xệch long cả ra ngoài. Khi Emily đặt tờ giấy về chỗ cũ, đôi mắt cô rơi xuống tên bài thơ được dán lên trên. Cô cầm bài thơ lên, và lập tức hơi trở nên dồn dập hẳn. Huyền thoại Abegweit - bài thơ đã giúp Evelyn giành giải thưởng! Nó nằm đây, trong cuốn lưu bút ngả vàng cũ kỹ đã ít nhất hai mươi năm tuổi - chính xác đến từng từ, chỉ có điều Evelyn đã cắt bớt hai khổ để phù hợp với yêu cầu về độ dài.
“Mà lại là hai khổ thơ hay nhất chứ,” Emily khinh thường nghĩ. “Đúng kiểu Evelyn! Cô ta rõ ràng không có con mắt văn chương gì cả.”
Emily đặt lại đống sách vào trong kệ, nhưng cô tuồn trang giấy bị long khỏi sổ kia vào túi, và lơ đãng ăn phần bữa sáng được dành cho mình. Giờ thì cánh con trai đã bắt tay vào mở đường. Perry và Teddy tìm thấy một cái xẻng trong kho và chẳng mấy chốc đã khai thông được một lối dẫn ra đường cái. Cuối cùng, sau một cuốc xe dẫu chậm chạp nhưng yên ổn, nhóm bạn cũng về đến nhà và nhận thấy ở trang trại Trăng Non, mọi người vẫn bồn chồn lo lắng không biết số phận bốn cô cậu ra sao, và ai nấy đều có phần hốt hoảng khi được biết họ đã phải qua đêm trong ngôi nhà cũ của ông John.
“Cháu có khả năng bị cảm lạnh chết mất ấy chứ,” bà Elizabeth nghiêm nghị nói.
“Thì cũng có cách nào khác đâu ạ. Nếu không vậy thì sẽ bị chết cóng giữa trời tuyết mất,” Emily nói, và chẳng ai nói gì về vấn đề này nữa. Vì họ đã về nhà an toàn và chẳng ai cảm lạnh, còn cần phải nói gì khác nữa chứ? Đó chính là cách nhìn nhận vấn đề theo kiểu Trăng Non. Cách nhìn Shrewsbury thì có phần khác. Nhưng cách nhìn Shrewsbury không lộ rõ ngay lập tức. Đến tối thứ Hai, toàn bộ câu chuyện đã lan khắp Shrewsbury - Ilse kể lại nó ở trường và miêu tả trận say rượu của mình bằng thái độ hăm hở tột độ, giữa những tiếng cười đùa hú hét của bạn bè. Tối hôm đó, lần đầu tiên trong đời chủ động tìm gặp Evelyn Blake, Emily thấy Evelyn có vẻ khá hài lòng với chuyện này.
“Cậu không thể khiến Ilse ngừng kể câu chuyện đó đi được à, bạn thân mến?”
“Câu chuyện nào?”
“Sao chứ, chuyện say rượu tối thứ Sáu vừa rồi ấy - buổi tối cậu và cậu ta ở cùng Teddy Kent và Perry Miller trong cái ngôi nhà cũ trên Ao Thành Kiến đó đấy,” Evelyn nói nhẹ nhàng.
Emily bất chợt đỏ bừng cả mặt. Trong giọng Evelyn có cái gì đó - dường như cái thực tế trong sáng bỗng nhiên bị khoác lên sắc thái ý nghĩa đầy nham hiểm. Liệu có phải Evelyn đang chủ tâm tỏ ra xấc láo?
“Tôi chẳng hiểu tại sao bạn ấy lại không nên kể câu chuyện đó chứ.” Emily lạnh nhạt nói. “Đấy là một chuyện đùa hay ho về bạn ấy mà.”
“Nhưng cậu biết thừa mọi người sẽ nói gì rồi đấy,” Evelyn nói, giọng lịch sự. “Mọi chuyện có hơi... không phù hợp. Tất nhiên, cậu đâu thể ngăn mình bị kẹt giữa cơn bão... tôi cho là thế... nhưng Ilse sẽ chỉ làm mọi chuyện tệ hơn thôi. Cậu ta quá bất cẩn... chẳng lẽ cậu không có bất kỳ ảnh hưởng nào đối với cậu ta hay sao, Emily?”
“Tôi không đến đây để thảo luận về vấn đề đó,” Emily nói thẳng thừng. “Tôi đến để chỉ cho cậu xem một thứ tôi đã tìm thấy trong căn nhà cũ của ông John.
Cô chìa tờ lưu bút ra. Evelyn thất thần nhìn tờ giấy một lát. Rồi khuôn mặt cô nàng đỏ lên, chỗ hồng chỗ tía đầy khả nghi. Không kịp suy nghĩ, cô nàng giơ tay ra như thể muốn chộp lấy tờ giấy, nhưng Emily đã nhanh chóng thu nó lại. Đôi mắt hai người gặp nhau. Trong giây phút đó, Emily cảm thấy cuối cùng thì họ cũng hòa điểm với nhau.
Cô đợi Evelyn lên tiếng. Sau một lúc, Evelyn cũng nói; giọng sưng sỉa:
“Thế đấy, cậu định làm gì với nó hả?”
“Tôi vẫn chưa quyết định,” Emily nói.
Đôi mắt nâu dài xảo trá của Evelyn quét lên khuôn mặt Emily, vẻ xảo quyệt và dò hỏi.
“Hẳn là cậu định đưa nó cho tiến sĩ Hardy và làm tôi mất mặt trước cả trường chứ gì?”
“Ái chà, chẳng phải cậu xứng đáng bị thế còn gì?” Emily phán xét.
“Tôi... muốn giành được giải thưởng đó vì cha tôi đã hứa nếu tôi chiến thắng thì hè năm tới sẽ cho tôi đến Vancouver chơi,” Evelyn lẩm bẩm, đột nhiên trở nên suy sụp. “Tôi... tôi muốn đi đến phát điên lên được. Ôi, đừng tiết lộ chuyện của tôi, Emily... cha tôi sẽ giận dữ lắm. Tôi... tôi sẽ cho cậu bộ Parkman... tôi sẽ làm bất kỳ điều gì... miễn là đừng...”
Evelyn òa khóc. Emily chẳng muốn nhìn thấy cảnh tượng này.
“Tôi không muốn bộ Parkman của cậu,” cô nói. “Nhưng có một chuyện cậu cần phải làm. Cậu phải thú nhận với bác Ruth rằng chính cậu đã vẽ râu lên mặt tôi hôm có bài thi tiếng Anh chứ không phải Ilse.”
Evelyn lau sạch nước mắt, nuốt lời muốn nói vào trong lòng.
“Đấy chỉ là chuyện đùa thôi mà,” cô nàng nức nở.
“Đến mức nói dối về chuyện đó thì không còn là đùa nữa,” Emily lạnh lùng nói.
“Sao cậu... sao cậu... thẳng thừng thế.” Evelyn săm soi một hồi cũng tìm ra được một điểm khô ráo trên chiếc khăn tay. “Chỉ thuần túy trêu đùa thôi mà. Tôi phải chạy từ hiệu sách về để làm thế đấy. Tất nhiên, tôi cứ tưởng lúc tỉnh dậy cậu sẽ soi gương chứ. Tôi kh... không nghĩ là cậu cứ thế mà đến trường. Mà tôi cũng không biết là bác cậu lại coi chuyện này to tát thế. Tất nhiên... tôi sẽ nói với bác ấy... nếu cậu... nếu cậu...”
“Viết ra và ký tên vào đi,” Emily nói, chẳng chút lưu tình.
Evelyn viết ra và ký tên.
“Cậu sẽ đưa cho tôi... cái đó chứ,” cô nàng khẩn nài, bàn tay khẩn khoản vươn về phía tờ lưu bút.
“Ồ, không đâu, tôi sẽ giữ cái này,” Emily nói.
“Vậy thì xét cho cùng, có gì đảm bảo là cậu sẽ không nói... một ngày nào đó?” Evelyn khịt khịt mũi.
“Cậu có lời hứa của một người nhà Starr rồi,” Emily ngạo mạn nói.
Cô mỉm cười đi ra. Cuối cùng, cô đã giành chiến thắng trong cuộc chiến trường kỳ. Và cô đang nắm trong tay bằng chứng cuối cùng cũng rửa sạch tội lỗi của Ilse trong mắt bà Ruth.
Bà Ruth khịt mũi liên hồi trước tờ giấy Evelyn viết và hỏi hết câu này đến câu khác nhằm tìm xem Emily dọa dẫm cách nào mà lại kiếm được lời thú nhận ấy. Nhưng vì chẳng thể giội gáo nước lạnh lên niềm thỏa mãn của Emily trước chiến thắng này và biết rõ ông Allan Burnley vẫn luôn khó chịu với bà từ hồi bà xua đuổi con gái ông, bà thầm lấy làm mừng vì đã có một lý do phá bỏ lệnh cấm này.
“Vậy thì tốt rồi. Ta đã nói với cháu rằng Ilse có thể đến đây khi nào cháu tìm ra bằng chứng thích đáng chứng minh cho ta thấy con bé không chơi trò đó. Cháu đã chứng minh được, và ta sẽ giữ lời. Ta vốn là người công bằng mà,” bà Ruth kết luận - có lẽ lúc này chính bà mới là người phụ nữ bất công nhất trên đời.
Cho đến lúc đó thì mọi chuyện ổn thỏa cả. Nhưng nếu Evelyn muốn trả thù thì cô nàng đã được thưởng thức trọn vẹn men say của nó vào ba tuần sau, mà chẳng cần phải nhấc một ngón tay hay uốn một tấc lưỡi nào để đổ thêm dầu vào lửa. Toàn thể Shewsbury sôi sục với lời đồn thổi về cái đêm bão gió đó - nào là bóng gió, nào là bóp méo sự việc và cả bịa đặt hoàn toàn. Emily bị mất mặt tại buổi trà chiều ở nhà Janet Thompson đến độ phải về nhà trong cảnh mặt mày trắng bệch vì nhục nhã. Ilse giận dữ đến phát điên.
“Tớ sẽ chẳng buồn bận tâm nếu quả thực tớ đã say sưa bê bết và sung sướng với nó,” cô giậm chân tuyên bố hùng hồn. “Nhưng tớ đâu có say đến độ thấy sung sướng chứ; mà chỉ say đủ để thấy mình thật lố bịch thôi. Có nhiều khi, Emily ạ, tớ cảm thấy sẽ thật tuyệt vời xiết bao nếu tớ là một con mèo, còn những mụ già Shrewsbury này chỉ là một lũ chuột nhắt. Nhưng hãy cứ vui vẻ đi. Thật lòng mà nói, tớ chẳng thèm quan tâm. Chuyện này chẳng mấy chốc sẽ trôi vào quên lãng. Chúng ta sẽ chiến đấu.”
“Cậu đâu thể chiến đấu với những lời bóng gió chứ,” Emily chua chát nói.
Ilse không quan tâm; nhưng Emily lại vô cùng để tâm. Lòng kiêu hãnh Murray buốt nhói đến mức không thể nào chịu nổi. Và càng lúc, nó càng nhức nhối hơn. Câu chuyện đêm bão đó còn được biến thành chuyện cười đăng trên một tờ báo lá cải xuất bản ở một thị trấn vùng nội địa và được xào xáo từ các bức thư “giật gân” gửi đến tòa soạn từ khắp mọi nơi trên miền duyên hải. Chưa từng có bất kỳ ai thừa nhận đã đọc nó, nhưng gần như tất cả mọi người đểu biết tất cả mọi thứ được viết ở đó; ngoại trừ bà Ruth, vốn chẳng bao giờ thèm mó đến báo với chí. Không cái tên nào được nhắc đến, nhưng tất cả mọi người đều biết bài báo muốn ám chỉ ai, và chẳng ai không nhận ra cái nọc độc đầy nham hiểm mà nó tiết ra. Emily những tưởng mình sẽ chết vì nhục nhã mất. Và cú đòn hiểm ác nhất là câu chuyện được kể lại ấy quá thô tục, quá xấu xí; và nó đã biến cái buổi tối đẹp đẽ tràn ngập niềm vui, sự khám phá cùng sự sáng tạo mê ly trong ngôi nhà cũ của ông John trở nên thô tục và xấu xí. Cô những tưởng thời khắc đó sẽ mãi mãi là một trong những ký ức đẹp đẽ nhất của cô. Và giờ thì thế này đây! Teddy và Perry tức điên lên và chỉ muốn giết người, nhưng các cậu ấy có thể giết ai bây giờ? Như Emily đã nói với hai cậu, dẫu họ có nói gì làm gì thì cũng chỉ làm tình hình thêm tồi tệ mà thôi. Sau vụ đăng tải bài báo đó, chuyện đã đủ tệ hại lắm rồi. Emily không được mời đến buổi vũ hội của Florence Blake diễn ra vào tuần sau - sự kiện xã hội trọng đại của mùa đông. Cô bị gạt ra khỏi bữa tiệc trượt băng của Hattie Denoon. Một vài mệnh phụ phu nhân ở Shewsbury chẳng thèm nhìn ngó gì cô khi họ gặp nhau trên phố. Những người khác thì đẩy cô ra xa cả ngàn dặm bằng cái vẻ lịch sự lạnh lùng, nhạt nhẽo. Có mấy cậu thanh niên quanh thị trấn lại tỏ thái độ thân thiện đến kỳ cục. Một người trong số đó, vốn hoàn toàn không quen biết gì với cô, đã bắt chuyện với cô ở bưu điện một tối nọ. Emily quay người nhìn cậu ta. Dẫu khổ sở và xấu hổ đến thế, cô vẫn là cháu gái của Archibald Murray. Mãi cho tới tận khi đã cách bưu điện tận ba khối nhà, cậu thanh niên tội nghiệp ấy mới có thể bình thường trở lại và ý thức được mình đang ở đâu. Cho tới tận giờ, cậu vẫn không tài nào quên được khi Emily Byrd Starr tức giận, đôi mắt cô trông như thế nào.
Nhưng cho dù cái ánh mắt Murray ấy có thể phá hủy hoàn toàn một kẻ phạm tội vô cùng cứng rắn thì nó lại vẫn không thể ngăn chặn những câu chuyện giật gân. Cô đau khổ cảm thấy tất cả mọi người đều tin vào những câu chuyện đó. Theo Emily được nghe kể lại, cô Percy ở thư viện cho biết cô ta luôn thấy không thể tin tưởng nụ cười của Emily Starr; rằng cô ta luôn cảm thấy chắc chắn nó được chủ tâm khoác cho cái vẻ khêu gợi và cám dỗ. Emily có cảm giác cô, cũng giống y như đức vua Henry tội nghiệp, sẽ chẳng bao giờ còn mỉm cười trở lại được nữa. Người ta nhớ lại rằng hồi bảy mươi năm trước, bà cụ Nancy Priest cũng ngông cuồng bừa bãi ra trò; và chẳng phải hồi còn trẻ, chính phu nhân Dutton cũng dính phải tai tiếng đấy thôi? Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, các vị biết đấy. Mẹ cô cũng từng bỏ nhà theo trai, đúng không nào? Lại còn mẹ Ilse nữa chứ? Tất nhiên, bà ta đã chết vì bị ngã xuống cái giếng cũ nhà ông Lee, nhưng nếu không bị thế thì ai mà biết được bà ta sẽ làm gì cơ chứ? Rồi còn cái câu chuyện từ thời nảo thời nào về vụ tắm trần trên bãi cát ở Hồ Blair. Nói tóm lại, còn lâu các vị mới thấy có cô gái đứng đắn nào lại có cái mắt cá chân giống như của Emily. Chắc chắn họ chẳng có cái thứ đấy đâu.
Thậm chí, anh chàng Andrew ngây thơ và không được chào đón cũng không còn ghé qua vào các tối thứ Sáu nữa. Chuyện này thực sự là một cú đòn đau. Emily vẫn luôn thấy Andrew là kẻ phiền phức và sợ chết khiếp những buổi tối thứ Sáu anh ta ghé thăm. Hễ chộp được cơ hội nào là cô chỉ nhăm nhăm tống khứ anh ta đi cho nhanh. Nhưng bạn cần phải thấy rằng việc Andrew tự nguyện khăn gói ra đi lại mang phong vị khác hẳn. Emily không khỏi siết chặt hai bàn tay khi nghĩ đến chuyện này.
Cô còn nhận được một tin tức cay đắng rằng Hiệu trưởng Hardy tuyên bố cô nên rút lui khỏi cương vị lớp trưởng lớp cuối cấp. Emily hất cao đầu. Từ chức? Thú nhận thất bại và thừa nhận tội lỗi? Còn lâu cô mới làm thế?
“Tớ có thể táng cho lão ấy một phát vào đầu,” Ilse nói. “Emily Starr, đừng có lo lắng về chuyện này. Cái đám lừa già lập cập nghĩ như thế nào thì có gì quan trọng chứ? Tớ mặc xác cho các vị thần địa ngục xử trí họ. Một tháng nữa là họ lại có vô khối thứ để mà xâu xé cho thỏa thích và sẽ quên chuyện này thôi.”
“Tớ sẽ không bao giờ quên được,” Emily xúc động nói. “Từ giờ cho tới chết, tớ sẽ vẫn nhớ nỗi nhục nhã đã phải trải qua trong mấy tuần này. Còn bây giờ, Ilse ạ, bà Tolliver đã viết thư đề nghị tớ từ bỏ chỗ của mình trong cuộc bán hàng phúc thiện của nhà thờ Thánh John.”
“Emily Starr... bà ấy không làm thế chứ!”
“Bà ấy làm thế đấy. Ồ, tất nhiên, bà ấy ngụy trang bằng cách viện cớ bà ấy muốn dành chỗ cho người họ hàng từ New York đang ở chơi, nhưng tớ hiểu mà. Và trên thư còn viết ‘Cô Starr thân mến’, cậu nhìn mà xem, trong khi mấy tuần trước vẫn còn là ‘Emily yêu dấu nhất đời’. Tất cả mọi người ở nhà thờ Thánh John rồi sẽ biết tại sao tớ bị đẩy ra ngoài. Trong khi chính bà ấy suýt nữa đã quỳ xuống van xin bác Ruth cho tớ nhận quầy bán hàng. Bác Ruth đâu có muốn cho tớ tham gia chứ.”
“Bác Ruth của cậu sẽ nói gì về chuyện này đây?”
“Ôi, đó mới là phần tồi tệ nhất, Ilse ạ. Giờ thì bác ấy ắt hẳn sẽ biết thôi. Từ lúc phải nằm bẹp vì đau thần kinh tọa, bác ấy chưa nghe được gì về chuyện này hết. Tớ cứ luôn thấp thỏm chỉ sợ bác ấy phát hiện ra rồi thì sẽ kinh khủng lắm. Giờ thì bác ấy bắt đầu đi lại được rồi, nên tất nhiên dù gì thì gì, chẳng mấy mà bác ấy sẽ nghe nhắc đến chuyện này thôi. Trong khi tớ chẳng có tinh thần đâu để mà đấu lý với bác ấy. Ôi, mọi chuyện chẳng khác gì một cơn ác mộng.”
“Dân thị trấn này toàn những kẻ đầu óc nhỏ mọn, xảo quyệt, hẹp hòi, ti tiện đến thế đấy,” Ilse nói, và lập tức thấy dễ chịu hẳn. Nhưng Emily không thể xoa dịu tâm hồn đau khổ của cô bằng một tràng tính từ được chọn lọc. Cô cũng chẳng thể viết lại nỗi khổ sở của mình và bởi vậy cũng không cách gì giải thoát bản thân khỏi nó được. Chẳng còn thêm những dòng ghi chép nhanh trong cuốn sổ Jimmy, chẳng còn thêm những bài viết trong nhật ký, chẳng còn truyện thơ mới. Giờ thì ánh chớp chẳng bao giờ đến nữa... chẳng bao giờ còn trở lại nữa. Sẽ không bao giờ còn gặp lại những cơn phấn khích bí mật diệu kỳ không ai có thể sẻ chia khi ta chìm đắm trong sự thấu hiểu và sáng tạo. Cuộc sống đã trở nên nghèo nàn hơn, nhạt nhòa hơn, mờ đục và không chút đáng yêu. Nhìn đâu cũng chẳng thấy được vẻ đẹp; thậm chí không thấy ngay cả trong không gian tháng Ba đượm màu trắng vàng hiu quạnh của Trăng Non, khi cô quay về nhà dịp cuối tuần. Cô khát khao được về nhà, nơi chẳng ai tin những điều xấu xa về cô. Ở Trăng Non, không ai nghe phong thanh gì về những chuyện đang được thầm thì bàn tán ở Shrewsbury. Nhưng chính sự không biết này lại khiến Emily khổ sở không yên. Chẳng mấy chốc mọi người rồi cũng sẽ biết; họ sẽ bị tổn thương, sẽ u sầu trước cái thực tế rằng một Murray, thậm chí ngay cả một Murray ngây thơ, cũng trở thành mục tiêu của vụ bê bối. Và ai mà biết họ sẽ nhìn nhận thế nào về sự cố Ilse gặp phải với món rượu Scotch của Malcolm chứ? Emily gần như thấy nhẹ cả người khi quay trở lại Shrewsbury. Cô tưởng tượng ra sự gièm pha trong hết thảy những lời thầy hiệu trưởng Hardy nói; tưởng tượng ra sắc thái sỉ nhục kín đáo trong mọi lời bình luân, mọi ánh mắt của bạn học. Chỉ độc Evelyn Blake làm bộ làm tịch như bạn bè và người biện hộ của cô, và đây mới chính là nhát dao tàn nhẫn hơn cả. Emily không biết liệu có gì nguy hiểm và xảo trá đằng sau cái điệu bộ giả tạo của Evelyn hay không; nhưng cô biết thừa thái độ khoa trương nào thân thiện, nào trung thành, nào tin tưởng chắc chắn bất chấp bằng cớ không gì tranh cãi nổi ấy mới chính là thứ dường như khiến cô bị vấy bẩn hơn hết thảy những lời đơm đặt bàn tán. Evelyn đi khắp nơi cam đoan với tất cả mọi người rằng cô nàng không tin một lời nào chống lại “Emily thân mến tội nghiệp”. Emily thân mến tội nghiệp có thể cười tươi mà chứng kiến cô ta chết đuối; hoặc cô ta cho là mình có thể làm thế.
Trong lúc đó, bà Ruth, vốn bị giam hãm trong nhà mất vài tuần vì chứng đau thần kinh tọa và bị nó hành cho thành cắm cảu đến nỗi dẫu bạn bè hay kẻ thù thì cũng đều không dám bóng gió với bà bất cứ điều gì về lời đồn thổi dính đến cháu gái bà, cũng bắt đầu để ý. Chứng đau thần kinh tọa của bà đã dứt và để bà được thoải mái dồn toàn tâm toàn trí vào những thứ khác. Ngẫm lại, bà nhớ ra mấy ngày gần đây, Emily không được ngon miệng lắm, và bà ngờ rằng cô cũng không ngủ. Ngay khi nghi ngờ này lóe lên trong đầu, bà Ruth bèn hành động luôn. Những lo lắng bí mật không được khoan dung dưới mái nhà của bà.
“Emily, ta muốn biết cháu đang có chuyện gì,” bà cật vấn vào một chiều thứ Bảy khi Emily, nhợt nhạt và lơ đãng, mắt thâm quầng, một lần nữa không ăn gì trong bữa tối.
Chút huyết sắc ửng lên trên khuôn mặt Emily. Vậy là cái giây phút cô khiếp sợ đã đến rồi. Ắt hẳn bà Ruth đã nghe kể lại tường tận mọi chuyện. Và Emily khổ sở nhận ra cô không đủ dũng cảm để chịu đựng cuộc chất vấn tất yếu sẽ xảy ra tiếp theo, cũng chẳng có tinh thần đâu để mà bình tĩnh tương đầu với nhưng câu hỏi tại sao, vì lí do gì của bà Ruth. Cô biết rõ mọi chuyện sẽ ra sao: kinh hoàng trước sự tình diễn ra ở nhà ông John - như thể bất kỳ ai cũng có thể ngăn chặn được nó; bực tức bởi lời đồn thổi - như thể Emily phải chịu trách nhiệm cho nó; cam đoan này nọ rằng từ xưa đến nay bà vẫn luôn tin chắc sẽ có lúc xảy ra chuyện như thế này; và rồi những tháng ngày không thể chịu nổi với những nhắc nhở, những lời gièm pha về sự việc. Emily thầm cảm thấy kinh tởm đến buồn nôn trước toàn bộ viễn cảnh này. Mất một lúc lâu, cô không cất lên được lời nào.
“Cháu đang làm gì vậy hả?” bà Ruth vẫn kiên trì hỏi.
Emily nghiến chặt răng. Thật không thể chịu đựng nổi, nhưng vẫn phải chịu đựng thôi. Câu chuyện phải được kể ra; điều duy nhất phải làm là làm sao để nó được kể càng sớm càng tốt.
“Cháu chẳng làm gì sai cả, bác Ruth. Cháu chỉ làm một chuyện khiến người ta hiểu nhầm thôi.”
Bà Ruth khịt mũi. Nhưng bà lắng nghe toàn bộ câu chuyện Emily mà không cắt ngang lần nào. Emily kể lại một cách ngắn gọn hết mức, cảm thấy mình như thể một kẻ tội phạm đang đứng trước bục nhân chứng, còn bà Ruth vừa là thẩm phán, vừa là bổi thẩm đoàn lẫn công tố viên. Khi đã kể xong, cô ngồi im lặng, chờ đợi một lời bình phẩm đặc trưng của bà Ruth.
“Thế người ta làm om sòm hết cả lên vì cái gì vậy?” bà Ruth hỏi.
Emily không biết nói sao cho đúng. Cô nhìn bà Ruth chằm chằm.
“Họ... họ vẫn đang nghĩ... và nói đủ mọi điều kinh khủng,” cô ngập ngừng. “Bác biết đấy... ở dưới Shrewsbury được chở che yên ổn này, người ta đâu có nhận ra một cơn bão sẽ như thế nào. Và, tất nhiên, mỗi người kể lại câu chuyện đều thêm mắm giặm muối một chút; đến lúc câu chuyện lan tràn khắp Shrewsbury thì tất cả bọn cháu đều say cả.”
“Điều khiến ta bực mình,” bà Ruth nói, “là các cháu lại đi rêu rao chuyện này khắp cả Shrewsbury. Vì lý do quái quỷ nào mà các cháu lại không chịu giữ kín mọi chuyện vậy hả?”
“Thế thì sẽ thành ranh mãnh mất,” con quỷ trong Emily đột nhiên nhảy vọt ra nói câu này. Giờ đây, khi câu chuyện đã được công khai, cô cảm thấy tinh thần phấn khởi đến độ suýt nữa đã cười phá lên.
“Ranh mãnh! Đó là sự khôn ngoan,” bà Ruth khịt mũi. “Nhưng, tất nhiên, Ilse làm sao giữ mồm giữ miệng được chứ. Ta nói mãi với cháu rồi, Emily, một người bạn ngu ngốc còn nguy hiểm gấp mười lần một kẻ thù. Nhưng cháu lo lắng đến chết dần chết mòn vì cái gì kia chứ? Lương tâm cháu trong sạch. Lời đồn thổi này rồi sẽ sớm chết thôi.”
“Hiệu trưởng Hardy nói cháu nên từ chức lớp trưởng,” Emily nói.
“Jim Hardy! Thế đấy, cha ông ta từng làm thuê cho ông nội ta suốt nhiều năm,” bà Ruth nói bằng giọng khinh bỉ tột cùng, “Jim Hardy lại tưởng rằng cháu gái ta sẽ cư xử không đúng đắn sao?”
Emily không hiểu ra làm sao nữa. Cô nghĩ ắt hẳn mình đang nằm mơ. Người phụ nữ khác thường này có phải bác Ruth không vậy? Đây không thể là bà Ruth được. Emily đang phải đương đầu với một trong những mâu thuẫn bản năng của nhân loại. Cô dần dần nhận thức được rằng ta có thể chống lại họ hàng ta, bất đồng ý kiến với họ, thậm chí căm ghét họ, nhưng giữa ta và họ vẫn luôn tồn tại một sợi dây liên kết. Bằng cách nào đó, các sợi gân của ta, các dây thần kinh của ta xoắn quýt cùng của họ. Bao giờ chẳng vậy, một giọt máu đào hơn ao nước lã. Cứ mặc kệ cho người ngoài công kích đi; thế thôi. Ít nhất bà Ruth cũng có một trong những đức tính của nhà Murray - trung thành với dòng họ.
“Đừng lo về Jim Hardy,” bà Ruth nói. “Ta sẽ nhanh chóng xử lý ông ta. Ta sẽ mở mắt cho mọi người thấy liệu mà giữ miệng lưỡi tránh xa nhà Murray ra.”
“Nhưng bà Tolliver đã yêu cầu cháu nhường cho họ hàng của bà ấy quầy hàng của cháu trong buổi bán hàng từ thiện,” Emily nói. “Bác biết như thế nghĩa là gì đấy.”
“Ta biết Polly Tolliver là môt kẻ giàu xổi ngu ngốc,” bà Ruth độp lại. “Từ hồi Nat Tolliver lấy nhân viên tốc ký của ông ta làm vợ, nhà thờ Thánh John chẳng còn như cũ nữa. Mười năm trước, bà ta còn là một cô nàng chân đất chạy quanh các ngõ hẻm của Charlottetown. Đến lũ mèo cũng chẳng cho bà ta vào trong. Giờ thì bà ta lại ra cái vẻ nữ hoàng và rắp tâm điều hành nhà thờ nữa. Ta sẽ nhanh chóng cắt hết móng vuốt của bà ta. Mấy tuần trước, bà ta còn lấy làm biết ơn vì có một người nhà Murray góp mặt trong gian hàng của bà ta. Đó là một thành tựu đối với bà ta.Polly Tolliver, đúng là không lẫn vào đâu được. Thế giới đang thành ra cái gì đây chứ?”
Bà Ruth oai vệ lên trên tầng, để mặc Emily hoang mang nhìn những phiền muộn đang dần biến mất. bà Ruth đã lại bước xuống, sẵn sàng cho cuộc chiến. Bà đã uốn tóc, đội chiếc mũ bon nê tốt nhất, mặc bộ váy lụa đen đẹp nhất và khoác chiếc áo choàng bằng da hải cẩu mới nhất. Với cách ăn vận như thế, bà rảo bước tới phố thượng, đến dinh thự Tolliver trên đồi. Bà lưu lại đó nửa tiếng đồng hồ, trò chuyện riêng cùng bà Nat Tolliver. Bà Ruth vốn thấp và đậm người, trông vô cùng tồi tàn và lạc hậu, bất chấp chiếc mũ bon nê mới và cái áo choàng da hải cẩu. Bà Nat ăn mặc rất thời thượng và trang nhã, với bộ váy từ Paris, chiếc kính cầm tay và mái tóc uốn xoăn xinh đẹp - thời đó, mốt uốn tóc xoăn vừa xuất hiện và bà Nat chính là người đầu tiên theo mốt này ở Shrewsbury. Nhưng chiến thắng trong cuộc đối đầu không rơi vào tay bà Tolliver. Không ai biết chính xác nội dung cuộc đối thoại trứ danh ấy. Chắc chắn bà Tolliver sẽ không bao giờ hé môi. Nhưng khi bà Ruth rời khỏi ngôi nhà rộng lớn ấy, bà Tolliver đang vò nhàu bộ váy Paris, còn mái tóc xoăn của bà bồng bềnh giữa đám đệm sofa trong lúc bà lau những giọt nước mắt uất hận và tủi hổ; còn bà Ruth cầm trong bao tay bức thư ngắn bà Tolliver gửi “Emily yêu quý”, cho biết người họ hàng của bà ta sẽ không nhận gian hàng tại hội chợ từ thiện và xin “Emily yêu quý” hãy làm ơn tiếp nhận quầy hàng như kế hoạch ban đầu. Tiến sĩ Hardy là đối tượng đối thoại tiếp theo, và một lần nữa bà Ruth lại ra về, như người ta nhìn thấy, trong tư thế chiến thắng. Cô hầu phục vụ trong nhà Hardy đã nghe thấy rồi sau đó kể lại cho mọi người một câu trong cuộc trao đổi đó, mặc dầu chẳng ai tin nổi bà Ruth từng nói như thế thật với tiến sĩ Hardy đeo kính oai nghiêm.
“Tôi biết ông vốn là thắng ngốc, Jim Hardy, nhưng vì Chúa, hãy giả vở tỏ ra ông không phải gã ngu năm phút thôi được không!”
Không, không đời nào có chuyện đó. Tất nhiên, chính cô hầu kia đã bịa chuyện.
“Cháu không còn gặp thêm nhiều rắc rối nữa đâu, Emily,” bà Ruth nói khi đã quay về nhà. “Polly và Jim đã no đủ rồi. Khi mọi người thấy cháu có mặt tại hội chợ từ thiện, họ sẽ nhanh chóng nhận ra gió đang thổi chiều nào để mà thuận thế giương buồm xoay theo chiều đó. Ta vẫn còn vài chuyện để nói với vài người trong thị trấn khi nào có cơ hội. Tình hình rồi sẽ thành gay go ra trò nếu các cô cậu đứng đắn không thể thoát khỏi nguy cơ chết cóng mà lại không bị người ta đơm đặt về chuyện đó. Đừng suy nghĩ về chuyện này nữa, Emily. Hãy nhớ là cháu luôn có gia đình hậu thuẫn.”
Lúc bà Ruth đã lên tầng, Emily bước đến bên tấm gương. Cô nghiêng tấm gương theo góc độ phù hợp và trao cho Emily - trong - gương nụ cười mỉm chậm rãi, quyến rũ và khiêu khích.
“Không biết mình cất cuốn sổ Jimmy ở đâu,” Emily nghĩ. “Mình phải bổ sung một vài đường nét cho bản phác thảo của mình về bác Ruth mới được.”
Tác giả :
Lucy Maud Montgomery