Đồng Tiền Kham Thế
Quyển 4 - Chương 71: Quá lộ nhân (Người qua đường) – 2
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Mặc dù lá thư kia viết vội vàng, nhưng nội dung thì không hề qua quít. Thái Bốc từ đầu đến cuối chưa từng nhắc đến cái gọi là người “vô cùng giống quốc sư”, suy cho cùng chuyện này trên một ý nghĩa nào đó, sẽ bị xem là bất kính.
Trên dưới Thái Thường tự không ai có lá gan này, dám liều lĩnh như thế trước mặt quốc sư. Bởi trong ấn tượng của bọn họ, quốc sư luôn luôn bất cẩu ngôn tiếu (không nói cười tùy tiện), phàm mỗi khi ngài xuất hiện, đều mang theo một loại cảm giác không thể thân cận, cũng không thể quấy nhiễu.
Cho dù là Thái Bốc, Thái Chúc được quốc sư mang về Thái Thường tự từ nhỏ, nhưng nhiều năm như vậy trôi qua, quốc sư đối với bọn họ vẫn là cao cao tại thượng, không thể đụng chạm hay ngỗ nghịch.
“Trong thư của ngươi……” Thái Chúc kéo dây cương, trước lúc xuất phát, y nói chút chần chừ.
Thái Bốc không cần nghe hết cũng biết y muốn nói gì, “Ta không ngốc như vậy đâu, chỉ nói là người chúng ta phụng mệnh tìm kiếm đã chết thôi. Nếu bồ câu một đường thuận lợi, khoảng chừng tối mai là đến được Pháp Môn tự rồi, dù gặp phải mưa gió, muộn nhất là ngày mốt sẽ đến. Quốc sư xem thư, đương nhiên sẽ có an bài, chúng ta làm theo là được. Trước lúc đó, chúng ta cứ hành sự tùy theo hoàn cảnh đi.”
Bọn họ năng lực hữu hạn, truyền tin cũng chỉ có thể nhờ bồ câu, nhưng quốc sư lại khác. Nếu vị đại nhân kia muốn hồi âm, chỉ cần đốt lửa, bên bọn họ sẽ lập tức nhận được, không chậm trễ một chút nào.
Cho nên muốn xác minh quốc sư có còn ở Pháp Môn tự hay không, nhiều nhất là hai ngày sẽ có kết quả.
“Thực ra đợi chúng ta gặp cái vị trong thôn rồi thì hẳn sẽ có kết quả thôi.” Thái Chúc thấp giọng nói, “Dù sao quốc sư cũng đâu phải người ngoài có thể làm được.”
Mặc dù bọn họ không phải đệ tử chân chính của quốc sư, chỉ có thể miễn cưỡng tính là một nửa, ăn ở dạy dỗ đều do môn hạ của Thái Thường tự, mà quốc sư thích nơi yên lặng ít người, cho nên quanh năm sống một mình trong Thiên Cơ viện. Song bọn họ đã được xem là người thường hay gặp quốc sư nhất, từ thời điểm thiếu niên thậm chí hài đồng đến giờ, nhiều năm như vậy trôi qua, từ lâu đã rõ thói quen cử chỉ và khí chất của quốc sư.
Không nói ngoa, dù quốc sư mang theo mặt nạ, trà trộn vào đám đông trăm ngàn người ăn vận tương tự, hai bọn họ vẫn có thể nhìn ra được.
Viết phong thư kia, chỉ là thông qua lời xin chỉ thị mà cầu an lòng thôi.
Hai người đưa mắt nhìn nhau, không trì hoãn nữa, kẹp lấy bụng ngựa, đội ngũ dài dặc liền hướng tới thôn nhỏ phía Nam núi trong tiếng vó ngựa lộc cộc……
——
Ở sâu trong tiểu thôn, dưới chạc cây sơn trà già cỗi, có một căn nhà nhỏ độc môn (nhà chỉ có một gian). Trên mái hiên của căn nhà thấp bé có treo hai xâu tỏi nặng trịch và ớt đỏ sẫm, được xâu bằng dây thừng.
Sợi dây thừng kia bện khá khéo léo, trông không giống như chỉ đơn thuần treo ra phơi nắng. Khi đi đến gần, còn có thể ngửi thấy trên sợi dây kia có mùi hương nồng đậm.
Đây chính là chỗ ở của Cù thúc theo như lời thương binh kia.
Tiết Nhàn đi tới cạnh cửa, cũng không vội vàng gõ cửa, mà chun mũi, cau mày đến gần sợi dây thừng kia ngửi thử, sau đó nâng tay áo che mũi, trầm giọng nói: “Mùi máu, lại còn là lâu năm.”
Huyền Mẫn đối với mấy thứ này luôn có chút ghét bỏ, vì vậy bèn nâng tay kéo Tiết Nhàn, lôi tổ tông hỏng đầu hỏng não này về, như thể chỉ đứng cạnh sợi dây kia lâu một chút thôi thì sẽ dính phải thứ mùi kia vậy.
Thủ thuật che mắt của hai người vẫn chưa gỡ bỏ, cho nên người bình thường không nhìn thấy bọn họ, cũng không nghe thấy bọn họ. Khi Tiết Nhàn bị Huyền Mẫn kéo ra xa khỏi sợi dây kia, một nam tử mặc áo dày dắt một đứa trẻ vừa đi qua trước cửa nhà Cù thúc trở về.
Đứa bé kia chỉ vừa thoáng nhìn căn nhà nhỏ này, liền bị nam tử nọ kéo ra xa mấy bước, như thể căn nhà này dính bệnh gà toi vậy.
“Đã dặn con bao nhiêu lần rồi? Đừng có chạy sang cái chỗ này.” Nam tử cau mày khẽ dạy bảo.
Đứa bé kia “Dạ” một tiếng, ngoan ngoãn rụt cổ đi theo hắn, song ánh mắt vẫn không nhịn được mà liếc sang bên này.
Đúng lúc đó có hai mẹ con vừa xem náo nhiệt ở cổng thôn xong, cũng đi qua trước căn nhà này, người phụ nữ gật đầu chào hỏi một tiếng với hai cha con nhà kia, rồi sau đó cũng kéo con mình tránh ra xa mấy bước……
“Người trong thôn hình như không thích họ Cù này lắm thì phải.” Tiết Nhàn lẩm bẩm một câu.
Y vốn định đợi cho mấy người qua đường kia đi xa rồi hiện thân gõ cửa, kết quả vừa nói dứt lời, cánh cửa he hé của căn nhà liền mở ra.
Một lão đầu mím môi nheo mắt ló đầu ra từ trong nhà, mờ mịt quét mắt, ánh mắt dừng ở chỗ Tiết Nhàn và Huyền Mẫn đứng. Tuy rằng hai mắt lão đục ngầu, tiêu điểm cũng hơi rời rạc, nhưng Tiết Nhàn vẫn cảm giác lão nhân này có thể thấy bọn họ, chí ít cũng có thể cảm giác được sự tồn tại của hai người bọn họ.
“Ai đó? Sao lại đứng trước cửa? Không vào thì ta đóng cửa đấy.” Lão đầu bĩu môi, hàm hồ hô một câu.
Lão có vẻ hơi nghễnh ngãng, cho nên giọng nói rất to, đủ để mấy vị tránh đằng xa kia nghe thấy.
“Đi mau đi mau, bệnh điên của lão Cù lại sắp phát tác rồi.” Nam tử nọ thấp giọng thầm thì, kéo đứa con mình, chỉ mấy bước đã đi xa. Phản ứng của hai mẹ con kia cũng vậy.
Chỉ trong chớp mắt, trước nhà đã chẳng còn bóng người.
“Hứ ——” Tính tình lão Cù hiển nhiên không tốt, lão ghé vào cửa, đợi một lát vẫn không thấy có người vào nhà, liền hùng hùng hổ hổ muốn đóng cửa.
Song cửa vừa định khép lại, liền bị Tiết Nhàn vươn tay ngăn cản.
“Làm phiền, cho mượn chỗ tránh gió.” Tiết Nhàn nói.
Lão Cù vừa nghe, còn có chút do dự, “Là người hay quỷ?”
Không chờ Tiết Nhàn lên tiếng trả lời, lão đã tự nói: “Hẳn không phải quỷ, xâu trừ tà của ta treo rõ ràng như vậy, quỷ cũng không dám đến…… Các ngươi là ai? Đến chỗ ta làm gì?”
“Đến hỏi một chuyện.” Tiết Nhàn đáp.
Lão Cù vẫn ghé vào cửa, chần chờ không cho bọn họ vào: “Chuyện gì?”
“Nghe nói ông là người ở vùng Hà Sơn, Lãng Châu?” Đối với việc có vào nhà hay không, Tiết Nhàn vốn cũng chẳng quan tâm, dù sao căn nhà này quả thực hơi thấp, y và Huyền Mẫn đi vào còn phải cúi đầu, nếu hỏi luôn ở cửa thì đỡ phải khom lưng khom người phiền toái.
Lão Cù gật đầu, “Đúng, làm sao vậy?”
“Vừa mới đưa một vị tiểu huynh đệ hồi hương, nghe hắn kể rằng hồi hắn còn là thiếu niên, có từng nghe ông nói, vùng Hà Sơn, Lãng Châu có không ít thần dược?”
Lão Cũ tỏ vẻ kỳ quái lắng nghe một lát, lại sờ cằm cân nhắc, vẫn hé mở cửa ra, “Vào rồi nói sau, đứng mệt lắm, chân cẳng ta không tốt, chịu không nổi.”
Lão Cù này hình như sống một mình đã lâu, nhà cửa chẳng gọn gàng, cũng không biết bao lâu rồi chưa thông gió, tỏa ra mùi tanh hôi, nếu chỉ là mùi hôi thì thôi, đằng này còn đan xen mùi tỏi.
Lão khẽ buông tay, cửa gỗ mở ra, thứ mùi khó tả này liền đập vào mặt Tiết Nhàn.
Tiết Nhàn: “……” Hay là vẫn đứng nói chuyện đi……
Y xanh mặt nín thở, cúi đầu khom lưng bước vào cửa, lại túm lấy Huyền Mẫn đang định lưu lại bên ngoài, kéo hắn vào trong luôn.
Nhân lúc Cù lão đầu xoay người lần mò ngồi xuống, Tiết Nhàn túm lấy tăng y Huyền Mẫn, đưa lên mũi hít mạnh một hơi, bấy giờ mới tỉnh táo được chút.
Huyền Mẫn: “…….”
Cù lão đầu không tính là hiếu khách, cũng không định mời hai vị này ngồi xuống, trong nhà lão cũng chẳng có mấy chỗ để người ngồi được.
“Các ngươi muốn hỏi thần dược gì?” Lão ngồi xuống cái ghế lót vải dày, nheo mắt hỏi, “Vùng Lãng Châu rất nhiều đông trùng hạ thảo, có vài thần dược cũng chẳng có gì lạ.”
“Có loại nào nối mệnh hoặc thay đổi họa phúc không?” Tiết Nhàn dò hỏi.
Cù lão đầu liếc xéo bọn họ, hồi lâu sau mới nói: “Thứ thần dược này nghe đồn là có, nhưng cũng không phải cùng loại, nghe nói tổng cộng có hai loại, hình dạng cực kỳ giống nhau, nhưng hiệu dụng lại trái ngược hoàn toàn, một loại có thể nối mệnh, một loại lại hại mệnh, còn có lời đồn rằng một loại trong đó có thể trói buộc đến ba kiếp, cũng không biết là loại nào, dù sao ta chưa từng gặp bao giờ, thật giả thế nào chỉ dựa vào tai nghe được thôi.” Cù lão đầu nói liên miên.
“Vậy ông có biết thuốc kia sinh ở nơi nào không?” Tiết Nhàn lại hỏi.
Lần này lão Cù lại không làm bọn họ thất vọng, lão thực sự nói ra một nơi khá cụ thể, “Động Bách Trùng!”
Tiết Nhàn sáng tỏ, “Vậy đi cũng tiện rồi, có phải dân bản xứ đều biết động Bách Trùng nằm ở nơi nào không? Nếu như biết, chúng ta đến Hà Sơn rồi lại hỏi tiếp.”
“Nơi nào cơ chứ!” Lão Cù xua tay, “Nếu ngươi đi hỏi thật, đảm bảo không ai trả lời được.”
Tiết Nhàn nhíu mày: “Vì sao?”
“Ngươi không biết đó thôi, sâu trùng ở chỗ chúng ta rất độc. Cái tên động Bách Trùng này, chỉ nghe thôi liền đi mất nửa cái mạng. Huống hồ làm gì có ai rỗi hơi đi tìm hiểu xem lời đồn là thật hay giả chứ?” Cù lão đầu nói, “Sở dĩ ta nghe được mấy chuyện này, cũng là bởi tổ tiên ta là vu y, thích nghiên cứu mấy thứ này. Kỳ thực, các ngươi xem như hỏi đúng người đấy, cũng chỉ có lão Cù ta mới có thể chỉ đúng đường cho các ngươi.”
(Vu y là người chữa bệnh bằng bùa chú, cúng bái kết hợp với dược vật, trừ tà ma, mầm bệnh trong người.)
Lão nâng tay, dùng ngón trỏ vạch lên bàn tay còn lại, nói: “Các ngươi đến vùng Hà Sơn, đi như vậy, vòng đến cửa núi Tây Nam, mặt ấy có ba đỉnh núi, một đỉnh trong đó có vách uốn cong, động Bách Trùng ở phụ cận nơi đó, về phần rơi xuống dưới vách núi phải làm thế nào thì ta không rõ, nếu các ngươi có mệnh thì thử hết mọi cách đi.”
Có mệnh ấy hả, không thiếu nhất chính là thứ này.
Tiết Nhàn “Xì” một tiếng, lòng nói quả thực không tính là phiền phức, cùng lắm thì lục tìm toàn bộ vách núi kia một lượt, đối với y và Huyền Mẫn mà nói, đó cũng chẳng phải chuyện gì khó.
Kỳ thực nếu thật sự nói ra thuốc, Tiết Nhàn chẳng tin. Nhưng nếu nói “động Bách Trùng”, vậy có khả năng thật sự tìm đúng. Dù sao Huyền Mẫn bị trúng cái thứ gọi là “nhện Đồng Thọ” kia, không phải có liên quan đến trùng đó sao.
Chỉ dựa vào một loại trùng liền có thể nối mệnh sửa mệnh, đương nhiên là lời nói vô căn cứ, nhưng nếu dùng trùng đó để dưỡng cổ, rồi mượn phù trận hoặc tà thuật nào đó thúc đẩy một chút, có lẽ thực sự có hiệu quả, có điều thứ này hẳn chỉ có một phía được lợi, một phía khác sợ là sẽ phải chịu tra tấn. (Cổ là thứ sâu độc, ăn phải thì sinh ra mê dại điên rồ.)
Đã hỏi được địa điểm rồi, hai người đương nhiên sẽ không ở lâu. Trước khi đi, Tiết Nhàn quét mắt nhìn bài trí trong căn nhà xưa cũ mục nát, lẳng lặng ném viên kim châu vào chiếc túi vải treo sau cửa, xem như thù lao cho câu hỏi.
Cù lão đầu tính tình cổ quái, nhưng không khiến người ta chán ghét. Lão cũng không hỏi đám Tiết Nhàn muốn làm gì, lúc hai người cáo từ cũng không định tiễn, nhưng khi Tiết Nhàn kéo cánh cửa gỗ, đang định bước ra ngoài, Cù lão đầu lại thì thào như nói mớ: “Có điều, ta xin khuyên một câu, thứ đó dù có tìm được, tốt nhất vẫn đừng dùng. Trong truyền thuyết tổ tiên ta có một kẻ đa tình, nghe nói là muốn nối mệnh mình hay là muốn trói buộc đến kiếp sau đời sau kiếp sau gì đó, ta cũng không nhớ rõ lắm, tóm lại cuối cùng kẻ đó chống chịu vô cùng gian nan, sống không bằng chết, cũng chẳng biết là toan tính gì nữa……”
Dứt lời, lão lại nói như tự giễu: “Song lời này, ta đã nói cho biết bao nhiêu người rồi, chẳng ai tin cả, đều bảo ta điên điên khùng khùng. Các ngươi cũng nghe tai này lọt tai kia như thế, đi đi, ta ngủ một giấc đây.”
“Ta cũng đâu rảnh rỗi thừa hơi như vậy, với cả, ta mà còn phải nối mệnh à?” Tiết Nhàn bâng quơ đáp một câu, khoát tay với Cù lão đầu, đẩy Huyền Mẫn ra cửa.
Đã hỏi được chuyện muốn hỏi, hai người đương nhiên sẽ không nấn ná lâu nữa, lập tức men theo con đường nhỏ trên bờ ruộng ngang dọc trong thôn, hướng về phía cổng thôn. Giữa đường, khi đi ngang qua con đê, Tiết Nhàn lơ đãng nhìn về phía xa xa, thấy thương binh kia quả thực vẫn đứng thẳng tắp canh giữ ở trước cửa, dường như tính đứng đến sáu mươi năm bạc đầu.
Kỳ thực y cũng không hiểu loại tình cảm quá mức mạnh mẽ này lắm, bất luận là “Tổ tiên đa tình” trong lời Cù lão đầu, hay là thương binh khóc đến dữ tợn kia, thứ tình cảm ẩn chứa trong suy nghĩ và việc làm của bọn họ, y thực khó có thể cảm động lây.
Y cũng từng gặp gỡ một binh sĩ, ước chừng là sáu bảy mươi năm về trước.
Đó là một mảnh đại mạc ở vùng Cực Bắc, y thuận theo thiên thời đi rải một ít nước mưa. Khi đến nơi đó, liền thấy dưới cuồng phong cuồn cuộn, bão cát tung trời, mặt đất chồng chất thi cốt. Chiến xa bị thiêu hủy, chiến kỳ rách tươm và giáp trụ mục nát đứt gãy trải khắp mười dặm.
Lúc ấy binh tướng nọ lẻ loi ngồi bên cạnh chiến xa, gập một chân, đạp trên cái bánh xe lật ngửa, chống đầu nhìn lá lờ rách nát bên cạnh.
Tiết Nhàn chỉ nhìn một cái, liền biết đó là dã hồn đã chết hơn nửa năm. Những người khác đều đã lên đường từ lâu, chỉ còn y, cũng không biết là nhớ đến cái gì, mà lại nấn ná không đi. Tính cách Tiết Nhàn có chút lười biếng, cũng chẳng phải người nhiệt tình, vốn không tính quản người kia, rải mưa xong thì định đi luôn, kết quả cô hồn kia lại gọi y lại.
Cô hồn kia có vẻ quẩn quanh một chỗ đã lâu, đầu óc có chút mơ hồ, cũng không quan tâm Tiết Nhàn là người phương nào, cứ kéo y lại nói thao thao không dứt. Kẻ đó cũng giống như thương binh kia vậy, lời nói lộn xộn rối rắm, hơi có chút khó hiểu.
Tiết Nhàn luôn làm việc theo tâm tình, ngày ấy trùng hợp y nhìn thi cốt nơi đó có chút cảm khái, cho nên độ nhẫn nại với cô hồn kia cũng hơi cao một xíu, khoan nhượng cho kẻ đó nói lời vô nghĩa hồi lâu. Tổng kết lại chỉ có hai chuyện, một là “Nếu trận này mà thắng thì tốt rồi”, hai là “Không dám lên đường”.
“Chết còn không sợ, vì sao lại sợ lên đường?” Tiết Nhàn hỏi.
Cô hồn kia lại nói linh tinh một lúc, Tiết Nhàn mới miễn cưỡng nghe hiểu được: Y sợ lên đường rồi, y sẽ phải đi tới kiếp sau, nhưng thê tử của y vẫn còn ở lại kiếp này, y sợ đi rồi thì sẽ không có cơ hội gặp lại nữa.
“Ở lại cũng đâu có cơ hội gặp được.” Tiết Nhàn nói, “Ngươi bị trói ở chỗ này, không đi được.”
Cô hồn nọ ai oán nhìn y, rồi vừa nói vừa khoa chân múa tay một hồi: Nếu như kiếp sau vẫn có thể nhớ để đi tìm nàng thì tốt quá, sẽ không khó chịu như vậy nữa. Nếu còn có duyên phận, tốt nhất là gặp được nhau từ khi còn nhỏ, nhìn nàng lớn lên từng chút từng chút một, từ tiểu cô nương trở thành đại cô nương, sau đó cưới nàng, cũng chẳng cần các loại sinh sinh tử tử giống như trong truyện kịch, cuộc sống bình thường nhất là được rồi, tốt nhất…… là đừng có chiến sự nữa……
Tiết Nhàn nhìn thi cốt trải đầy, nghe y lải nhải thao thao bất tuyệt, ấy vậy mà cũng không ngại phiền.
Trước khi đi, y tiện tay ném cho cô hồn nọ một sợi dây dài.
“Đưa ta dây này làm gì? Ta đã chết rồi, cũng đâu cần phúng viếng?” Cô hồn nọ ngơ ngác nói.
Tiết Nhàn tức giận bảo: “Quấn một vòng lên cổ tay trái, làm ký hiệu, không phải kiếp sau ngươi còn muốn tìm người hay sao? Mặc dù không thể nào khiến ngươi nhớ kỹ những chuyện vụn vặt, nhưng làm ký hiệu thì sẽ dễ nhận biết một chút, nếu chấp niệm đủ sâu thì có thể tìm được.”
Cô hồn nọ chậm trễ hơn nửa năm cũng chỉ vì một chút tâm sự này, giờ đã chấm dứt rồi, đương nhiên không nán lại nữa, thời điểm Tiết Nhàn rời đi, y cũng lên đường của mình.
Hôm nay, Tiết Nhàn nhìn thương binh kia, lại nhớ đến cô hồn nọ. Sáu bảy mươi năm qua đi, y vẫn không lý giải được thứ tình cảm chết rồi vẫn nhớ mãi không quên này.
Song, khi nghĩ đến mấy chuyện cũ vụn vặt này, y lại vô thức liếc nhìn Huyền Mẫn.
“Sao vậy?” Huyền Mẫn đi trước nửa bước, thấy bước chân Tiết Nhàn bỗng dừng một chốc, liền nhẹ nhàng hỏi một câu.
Tiết Nhàn phục hồi tinh thần, bấy giờ mới phát hiện ánh mắt mình đang dừng ở vai lưng Huyền Mẫn, y “À” một tiếng, dời mắt đi, “Không có gì, chỉ là nhớ tới một người qua đường thôi.”
“Người qua đường?” Huyền Mẫn nhìn thoáng qua đầu kia của con đê, rồi lại nhìn Tiết Nhàn.
Nhưng ánh mắt Tiết Nhàn đã hướng về con đường phía trước, “Đi thôi, mau ra —— Có người!”
Bọn họ đã đi qua tấm bia ở cổng thôn, vừa cởi bỏ thủ thuật che mắt. Rẽ qua khúc cua này là có thể rời núi. Kết quả Tiết Nhàn vừa nói được nửa câu, liền thấy trên sơn đạo cách đó không xa, có một đội nhân mã thật dài đang đứng, trắng hêu hếu.
“Nhà ai đưa tang mà phô trương ghê vậy?” Tiết Nhàn vừa thì thầm một câu, liền thấy chiếc xe ngựa trong đội ngũ kia có cắm một lá cờ, trên cờ viết hai chữ: Thái Thường.
Y và Huyền Mẫn đều dừng bước, còn chưa kịp đợi y thấy rõ bộ dáng người tới, liền nghe thấy một giọng nữ lanh lảnh vang lên: “Xuống ngựa.”
Tiếp đó, hơn trăm người đồng loạt xuống ngựa, hành đại lễ với bọn họ.
Tiết Nhàn: “…….” Diễn cái trò gì thế này?
Editor: Không hiểu sao lúc edit đoạn cô hồn kia lại rơm rớm nước mắt, thực sự rất thích nhân vật phụ trong truyện này, ko phải cao quan quân hầu hiển quý, cũng không phải hiệp khách thân tại giang hồ, chỉ là những bách tính bình thường, mơ ước cuộc sống bình dị đầm ấm, cùng người mình yêu thương trải qua một đời bình an…..
Mặc dù lá thư kia viết vội vàng, nhưng nội dung thì không hề qua quít. Thái Bốc từ đầu đến cuối chưa từng nhắc đến cái gọi là người “vô cùng giống quốc sư”, suy cho cùng chuyện này trên một ý nghĩa nào đó, sẽ bị xem là bất kính.
Trên dưới Thái Thường tự không ai có lá gan này, dám liều lĩnh như thế trước mặt quốc sư. Bởi trong ấn tượng của bọn họ, quốc sư luôn luôn bất cẩu ngôn tiếu (không nói cười tùy tiện), phàm mỗi khi ngài xuất hiện, đều mang theo một loại cảm giác không thể thân cận, cũng không thể quấy nhiễu.
Cho dù là Thái Bốc, Thái Chúc được quốc sư mang về Thái Thường tự từ nhỏ, nhưng nhiều năm như vậy trôi qua, quốc sư đối với bọn họ vẫn là cao cao tại thượng, không thể đụng chạm hay ngỗ nghịch.
“Trong thư của ngươi……” Thái Chúc kéo dây cương, trước lúc xuất phát, y nói chút chần chừ.
Thái Bốc không cần nghe hết cũng biết y muốn nói gì, “Ta không ngốc như vậy đâu, chỉ nói là người chúng ta phụng mệnh tìm kiếm đã chết thôi. Nếu bồ câu một đường thuận lợi, khoảng chừng tối mai là đến được Pháp Môn tự rồi, dù gặp phải mưa gió, muộn nhất là ngày mốt sẽ đến. Quốc sư xem thư, đương nhiên sẽ có an bài, chúng ta làm theo là được. Trước lúc đó, chúng ta cứ hành sự tùy theo hoàn cảnh đi.”
Bọn họ năng lực hữu hạn, truyền tin cũng chỉ có thể nhờ bồ câu, nhưng quốc sư lại khác. Nếu vị đại nhân kia muốn hồi âm, chỉ cần đốt lửa, bên bọn họ sẽ lập tức nhận được, không chậm trễ một chút nào.
Cho nên muốn xác minh quốc sư có còn ở Pháp Môn tự hay không, nhiều nhất là hai ngày sẽ có kết quả.
“Thực ra đợi chúng ta gặp cái vị trong thôn rồi thì hẳn sẽ có kết quả thôi.” Thái Chúc thấp giọng nói, “Dù sao quốc sư cũng đâu phải người ngoài có thể làm được.”
Mặc dù bọn họ không phải đệ tử chân chính của quốc sư, chỉ có thể miễn cưỡng tính là một nửa, ăn ở dạy dỗ đều do môn hạ của Thái Thường tự, mà quốc sư thích nơi yên lặng ít người, cho nên quanh năm sống một mình trong Thiên Cơ viện. Song bọn họ đã được xem là người thường hay gặp quốc sư nhất, từ thời điểm thiếu niên thậm chí hài đồng đến giờ, nhiều năm như vậy trôi qua, từ lâu đã rõ thói quen cử chỉ và khí chất của quốc sư.
Không nói ngoa, dù quốc sư mang theo mặt nạ, trà trộn vào đám đông trăm ngàn người ăn vận tương tự, hai bọn họ vẫn có thể nhìn ra được.
Viết phong thư kia, chỉ là thông qua lời xin chỉ thị mà cầu an lòng thôi.
Hai người đưa mắt nhìn nhau, không trì hoãn nữa, kẹp lấy bụng ngựa, đội ngũ dài dặc liền hướng tới thôn nhỏ phía Nam núi trong tiếng vó ngựa lộc cộc……
——
Ở sâu trong tiểu thôn, dưới chạc cây sơn trà già cỗi, có một căn nhà nhỏ độc môn (nhà chỉ có một gian). Trên mái hiên của căn nhà thấp bé có treo hai xâu tỏi nặng trịch và ớt đỏ sẫm, được xâu bằng dây thừng.
Sợi dây thừng kia bện khá khéo léo, trông không giống như chỉ đơn thuần treo ra phơi nắng. Khi đi đến gần, còn có thể ngửi thấy trên sợi dây kia có mùi hương nồng đậm.
Đây chính là chỗ ở của Cù thúc theo như lời thương binh kia.
Tiết Nhàn đi tới cạnh cửa, cũng không vội vàng gõ cửa, mà chun mũi, cau mày đến gần sợi dây thừng kia ngửi thử, sau đó nâng tay áo che mũi, trầm giọng nói: “Mùi máu, lại còn là lâu năm.”
Huyền Mẫn đối với mấy thứ này luôn có chút ghét bỏ, vì vậy bèn nâng tay kéo Tiết Nhàn, lôi tổ tông hỏng đầu hỏng não này về, như thể chỉ đứng cạnh sợi dây kia lâu một chút thôi thì sẽ dính phải thứ mùi kia vậy.
Thủ thuật che mắt của hai người vẫn chưa gỡ bỏ, cho nên người bình thường không nhìn thấy bọn họ, cũng không nghe thấy bọn họ. Khi Tiết Nhàn bị Huyền Mẫn kéo ra xa khỏi sợi dây kia, một nam tử mặc áo dày dắt một đứa trẻ vừa đi qua trước cửa nhà Cù thúc trở về.
Đứa bé kia chỉ vừa thoáng nhìn căn nhà nhỏ này, liền bị nam tử nọ kéo ra xa mấy bước, như thể căn nhà này dính bệnh gà toi vậy.
“Đã dặn con bao nhiêu lần rồi? Đừng có chạy sang cái chỗ này.” Nam tử cau mày khẽ dạy bảo.
Đứa bé kia “Dạ” một tiếng, ngoan ngoãn rụt cổ đi theo hắn, song ánh mắt vẫn không nhịn được mà liếc sang bên này.
Đúng lúc đó có hai mẹ con vừa xem náo nhiệt ở cổng thôn xong, cũng đi qua trước căn nhà này, người phụ nữ gật đầu chào hỏi một tiếng với hai cha con nhà kia, rồi sau đó cũng kéo con mình tránh ra xa mấy bước……
“Người trong thôn hình như không thích họ Cù này lắm thì phải.” Tiết Nhàn lẩm bẩm một câu.
Y vốn định đợi cho mấy người qua đường kia đi xa rồi hiện thân gõ cửa, kết quả vừa nói dứt lời, cánh cửa he hé của căn nhà liền mở ra.
Một lão đầu mím môi nheo mắt ló đầu ra từ trong nhà, mờ mịt quét mắt, ánh mắt dừng ở chỗ Tiết Nhàn và Huyền Mẫn đứng. Tuy rằng hai mắt lão đục ngầu, tiêu điểm cũng hơi rời rạc, nhưng Tiết Nhàn vẫn cảm giác lão nhân này có thể thấy bọn họ, chí ít cũng có thể cảm giác được sự tồn tại của hai người bọn họ.
“Ai đó? Sao lại đứng trước cửa? Không vào thì ta đóng cửa đấy.” Lão đầu bĩu môi, hàm hồ hô một câu.
Lão có vẻ hơi nghễnh ngãng, cho nên giọng nói rất to, đủ để mấy vị tránh đằng xa kia nghe thấy.
“Đi mau đi mau, bệnh điên của lão Cù lại sắp phát tác rồi.” Nam tử nọ thấp giọng thầm thì, kéo đứa con mình, chỉ mấy bước đã đi xa. Phản ứng của hai mẹ con kia cũng vậy.
Chỉ trong chớp mắt, trước nhà đã chẳng còn bóng người.
“Hứ ——” Tính tình lão Cù hiển nhiên không tốt, lão ghé vào cửa, đợi một lát vẫn không thấy có người vào nhà, liền hùng hùng hổ hổ muốn đóng cửa.
Song cửa vừa định khép lại, liền bị Tiết Nhàn vươn tay ngăn cản.
“Làm phiền, cho mượn chỗ tránh gió.” Tiết Nhàn nói.
Lão Cù vừa nghe, còn có chút do dự, “Là người hay quỷ?”
Không chờ Tiết Nhàn lên tiếng trả lời, lão đã tự nói: “Hẳn không phải quỷ, xâu trừ tà của ta treo rõ ràng như vậy, quỷ cũng không dám đến…… Các ngươi là ai? Đến chỗ ta làm gì?”
“Đến hỏi một chuyện.” Tiết Nhàn đáp.
Lão Cù vẫn ghé vào cửa, chần chờ không cho bọn họ vào: “Chuyện gì?”
“Nghe nói ông là người ở vùng Hà Sơn, Lãng Châu?” Đối với việc có vào nhà hay không, Tiết Nhàn vốn cũng chẳng quan tâm, dù sao căn nhà này quả thực hơi thấp, y và Huyền Mẫn đi vào còn phải cúi đầu, nếu hỏi luôn ở cửa thì đỡ phải khom lưng khom người phiền toái.
Lão Cù gật đầu, “Đúng, làm sao vậy?”
“Vừa mới đưa một vị tiểu huynh đệ hồi hương, nghe hắn kể rằng hồi hắn còn là thiếu niên, có từng nghe ông nói, vùng Hà Sơn, Lãng Châu có không ít thần dược?”
Lão Cũ tỏ vẻ kỳ quái lắng nghe một lát, lại sờ cằm cân nhắc, vẫn hé mở cửa ra, “Vào rồi nói sau, đứng mệt lắm, chân cẳng ta không tốt, chịu không nổi.”
Lão Cù này hình như sống một mình đã lâu, nhà cửa chẳng gọn gàng, cũng không biết bao lâu rồi chưa thông gió, tỏa ra mùi tanh hôi, nếu chỉ là mùi hôi thì thôi, đằng này còn đan xen mùi tỏi.
Lão khẽ buông tay, cửa gỗ mở ra, thứ mùi khó tả này liền đập vào mặt Tiết Nhàn.
Tiết Nhàn: “……” Hay là vẫn đứng nói chuyện đi……
Y xanh mặt nín thở, cúi đầu khom lưng bước vào cửa, lại túm lấy Huyền Mẫn đang định lưu lại bên ngoài, kéo hắn vào trong luôn.
Nhân lúc Cù lão đầu xoay người lần mò ngồi xuống, Tiết Nhàn túm lấy tăng y Huyền Mẫn, đưa lên mũi hít mạnh một hơi, bấy giờ mới tỉnh táo được chút.
Huyền Mẫn: “…….”
Cù lão đầu không tính là hiếu khách, cũng không định mời hai vị này ngồi xuống, trong nhà lão cũng chẳng có mấy chỗ để người ngồi được.
“Các ngươi muốn hỏi thần dược gì?” Lão ngồi xuống cái ghế lót vải dày, nheo mắt hỏi, “Vùng Lãng Châu rất nhiều đông trùng hạ thảo, có vài thần dược cũng chẳng có gì lạ.”
“Có loại nào nối mệnh hoặc thay đổi họa phúc không?” Tiết Nhàn dò hỏi.
Cù lão đầu liếc xéo bọn họ, hồi lâu sau mới nói: “Thứ thần dược này nghe đồn là có, nhưng cũng không phải cùng loại, nghe nói tổng cộng có hai loại, hình dạng cực kỳ giống nhau, nhưng hiệu dụng lại trái ngược hoàn toàn, một loại có thể nối mệnh, một loại lại hại mệnh, còn có lời đồn rằng một loại trong đó có thể trói buộc đến ba kiếp, cũng không biết là loại nào, dù sao ta chưa từng gặp bao giờ, thật giả thế nào chỉ dựa vào tai nghe được thôi.” Cù lão đầu nói liên miên.
“Vậy ông có biết thuốc kia sinh ở nơi nào không?” Tiết Nhàn lại hỏi.
Lần này lão Cù lại không làm bọn họ thất vọng, lão thực sự nói ra một nơi khá cụ thể, “Động Bách Trùng!”
Tiết Nhàn sáng tỏ, “Vậy đi cũng tiện rồi, có phải dân bản xứ đều biết động Bách Trùng nằm ở nơi nào không? Nếu như biết, chúng ta đến Hà Sơn rồi lại hỏi tiếp.”
“Nơi nào cơ chứ!” Lão Cù xua tay, “Nếu ngươi đi hỏi thật, đảm bảo không ai trả lời được.”
Tiết Nhàn nhíu mày: “Vì sao?”
“Ngươi không biết đó thôi, sâu trùng ở chỗ chúng ta rất độc. Cái tên động Bách Trùng này, chỉ nghe thôi liền đi mất nửa cái mạng. Huống hồ làm gì có ai rỗi hơi đi tìm hiểu xem lời đồn là thật hay giả chứ?” Cù lão đầu nói, “Sở dĩ ta nghe được mấy chuyện này, cũng là bởi tổ tiên ta là vu y, thích nghiên cứu mấy thứ này. Kỳ thực, các ngươi xem như hỏi đúng người đấy, cũng chỉ có lão Cù ta mới có thể chỉ đúng đường cho các ngươi.”
(Vu y là người chữa bệnh bằng bùa chú, cúng bái kết hợp với dược vật, trừ tà ma, mầm bệnh trong người.)
Lão nâng tay, dùng ngón trỏ vạch lên bàn tay còn lại, nói: “Các ngươi đến vùng Hà Sơn, đi như vậy, vòng đến cửa núi Tây Nam, mặt ấy có ba đỉnh núi, một đỉnh trong đó có vách uốn cong, động Bách Trùng ở phụ cận nơi đó, về phần rơi xuống dưới vách núi phải làm thế nào thì ta không rõ, nếu các ngươi có mệnh thì thử hết mọi cách đi.”
Có mệnh ấy hả, không thiếu nhất chính là thứ này.
Tiết Nhàn “Xì” một tiếng, lòng nói quả thực không tính là phiền phức, cùng lắm thì lục tìm toàn bộ vách núi kia một lượt, đối với y và Huyền Mẫn mà nói, đó cũng chẳng phải chuyện gì khó.
Kỳ thực nếu thật sự nói ra thuốc, Tiết Nhàn chẳng tin. Nhưng nếu nói “động Bách Trùng”, vậy có khả năng thật sự tìm đúng. Dù sao Huyền Mẫn bị trúng cái thứ gọi là “nhện Đồng Thọ” kia, không phải có liên quan đến trùng đó sao.
Chỉ dựa vào một loại trùng liền có thể nối mệnh sửa mệnh, đương nhiên là lời nói vô căn cứ, nhưng nếu dùng trùng đó để dưỡng cổ, rồi mượn phù trận hoặc tà thuật nào đó thúc đẩy một chút, có lẽ thực sự có hiệu quả, có điều thứ này hẳn chỉ có một phía được lợi, một phía khác sợ là sẽ phải chịu tra tấn. (Cổ là thứ sâu độc, ăn phải thì sinh ra mê dại điên rồ.)
Đã hỏi được địa điểm rồi, hai người đương nhiên sẽ không ở lâu. Trước khi đi, Tiết Nhàn quét mắt nhìn bài trí trong căn nhà xưa cũ mục nát, lẳng lặng ném viên kim châu vào chiếc túi vải treo sau cửa, xem như thù lao cho câu hỏi.
Cù lão đầu tính tình cổ quái, nhưng không khiến người ta chán ghét. Lão cũng không hỏi đám Tiết Nhàn muốn làm gì, lúc hai người cáo từ cũng không định tiễn, nhưng khi Tiết Nhàn kéo cánh cửa gỗ, đang định bước ra ngoài, Cù lão đầu lại thì thào như nói mớ: “Có điều, ta xin khuyên một câu, thứ đó dù có tìm được, tốt nhất vẫn đừng dùng. Trong truyền thuyết tổ tiên ta có một kẻ đa tình, nghe nói là muốn nối mệnh mình hay là muốn trói buộc đến kiếp sau đời sau kiếp sau gì đó, ta cũng không nhớ rõ lắm, tóm lại cuối cùng kẻ đó chống chịu vô cùng gian nan, sống không bằng chết, cũng chẳng biết là toan tính gì nữa……”
Dứt lời, lão lại nói như tự giễu: “Song lời này, ta đã nói cho biết bao nhiêu người rồi, chẳng ai tin cả, đều bảo ta điên điên khùng khùng. Các ngươi cũng nghe tai này lọt tai kia như thế, đi đi, ta ngủ một giấc đây.”
“Ta cũng đâu rảnh rỗi thừa hơi như vậy, với cả, ta mà còn phải nối mệnh à?” Tiết Nhàn bâng quơ đáp một câu, khoát tay với Cù lão đầu, đẩy Huyền Mẫn ra cửa.
Đã hỏi được chuyện muốn hỏi, hai người đương nhiên sẽ không nấn ná lâu nữa, lập tức men theo con đường nhỏ trên bờ ruộng ngang dọc trong thôn, hướng về phía cổng thôn. Giữa đường, khi đi ngang qua con đê, Tiết Nhàn lơ đãng nhìn về phía xa xa, thấy thương binh kia quả thực vẫn đứng thẳng tắp canh giữ ở trước cửa, dường như tính đứng đến sáu mươi năm bạc đầu.
Kỳ thực y cũng không hiểu loại tình cảm quá mức mạnh mẽ này lắm, bất luận là “Tổ tiên đa tình” trong lời Cù lão đầu, hay là thương binh khóc đến dữ tợn kia, thứ tình cảm ẩn chứa trong suy nghĩ và việc làm của bọn họ, y thực khó có thể cảm động lây.
Y cũng từng gặp gỡ một binh sĩ, ước chừng là sáu bảy mươi năm về trước.
Đó là một mảnh đại mạc ở vùng Cực Bắc, y thuận theo thiên thời đi rải một ít nước mưa. Khi đến nơi đó, liền thấy dưới cuồng phong cuồn cuộn, bão cát tung trời, mặt đất chồng chất thi cốt. Chiến xa bị thiêu hủy, chiến kỳ rách tươm và giáp trụ mục nát đứt gãy trải khắp mười dặm.
Lúc ấy binh tướng nọ lẻ loi ngồi bên cạnh chiến xa, gập một chân, đạp trên cái bánh xe lật ngửa, chống đầu nhìn lá lờ rách nát bên cạnh.
Tiết Nhàn chỉ nhìn một cái, liền biết đó là dã hồn đã chết hơn nửa năm. Những người khác đều đã lên đường từ lâu, chỉ còn y, cũng không biết là nhớ đến cái gì, mà lại nấn ná không đi. Tính cách Tiết Nhàn có chút lười biếng, cũng chẳng phải người nhiệt tình, vốn không tính quản người kia, rải mưa xong thì định đi luôn, kết quả cô hồn kia lại gọi y lại.
Cô hồn kia có vẻ quẩn quanh một chỗ đã lâu, đầu óc có chút mơ hồ, cũng không quan tâm Tiết Nhàn là người phương nào, cứ kéo y lại nói thao thao không dứt. Kẻ đó cũng giống như thương binh kia vậy, lời nói lộn xộn rối rắm, hơi có chút khó hiểu.
Tiết Nhàn luôn làm việc theo tâm tình, ngày ấy trùng hợp y nhìn thi cốt nơi đó có chút cảm khái, cho nên độ nhẫn nại với cô hồn kia cũng hơi cao một xíu, khoan nhượng cho kẻ đó nói lời vô nghĩa hồi lâu. Tổng kết lại chỉ có hai chuyện, một là “Nếu trận này mà thắng thì tốt rồi”, hai là “Không dám lên đường”.
“Chết còn không sợ, vì sao lại sợ lên đường?” Tiết Nhàn hỏi.
Cô hồn kia lại nói linh tinh một lúc, Tiết Nhàn mới miễn cưỡng nghe hiểu được: Y sợ lên đường rồi, y sẽ phải đi tới kiếp sau, nhưng thê tử của y vẫn còn ở lại kiếp này, y sợ đi rồi thì sẽ không có cơ hội gặp lại nữa.
“Ở lại cũng đâu có cơ hội gặp được.” Tiết Nhàn nói, “Ngươi bị trói ở chỗ này, không đi được.”
Cô hồn nọ ai oán nhìn y, rồi vừa nói vừa khoa chân múa tay một hồi: Nếu như kiếp sau vẫn có thể nhớ để đi tìm nàng thì tốt quá, sẽ không khó chịu như vậy nữa. Nếu còn có duyên phận, tốt nhất là gặp được nhau từ khi còn nhỏ, nhìn nàng lớn lên từng chút từng chút một, từ tiểu cô nương trở thành đại cô nương, sau đó cưới nàng, cũng chẳng cần các loại sinh sinh tử tử giống như trong truyện kịch, cuộc sống bình thường nhất là được rồi, tốt nhất…… là đừng có chiến sự nữa……
Tiết Nhàn nhìn thi cốt trải đầy, nghe y lải nhải thao thao bất tuyệt, ấy vậy mà cũng không ngại phiền.
Trước khi đi, y tiện tay ném cho cô hồn nọ một sợi dây dài.
“Đưa ta dây này làm gì? Ta đã chết rồi, cũng đâu cần phúng viếng?” Cô hồn nọ ngơ ngác nói.
Tiết Nhàn tức giận bảo: “Quấn một vòng lên cổ tay trái, làm ký hiệu, không phải kiếp sau ngươi còn muốn tìm người hay sao? Mặc dù không thể nào khiến ngươi nhớ kỹ những chuyện vụn vặt, nhưng làm ký hiệu thì sẽ dễ nhận biết một chút, nếu chấp niệm đủ sâu thì có thể tìm được.”
Cô hồn nọ chậm trễ hơn nửa năm cũng chỉ vì một chút tâm sự này, giờ đã chấm dứt rồi, đương nhiên không nán lại nữa, thời điểm Tiết Nhàn rời đi, y cũng lên đường của mình.
Hôm nay, Tiết Nhàn nhìn thương binh kia, lại nhớ đến cô hồn nọ. Sáu bảy mươi năm qua đi, y vẫn không lý giải được thứ tình cảm chết rồi vẫn nhớ mãi không quên này.
Song, khi nghĩ đến mấy chuyện cũ vụn vặt này, y lại vô thức liếc nhìn Huyền Mẫn.
“Sao vậy?” Huyền Mẫn đi trước nửa bước, thấy bước chân Tiết Nhàn bỗng dừng một chốc, liền nhẹ nhàng hỏi một câu.
Tiết Nhàn phục hồi tinh thần, bấy giờ mới phát hiện ánh mắt mình đang dừng ở vai lưng Huyền Mẫn, y “À” một tiếng, dời mắt đi, “Không có gì, chỉ là nhớ tới một người qua đường thôi.”
“Người qua đường?” Huyền Mẫn nhìn thoáng qua đầu kia của con đê, rồi lại nhìn Tiết Nhàn.
Nhưng ánh mắt Tiết Nhàn đã hướng về con đường phía trước, “Đi thôi, mau ra —— Có người!”
Bọn họ đã đi qua tấm bia ở cổng thôn, vừa cởi bỏ thủ thuật che mắt. Rẽ qua khúc cua này là có thể rời núi. Kết quả Tiết Nhàn vừa nói được nửa câu, liền thấy trên sơn đạo cách đó không xa, có một đội nhân mã thật dài đang đứng, trắng hêu hếu.
“Nhà ai đưa tang mà phô trương ghê vậy?” Tiết Nhàn vừa thì thầm một câu, liền thấy chiếc xe ngựa trong đội ngũ kia có cắm một lá cờ, trên cờ viết hai chữ: Thái Thường.
Y và Huyền Mẫn đều dừng bước, còn chưa kịp đợi y thấy rõ bộ dáng người tới, liền nghe thấy một giọng nữ lanh lảnh vang lên: “Xuống ngựa.”
Tiếp đó, hơn trăm người đồng loạt xuống ngựa, hành đại lễ với bọn họ.
Tiết Nhàn: “…….” Diễn cái trò gì thế này?
Editor: Không hiểu sao lúc edit đoạn cô hồn kia lại rơm rớm nước mắt, thực sự rất thích nhân vật phụ trong truyện này, ko phải cao quan quân hầu hiển quý, cũng không phải hiệp khách thân tại giang hồ, chỉ là những bách tính bình thường, mơ ước cuộc sống bình dị đầm ấm, cùng người mình yêu thương trải qua một đời bình an…..
Tác giả :
Mộc Tô Lý