Đông Cung
Chương 24
Đôi lứa cùng nhau, đêm nay đây, đêm này chính là ngày lành tháng tốt để mà kết lứa xe đôi.
Tôi vẫn ngỡ tưởng, chúng tôi đã đổi thay, tôi còn tưởng rằng, chuyện đã xảy ra ngày hôm qua, đáng lẽ phải có sự khác biệt chứ. Tối qua lúc tôi bị thích khách bắt đi, chàng từng nhìn tôi, chàng từng gọi tên tôi, chàng bẻ tên thề. Tất thảy, thảy những thứ ấy đều khiến tôi ngộ nhận, đôi ta đã đổi thay, thế nhưng sao vỏn vẹn có 1 ngày, chàng đã đứng kia, đã sánh vai bên người con gái khác đứng kia, ra điều ta đây chẳng từng xảy ra chuyện gì, ra điều thờ ơ thưởng thức cảnh Nguyên tiêu đô hội, đón nhận câu chúc phúc của muôn dân.
Trong khi, tôi sống chết ra sao còn chưa hay, trong khi, tôi đáng lẽ mất tăm mất tích, trong khi, tôi mới là vợ chàng kia mà.
Thoáng nghe có ai đó gọi tên mình: “Tiểu Phong.”
Tôi quay sang, bần thần nhìn Cố Kiếm.
Mắt hắn dán ở nơi tôi, môi tôi lừng khừng nặn một nụ cười, định bụng nói dăm câu.
Thế mà gió ùa trong khuôn miệng vừa hé mở, gió buốt lạnh kéo theo cơn ho không buồn nguôi ngoai, cổ họng trước đó đã đau ghê người, giờ đây từng cơn ho như chực xé toạc cả yết hầu. Ho cơn nào đầu nhói theo cơn đó, chẳng khác nào có cục đá bị nhét trong ấy, cạnh sắc nhọn của nó cứa vào huyết mạch, muốn thở cũng phải chật vật. Tôi còng lưng ho không dứt cơn, chực sắp ho ra nào tim nào phổi, cơn ho hòng như cố sức lôi nội tạng trong người ra ngoài kì được mới thôi. Đau là lẽ đã đành, thế mà chỉ duy có lồng ngực, chỗ ấy khó chịu lắm thay, trách chăng cái lạnh, trách chăng người vốn đang sốt cao… có bệnh tất phải khó chịu thế thôi.
Cố Kiếm đỡ tôi, tôi lảo đảo một chặp, thấy như thể có gì đó thế là đã nứt đôi, khi âm thanh khàn đặc thoát ra khỏi cuống họng, dường như lồng ngực cũng được vỗ về phần nào.
Hắn nâng mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng mình: “Cũng chẳng có gì ghê gớm…” vậy rồi, trong đôi mắt ấy đã hằn lên tia khổ sở méo xẹo, hắn chợt đưa tay quệt khóe miệng tôi.
Dưới ánh đèn, tôi thấy ngón tay hắn đọng vệt máu, máu bám cả trên ống tay áo, những ngấn loang lổ, từng đốm từng đốm, thảy toàn là máu tươi. Cơ thể nhũn nhùn, người tôi xây xẩm, đoán chắc mình đứng không vững, như thể mới rồi tôi bán mạng nôn ra cục máu ấy. Hắn ôm tôi, thầm thì bên tai tôi nói: “Tiểu Phong, nàng khóc đi, nàng cứ khóc một trận cho thỏa đi.”
Tôi đẩy hắn bằng thứ hơi sức cuối cùng: “Sao phải khóc? Ngươi cố ý dẫn ta đến xem cảnh này cơ mà, sao ta phải khóc? Ngươi không cần vờ vĩnh như thế, sao ta phải khóc chứ? Ngươi bảo xem xong thì ngươi thả người, giờ ta phải về rồi!”
“Tiểu Phong!” Hắn đuổi theo toan đỡ tôi. Bước chân loạng choạng, song vẫn cố đứng vững, tôi ngoái đầu, tuốt trâm hoa cài tóc quẳng xuống chân hắn, lạnh nhạt nhìn đoạn bảo: “Cấm ngươi đụng vào ta, cũng đừng có theo ta nữa, bằng không ta chết trước mắt cho ngươi xem, đành rằng ngươi có võ công tuyệt thế, ngăn thế nào được một khi ta đã khăng khăng muốn chết, ngươi cản được 1 lần, cản sao được cả đời. Ngươi cứ thử theo ta mà xem, ta thể nào cũng tự sát kì được đấy.”
Có lẽ giọng tôi lúc đó cương quyết lắm, nên hắn cũng chững lại một chỗ, không dám tiến gần.
Tôi đá bước thất tha thất thểu, chẳng biết đã đi được bao xa, bốn bề bao bọc là người, bốn bề bao bọc là đèn chói lòa. Tôi túm chặt cổ áo khoác, cảm nhận thân mình lẩy bẩy từng cơn run, lạnh đến nỗi răng lợi va vào nhau lập cập, tôi biết mình đương cơn sốt, chân bước ngỡ đạp lên cát, mềm oặt ẹo chẳng mấy sức lực. Bải hoải đứng dưới dàn đèn, khắp nơi là tiếng cười hoan ca vô bờ bến, người qua người lại rộn ràng nhộp nhịp tựa thoi đưa, tháp Thất Tinh bắn từng chùm pháo hoa lộng lẫy nở rộ trênbầu trời cao ngất, Nguyên tiêu rực rỡ màu sắc, Nguyên tiêu phồn hoa đô hội, tôi đi đâu về đâu?
Gầm trời bao la này, hỏi có chốn nào cho mình dung thân.
A Độ ơi, A Độ ơi, ngươi ở nơi nao? Chúng ta về Tây Lương đi thôi, ta nhớ Tây Lương rồi.
Trước mắt tôi là một lồng đèn kéo quân, chao đèn dán giấy thếp vàng hình một người con gái, hơi nóng giẫy từ ngọn nến uốn lượn tỏa ra, chao đèn không ngừng quay tròn, người con gái đó thoắt đứng thoắt ngồi thoắt yêu kiều thoắt giận dữ, lại thoắt hoan hỷ… Trước mắt cứ sụp tối dần, người con gái dán trên đèn sao có nét hao hao Triệu lương đệ, nàng ta bưng miệng cười, ngạo mạn cười bảo tôi: Tỷ nghĩ có chi khác ấy à? Tỷ tưởng rằng mình chiếm được chỗ đứng trong lòng chàng rồi ư? Tỷ tưởng mình làm con tin thay bệ hạ, chàng sẽ rủ lòng tiếc thương vài phần ư…
Ngặt nỗi vố này rõ công toi.
Tôi dựa vào thân cây mới đứng vững, lớp vỏ sần sùi thô ráp cào vào áo lông buốt đau, nhưng thà rằng thế tôi mới thấy dễ chịu… Chỉ cần cơn đau nhức ấy làm vơi đi cái sự âm ỉ trong lồng ngực. A Độ thì chẳng thấy đâu, ở thành Thượng Kinh này, tôi thành ra bơ vơ trơ trọi. Tôi có nơi nao để đi? Một thân một mình về Tây Lương, dẫu phải đi 1 tháng, 1 tháng không đến thì 3 tháng, 3 tháng chưa tới thì nửa năm, nửa năm vẫn không đặng, đi hẳn 1 năm, thế nào chẳng về được Tây Lương.
Lúc ấy ngước mắt trông trăng, một ánh trăng rằm tròn đầy, sáng trong, dịu dàng soi tỏ từng mặt người. Thượng Kinh phồn hoa yên bình hiển hiện cả dưới ánh trăng, dạo trước đây, tôi và A Độ từng vô số lần dạo khắp phố lớn ngõ nhỏ ở Thượng Kinh, hiềm nỗi nơi này mãi mãi không phải nhà tôi, tôi phải về nhà mình thôi.
Tôi chậm rãi đi về phía tây thành, muốn tìm về Tây Lương, ắt phải qua Quang Hoa Môn, rồi cứ thẳng tiến phía tây, cứ thẳng về phía tây, qua được Ngọc Môn Quan đã là Tây Lương.
Tôi phải về nhà thôi.
Tôi còn chưa chạm mặt Quang Hoa Môn, bỗng nhiên nghe dân xung quanh thất thanh la hét, nhiều người trở nên xôn xao, có người gào lên: “Thừa Thiên Môn có cháy!”
Tôi cứ ngỡ mình nghe nhầm, mọi ánh nhìn đổ dồn về Thừa Thiên Môn nơi phía Nam, đằng ấy thoáng có bóng lửa chập chờn, cột khói đen dày đặc bốc lên cuồn cuộn từ mái vòm, ai nấy đều bụm miếng kinh hãi, giương mắt nhìn ngọn lửa bốc lên dữ dội bao chùm toàn bộ thành lầu. Thảy những chuỗi đèn như châu như ngọc, thảy những mành rèm thắm đỏ, thảy những mái hiên sững sững đồ sộ….chỉ vừa mới rồi thôi, giờ đây đã bị khói và lửa nuốt trọn, đám cháy mỗi lúc một to, lửa bùng thêm mãnh liệt, gió được đà bốc ngọn lửa lên cao, Thừa Thiên Môn bừng bừng phát cháy.
Cả con phố bỗng trở nên hỗn loạn, lúc này cả đường nhốn nháo, ai cũng chỉ lo chạy tháo thân, thì còn biết làm gì vào lúc này. Chênh chếch bên kia đường đã xuất hiện vài đội Thần vũ quân, tôi nghe họ quát tháo ầm ĩ, hò dân chúng tự giác nhường đường, vó ngựa quét qua chẳng khác nào cơn lốc, thế rồi đám người cứu hỏa cũng rầm rập xuất hiện, họ vác theo ống gỗ, người ta kéo những thùng xe lớn chở đầy nước lao như bay về đằng hỏa họan, tiếng lộc cộc lê dài con chợ. Tết Nguyên tiêu hằng năm, năm nào chẳng đốt pháo bông, lại còn chăng ối đèn lồng, hễ cháy nổ ra đấy thế nào cũng gây họa lớn, vì lẽ đó mà quan Kinh triệu doãn hằng năm đều chuẩn bị sẵn ống cứu hỏa và xe nước, giả như dân có gặp cháy cũng có đường dùng, chỉ là không ngờ năm nay lại gặp dịp dùng vào việc lớn.
Tôi đánh mắt trông phía Thừa Thiên Môn lúc này đang bị Thần vũ quân vây kín, thoáng chốc đã thấy môt toán cung nhân bưng nghi truợng, lay lắt nối đuôi Thần vũ quân đi về đằng Hoàng cung trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo, tôi tự nhủ ắt cũng chẳng xảy ra chuyện to tát.
Mà đáng lẽ, tôi chớ có nên lo lắng làm gì, người trên Thừa Thiên Môn ai chết ai sống, nói cho cùng, giờ đâu còn dây mơ rễ má gì với mình mà vác chuyện vào thân cho rách việc.
Giờ chỉ lo về Tây Lương, chỉ muốn bảo với cha con đã về, rồi lôi con ngựa nhỏ của mình ra, lao băng băng trên thảo nguyên, tựa như những ngày tháng vô tự lự dạo còn bé.
Tôi dồn sức tiếp tục cuộc hành trình về phía tây thành, ngựa của Thần vũ quân vút qua bên mình, chỉ kịp nghe roi quất vun vút lẫn trong tiếng gào thét ran trời: “Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!” tiếng họ ngân vang kéo dài, phóng qua một đoạn rõ xa vẫn còn vẳng lại, “Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!” Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!”…
Tết Nguyên Tiêu đã trải qua hàng trăm năm thịnh vượng, xưa nay chưa từng xảy ra chuyện này, song dân chúng cũng không lấy làm lạ, sở dĩ họ vẫn chưa hết bàng hoàng kể từ lúc vụ cháy xảy ra quá đỗi đột ngột, đến tận lúc này họ còn đang bàn tán xôn xao về vụ việc trên. Trước vô số vòi nước xối xả vào Thừa Thiên Môn như 1 con rồng trắng xóa đang quẫy đuôi tung hoành ngang dọc, cuối cùng ngọn lửa đã được khống chế, khói dịu bớt, thay vào đó, hơi nước bốc lên nghi ngút, mùi than cốc nồng nặc chùm lên bầu không khí.
“Cổng thành đóng rồi, chúng ta về làm sao đây?”
“Ôi giời, lửa to thế, sợ lớn chuyện thì đóng cổng thành thế thôi, đợi lúc nữa, Thừa Thiên Môn tắt lửa rồi, thế nào cổng thành chả mở…”
Người trên phố xôn xao mỗi người góp dăm câu, thôi thì đủ các thể loại tạp âm khiến tôi sốt cả ruột. Chưa nhúc nhích được bước nào, đến thở cũng thấy bỏng rẫy như thể họng đang ngậm hòn than, ráo và rát cháy, tôi thở hồng hộc rồi ngồi phịch ngay lề đường, đầu ngả vào cây.
Tôi tự nhủ mình chỉ nghỉ một lúc thôi, chẳng ngờ tựa ở đó thế rồi mê man lịm dần.
Hình như dạo còn bé xíu, tôi theo cha đi săn, ngủ gục trên lưng ngựa, cha cõng tôi, cõng đến tận lúc về. Tôi nhoài mình trên tấm lưng rộng của cha, yên tâm đánh một giấc, lúc ngủ còn nhỏ dãi, bám vào phần lưng áo cha có chút ẩm ẩm. Tôi uể oải nhấc mí mắt, chỉ thấy phố xá ngập trong ánh đèn lung linh huyền ảo nối đuôi nhau, tựa như sao băng thỉnh thoảng xẹt qua trời đêm mùa hạ trên thảo nguyên. Nghe nói nếu có dịp gặp sao băng thì phải thắt nơ đai áo, đồng thời ước điều gì đó là chẳng mấy sẽ thành sự thực, thế mà tay chân tôi vụng về lóng ngóng, mỗi lần thấy sao băng, tuy không quên cầu nguyện, có điều lại quên béng mất phải thắt nút…
Đêm nay sao có nhiều sao băng thế, nếu mà tôi muốn ước, giờ còn điều gì để ước nữa nhỉ?
Tôi cố sức giơ tay ra, toan thắt đai áo, thế nhưng ngón tay mềm oặt, không mấy sức lực, tay tôi thõng xuống, thôi vậy.
Đành thế, đành thôi vậy.
Tôi nhắm mắt, chìm hẳn vào giấc ngủ.
Giấc ngủ kéo dài bao lâu không rõ, nó đằng đẵng như thể đã trải qua trọn vẹn 1 đời người, song có thể cũng chỉ là thoáng chốc ngắn ngủn tủn mủn, nó sâu lắng, nom có vẻ sâu mà hóa ra nông choẹt, tôi lúc nào cũng thường trực cảm giác trước mắt mình có chiếc đèn kéo quân không ngừng quay tít, quay cứ quay, giấy thếp vàng phát thứ ánh sáng chói đau cả mắt, bên tai chầu chực tiếng người rì rầm, không chịu nhường lời cho sự yên tĩnh dù chỉ một khắc. Tôi thấy cáu, sao không cho tôi một giấc ngủ yên? Tôi biết mình ốm rồi, cơ thể thoắt lạnh thoắt nóng, chợt thế này chợt thế kia, lúc lạnh, răng nghiến vào nhau kèn kẹt, lúc nóng, răng nọ lập cập đập răng kia, mỗi hơi thở ra lúc này đều bỏng rát.
Trong cơn mê tôi cũng lẩm bẩm nói mấy câu, nào thì tôi muốn về Tây Lương, tôi muốn gặp cha, tôi muốn A Độ, tôi muốn con ngựa nhỏ của mình…
Tôi cần quãng ngày xưa kia, chỉ có mình tôi biết, thứ tôi cần, thực ra có muốn cũng không với tới.
Mới trước đó, lúc ho ra máu, tự tôi đã hiểu ra tất thảy.
Lồng ngực đau đớn quặn thắt, ý thức phai mờ rồi lịm dần vào giấc ngủ.
Trong giấc mơ, tôi thúc ngựa lao vun vút giữa sa mạc hoang vu không một lằn ranh giới, ráo riết kiếm tìm khắp bốn phương, quẩn quanh lạc lõng giữa mọi bề, lúc ấy, có lẽ nước mắt rơi, và tôi nghe thấy tiếng mình nghẹn khóc.
Khóc cái nỗi gì? Con gái Tây Lương chúng mình, trước đây đừng hòng sụt sùi vì mấy chuyện vặt này.
Mãi đến khi bừng tỉnh,cảm giác ê ẩm khắp thân mình, mí mắt rít rịt, nặng đến độ có cố mở cũng khó. Tôi gượng hé mắt, thoạt nhìn vậy mà thấy ngay A Độ, mắt nàng ấy hoen đỏ cứ chằm chằm vào tôi mãi. Xung quanh tối om, đỉnh đầu lại có mấy cái lỗ thủng hứng sao, thứ ánh sáng lưa thưa len lỏi xuống. Cuối cùng tôi nhận ra, chỗ này là 1 gian miếu hoang, cớ sao đã ở đây? A Độ đỡ tôi nhỏm dậy, bón cho tôi ít nước. Lồng ngực phỏng rát cũng phần nào nguôi ngoai, tôi nắm thật chặt tay nàng ấy, thì thào bảo: “A Độ, chúng ta về Tây Lương thôi.”
Giọng tôi khản đặc nói không ra hơi, tự mình nghe cũng còn chẳng rõ, A Độ lại gật đầu, ngón tay mát rượi của nàng ấy vuốt trán tôi có thứ cảm xúc khoan khoái lạ. May mà A Độ trở về rồi, may mà A Độ tìm ra tôi rồi, tôi chẳng còn hơi sức đi hỏi nàng ta xem 2 ngày nay chạy biến đi đằng nào, tôi bị thích khách bắt cóc, hẳn nàng ấy nóng lòng lắm đây. Có cô bé này ở bên, tim tôi nhẹ nhõm hẳn, A Độ về rồi, tôi cố sức mở mắt nhìn nàng ấy thêm 1 lần, nàng ấy đứng ngay bên mình, hình như đang giỏng tai chăm chú nghe tiếng gì đó, tôi cũng thấy thế, như thể tiếng sấm rầm rập rền vang, có đội ngựa đang tiến dần về đằng này.
A Độ khom người dìu tôi dậy, thân thể tôi nhũn nhùn hầu như chẳng mấy sức lực.
Nếu như kẻ sắp đến là Thần vũ quân hay Vũ lâm lang, tôi cũng chẳng thiết gặp, bởi lẽ tôi không muốn gặp lại Lí Thừa Ngân, chỉ sợ A Độ không cách nào đưa tôi trốn được bọn người ấy.
Có kẻ đạp tung cửa miếu, chính giữa thế ngàn cân treo sợi tóc ấy, trên xà nhà đột nhiên có bóng trắng lao xuống tưởng đâu như một loài chim to không gì sánh bằng. Lưỡi kiếm sáng quắc đâm thẳng hướng cửa, rồi nhiều tiếng rú thảm thiết, tôi nhận ra người vừa phi thân từ xà nhà xuống chính là Cố Kiếm, mà những kẻ sụp mình đổ xuống ở bên ngoài, quả nhiên vận trên người trang phục của Thần vũ quân. Lúc ấy chỉ cảm giác máu nóng trong người đang sôi lên đằng đầu, không muốn gặp lại Lí Thừa Ngân đã đành, đằng này Cố Kiếm lại đang xuống tay giết người.
Trong tay A Độ nắm chắc thanh kim thác đao, cảnh giác quan sát cảnh tàn sát giữa Cố Kiếm và phía Thần vũ quân, tôi giành lấy thanh đao ngọc trên tay A Độ, A Độ nhìn tôi đầy ngờ vực.
Tôi từ từ bước gần đám ẩu đả ấy, mớ Thần vũ quân tưởng tôi với Cố Kiếm một giuộc, chúng hướng đầu vũ khí lao tới tấp về phía tôi. Võ công của Cố Kiếm rất cao cường, tuy bị vây hãm, song mỗi lần có kẻ toan tấn công tôi, hắn vẫn có thể tranh thủ chống đỡ, ngăn giết ngay tại chỗ. Hắn xuống tay gọn gàng, không để phí một đường kiếm nào, mỗi một nhát kiếm vung ra, lại có ngay 1 kẻ gục xuống trước mắt tôi.
Dòng máu ấm nóng loang lên mặt mũi, những kẻ đổ rầm cách mặt tôi chừng 1 thước trở lại mỗi lúc một nhiều, như thể đám Thần vũ quân kia không biết sợ chết là gì, người trước ngã xuống kẻ sau tiến lên, song vẫn không tránh khỏi lưỡi kiếm trắng ởn kia, thế rồi bọn họ trút hơi thở cuối cùng chỉ cách mặt tôi bằng một khoảng cách thật gần đến trong gang tấc. Tôi kinh hãi trước cảnh thảm sát vô tội vạ này, tôi chỉ muốn gào lên “Dừng tay đi”, thế mà giọng khản đặc, không cách nào thốt lên lời, dường như Cố Kiếm ngoảnh mặt làm ngơ với điều này.
Tôi nghiến răng, vung đao lao về phía hắn, hắn thoắt cái đã đánh tuột thanh đao trên tay tôi, cánh tay buông thõng, đao rơi xuống đất. Chính vào lúc ấy, thứ tiếng nặng nề nào đã xé gió lao đến, dường như có hòn đá to lắm nhằm đúng đầu tôi mà nện, tôi ngước trông lên theo bản năng, A Độ lao về phía tôi, khói bụi cuộn mình bùng lên, âm thanh chát chúanhư thể khiến mặt đất phải rùng rình, thứ tiếng ấy tựa muốn đè nát cả ngôi miếu nhỏ này.
Tôi vẫn ngỡ tưởng, chúng tôi đã đổi thay, tôi còn tưởng rằng, chuyện đã xảy ra ngày hôm qua, đáng lẽ phải có sự khác biệt chứ. Tối qua lúc tôi bị thích khách bắt đi, chàng từng nhìn tôi, chàng từng gọi tên tôi, chàng bẻ tên thề. Tất thảy, thảy những thứ ấy đều khiến tôi ngộ nhận, đôi ta đã đổi thay, thế nhưng sao vỏn vẹn có 1 ngày, chàng đã đứng kia, đã sánh vai bên người con gái khác đứng kia, ra điều ta đây chẳng từng xảy ra chuyện gì, ra điều thờ ơ thưởng thức cảnh Nguyên tiêu đô hội, đón nhận câu chúc phúc của muôn dân.
Trong khi, tôi sống chết ra sao còn chưa hay, trong khi, tôi đáng lẽ mất tăm mất tích, trong khi, tôi mới là vợ chàng kia mà.
Thoáng nghe có ai đó gọi tên mình: “Tiểu Phong.”
Tôi quay sang, bần thần nhìn Cố Kiếm.
Mắt hắn dán ở nơi tôi, môi tôi lừng khừng nặn một nụ cười, định bụng nói dăm câu.
Thế mà gió ùa trong khuôn miệng vừa hé mở, gió buốt lạnh kéo theo cơn ho không buồn nguôi ngoai, cổ họng trước đó đã đau ghê người, giờ đây từng cơn ho như chực xé toạc cả yết hầu. Ho cơn nào đầu nhói theo cơn đó, chẳng khác nào có cục đá bị nhét trong ấy, cạnh sắc nhọn của nó cứa vào huyết mạch, muốn thở cũng phải chật vật. Tôi còng lưng ho không dứt cơn, chực sắp ho ra nào tim nào phổi, cơn ho hòng như cố sức lôi nội tạng trong người ra ngoài kì được mới thôi. Đau là lẽ đã đành, thế mà chỉ duy có lồng ngực, chỗ ấy khó chịu lắm thay, trách chăng cái lạnh, trách chăng người vốn đang sốt cao… có bệnh tất phải khó chịu thế thôi.
Cố Kiếm đỡ tôi, tôi lảo đảo một chặp, thấy như thể có gì đó thế là đã nứt đôi, khi âm thanh khàn đặc thoát ra khỏi cuống họng, dường như lồng ngực cũng được vỗ về phần nào.
Hắn nâng mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng mình: “Cũng chẳng có gì ghê gớm…” vậy rồi, trong đôi mắt ấy đã hằn lên tia khổ sở méo xẹo, hắn chợt đưa tay quệt khóe miệng tôi.
Dưới ánh đèn, tôi thấy ngón tay hắn đọng vệt máu, máu bám cả trên ống tay áo, những ngấn loang lổ, từng đốm từng đốm, thảy toàn là máu tươi. Cơ thể nhũn nhùn, người tôi xây xẩm, đoán chắc mình đứng không vững, như thể mới rồi tôi bán mạng nôn ra cục máu ấy. Hắn ôm tôi, thầm thì bên tai tôi nói: “Tiểu Phong, nàng khóc đi, nàng cứ khóc một trận cho thỏa đi.”
Tôi đẩy hắn bằng thứ hơi sức cuối cùng: “Sao phải khóc? Ngươi cố ý dẫn ta đến xem cảnh này cơ mà, sao ta phải khóc? Ngươi không cần vờ vĩnh như thế, sao ta phải khóc chứ? Ngươi bảo xem xong thì ngươi thả người, giờ ta phải về rồi!”
“Tiểu Phong!” Hắn đuổi theo toan đỡ tôi. Bước chân loạng choạng, song vẫn cố đứng vững, tôi ngoái đầu, tuốt trâm hoa cài tóc quẳng xuống chân hắn, lạnh nhạt nhìn đoạn bảo: “Cấm ngươi đụng vào ta, cũng đừng có theo ta nữa, bằng không ta chết trước mắt cho ngươi xem, đành rằng ngươi có võ công tuyệt thế, ngăn thế nào được một khi ta đã khăng khăng muốn chết, ngươi cản được 1 lần, cản sao được cả đời. Ngươi cứ thử theo ta mà xem, ta thể nào cũng tự sát kì được đấy.”
Có lẽ giọng tôi lúc đó cương quyết lắm, nên hắn cũng chững lại một chỗ, không dám tiến gần.
Tôi đá bước thất tha thất thểu, chẳng biết đã đi được bao xa, bốn bề bao bọc là người, bốn bề bao bọc là đèn chói lòa. Tôi túm chặt cổ áo khoác, cảm nhận thân mình lẩy bẩy từng cơn run, lạnh đến nỗi răng lợi va vào nhau lập cập, tôi biết mình đương cơn sốt, chân bước ngỡ đạp lên cát, mềm oặt ẹo chẳng mấy sức lực. Bải hoải đứng dưới dàn đèn, khắp nơi là tiếng cười hoan ca vô bờ bến, người qua người lại rộn ràng nhộp nhịp tựa thoi đưa, tháp Thất Tinh bắn từng chùm pháo hoa lộng lẫy nở rộ trênbầu trời cao ngất, Nguyên tiêu rực rỡ màu sắc, Nguyên tiêu phồn hoa đô hội, tôi đi đâu về đâu?
Gầm trời bao la này, hỏi có chốn nào cho mình dung thân.
A Độ ơi, A Độ ơi, ngươi ở nơi nao? Chúng ta về Tây Lương đi thôi, ta nhớ Tây Lương rồi.
Trước mắt tôi là một lồng đèn kéo quân, chao đèn dán giấy thếp vàng hình một người con gái, hơi nóng giẫy từ ngọn nến uốn lượn tỏa ra, chao đèn không ngừng quay tròn, người con gái đó thoắt đứng thoắt ngồi thoắt yêu kiều thoắt giận dữ, lại thoắt hoan hỷ… Trước mắt cứ sụp tối dần, người con gái dán trên đèn sao có nét hao hao Triệu lương đệ, nàng ta bưng miệng cười, ngạo mạn cười bảo tôi: Tỷ nghĩ có chi khác ấy à? Tỷ tưởng rằng mình chiếm được chỗ đứng trong lòng chàng rồi ư? Tỷ tưởng mình làm con tin thay bệ hạ, chàng sẽ rủ lòng tiếc thương vài phần ư…
Ngặt nỗi vố này rõ công toi.
Tôi dựa vào thân cây mới đứng vững, lớp vỏ sần sùi thô ráp cào vào áo lông buốt đau, nhưng thà rằng thế tôi mới thấy dễ chịu… Chỉ cần cơn đau nhức ấy làm vơi đi cái sự âm ỉ trong lồng ngực. A Độ thì chẳng thấy đâu, ở thành Thượng Kinh này, tôi thành ra bơ vơ trơ trọi. Tôi có nơi nao để đi? Một thân một mình về Tây Lương, dẫu phải đi 1 tháng, 1 tháng không đến thì 3 tháng, 3 tháng chưa tới thì nửa năm, nửa năm vẫn không đặng, đi hẳn 1 năm, thế nào chẳng về được Tây Lương.
Lúc ấy ngước mắt trông trăng, một ánh trăng rằm tròn đầy, sáng trong, dịu dàng soi tỏ từng mặt người. Thượng Kinh phồn hoa yên bình hiển hiện cả dưới ánh trăng, dạo trước đây, tôi và A Độ từng vô số lần dạo khắp phố lớn ngõ nhỏ ở Thượng Kinh, hiềm nỗi nơi này mãi mãi không phải nhà tôi, tôi phải về nhà mình thôi.
Tôi chậm rãi đi về phía tây thành, muốn tìm về Tây Lương, ắt phải qua Quang Hoa Môn, rồi cứ thẳng tiến phía tây, cứ thẳng về phía tây, qua được Ngọc Môn Quan đã là Tây Lương.
Tôi phải về nhà thôi.
Tôi còn chưa chạm mặt Quang Hoa Môn, bỗng nhiên nghe dân xung quanh thất thanh la hét, nhiều người trở nên xôn xao, có người gào lên: “Thừa Thiên Môn có cháy!”
Tôi cứ ngỡ mình nghe nhầm, mọi ánh nhìn đổ dồn về Thừa Thiên Môn nơi phía Nam, đằng ấy thoáng có bóng lửa chập chờn, cột khói đen dày đặc bốc lên cuồn cuộn từ mái vòm, ai nấy đều bụm miếng kinh hãi, giương mắt nhìn ngọn lửa bốc lên dữ dội bao chùm toàn bộ thành lầu. Thảy những chuỗi đèn như châu như ngọc, thảy những mành rèm thắm đỏ, thảy những mái hiên sững sững đồ sộ….chỉ vừa mới rồi thôi, giờ đây đã bị khói và lửa nuốt trọn, đám cháy mỗi lúc một to, lửa bùng thêm mãnh liệt, gió được đà bốc ngọn lửa lên cao, Thừa Thiên Môn bừng bừng phát cháy.
Cả con phố bỗng trở nên hỗn loạn, lúc này cả đường nhốn nháo, ai cũng chỉ lo chạy tháo thân, thì còn biết làm gì vào lúc này. Chênh chếch bên kia đường đã xuất hiện vài đội Thần vũ quân, tôi nghe họ quát tháo ầm ĩ, hò dân chúng tự giác nhường đường, vó ngựa quét qua chẳng khác nào cơn lốc, thế rồi đám người cứu hỏa cũng rầm rập xuất hiện, họ vác theo ống gỗ, người ta kéo những thùng xe lớn chở đầy nước lao như bay về đằng hỏa họan, tiếng lộc cộc lê dài con chợ. Tết Nguyên tiêu hằng năm, năm nào chẳng đốt pháo bông, lại còn chăng ối đèn lồng, hễ cháy nổ ra đấy thế nào cũng gây họa lớn, vì lẽ đó mà quan Kinh triệu doãn hằng năm đều chuẩn bị sẵn ống cứu hỏa và xe nước, giả như dân có gặp cháy cũng có đường dùng, chỉ là không ngờ năm nay lại gặp dịp dùng vào việc lớn.
Tôi đánh mắt trông phía Thừa Thiên Môn lúc này đang bị Thần vũ quân vây kín, thoáng chốc đã thấy môt toán cung nhân bưng nghi truợng, lay lắt nối đuôi Thần vũ quân đi về đằng Hoàng cung trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo, tôi tự nhủ ắt cũng chẳng xảy ra chuyện to tát.
Mà đáng lẽ, tôi chớ có nên lo lắng làm gì, người trên Thừa Thiên Môn ai chết ai sống, nói cho cùng, giờ đâu còn dây mơ rễ má gì với mình mà vác chuyện vào thân cho rách việc.
Giờ chỉ lo về Tây Lương, chỉ muốn bảo với cha con đã về, rồi lôi con ngựa nhỏ của mình ra, lao băng băng trên thảo nguyên, tựa như những ngày tháng vô tự lự dạo còn bé.
Tôi dồn sức tiếp tục cuộc hành trình về phía tây thành, ngựa của Thần vũ quân vút qua bên mình, chỉ kịp nghe roi quất vun vút lẫn trong tiếng gào thét ran trời: “Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!” tiếng họ ngân vang kéo dài, phóng qua một đoạn rõ xa vẫn còn vẳng lại, “Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!” Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!”…
Tết Nguyên Tiêu đã trải qua hàng trăm năm thịnh vượng, xưa nay chưa từng xảy ra chuyện này, song dân chúng cũng không lấy làm lạ, sở dĩ họ vẫn chưa hết bàng hoàng kể từ lúc vụ cháy xảy ra quá đỗi đột ngột, đến tận lúc này họ còn đang bàn tán xôn xao về vụ việc trên. Trước vô số vòi nước xối xả vào Thừa Thiên Môn như 1 con rồng trắng xóa đang quẫy đuôi tung hoành ngang dọc, cuối cùng ngọn lửa đã được khống chế, khói dịu bớt, thay vào đó, hơi nước bốc lên nghi ngút, mùi than cốc nồng nặc chùm lên bầu không khí.
“Cổng thành đóng rồi, chúng ta về làm sao đây?”
“Ôi giời, lửa to thế, sợ lớn chuyện thì đóng cổng thành thế thôi, đợi lúc nữa, Thừa Thiên Môn tắt lửa rồi, thế nào cổng thành chả mở…”
Người trên phố xôn xao mỗi người góp dăm câu, thôi thì đủ các thể loại tạp âm khiến tôi sốt cả ruột. Chưa nhúc nhích được bước nào, đến thở cũng thấy bỏng rẫy như thể họng đang ngậm hòn than, ráo và rát cháy, tôi thở hồng hộc rồi ngồi phịch ngay lề đường, đầu ngả vào cây.
Tôi tự nhủ mình chỉ nghỉ một lúc thôi, chẳng ngờ tựa ở đó thế rồi mê man lịm dần.
Hình như dạo còn bé xíu, tôi theo cha đi săn, ngủ gục trên lưng ngựa, cha cõng tôi, cõng đến tận lúc về. Tôi nhoài mình trên tấm lưng rộng của cha, yên tâm đánh một giấc, lúc ngủ còn nhỏ dãi, bám vào phần lưng áo cha có chút ẩm ẩm. Tôi uể oải nhấc mí mắt, chỉ thấy phố xá ngập trong ánh đèn lung linh huyền ảo nối đuôi nhau, tựa như sao băng thỉnh thoảng xẹt qua trời đêm mùa hạ trên thảo nguyên. Nghe nói nếu có dịp gặp sao băng thì phải thắt nơ đai áo, đồng thời ước điều gì đó là chẳng mấy sẽ thành sự thực, thế mà tay chân tôi vụng về lóng ngóng, mỗi lần thấy sao băng, tuy không quên cầu nguyện, có điều lại quên béng mất phải thắt nút…
Đêm nay sao có nhiều sao băng thế, nếu mà tôi muốn ước, giờ còn điều gì để ước nữa nhỉ?
Tôi cố sức giơ tay ra, toan thắt đai áo, thế nhưng ngón tay mềm oặt, không mấy sức lực, tay tôi thõng xuống, thôi vậy.
Đành thế, đành thôi vậy.
Tôi nhắm mắt, chìm hẳn vào giấc ngủ.
Giấc ngủ kéo dài bao lâu không rõ, nó đằng đẵng như thể đã trải qua trọn vẹn 1 đời người, song có thể cũng chỉ là thoáng chốc ngắn ngủn tủn mủn, nó sâu lắng, nom có vẻ sâu mà hóa ra nông choẹt, tôi lúc nào cũng thường trực cảm giác trước mắt mình có chiếc đèn kéo quân không ngừng quay tít, quay cứ quay, giấy thếp vàng phát thứ ánh sáng chói đau cả mắt, bên tai chầu chực tiếng người rì rầm, không chịu nhường lời cho sự yên tĩnh dù chỉ một khắc. Tôi thấy cáu, sao không cho tôi một giấc ngủ yên? Tôi biết mình ốm rồi, cơ thể thoắt lạnh thoắt nóng, chợt thế này chợt thế kia, lúc lạnh, răng nghiến vào nhau kèn kẹt, lúc nóng, răng nọ lập cập đập răng kia, mỗi hơi thở ra lúc này đều bỏng rát.
Trong cơn mê tôi cũng lẩm bẩm nói mấy câu, nào thì tôi muốn về Tây Lương, tôi muốn gặp cha, tôi muốn A Độ, tôi muốn con ngựa nhỏ của mình…
Tôi cần quãng ngày xưa kia, chỉ có mình tôi biết, thứ tôi cần, thực ra có muốn cũng không với tới.
Mới trước đó, lúc ho ra máu, tự tôi đã hiểu ra tất thảy.
Lồng ngực đau đớn quặn thắt, ý thức phai mờ rồi lịm dần vào giấc ngủ.
Trong giấc mơ, tôi thúc ngựa lao vun vút giữa sa mạc hoang vu không một lằn ranh giới, ráo riết kiếm tìm khắp bốn phương, quẩn quanh lạc lõng giữa mọi bề, lúc ấy, có lẽ nước mắt rơi, và tôi nghe thấy tiếng mình nghẹn khóc.
Khóc cái nỗi gì? Con gái Tây Lương chúng mình, trước đây đừng hòng sụt sùi vì mấy chuyện vặt này.
Mãi đến khi bừng tỉnh,cảm giác ê ẩm khắp thân mình, mí mắt rít rịt, nặng đến độ có cố mở cũng khó. Tôi gượng hé mắt, thoạt nhìn vậy mà thấy ngay A Độ, mắt nàng ấy hoen đỏ cứ chằm chằm vào tôi mãi. Xung quanh tối om, đỉnh đầu lại có mấy cái lỗ thủng hứng sao, thứ ánh sáng lưa thưa len lỏi xuống. Cuối cùng tôi nhận ra, chỗ này là 1 gian miếu hoang, cớ sao đã ở đây? A Độ đỡ tôi nhỏm dậy, bón cho tôi ít nước. Lồng ngực phỏng rát cũng phần nào nguôi ngoai, tôi nắm thật chặt tay nàng ấy, thì thào bảo: “A Độ, chúng ta về Tây Lương thôi.”
Giọng tôi khản đặc nói không ra hơi, tự mình nghe cũng còn chẳng rõ, A Độ lại gật đầu, ngón tay mát rượi của nàng ấy vuốt trán tôi có thứ cảm xúc khoan khoái lạ. May mà A Độ trở về rồi, may mà A Độ tìm ra tôi rồi, tôi chẳng còn hơi sức đi hỏi nàng ta xem 2 ngày nay chạy biến đi đằng nào, tôi bị thích khách bắt cóc, hẳn nàng ấy nóng lòng lắm đây. Có cô bé này ở bên, tim tôi nhẹ nhõm hẳn, A Độ về rồi, tôi cố sức mở mắt nhìn nàng ấy thêm 1 lần, nàng ấy đứng ngay bên mình, hình như đang giỏng tai chăm chú nghe tiếng gì đó, tôi cũng thấy thế, như thể tiếng sấm rầm rập rền vang, có đội ngựa đang tiến dần về đằng này.
A Độ khom người dìu tôi dậy, thân thể tôi nhũn nhùn hầu như chẳng mấy sức lực.
Nếu như kẻ sắp đến là Thần vũ quân hay Vũ lâm lang, tôi cũng chẳng thiết gặp, bởi lẽ tôi không muốn gặp lại Lí Thừa Ngân, chỉ sợ A Độ không cách nào đưa tôi trốn được bọn người ấy.
Có kẻ đạp tung cửa miếu, chính giữa thế ngàn cân treo sợi tóc ấy, trên xà nhà đột nhiên có bóng trắng lao xuống tưởng đâu như một loài chim to không gì sánh bằng. Lưỡi kiếm sáng quắc đâm thẳng hướng cửa, rồi nhiều tiếng rú thảm thiết, tôi nhận ra người vừa phi thân từ xà nhà xuống chính là Cố Kiếm, mà những kẻ sụp mình đổ xuống ở bên ngoài, quả nhiên vận trên người trang phục của Thần vũ quân. Lúc ấy chỉ cảm giác máu nóng trong người đang sôi lên đằng đầu, không muốn gặp lại Lí Thừa Ngân đã đành, đằng này Cố Kiếm lại đang xuống tay giết người.
Trong tay A Độ nắm chắc thanh kim thác đao, cảnh giác quan sát cảnh tàn sát giữa Cố Kiếm và phía Thần vũ quân, tôi giành lấy thanh đao ngọc trên tay A Độ, A Độ nhìn tôi đầy ngờ vực.
Tôi từ từ bước gần đám ẩu đả ấy, mớ Thần vũ quân tưởng tôi với Cố Kiếm một giuộc, chúng hướng đầu vũ khí lao tới tấp về phía tôi. Võ công của Cố Kiếm rất cao cường, tuy bị vây hãm, song mỗi lần có kẻ toan tấn công tôi, hắn vẫn có thể tranh thủ chống đỡ, ngăn giết ngay tại chỗ. Hắn xuống tay gọn gàng, không để phí một đường kiếm nào, mỗi một nhát kiếm vung ra, lại có ngay 1 kẻ gục xuống trước mắt tôi.
Dòng máu ấm nóng loang lên mặt mũi, những kẻ đổ rầm cách mặt tôi chừng 1 thước trở lại mỗi lúc một nhiều, như thể đám Thần vũ quân kia không biết sợ chết là gì, người trước ngã xuống kẻ sau tiến lên, song vẫn không tránh khỏi lưỡi kiếm trắng ởn kia, thế rồi bọn họ trút hơi thở cuối cùng chỉ cách mặt tôi bằng một khoảng cách thật gần đến trong gang tấc. Tôi kinh hãi trước cảnh thảm sát vô tội vạ này, tôi chỉ muốn gào lên “Dừng tay đi”, thế mà giọng khản đặc, không cách nào thốt lên lời, dường như Cố Kiếm ngoảnh mặt làm ngơ với điều này.
Tôi nghiến răng, vung đao lao về phía hắn, hắn thoắt cái đã đánh tuột thanh đao trên tay tôi, cánh tay buông thõng, đao rơi xuống đất. Chính vào lúc ấy, thứ tiếng nặng nề nào đã xé gió lao đến, dường như có hòn đá to lắm nhằm đúng đầu tôi mà nện, tôi ngước trông lên theo bản năng, A Độ lao về phía tôi, khói bụi cuộn mình bùng lên, âm thanh chát chúanhư thể khiến mặt đất phải rùng rình, thứ tiếng ấy tựa muốn đè nát cả ngôi miếu nhỏ này.
Tác giả :
Phỉ Ngã Tư Tồn