Đôn Kihôtê - Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra
Chương 19
TỪ CUỘC TÂM SỰ GIỮA XANTRÔ VÀ ĐÔN KIHÔTÊ ĐẾN CUỘC GẶP GỠ VỚI MỘT CÁI XÁC CHẾT, CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC LY KỲ KHÁC
- Thưa ông chủ, hình như tất cả những chuyện không may xảy ra trong mấy ngày hôm nay là một sự trừng phạt đối với ngài vì ngài đã vi phạm luật lệ của hiệp sĩ đạo. Ngài đã không làm đúng lời thề là ăn không cần ngồi bàn, sống không gần vợ, và còn nhiều điều khác nữa mà ngài đã hứa sẽ thực hiện chừng nào chưa đoạt được cái mũ sắt của Malanđrinô, tên Môrô mà tôi không nhớ rõ tên tuổi lắm.
- Xantrô, anh nói rất đúng, Đôn Kihôtê đáp; thú thực, ta quên bẵng đi mất; và anh có thể chắc chắn rằng vì đã không nhắc nhở ta kịp thời nên anh đã bị trêu ghẹo. Thôi được, rồi ta sẽ sửa vì trong hiệp sĩ đạo có nhiều cách giải quyết.
- Nhưng tôi có thề thốt gì đâu?
- Dù anh không thề cũng vậy thôi vì chỉ cần anh có đóng góp vào sự sai trái của ta. Cho nên, dù có thề hay không thề cũng cần phải tìm cách sửa.
- Nếu như vậy, xin ngài chớ quên điều này cùng những lời thề cũ. Có thể lũ yêu ma lại định trêu ghẹo tôi lần nữa, thậm chí còn trêu ghẹo cả ngài nữa kia.
Còn đang trò chuyện thì trời đã tối mà hai người vẫn chưa tìm được chỗ nghỉ chân; thêm vào đó, cả hai đều đói bụng mà cái túi hai ngăn đựng lương thực thì mất rồi. Đã thế, trời lại tối đen như mực. Tuy vậy, họ vẫn đi. Xantrô đinh ninh rằng đi độ một hai dặm nữa trên đường cái quan này, chắc sẽ gặp quán trọ. Hai thầy trò cứ mò mẫm trong đêm tối, trò đói bụng, thầy cũng muốn ăn. Bỗng đâu từ phía trước mặt tới thấy có rất nhiều đốm lửa, trông như sao đổi ngôi. Xantrô lạnh toát cả người, Đôn Kihôtê cũng đâm hoảng. Bác giám mã ghì dây tròng lừa, chàng hiệp sĩ ghì cương ngựa, rồi cả hai nín lặng nhìn chăm chú xem sao. Những đốm lửa vẫn tiến về phía họ, càng gần càng to. Xantrô run bần bật, tóc trên đầu Đôn Kihôtê cũng dựng ngược lên. Chàng hiệp sĩ cố trấn tĩnh nói:
- Xantrô, chắc chắn đây là một chuyện phiêu lưu lớn nhất và nguy hiểm nhất, đòi hỏi ta phải dốc hết can đảm và sức lực ra.
- Vô phúc cho tôi chưa! Nếu lại có một chuyện ma quái nữa như tôi cảm thấy, thử hỏi còn đâu xương sườn để chịu đòn.
- Dù có ma quái chăng nữa, ta cũng sẽ không để chúng chạm tới một sợi lông ở áo anh. Sở dĩ trước đây chúng trêu ghẹo anh vì ta không vượt tường nhảy vào sân được; nhưng bây giờ chúng ta ở nơi đất bằng và ta có đất để múa gươm.
- Nhưng nếu chúng lại làm cho ngài mê mẩn và liệt cả tay chân, thử hỏi ở nơi đất bằng có được lợi lộc gì hay không?
- Xantrô, dù sao ta cũng khuyên anh nên có can đảm; rồi anh sẽ thấy ta không run sợ trước bọn chúng.
- Ơn nhờ Chúa, tôi sẽ có can đảm.
Hai người đứng né sang bên đường chăm chú nhìn xem những đốm lửa di động kia là cái gì thì thấy một đám người choàng áo lễ trắng. Cảnh tượng khủng khiếp đó khiến Xantrô Panxa mất hết tinh thần, hai hàm răng cứ đập vào nhau như lên cơn sốt rét, càng nhìn rõ bao nhiêu tóc càng dựng ngược và răng càng đập mạnh bấy nhiêu. Trước mắt họ có tới hai chục người cưỡi la, mặc áo trắng dài, tay cầm đuốc; rồi đến một cái kiệu phủ toàn vải đen theo sau có sáu người cũng cưỡi la, cả người lẫn vật đều để tang suốt từ đầu tới chân (nhìn bước đi chậm chạp của những con vật cũng thấy rõ không phải là ngựa). Những người choàng áo trắng dài vừa đi, vừa rì rầm cầu nguyện với một vẻ thương xót. Cảnh tượng rùng rợn này, giữa đêm hôm khuya khoắt vắng vẻ, đủ làm cho Xantrô và ngay cả chủ bác phải hoảng hồn. Bác giám mã đã bắt đầu chùn; trái lại, Đôn Kihôtê tưởng tượng ngay ra một chuyện phiêu lưu mạo hiểm như đã đọc trong sách.
Chàng nhìn cái kiệu hóa ra cái cáng, trên đó có một hiệp sĩ bị trọng thương hoặc đã chết, và nhiệm vụ của chàng là phải trả thù cho kẻ bị nạn. Thế là, chẳng nói chẳng rằng, chàng cầm ngang ngọn giáo, ngồi lại ngay ngắn trên yên ngựa, rồi với một vẻ hiên ngang đĩnh đạc, đứng ra giữa đường chờ đám người mặc áo choàng trắng đi tới. Khi họ đã tới gần, Đôn Kihôtê cất cao giọng:
- Hỡi các hiệp sĩ, bất kể các người là ai, hãy dừng lại xưng danh và nói cho ta biết các người từ đâu tới đây, đi đâu và khiêng ai trên cáng kia. Xem ra, các người đã gây tội lỗi hay đã bị ai gây hấn và ta cần phải biết điều đó để một là trị tội các người, hai là rửa hận cho các người.
- Chúng tôi đang vội, một người khoác áo choàng trắng đáp, quán trọ còn xa; chúng tôi không thể dừng lại để báo cáo theo yêu cầu của ngài.
Nói rồi, người đó thúc la vượt lên. Đôn Kihôtê đùng đùng nổi giận, nắm ngay cương con la, thét:
- Đứng lại; hãy tỏ ra có lễ độ hơn và trả lời những câu hỏi của ta; nếu không ta sẽ đánh cả bọn.
Con la này nhát tính, thấy có người nắm cương, chồm bốn vó lên rồi ngã lăn ra đất, quật cả chủ nó xuống theo. Có một anh hầu đi bộ, nhìn thấy cảnh đó, bèn chửi rủa Đôn Kihôtê. Hăng máu, chàng hiệp sĩ nắm chặt ngọn giáo, xông vào một người mặc đồ tang quật ngã xuống đất rồi quay sang đánh luôn những người khác, tả xung hữu đột, nom thật đẹp mắt, con Rôxinantê lướt trên mặt đất một cách oai hùng như mới có thêm đôi cánh. Đám người mặc áo choàng trắng không quen đánh nhau, lại không có vũ khí, vội bỏ cuộc, tay cầm đuốc chạy khắp cánh đồng, nom giống như những người đeo mặt nạ hóa trang trong buổi dạ hội; những người mặc tang phục, bị lúng túng trong bộ đồ dài lượt thượt, không sao trở tay được, khiến Đôn Kihôtê được một phen đánh đuổi thích tay. Họ tưởng chàng không phải người trần mà là một con quỷ ở địa ngục lên cướp tử thi trong kiệu.
Trước cảnh tượng đó, Xantrô rất khâm phục sự dũng cảm của chủ, bác tự nhủ: "Chủ ta thật là can đảm như ngài vẫn nói".
Có một bó đuốc cháy dở dưới đất, soi rõ người mặc áo choàng trắng bị con la vật ngã lúc đầu; chợt nhìn thấy, Đôn Kihôtê tiến lại gần, gí ngọn giáo vào mặt, bắt phải đầu hàng, nếu không sẽ giết chết. Người mặc áo choàng trắng vội đáp:
- Tôi đã hàng từ lâu vì tôi có nhúc nhích được đâu, tôi bị gãy một đùi rồi. Nếu ngài là một hiệp sĩ theo đạo Ki-tô, tôi van ngài đừng giết tôi, nếu không ngài sẽ mắc một điều đại bất kính vì tôi đã đỗ cử nhân và mới được thụ phong giáo chức.
- Ông là người của Giáo hội ư? Đôn Kihôtê hỏi. Vậy ai run rủi ông tới đây?
- Ai ư? Thưa ngài, sự bất hạnh dẫn tôi tới đây.
- Vậy thì ông sẽ gặp một sự bất hạnh lớn hơn nếu không thỏa mãn tôi và trả lời những câu hỏi của tôi.
- Ngài sẽ được thỏa mãn ngay bây giờ, người tự khoe là ông cử đáp; tôi không đỗ cử nhân như đã nói lúc nãy mà mới có bằng tú tài; tên tôi là Alônxô Lôpêx, quê quán tại Alcôbenđax; tôi tới tỉnh Baêda cùng với mười một giáo sĩ khác là những người cầm đuốc vừa chạy trốn lúc nãy; chúng tôi đưa một cái kiệu trong có tử thi một hiệp sĩ đến tỉnh Xêgôvia; hiệp sĩ này chết ở Baêda và đã được chôn ở đó; bây giờ chúng tôi đưa hài cốt về Xêgôvia là nơi chôn rau cắt rốn của chàng.
- Ai giết hiệp sĩ đó? Đôn Kihôtê hỏi.
- Chúa đã bắt tội chàng sau một cơn sốt ác liệt.
- Nếu vậy, Chúa đã miễn cho tôi nhiệm vụ báo thù cho chàng vì một khi Chúa bắt tội ai, người đó phải cúi đầu tuân theo không được cưỡng lại. Ví thử Chúa bắt tội bản thân tôi, tôi cũng sẽ chịu như vậy. Tiện đây, tôi cũng muốn nói để ngài biết rằng tôi là một hiệp sĩ ở xứ Mantra, tên là Đôn Kihôtê, và công việc của tôi là đi khắp đó đây để bênh vực kẻ hèn yếu, trả thù cho những người bị xúc phạm.
- Chẳng biết ông bênh vực kẻ hèn yếu ra sao mà làm đùi tôi gãy đôi thế này, không bao giờ thẳng lại được nữa; còn nói rằng ông trả thù cho người bị xúc phạm thì thực ra ông đã xúc phạm tôi tới mức không bao giờ gột rửa được. Thật là đại bất hạnh cho tôi đã gặp phải một hiệp sĩ giang hồ như ông.
- Thưa ông tú Alônxô Lôpêx, mọi việc trên đời này đều không giống nhau đâu. Sở dĩ xảy ra chuyện không may này là do các ông đi đêm, lại mặc áo choàng trắng và đồ tang, tay cầm đuốc, mồm lầm rầm cầu nguyện, thành thử trông các ông giống hệt lũ ma quỷ ở thế giới bên kia. Trước trách nhiệm không thể trốn tránh được, tôi đã xông vào đánh các ông; và dù các ông có là quỷ Xa-tăng ở địa ngục thật, như tôi đã tưởng, tôi cũng không tha.
- Không may cho tôi xảy ra cơ sự như thế này, mong ngài hiệp sĩ giang hồ (ngài đã làm tôi khốn khổ) hãy kéo tôi ra khỏi con la vì đùi tôi bị kẹp giữa cái yên và bàn đạp.
- Thế mà chẳng bảo ngay! Còn đợi đến bao giờ mới nói?
Đôn Kihôtê vội gọi Xantrô Panxa lại, nhưng bác giám mã chưa buồn đến ngay vì còn đang bận vơ vét lương thực chất trên một con la đi cùng với đoàn này. Bác lấy áo khoác làm thành một cái túi, lèn đầy thực phẩm, rồi đặt lên lưng con lừa của mình, xong đâu đấy mới chạy lại kéo ông tú tài ra khỏi con la, đỡ ngồi lên yên và trả lại cho ông ta bó đuốc. Đôn Kihôtê nhờ ông ta chuyển lời xin lỗi tới những người kia về sự việc đáng tiếc vừa xảy ra mà chàng không thể tránh được. Xantrô cũng nói thêm:
- Nếu các bạn của ngài muốn biết con người dũng cảm đã làm cho họ thất điên bát đảo là ai, xin hãy nói lại rằng đó là chàng Đôn Kihôtê trứ danh ở xứ Mantra, còn gọi là hiệp sĩ Mặt Buồn.
Sau khi ông tú tài đi khỏi, Đôn Kihôtê hỏi Xantrô lý do vì sao lại gọi chàng là hiệp sĩ Mặt Buồn. Xantrô đáp:
- Tôi xin nói. Sở dĩ tôi gọi như vậy là vì khi nhìn ngài dưới ánh đuốc của ông tú bất hạnh nọ, tôi thấy ngài có một bộ mặt xấu xí quá, chưa từng thấy như vậy bao giờ. Có thể vì lúc đó ngài đánh nhau bị mệt, hoặc giả vì thiếu mất mấy cái răng chăng.
- Không phải thế đâu; đó là vì nhà sử học có nhiệm vụ viết về những chiến công của ta, muốn rằng ta phải có một biệt hiệu riêng cũng như những hiệp sĩ thời xưa, ví dụ như hiệp sĩ Gươm Nóng Hổi, hiệp sĩ Kỳ Lân, hiệp sĩ Tiểu Thư, hiệp sĩ Phượng Hoàng, hiệp sĩ Chim Ưng, hiệp sĩ Tử Thần, những biệt hiệu khiến cho họ lừng danh khắp thiên hạ. Nhà sử học đó đã điều khiển ý nghĩ và lời nói của anh khiến cho anh gọi ta là hiệp sĩ Mặt Buồn; từ nay về sau, ta sẽ nhận biệt hiệu đó. Và để cho cái tên đó tương xứng với con người của ta, ta quyết định khi nào có dịp sẽ thuê vẽ trên khiên một bộ mặt thật buồn.
- Việc gì phải tốn thời giờ và tiền để làm việc đó; nói không ngoa, chỉ cần ngài giơ mặt ra cho mọi người xem, họ sẽ gọi ngay là hiệp sĩ Mặt Buồn, chả cần phải vẽ lên khiên làm gì. Nói thêm cho vui, mặt ngài đã quá xấu xí vì đói bụng và gãy răng cho nên, như tôi đã nói, có thể miễn bức vẽ buồn thảm đó được.
Câu pha trò của Xantrô làm Đôn Kihôtê không nín được cười; tuy nhiên, chàng vẫn quyết định nhận biệt hiệu đó và sẽ thuê vẽ một bộ mặt thật buồn trên khiên; chàng nói:
- Xantrô, ta nghĩ rằng ta sẽ bị trục xuất khỏi giáo hội vì đã xúc phạm tới sự Thánh; kể ra cũng đúng thôi vì ta đã bị ma quỷ ám ảnh. Tuy nhiên, ta không nhúng tay mà chỉ nhúng ngọn giáo này; hơn thế nữa, ta không chủ tâm đánh các nhà tu hành mà ta kính yêu vì ta là một tín đồ Kitô ngoan đạo; trái lại, ta chỉ định đánh loài ma quái ở thế giới bên kia thôi. Và trong trường hợp này, ta lại nhớ đến chuyện đầu lĩnh Rui Điax đập gãy tan cái ghế ngồi của một vị sứ thần trước mặt đức Giáo hoàng và đã bị trục xuất khỏi Giáo hội; ngày hôm đó Rôđrigô đê Vivar đã tỏ ra là một trang hiệp sĩ ngay thẳng và dũng cảm.
Đôn Kihôtê định đi kiểm tra xem có đúng có xác người chết trong cái kiệu không, nhưng Xantrô can và nói:
- Thưa ngài, trong tất cả những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của ngài mà tôi đã được chứng kiến, lần này tôi mới thấy ngài không bị sứt mẻ gì. Nhưng rất có thể những người vừa mới bị ngài đánh bạt sẽ nhận ra rằng đối phương đã thắng họ chỉ có một người, và để rửa nhục, họ sẽ quay trở lại tìm ta hỏi tội. Thôi, con lừa kia đã mang đủ lương thực, núi rừng cách đây không xa, bụng đã đói rồi, ta hãy mau mau rút khỏi nơi đây; như người ta vẫn thường nói, người chết ăn đất còn người sống ăn bánh.
Nói rồi, bác thúc lừa, mời chủ đi. Thấy Xantrô có lý, Đôn Kihôtê lặng yên theo sau. Đi khỏi một khe núi, đến một thung lũng rộng và kín đáo, họ dừng lại. Xantrô giở lương thực ra, rồi hai thầy trò ngả xuống bãi cỏ xanh, ngon miệng ăn bù luôn cả bữa sáng, bữa trưa và bữa tối, đánh hơn một sọt thịt nguội chiếm đoạt được của đám thầy tu là những người hay ăn ngon. Nhưng lại một sự bất hạnh nữa đến với họ, mà Xantrô coi là một bất hạnh lớn nhất từ trước tới giờ: số là có ăn mà chả có một giọt rượu hoặc một giọt nước nào để đổ vào mồm, thành thử hai thầy trò khát khô cả cổ. Chợt Xantrô nhận ra nơi đây là một cánh đồng đầy cỏ xanh mượt, bác bèn nói với chủ. Xantrô nói gì, xin xem chương sau sẽ rõ.
- Thưa ông chủ, hình như tất cả những chuyện không may xảy ra trong mấy ngày hôm nay là một sự trừng phạt đối với ngài vì ngài đã vi phạm luật lệ của hiệp sĩ đạo. Ngài đã không làm đúng lời thề là ăn không cần ngồi bàn, sống không gần vợ, và còn nhiều điều khác nữa mà ngài đã hứa sẽ thực hiện chừng nào chưa đoạt được cái mũ sắt của Malanđrinô, tên Môrô mà tôi không nhớ rõ tên tuổi lắm.
- Xantrô, anh nói rất đúng, Đôn Kihôtê đáp; thú thực, ta quên bẵng đi mất; và anh có thể chắc chắn rằng vì đã không nhắc nhở ta kịp thời nên anh đã bị trêu ghẹo. Thôi được, rồi ta sẽ sửa vì trong hiệp sĩ đạo có nhiều cách giải quyết.
- Nhưng tôi có thề thốt gì đâu?
- Dù anh không thề cũng vậy thôi vì chỉ cần anh có đóng góp vào sự sai trái của ta. Cho nên, dù có thề hay không thề cũng cần phải tìm cách sửa.
- Nếu như vậy, xin ngài chớ quên điều này cùng những lời thề cũ. Có thể lũ yêu ma lại định trêu ghẹo tôi lần nữa, thậm chí còn trêu ghẹo cả ngài nữa kia.
Còn đang trò chuyện thì trời đã tối mà hai người vẫn chưa tìm được chỗ nghỉ chân; thêm vào đó, cả hai đều đói bụng mà cái túi hai ngăn đựng lương thực thì mất rồi. Đã thế, trời lại tối đen như mực. Tuy vậy, họ vẫn đi. Xantrô đinh ninh rằng đi độ một hai dặm nữa trên đường cái quan này, chắc sẽ gặp quán trọ. Hai thầy trò cứ mò mẫm trong đêm tối, trò đói bụng, thầy cũng muốn ăn. Bỗng đâu từ phía trước mặt tới thấy có rất nhiều đốm lửa, trông như sao đổi ngôi. Xantrô lạnh toát cả người, Đôn Kihôtê cũng đâm hoảng. Bác giám mã ghì dây tròng lừa, chàng hiệp sĩ ghì cương ngựa, rồi cả hai nín lặng nhìn chăm chú xem sao. Những đốm lửa vẫn tiến về phía họ, càng gần càng to. Xantrô run bần bật, tóc trên đầu Đôn Kihôtê cũng dựng ngược lên. Chàng hiệp sĩ cố trấn tĩnh nói:
- Xantrô, chắc chắn đây là một chuyện phiêu lưu lớn nhất và nguy hiểm nhất, đòi hỏi ta phải dốc hết can đảm và sức lực ra.
- Vô phúc cho tôi chưa! Nếu lại có một chuyện ma quái nữa như tôi cảm thấy, thử hỏi còn đâu xương sườn để chịu đòn.
- Dù có ma quái chăng nữa, ta cũng sẽ không để chúng chạm tới một sợi lông ở áo anh. Sở dĩ trước đây chúng trêu ghẹo anh vì ta không vượt tường nhảy vào sân được; nhưng bây giờ chúng ta ở nơi đất bằng và ta có đất để múa gươm.
- Nhưng nếu chúng lại làm cho ngài mê mẩn và liệt cả tay chân, thử hỏi ở nơi đất bằng có được lợi lộc gì hay không?
- Xantrô, dù sao ta cũng khuyên anh nên có can đảm; rồi anh sẽ thấy ta không run sợ trước bọn chúng.
- Ơn nhờ Chúa, tôi sẽ có can đảm.
Hai người đứng né sang bên đường chăm chú nhìn xem những đốm lửa di động kia là cái gì thì thấy một đám người choàng áo lễ trắng. Cảnh tượng khủng khiếp đó khiến Xantrô Panxa mất hết tinh thần, hai hàm răng cứ đập vào nhau như lên cơn sốt rét, càng nhìn rõ bao nhiêu tóc càng dựng ngược và răng càng đập mạnh bấy nhiêu. Trước mắt họ có tới hai chục người cưỡi la, mặc áo trắng dài, tay cầm đuốc; rồi đến một cái kiệu phủ toàn vải đen theo sau có sáu người cũng cưỡi la, cả người lẫn vật đều để tang suốt từ đầu tới chân (nhìn bước đi chậm chạp của những con vật cũng thấy rõ không phải là ngựa). Những người choàng áo trắng dài vừa đi, vừa rì rầm cầu nguyện với một vẻ thương xót. Cảnh tượng rùng rợn này, giữa đêm hôm khuya khoắt vắng vẻ, đủ làm cho Xantrô và ngay cả chủ bác phải hoảng hồn. Bác giám mã đã bắt đầu chùn; trái lại, Đôn Kihôtê tưởng tượng ngay ra một chuyện phiêu lưu mạo hiểm như đã đọc trong sách.
Chàng nhìn cái kiệu hóa ra cái cáng, trên đó có một hiệp sĩ bị trọng thương hoặc đã chết, và nhiệm vụ của chàng là phải trả thù cho kẻ bị nạn. Thế là, chẳng nói chẳng rằng, chàng cầm ngang ngọn giáo, ngồi lại ngay ngắn trên yên ngựa, rồi với một vẻ hiên ngang đĩnh đạc, đứng ra giữa đường chờ đám người mặc áo choàng trắng đi tới. Khi họ đã tới gần, Đôn Kihôtê cất cao giọng:
- Hỡi các hiệp sĩ, bất kể các người là ai, hãy dừng lại xưng danh và nói cho ta biết các người từ đâu tới đây, đi đâu và khiêng ai trên cáng kia. Xem ra, các người đã gây tội lỗi hay đã bị ai gây hấn và ta cần phải biết điều đó để một là trị tội các người, hai là rửa hận cho các người.
- Chúng tôi đang vội, một người khoác áo choàng trắng đáp, quán trọ còn xa; chúng tôi không thể dừng lại để báo cáo theo yêu cầu của ngài.
Nói rồi, người đó thúc la vượt lên. Đôn Kihôtê đùng đùng nổi giận, nắm ngay cương con la, thét:
- Đứng lại; hãy tỏ ra có lễ độ hơn và trả lời những câu hỏi của ta; nếu không ta sẽ đánh cả bọn.
Con la này nhát tính, thấy có người nắm cương, chồm bốn vó lên rồi ngã lăn ra đất, quật cả chủ nó xuống theo. Có một anh hầu đi bộ, nhìn thấy cảnh đó, bèn chửi rủa Đôn Kihôtê. Hăng máu, chàng hiệp sĩ nắm chặt ngọn giáo, xông vào một người mặc đồ tang quật ngã xuống đất rồi quay sang đánh luôn những người khác, tả xung hữu đột, nom thật đẹp mắt, con Rôxinantê lướt trên mặt đất một cách oai hùng như mới có thêm đôi cánh. Đám người mặc áo choàng trắng không quen đánh nhau, lại không có vũ khí, vội bỏ cuộc, tay cầm đuốc chạy khắp cánh đồng, nom giống như những người đeo mặt nạ hóa trang trong buổi dạ hội; những người mặc tang phục, bị lúng túng trong bộ đồ dài lượt thượt, không sao trở tay được, khiến Đôn Kihôtê được một phen đánh đuổi thích tay. Họ tưởng chàng không phải người trần mà là một con quỷ ở địa ngục lên cướp tử thi trong kiệu.
Trước cảnh tượng đó, Xantrô rất khâm phục sự dũng cảm của chủ, bác tự nhủ: "Chủ ta thật là can đảm như ngài vẫn nói".
Có một bó đuốc cháy dở dưới đất, soi rõ người mặc áo choàng trắng bị con la vật ngã lúc đầu; chợt nhìn thấy, Đôn Kihôtê tiến lại gần, gí ngọn giáo vào mặt, bắt phải đầu hàng, nếu không sẽ giết chết. Người mặc áo choàng trắng vội đáp:
- Tôi đã hàng từ lâu vì tôi có nhúc nhích được đâu, tôi bị gãy một đùi rồi. Nếu ngài là một hiệp sĩ theo đạo Ki-tô, tôi van ngài đừng giết tôi, nếu không ngài sẽ mắc một điều đại bất kính vì tôi đã đỗ cử nhân và mới được thụ phong giáo chức.
- Ông là người của Giáo hội ư? Đôn Kihôtê hỏi. Vậy ai run rủi ông tới đây?
- Ai ư? Thưa ngài, sự bất hạnh dẫn tôi tới đây.
- Vậy thì ông sẽ gặp một sự bất hạnh lớn hơn nếu không thỏa mãn tôi và trả lời những câu hỏi của tôi.
- Ngài sẽ được thỏa mãn ngay bây giờ, người tự khoe là ông cử đáp; tôi không đỗ cử nhân như đã nói lúc nãy mà mới có bằng tú tài; tên tôi là Alônxô Lôpêx, quê quán tại Alcôbenđax; tôi tới tỉnh Baêda cùng với mười một giáo sĩ khác là những người cầm đuốc vừa chạy trốn lúc nãy; chúng tôi đưa một cái kiệu trong có tử thi một hiệp sĩ đến tỉnh Xêgôvia; hiệp sĩ này chết ở Baêda và đã được chôn ở đó; bây giờ chúng tôi đưa hài cốt về Xêgôvia là nơi chôn rau cắt rốn của chàng.
- Ai giết hiệp sĩ đó? Đôn Kihôtê hỏi.
- Chúa đã bắt tội chàng sau một cơn sốt ác liệt.
- Nếu vậy, Chúa đã miễn cho tôi nhiệm vụ báo thù cho chàng vì một khi Chúa bắt tội ai, người đó phải cúi đầu tuân theo không được cưỡng lại. Ví thử Chúa bắt tội bản thân tôi, tôi cũng sẽ chịu như vậy. Tiện đây, tôi cũng muốn nói để ngài biết rằng tôi là một hiệp sĩ ở xứ Mantra, tên là Đôn Kihôtê, và công việc của tôi là đi khắp đó đây để bênh vực kẻ hèn yếu, trả thù cho những người bị xúc phạm.
- Chẳng biết ông bênh vực kẻ hèn yếu ra sao mà làm đùi tôi gãy đôi thế này, không bao giờ thẳng lại được nữa; còn nói rằng ông trả thù cho người bị xúc phạm thì thực ra ông đã xúc phạm tôi tới mức không bao giờ gột rửa được. Thật là đại bất hạnh cho tôi đã gặp phải một hiệp sĩ giang hồ như ông.
- Thưa ông tú Alônxô Lôpêx, mọi việc trên đời này đều không giống nhau đâu. Sở dĩ xảy ra chuyện không may này là do các ông đi đêm, lại mặc áo choàng trắng và đồ tang, tay cầm đuốc, mồm lầm rầm cầu nguyện, thành thử trông các ông giống hệt lũ ma quỷ ở thế giới bên kia. Trước trách nhiệm không thể trốn tránh được, tôi đã xông vào đánh các ông; và dù các ông có là quỷ Xa-tăng ở địa ngục thật, như tôi đã tưởng, tôi cũng không tha.
- Không may cho tôi xảy ra cơ sự như thế này, mong ngài hiệp sĩ giang hồ (ngài đã làm tôi khốn khổ) hãy kéo tôi ra khỏi con la vì đùi tôi bị kẹp giữa cái yên và bàn đạp.
- Thế mà chẳng bảo ngay! Còn đợi đến bao giờ mới nói?
Đôn Kihôtê vội gọi Xantrô Panxa lại, nhưng bác giám mã chưa buồn đến ngay vì còn đang bận vơ vét lương thực chất trên một con la đi cùng với đoàn này. Bác lấy áo khoác làm thành một cái túi, lèn đầy thực phẩm, rồi đặt lên lưng con lừa của mình, xong đâu đấy mới chạy lại kéo ông tú tài ra khỏi con la, đỡ ngồi lên yên và trả lại cho ông ta bó đuốc. Đôn Kihôtê nhờ ông ta chuyển lời xin lỗi tới những người kia về sự việc đáng tiếc vừa xảy ra mà chàng không thể tránh được. Xantrô cũng nói thêm:
- Nếu các bạn của ngài muốn biết con người dũng cảm đã làm cho họ thất điên bát đảo là ai, xin hãy nói lại rằng đó là chàng Đôn Kihôtê trứ danh ở xứ Mantra, còn gọi là hiệp sĩ Mặt Buồn.
Sau khi ông tú tài đi khỏi, Đôn Kihôtê hỏi Xantrô lý do vì sao lại gọi chàng là hiệp sĩ Mặt Buồn. Xantrô đáp:
- Tôi xin nói. Sở dĩ tôi gọi như vậy là vì khi nhìn ngài dưới ánh đuốc của ông tú bất hạnh nọ, tôi thấy ngài có một bộ mặt xấu xí quá, chưa từng thấy như vậy bao giờ. Có thể vì lúc đó ngài đánh nhau bị mệt, hoặc giả vì thiếu mất mấy cái răng chăng.
- Không phải thế đâu; đó là vì nhà sử học có nhiệm vụ viết về những chiến công của ta, muốn rằng ta phải có một biệt hiệu riêng cũng như những hiệp sĩ thời xưa, ví dụ như hiệp sĩ Gươm Nóng Hổi, hiệp sĩ Kỳ Lân, hiệp sĩ Tiểu Thư, hiệp sĩ Phượng Hoàng, hiệp sĩ Chim Ưng, hiệp sĩ Tử Thần, những biệt hiệu khiến cho họ lừng danh khắp thiên hạ. Nhà sử học đó đã điều khiển ý nghĩ và lời nói của anh khiến cho anh gọi ta là hiệp sĩ Mặt Buồn; từ nay về sau, ta sẽ nhận biệt hiệu đó. Và để cho cái tên đó tương xứng với con người của ta, ta quyết định khi nào có dịp sẽ thuê vẽ trên khiên một bộ mặt thật buồn.
- Việc gì phải tốn thời giờ và tiền để làm việc đó; nói không ngoa, chỉ cần ngài giơ mặt ra cho mọi người xem, họ sẽ gọi ngay là hiệp sĩ Mặt Buồn, chả cần phải vẽ lên khiên làm gì. Nói thêm cho vui, mặt ngài đã quá xấu xí vì đói bụng và gãy răng cho nên, như tôi đã nói, có thể miễn bức vẽ buồn thảm đó được.
Câu pha trò của Xantrô làm Đôn Kihôtê không nín được cười; tuy nhiên, chàng vẫn quyết định nhận biệt hiệu đó và sẽ thuê vẽ một bộ mặt thật buồn trên khiên; chàng nói:
- Xantrô, ta nghĩ rằng ta sẽ bị trục xuất khỏi giáo hội vì đã xúc phạm tới sự Thánh; kể ra cũng đúng thôi vì ta đã bị ma quỷ ám ảnh. Tuy nhiên, ta không nhúng tay mà chỉ nhúng ngọn giáo này; hơn thế nữa, ta không chủ tâm đánh các nhà tu hành mà ta kính yêu vì ta là một tín đồ Kitô ngoan đạo; trái lại, ta chỉ định đánh loài ma quái ở thế giới bên kia thôi. Và trong trường hợp này, ta lại nhớ đến chuyện đầu lĩnh Rui Điax đập gãy tan cái ghế ngồi của một vị sứ thần trước mặt đức Giáo hoàng và đã bị trục xuất khỏi Giáo hội; ngày hôm đó Rôđrigô đê Vivar đã tỏ ra là một trang hiệp sĩ ngay thẳng và dũng cảm.
Đôn Kihôtê định đi kiểm tra xem có đúng có xác người chết trong cái kiệu không, nhưng Xantrô can và nói:
- Thưa ngài, trong tất cả những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của ngài mà tôi đã được chứng kiến, lần này tôi mới thấy ngài không bị sứt mẻ gì. Nhưng rất có thể những người vừa mới bị ngài đánh bạt sẽ nhận ra rằng đối phương đã thắng họ chỉ có một người, và để rửa nhục, họ sẽ quay trở lại tìm ta hỏi tội. Thôi, con lừa kia đã mang đủ lương thực, núi rừng cách đây không xa, bụng đã đói rồi, ta hãy mau mau rút khỏi nơi đây; như người ta vẫn thường nói, người chết ăn đất còn người sống ăn bánh.
Nói rồi, bác thúc lừa, mời chủ đi. Thấy Xantrô có lý, Đôn Kihôtê lặng yên theo sau. Đi khỏi một khe núi, đến một thung lũng rộng và kín đáo, họ dừng lại. Xantrô giở lương thực ra, rồi hai thầy trò ngả xuống bãi cỏ xanh, ngon miệng ăn bù luôn cả bữa sáng, bữa trưa và bữa tối, đánh hơn một sọt thịt nguội chiếm đoạt được của đám thầy tu là những người hay ăn ngon. Nhưng lại một sự bất hạnh nữa đến với họ, mà Xantrô coi là một bất hạnh lớn nhất từ trước tới giờ: số là có ăn mà chả có một giọt rượu hoặc một giọt nước nào để đổ vào mồm, thành thử hai thầy trò khát khô cả cổ. Chợt Xantrô nhận ra nơi đây là một cánh đồng đầy cỏ xanh mượt, bác bèn nói với chủ. Xantrô nói gì, xin xem chương sau sẽ rõ.
Tác giả :
Miguel De Cervantes