Đi Xuyên Hà Nội
Chương 33: Chuyện Dòng Họ Trên Đất Hà Nội
Chỉ tính riêng họ của người Kinh ở miền Bắc và Hà Nội đã có trên 200 dòng họ. Có họ gốc, có họ mới và mỗi họ có niềm tự hào hay nỗi đau nuốt vào trong nhưng tất cả đan xen vào nhau làm nên một Thăng Long-Hà Nội.
Chuyện rời bỏ làng quê là việc rất lớn, nó không chỉ liên quan đến sự sống trước mắt, tương lai của một gia đình mà đôi khi của cả dòng họ. Nếu không có lý do, người ta khó có thể rời lũy tre làng vì “Lợi gấp năm lần mới chuyển nghề, lợi gấp mười lần mới chuyển nhà”. Họ Tống, Lê, Trịnh rời Tống Sơn (Thanh Hóa), Hoa Lư (Ninh Bình) ra định cư ở Ngọc Hà thế kỷ XI vì các họ này có công với nhà Lý, và chính nhà Lý đến đất mới Thăng Long cũng cần những dòng họ tin được. Thế nhưng theo gia phả họ Tống ở Thụy Khuê, thì Tống này gốc Trung Quốc, chạy sang Việt Nam từ đời Minh trốn tránh nhà Mãn Thanh.
Họ Bùi rời Thái Bình lên định cư ở ngõ Phất Lộc vì có người trong họ đi xem bói, thấy phán Thăng Long là đất tốt cho học hành và làm ăn nên họ ra đi. Nhưng cũng có họ đặt cược tính mạng và số phận liều mình đến Thăng Long, họ là những người can đảm và bản năng sống vô cùng mãnh liệt. Philippe Papin viết trong cuốn Lịch sử Hà Nội rằng người đầu tiên của gia đình họ Phó sinh ra ở Phúc Kiến rời Trung Quốc năm 1591 cùng vợ và năm trong số bảy người con trai. Lúc đó Đại Việt có chiến tranh nên gia đình này đã phân tán sống tại ba làng cách thành phố khoảng 20 cây số, duy chỉ người con út liều mình vào Thăng Long định cư ở phía nam hồ Tây. Một thời gian sau, người con khác cũng chuyển đến sống tại một làng nhỏ phía Tây bắc cách Thăng Long 12 cây số. Tất cả năm người con đều lấy vợ Việt Nam khiến họ nhanh chóng hòa nhập với đời sống xã hội Đại Việt. Chỉ trong vòng mười năm, đại gia đình này đã được Việt hóa và bốn chi chia ra sống ở bốn nơi. Thế kỷ XVII, XVIII, dòng họ Phó thử tham gia vào xã hội thượng lưu nhưng không mấy thành công. Chỉ có người con trai thứ bảy của cụ Phó Đức Cơ (1624-1707) giữ chức trợ lý cho quan huyện là lên được ngạch ba trên hoạn lộ và giữ chức vụ quan trong ở Bộ binh. Các gia đình họ Phó sống chủ yếu bằng thương mại. Cuối thế kỷ XVIII, một người thuộc thế hệ thứ 9 trong gia đình mở một cửa hàng bán thuốc Bắc tại Thăng Long, cháu ông và sau đó là những thành viên khác của gia đình đã tiếp nối nghề này. Nói chung các gia đình họ Phó sống ở Thăng Long sau này buôn bán hay sản xuất khá thành công. Một người là Phó Đức Chính (1907-1930) từng là thành viên của Việt Nam quốc dân đảng bị kết án tử hình sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 và tên ông được đặt cho con phố nằm phía bắc hồ Tây ngày nay.
Làng Yên Phụ xưa (nay là phường Yên Phụ, quận Tây Hồ) có 3 họ gồm: Ngô, Vũ và Quách. Họ Ngô là con cháu Trần Tuân bị giết trong những năm quý tộc nhà Lê Sơ sát hại lẫn nhau đầu thế kỷ XVI nên phải đổi thành họ Đặng, sợ con cháu đời sau quên họ gốc nên đệm là Trần. Đặng Trần tản ra nhiều nơi vì sợ “chu di tam tộc” từng diễn ra trong lịch sử. Nhưng Thăng Long lúc nào cũng như thỏi nam châm hút dân tứ chiếng, họ này có chi ở Chúc Sơn (nay thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Nội) đã quay về Yên Phụ làm con nuôi một người họ Ngô, để giấu tung tích lại đổi từ Đặng Trần sang Ngô Đặng, xóa hẳn dấu tích họ Trần. Còn họ Vũ thì gốc là Lê, vì trong họ có người tham gia chống nhà Nguyễn nên khi nhà Lê mất ngôi, sợ bị truy sát phải đổi theo họ đằng ngoại thành Vũ nhưng gia phả vẫn chép là Lê Vũ.
Cũng như các nơi khác trên Đại Việt, Thăng Long không có đất hoang, ruộng này, đất kia không của nhà chùa thì cũng là của làng và nếu không tư điền thì là công điền. Nhưng vì có quan tham nên khéo thu xếp vẫn có miếng đất “chó ỉa” để buôn bán. Thăng Long luôn là đích đến của không ít cá nhân hay các họ bởi nơi này là miền đất hứa và họ hy vọng có một cuộc sống dễ thở, tốt đẹp hơn nơi ở cũ. Để việc ra đi suôn sẻ, họ chọn thời điểm thích hợp, giảm rủi ro bằng cách cử một đi trước thăm dò, nếu thấy sống được mới đưa gia đình ra rồi dần dần là anh em, họ hàng. Nếu quá khó thì họ lại tiếp tục sống ở quê chờ dịp khác. Nói chung nếu không nguy hiểm tính mạng cần phải đi ngay thì họ không mạo hiểm, buông mặc số phận. Họ Vũ ở Đan Loan (Hải Dương) có nghề nhuộm điều nổi tiếng xứ Đông, ban đầu chỉ hai ba người ra Thăng Long, thấy có cơ hội mở mang sản xuất họ mới kéo nhau ra lập xưởng ở phường Diên Hưng. Họ tập trung một chỗ để che chở, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, tránh bị phố trưởng bắt nạt hay côn đồ gây chuyện. Và túm tụm một chỗ còn hỗ trợ nhau vì trong nghề nhuộm, mỗi gia đình thường giỏi một công đoạn, mặt khác ở gần nhau cũng tiện cho bạn buôn đưa nguyên liệu hay đến cất hàng. Cùng với một số họ khác, họ Vũ đã có công lập ra phố Hàng Đào, một phố có tính biểu tượng của Hà Nội “36 phố phường”. Cuối thế kỷ XVIII, dòng họ Nguyễn ở Tam Xá (huyện Thường Tín) rời làng lên Thăng Long sống bằng nghề sản xuất mũ mão phục vụ lễ hội, họ chọn mảnh đất gần bờ Hồ làm nơi sinh sống và hiện con cháu họ vẫn sống ở phố Hàng Bài. Ở khu “phố Hàng” không có sự cạnh tranh giữa các họ, tất cả cùng làm ăn buôn bán và “bán anh em xa mua láng giềng gần” nhưng ở các làng phía tây thành, đôi khi lại không như vậy, các họ lớn vẫn chèn ép họ nhỏ, họ giàu có coi thường họ nghèo. Bởi thế gia đình nào cũng muốn đẻ nhiều con vì không chỉ “lắm phúc, nhiều lộc” mà đẻ nhiều con trai còn làm cho họ nhà mình to hơn họ nhà khác, họ to sẽ không sợ bị chèn ép. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, làng Ngọc Hà phải nộp lính, những họ lép vế đều phải cử trai đinh ra đi trong đó có Phạm văn Mễ, ông này sang Pháp làm lính thợ, mãn hạn ông Mễ ở lại học hành rồi trở về nước, nhờ có văn bằng Pháp ông được bổ làm giáo học khiến vị thế của họ trong làng cũng khác.
Cùng với các họ mới, họ sống lâu đời và họ gốc ở Thăng Long cũng vun xới cho mảnh đất quê hương mình. Ca dao, tục ngữ Hà Nội có câu “Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ”, Kẻ Vẽ là tên nôm của làng Đông Ngạc (nay là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm), các họ: Phan, Phạm, Đỗ, Nguyễn, Hoàng... đời nào cũng có người đỗ đạt làm quan trong triều, tham gia vào chuyện quốc gia đại sự giúp dân giúp nước, vì thế Đông Ngạc được gọi là làng văn hiến và các dòng họ thành đạt gọi là họ văn hiến. Họ Phan là họ lâu đời và Phan Phu Tiên là ông tổ họ Phan ở Đông Ngạc, ông đỗ đạt vào đời Trần là tác giả của nhiều bộ sách lớn trong đó có Việt âm thi tập và Đại Việt sử ký tục biên (bị thất lạc). Một người cháu thứ ba của Phan Lê Phiên (đỗ tiến sĩ năm 1757), hậu duệ có ba người tham gia Đông Kinh nghĩa thục là Phan Tuấn Phong, Phan Trọng Kiên và Phan văn Trường. Đông Kinh nghĩa thục bị đàn áp, Pháp bắt cả ba anh em giao cho chánh tòa thượng thẩm Hà Nội là Phan Cao Lũy, em ruột của ba ông xét xử. Một tình thế vô cùng éo le đối với họ Phan. Cuối cùng theo lệnh của Pháp cả ba ông bị đày ra Côn Đảo. Rồi ông Phan văn Trường chống án nên bị đưa sang Pháp xét xử, cuối cùng được tha bổng. Phan văn Trường ở lại Pháp học đỗ tiến sĩ luật. Ông đã giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc khi đó đang ở Paris (1917-1919). Tên ông hiện được đặt tên phố ở quận Cầu Giấy.
Họ Hoàng là họ mới ở Đông Ngạc, gốc gác Đông Bình, tỉnh Bắc Ninh. Bắt đầu từ Hoàng Nguyễn Thự, ông đỗ tiến sĩ khóa cuối thời Hậu Lê và khi nhà Lê sụp đổ ông trốn về quê vợ ở làng Vẽ và trở thành tổ của họ Hoàng ở đây. Hoàng Tăng Bí là cháu đời thứ năm của Hoàng Nguyễn Thự, đỗ phó bảng ông không ra làm quan mà tham gia Đông Kinh nghĩa thục. Con trai ông là Hoàng Minh Giám làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong chính phủ kháng chiến rồi Bộ trưởng Bộ Văn hóa sau 1954. Còn họ Hoàng ở Yên Hòa lại là họ gốc, họ này cũng là họ văn hiến, bắt đầu từ Hoàng Quán Chi, đỗ đầu Thái sinh học năm 1393 làm quan tới chức Thượng thư Thẩm hình viện. Con cháu họ Hoàng các đời đều làm quan và sau là trí thức lớn. Thăng Long-Hà Nội còn rất nhiều dòng họ văn hiến khác hơn tất cả các vùng miền và chính các dòng họ văn hiến này đã góp phần làm nên diện mạo văn hóa Kinh đô-Thủ đô.
Phía bắc và tây Hà Nội xa xưa là vùng đất cao nên có nhiều làng cổ vì thế cũng có nhiều họ gốc. Thụy Khuê có họ: Phan, Lê, Nguyễn, Hà, Vũ, Bùi; Giảng Võ có ba họ gốc: Trương Đức, Trương Văn và Nguyễn; Xuân Tảo có họ Phương, Ngô, Nguyễn, Trần; Yên Thái có Phạm, Trần và Hàn; Bái Ân có họ Thái với nghề dệt lĩnh nổi tiếng. Hà Nội có rất nhiều họ quen tai nhưng cũng có họ ít khi nghe thấy, ví dụ như Nghi Tàm có họ Luyện, làng Tây Hồ có họ Ngọ Xuân, Quảng Bá có họ Lu... Từ những năm 1990 đến nay số người nước ngoài lấy vợ Việt định cư ở Hà Nội ngày càng nhiều vì thế Hà Nội có thêm nhiều họ mới. Bây giờ nhận đồng hương ở Hà Nội dễ hơn nhận họ, chỉ nghe giọng nói không cần hỏi han nhưng câu “Một người làm quan cả họ được nhờ” hình như vẫn còn giá trị.
Chuyện rời bỏ làng quê là việc rất lớn, nó không chỉ liên quan đến sự sống trước mắt, tương lai của một gia đình mà đôi khi của cả dòng họ. Nếu không có lý do, người ta khó có thể rời lũy tre làng vì “Lợi gấp năm lần mới chuyển nghề, lợi gấp mười lần mới chuyển nhà”. Họ Tống, Lê, Trịnh rời Tống Sơn (Thanh Hóa), Hoa Lư (Ninh Bình) ra định cư ở Ngọc Hà thế kỷ XI vì các họ này có công với nhà Lý, và chính nhà Lý đến đất mới Thăng Long cũng cần những dòng họ tin được. Thế nhưng theo gia phả họ Tống ở Thụy Khuê, thì Tống này gốc Trung Quốc, chạy sang Việt Nam từ đời Minh trốn tránh nhà Mãn Thanh.
Họ Bùi rời Thái Bình lên định cư ở ngõ Phất Lộc vì có người trong họ đi xem bói, thấy phán Thăng Long là đất tốt cho học hành và làm ăn nên họ ra đi. Nhưng cũng có họ đặt cược tính mạng và số phận liều mình đến Thăng Long, họ là những người can đảm và bản năng sống vô cùng mãnh liệt. Philippe Papin viết trong cuốn Lịch sử Hà Nội rằng người đầu tiên của gia đình họ Phó sinh ra ở Phúc Kiến rời Trung Quốc năm 1591 cùng vợ và năm trong số bảy người con trai. Lúc đó Đại Việt có chiến tranh nên gia đình này đã phân tán sống tại ba làng cách thành phố khoảng 20 cây số, duy chỉ người con út liều mình vào Thăng Long định cư ở phía nam hồ Tây. Một thời gian sau, người con khác cũng chuyển đến sống tại một làng nhỏ phía Tây bắc cách Thăng Long 12 cây số. Tất cả năm người con đều lấy vợ Việt Nam khiến họ nhanh chóng hòa nhập với đời sống xã hội Đại Việt. Chỉ trong vòng mười năm, đại gia đình này đã được Việt hóa và bốn chi chia ra sống ở bốn nơi. Thế kỷ XVII, XVIII, dòng họ Phó thử tham gia vào xã hội thượng lưu nhưng không mấy thành công. Chỉ có người con trai thứ bảy của cụ Phó Đức Cơ (1624-1707) giữ chức trợ lý cho quan huyện là lên được ngạch ba trên hoạn lộ và giữ chức vụ quan trong ở Bộ binh. Các gia đình họ Phó sống chủ yếu bằng thương mại. Cuối thế kỷ XVIII, một người thuộc thế hệ thứ 9 trong gia đình mở một cửa hàng bán thuốc Bắc tại Thăng Long, cháu ông và sau đó là những thành viên khác của gia đình đã tiếp nối nghề này. Nói chung các gia đình họ Phó sống ở Thăng Long sau này buôn bán hay sản xuất khá thành công. Một người là Phó Đức Chính (1907-1930) từng là thành viên của Việt Nam quốc dân đảng bị kết án tử hình sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 và tên ông được đặt cho con phố nằm phía bắc hồ Tây ngày nay.
Làng Yên Phụ xưa (nay là phường Yên Phụ, quận Tây Hồ) có 3 họ gồm: Ngô, Vũ và Quách. Họ Ngô là con cháu Trần Tuân bị giết trong những năm quý tộc nhà Lê Sơ sát hại lẫn nhau đầu thế kỷ XVI nên phải đổi thành họ Đặng, sợ con cháu đời sau quên họ gốc nên đệm là Trần. Đặng Trần tản ra nhiều nơi vì sợ “chu di tam tộc” từng diễn ra trong lịch sử. Nhưng Thăng Long lúc nào cũng như thỏi nam châm hút dân tứ chiếng, họ này có chi ở Chúc Sơn (nay thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Nội) đã quay về Yên Phụ làm con nuôi một người họ Ngô, để giấu tung tích lại đổi từ Đặng Trần sang Ngô Đặng, xóa hẳn dấu tích họ Trần. Còn họ Vũ thì gốc là Lê, vì trong họ có người tham gia chống nhà Nguyễn nên khi nhà Lê mất ngôi, sợ bị truy sát phải đổi theo họ đằng ngoại thành Vũ nhưng gia phả vẫn chép là Lê Vũ.
Cũng như các nơi khác trên Đại Việt, Thăng Long không có đất hoang, ruộng này, đất kia không của nhà chùa thì cũng là của làng và nếu không tư điền thì là công điền. Nhưng vì có quan tham nên khéo thu xếp vẫn có miếng đất “chó ỉa” để buôn bán. Thăng Long luôn là đích đến của không ít cá nhân hay các họ bởi nơi này là miền đất hứa và họ hy vọng có một cuộc sống dễ thở, tốt đẹp hơn nơi ở cũ. Để việc ra đi suôn sẻ, họ chọn thời điểm thích hợp, giảm rủi ro bằng cách cử một đi trước thăm dò, nếu thấy sống được mới đưa gia đình ra rồi dần dần là anh em, họ hàng. Nếu quá khó thì họ lại tiếp tục sống ở quê chờ dịp khác. Nói chung nếu không nguy hiểm tính mạng cần phải đi ngay thì họ không mạo hiểm, buông mặc số phận. Họ Vũ ở Đan Loan (Hải Dương) có nghề nhuộm điều nổi tiếng xứ Đông, ban đầu chỉ hai ba người ra Thăng Long, thấy có cơ hội mở mang sản xuất họ mới kéo nhau ra lập xưởng ở phường Diên Hưng. Họ tập trung một chỗ để che chở, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, tránh bị phố trưởng bắt nạt hay côn đồ gây chuyện. Và túm tụm một chỗ còn hỗ trợ nhau vì trong nghề nhuộm, mỗi gia đình thường giỏi một công đoạn, mặt khác ở gần nhau cũng tiện cho bạn buôn đưa nguyên liệu hay đến cất hàng. Cùng với một số họ khác, họ Vũ đã có công lập ra phố Hàng Đào, một phố có tính biểu tượng của Hà Nội “36 phố phường”. Cuối thế kỷ XVIII, dòng họ Nguyễn ở Tam Xá (huyện Thường Tín) rời làng lên Thăng Long sống bằng nghề sản xuất mũ mão phục vụ lễ hội, họ chọn mảnh đất gần bờ Hồ làm nơi sinh sống và hiện con cháu họ vẫn sống ở phố Hàng Bài. Ở khu “phố Hàng” không có sự cạnh tranh giữa các họ, tất cả cùng làm ăn buôn bán và “bán anh em xa mua láng giềng gần” nhưng ở các làng phía tây thành, đôi khi lại không như vậy, các họ lớn vẫn chèn ép họ nhỏ, họ giàu có coi thường họ nghèo. Bởi thế gia đình nào cũng muốn đẻ nhiều con vì không chỉ “lắm phúc, nhiều lộc” mà đẻ nhiều con trai còn làm cho họ nhà mình to hơn họ nhà khác, họ to sẽ không sợ bị chèn ép. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, làng Ngọc Hà phải nộp lính, những họ lép vế đều phải cử trai đinh ra đi trong đó có Phạm văn Mễ, ông này sang Pháp làm lính thợ, mãn hạn ông Mễ ở lại học hành rồi trở về nước, nhờ có văn bằng Pháp ông được bổ làm giáo học khiến vị thế của họ trong làng cũng khác.
Cùng với các họ mới, họ sống lâu đời và họ gốc ở Thăng Long cũng vun xới cho mảnh đất quê hương mình. Ca dao, tục ngữ Hà Nội có câu “Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ”, Kẻ Vẽ là tên nôm của làng Đông Ngạc (nay là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm), các họ: Phan, Phạm, Đỗ, Nguyễn, Hoàng... đời nào cũng có người đỗ đạt làm quan trong triều, tham gia vào chuyện quốc gia đại sự giúp dân giúp nước, vì thế Đông Ngạc được gọi là làng văn hiến và các dòng họ thành đạt gọi là họ văn hiến. Họ Phan là họ lâu đời và Phan Phu Tiên là ông tổ họ Phan ở Đông Ngạc, ông đỗ đạt vào đời Trần là tác giả của nhiều bộ sách lớn trong đó có Việt âm thi tập và Đại Việt sử ký tục biên (bị thất lạc). Một người cháu thứ ba của Phan Lê Phiên (đỗ tiến sĩ năm 1757), hậu duệ có ba người tham gia Đông Kinh nghĩa thục là Phan Tuấn Phong, Phan Trọng Kiên và Phan văn Trường. Đông Kinh nghĩa thục bị đàn áp, Pháp bắt cả ba anh em giao cho chánh tòa thượng thẩm Hà Nội là Phan Cao Lũy, em ruột của ba ông xét xử. Một tình thế vô cùng éo le đối với họ Phan. Cuối cùng theo lệnh của Pháp cả ba ông bị đày ra Côn Đảo. Rồi ông Phan văn Trường chống án nên bị đưa sang Pháp xét xử, cuối cùng được tha bổng. Phan văn Trường ở lại Pháp học đỗ tiến sĩ luật. Ông đã giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc khi đó đang ở Paris (1917-1919). Tên ông hiện được đặt tên phố ở quận Cầu Giấy.
Họ Hoàng là họ mới ở Đông Ngạc, gốc gác Đông Bình, tỉnh Bắc Ninh. Bắt đầu từ Hoàng Nguyễn Thự, ông đỗ tiến sĩ khóa cuối thời Hậu Lê và khi nhà Lê sụp đổ ông trốn về quê vợ ở làng Vẽ và trở thành tổ của họ Hoàng ở đây. Hoàng Tăng Bí là cháu đời thứ năm của Hoàng Nguyễn Thự, đỗ phó bảng ông không ra làm quan mà tham gia Đông Kinh nghĩa thục. Con trai ông là Hoàng Minh Giám làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong chính phủ kháng chiến rồi Bộ trưởng Bộ Văn hóa sau 1954. Còn họ Hoàng ở Yên Hòa lại là họ gốc, họ này cũng là họ văn hiến, bắt đầu từ Hoàng Quán Chi, đỗ đầu Thái sinh học năm 1393 làm quan tới chức Thượng thư Thẩm hình viện. Con cháu họ Hoàng các đời đều làm quan và sau là trí thức lớn. Thăng Long-Hà Nội còn rất nhiều dòng họ văn hiến khác hơn tất cả các vùng miền và chính các dòng họ văn hiến này đã góp phần làm nên diện mạo văn hóa Kinh đô-Thủ đô.
Phía bắc và tây Hà Nội xa xưa là vùng đất cao nên có nhiều làng cổ vì thế cũng có nhiều họ gốc. Thụy Khuê có họ: Phan, Lê, Nguyễn, Hà, Vũ, Bùi; Giảng Võ có ba họ gốc: Trương Đức, Trương Văn và Nguyễn; Xuân Tảo có họ Phương, Ngô, Nguyễn, Trần; Yên Thái có Phạm, Trần và Hàn; Bái Ân có họ Thái với nghề dệt lĩnh nổi tiếng. Hà Nội có rất nhiều họ quen tai nhưng cũng có họ ít khi nghe thấy, ví dụ như Nghi Tàm có họ Luyện, làng Tây Hồ có họ Ngọ Xuân, Quảng Bá có họ Lu... Từ những năm 1990 đến nay số người nước ngoài lấy vợ Việt định cư ở Hà Nội ngày càng nhiều vì thế Hà Nội có thêm nhiều họ mới. Bây giờ nhận đồng hương ở Hà Nội dễ hơn nhận họ, chỉ nghe giọng nói không cần hỏi han nhưng câu “Một người làm quan cả họ được nhờ” hình như vẫn còn giá trị.
Tác giả :
Nguyễn Ngọc Tiến