Đi Xuyên Hà Nội
Chương 14: Xem Bóng Đá, Nghe Bóng Đá
Một buổi chiều Chủ nhật năm 1906, trên sân Mangin (sân Cột Cờ, nay không còn) khi ấy là bãi đất rộng, các đơn vị lính Pháp đóng quân trên địa bàn Hà Nội mang quả bóng da đá với nhau. Nhưng trò giải trí ấy lại thu hút khá đông sĩ quan, lính Pháp cùng công chức Pháp và người Việt Nam. Và năm 1907, Hà Nội đã ra đời hai đội bóng là Nhà binh 9eRIC (Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 9) và Câu lạc bộ bóng đá. Đội Nhà binh 9eRIC hầu hết là lính Pháp và lính lê dương còn Câu lạc bộ bóng đá thì ngoài lính còn có công chức Tây. Bóng đá ở Hà Nội nói riêng và Bắc Kỳ nói chung xuất hiện muộn hơn Nam Kỳ, lý do là cuối thế kỷ XIX, nghĩa quân Yên Thế và phong trào Cần Vương hoạt động rộng khắp ở vùng trung du, đồng bằng khiến quân đội Pháp luôn đặt Bắc Kỳ trong tình trạng chiến tranh, cấm mọi hoạt động đông người. Đầu thế kỷ XX, tình hình ổn định hơn nên bóng đá mới có cơ hội phát triển.
Tháng 2-1912, Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội (Stade Hanôien) ra đời, đội bóng không có lính Pháp và lê dương chỉ có Tây làm ở các công sở và người Việt Nam yêu thích môn thể thao này. Họ đá tập trên bãi Mangin, tuy là đá tập nhưng thu hút rất đông người đến xem, có lẽ do nó hoàn toàn mới mẻ với dân Hà Nội. Trận cầu đầu tiên giữa Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội và Nhà binh 9eRIC diễn ra ngày 1-11-1913 tại Mangin đã lôi cuốn gần 3.000 khán giả, kết quả đội Nhà binh 9eRIC thắng 5-3. Trong hồi ký, đốc lý Hà Nội Logerot (giữ chức từ 9-1912 đến 2-1915) viết: “Không thể tưởng tượng được dân An Nam đến xem quá đông. Họ không hiểu luật chơi nhưng mỗi lần cầu thủ An Nam có bóng dẫn về phía cầu môn đội 9eRIC họ reo hò ầm ĩ. Tuy nhiên sức mạnh của Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội vẫn phải nhờ đến các cầu thủ người Pháp là Menin, Megy, Bernard, Bonardi...”
Trận đấu này đã truyền cảm hứng bóng đá cho thiếu niên Hà Nội, nhất là học sinh. Các trường tiểu học Sinh Từ, Hàng Vôi, Cửa Đông... lập các đội bóng chân đất. Các nhà buôn Hoa kiều, Việt Nam và Nhật tận dụng cơ hội nhập bóng bằng cao su to như quả bưởi từ Hồng Công đáp ứng nhu cầu con trẻ. Ở các phố, thiếu niên tập trung thành đội chơi bóng và đấu giao hữu tại những bãi đất trống hay tại ngã ba, ngã tư vắng người. Tuy nhiên bãi trống gần Nhà thương Đồn Thủy (Bệnh viện Hữu Nghị hiện nay), trước Trường Hàng Kèn (nay là trường tiểu học Quang Trung), đường Gambetta (Trần Hưng Đạo hiện nay) được ưa chuộng nhất. Từ học sinh tiểu học, bóng đá lan sang các trường trung học, trường Bưởi, Albert Saurrat có đội bóng mạnh bên cạnh môn bóng rổ. Tại sao thiếu niên Hà Nội mê bóng đá mà không mê hockey dù môn thể thao này cũng có tính tập thể? Có lẽ chơi bóng đá không tốn nhiều tiền và người Việt Nam nhỏ bé rất phù hợp với yêu cầu là khéo léo, uyển chuyển, mặt khác bóng đá cũng không nguy hiểm như hockey.
Thấy bóng đá dễ chơi, khỏe người lại không tốn tiền như đua xe đạp, quần vợt, cũng không cần phải có phòng rộng có bàn như bóng bàn nên bắt chước thiếu niên, công chức các công sở, thanh niên, công nhân các hãng đã nhiệt tình tham gia môn thể thao này. Đến những năm cuối thập niên đầu tiên thế kỷ XX, Hà Nội xuất hiện khá nhiều câu lạc bộ mà cầu thủ hoàn toàn là người Việt như: Tia Chớp (Eclair), Ngọn Giáo (La Lance), Stát Hà Nội (Stade Hanôien)... Cầu thủ phải tự sắm áo, giày, đóng tiền tháng để mua bóng. Để cổ vũ bóng đá, một số Mạnh Thường Quân đã chi thêm tiền cho các đội, trong đó có ông Trần văn Quý ở Sở Lục lộ. Chính trên sân Mangin, một giải vô địch bóng đá riêng cho Bắc Kỳ đã được tổ chức lần đầu vào khoảng 1918-1919. Lúc đầu khán giả vào xem không mất tiền nhưng sau ban tổ chức kê bàn ngăn bốn đường vào sân bán mỗi vé một hào.
Năm 1919, ông Nguyễn Quý Toản đi du học ở Pháp về mở Trường thể dục thể thao (École d’éducation Physique - EDEP) đầu tiên ở Hà Nội trên khu đất sau nhà máy diêm (nay là khu tập thể Vân Hồ, quận Hai Bà Trưng). EDEP thu hút rất đông thanh niên đến luyện tập các môn xà đơn, xà kép, bóng bàn, quần vợt... và đặc biệt là bóng đá. Năm 1930, thành phố quy hoạch khu vực này nên đã đổi cho EDEP một bãi đất trống rộng mấy hécta ở phía bắc phố Cát Linh và EDEP đã đổi tên thành Hội thể thao Bắc Kỳ (Société d’éducation Physique du Tonkin - SEPTO) và SEPTO cải tạo bãi Cát Linh thành sân SEPTO (sau này là sân Hàng Đẫy) nhưng rất đơn giản.
Nhận thấy người Hà Nội rất thích xem bóng đá, một số công ty cho đây là cơ hội tốt để quảng bá nên họ đã cho lập các đội bóng. Năm 1924, Nhà Godard Tràng Tiền (chuyên bán hàng tiêu dùng, bây giờ là Trung tâm Thương mại Tràng Tiền) lập Racing Club (còn gọi là đội Gà nòi). Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp thắng thế lên nắm chính quyền càng khuyến khích phong trào thể thao ở các nước thuộc địa. Toàn quyền Đông Dương khi đó là Châtel ủng hộ, Tổng ủy viên thanh niên Đông Dương Ducouroy đã nghĩ ra nhiều trò nên thể thao Hà Nội phát triển rất mạnh nhất là bóng đá. Nhưng ở các vùng quê, bóng đá bị nhuốm màu chính trị, họ bắt dân đi xem để quên đi thực tại khốn khổ, truyện ngắn Tinh thần thể dục của nhà văn Nguyễn Công Hoan đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy năm 1939 đã vạch trần thủ đoạn này.
Các công ty, hãng buôn lớn tuyển cầu thủ lập đội và trả lương để họ quanh năm chơi bóng. Các đội mạnh thập niên 30 thế kỷ XX phải kể đến Câu lạc bộ Ô-tôphố Tràng Thi (Auto Hall Club), Sở Hỏa xa (Utaga). Cũng trong những năm này, Hà Nội tổ chức thi đấu giữa các đội mạnh và đấu với các đội nhà binh Pháp. Tuy nhiên vì hay xảy ra ẩu đả nên chính quyền đã cấm các đội bóng người Việt đá với các đội Pháp dù chỉ giao hữu. Đội bóng mạnh nhờ có cầu thủ giỏi, đội Tia Chớp có Văn Đức Vịnh (thầy thuốc), Nhuận (lái xe), Tâm A (còn gọi là Tâm Toit), Viễn, Ba già, Biềng... Đội Ngọn Giáo có Thịnh, Stát Hà Nội có Thi, Thông (em Thịnh). Tuy nhiên nổi danh nhất được người ham mê bóng đá gọi là “Túc cầu tiểu vương” Nguyễn Thông. Sinh ra ở làng Thịnh Yên (nay thuộc phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng), Nguyễn Thông mê bóng đá từ nhỏ và từng là “ngôi sao” chân đất tại các sân Pasteur, Nhà Dầu. Nguyễn Thông bắt đầu đá cho các đội chuyên nghiệp từ lúc 17 tuổi. Tiếng tăm lan khắp ba xứ vì thế các đội bóng nổi tiếng trong Nam, ngoài Bắc rất muốn có tiền đạo này trong đội của mình. Sau khi đầu quân cho nhiều đội ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, cuối thập niên 30, ông mới đá tại Hà Nội. Sau 1954, Nguyễn Thông về đội Thể Công rồi trường Thể dục Thể thao Trung ương. Do bị kẹt lại, sau đó lạc đơn vị, giấy tờ mất hết, nên ông bị thiệt thòi vì cấp hàm không có. Mãi đến khi Đoàn TDTT Quân đội (Thể Công) thành lập, ông mới được đề bạt chức trung đội trưởng. Đá bóng hay nhưng chuyện tình duyên lại éo le, trắc trở còn sự nghiệp thì không may mắn và chịu oan trái. Trong một bài báo, tác giả Tân Linh viết: “Năm 1942, ông lập gia đình với cô gái xinh đẹp đất cảng Lê thị Trang... Nguyễn Thọ, con trai danh thủ nói với tôi: Bố tôi lúc đó đã ba mươi trong khi mẹ tôi mới 18 tuổi, vừa học xong trung học. Bà ngoại lúc đầu không ưng anh chàng đá bóng dù bố tôi rất nổi tiếng, nhưng ông ngoại tôi thì rất mến tài và đồng ý cho hai người lấy nhau. Họ lần lượt có với nhau hai người con trai. Từ Hải Phòng, danh thủ Nguyễn Thông bí mật hoạt động trong lực lượng công an xung phong. Lúc kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Thông ra mặt trận thì người vợ của ông bị một sĩ quan người Pháp theo đuổi. Như để giữ tiết hạnh với chồng, bà ôm hai con trai xuống tàu vào Nam nhưng tại đất Sài Gòn, bà đã không lẩn trốn được định mệnh. Mấy năm trời bặt vô âm tín, nghĩ chồng đã mất, bà buộc phải lấy người Pháp từng theo đuổi mình. Lần hôn nhân này, bà đã lại có thêm 6 người con... Dẫu giàu sang nhưng lòng người đàn bà ấy vẫn chưa lạnh ước thề, năm 1954, qua những người di cư vào Nam, bà được tin ông vẫn còn sống và hiện ở trong đội Thể Công. Lỗi hẹn với người chồng yêu quý, thương hai đứa con sống xa cha, bà đã tìm cách gửi hai người con với ông là Nguyễn Phú và Nguyễn Thọ ra Bắc cho mẹ chồng, để cha con được đoàn tụ...”. Về oan trái của Nguyễn Thông, nhà báo Tân Linh viết: “Năm 1965, lúc ngoài 40 tuổi, Nguyễn Thông được điều về Trường Cán bộ TDTT Trung ương. Ông lặng lẽ chôn chặt nỗi đau riêng để mong đóng góp cho bộ môn bóng đá đầu tiên của ngành đào tạo thể thao nước nhà. Nhưng khi mọi chuyện đang tốt đẹp, bỗng dưng ông bị gọi kiểm điểm về tội “quan hệ nam nữ bất chính”. Câu chuyện có lẽ bắt đầu từ lời đồn thổi về quan hệ của thầy Thông với cô giáo tên H. Quan hệ yêu đương trong sáng, trong khi “Trai không vợ, gái chưa chồng”... Ông Triệu Ngọc Sơn, học trò của Nguyễn Thông, đồng thời là trưởng bộ môn bóng đá hồi đó của Trường TDTT Trung ương kể: “Thầy Thông không bằng cấp, nhưng danh tiếng thì lẫy lừng, vì vậy, để loại ông ra, người ta đã tạo cớ vi phạm đạo đức... Và ‘kịch bản’ được hoàn tất trong khi ai cũng biết vợ ông bỏ vào Nam sống tại Sài Gòn và đã lấy chồng...”. Ông bị kỷ luật, không được quản lý, thôi công tác giảng dạy nhưng không được phân công công tác khác. Biết tin Nguyễn Thông bị kỷ luật, Lê Siêu - Trưởng ty Thể dục Thể thao Lạng Sơn xin ông về để gây dựng phong trào bóng đá cho tỉnh. Chuyển lên xứ Lạng nhưng chẳng ai xóa án kỷ luật oan trái cho ông. Ông tá túc trong một gian nhỏ tại sân vận động. Năm 1976, bất ngờ ông nhận được bức điện của người vợ cũ gửi ra mong muốn ông vào Sài Gòn. Gặp nhau nhưng chẳng biết nói gì, còn bà kể cho ông khúc mắc cuộc đời. Người chồng Pháp biết tin Nguyễn Thông vào tìm vợ cũ đã lấy đó làm lý do đưa các con về Pháp. Ông quyết định quay ra Hà Nội vì không thể phá vỡ hạnh phúc của bà. Trở lên Lạng Sơn ông tiếp tục công việc huấn luyện bóng đá. Rồi một ngày, người ta phát hiện trên chiếc ghế đá gần đường pít Nguyễn Thông đã tắt thở...
Khi bóng đá phát triển thì các bãi đất trống, đường phố chỉ phù hợp với đá chân đất mang tính nghiệp dư, bóng đá chuyên nghiệp cần phải có sân đúng tiêu chuẩn, nhưng Hà Nội khi đó chỉ duy nhất sân Mangin đáp ứng được yêu cầu, tuy nhiên sân này lại do quân đội Pháp quản lý và chỉ để cho các giải thi đấu chân giầy chính thức. Để có sân luyện tập và thi đấu, chủ các đội bóng đã kết hợp với nhau xin chính quyền thành phố các bãi đất rộng làm sân. Ðội Tia Chớpvà Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội lập ra sân Nhà Dầu (gần kho xăng hãng Shell, sát cầu Long Biên), Racing club thì xin bãi Bắc Qua, họ cho lập hàng rào và đặt tên là Stade Lepage. Từ năm 1936 đến 1938, bãi Hàng Đẫy được SEPTO tiến hành xây dựng, có tường bao quanh. Khán đài A bằng gỗ, gồm 400 chỗ ngồi. Mặt sân được san phẳng để chơi bóng, tuy nhiên sau mỗi trận mưa mặt sân lại bị lồi lõm. Trong sân không có khu vệ sinh, không có nhà tắm cho cầu thủ.
Ngày 8-3-1946 là mốc thời gian đáng nhớ với ngành thể dục thể thao Việt Nam nói chung và bóng đá Hà Nội nói riêng. Chiều hôm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến sân SEPTO dự buổi khai mạc hội khỏe và xem trận đấu bóng đá giữa đội Thanh niên Cứu quốc Hoàng Diệu và đội Vệ Quốc đoàn. Khi hai đội xếp hàng ngang trên sân chào khán giả, ban tổ chức và trọng tài đã mời Chủ tịch Hồ Chí Minh xuống đá quả bóng danh dự, thay tiếng còi khai mạc trận đấu. Đó thực sự là sự kiện lớn và là ngày không thể quên trong lịch sử bóng đá Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX. Trận đọ sức trên sân cỏ giữa hai lực lượng tuyên truyền và vũ trang tại thủ đô Hà Nội này được ghi nhận là trận bóng đầu tiên sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Vì sân không đạt tiêu chuẩn, thiếu các công trình phụ trợ nên năm 1956, ngay sau ngày thành tái lập Ban Thể dục thể thao Trung ương, nhà nước đã cho xây dựng lại sân Hàng Đẫy. Công trình được khởi công ngày 16-2-1957 và hoàn thành sau 18 tháng thi công. Chiều 24-8-1958, Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội long trọng làm lễ khánh thành sân vận động mới.
Sau 1954, chế độ mới quan niệm khác nên bóng đá tư nhân bị xóa sổ ở miền Bắc. Các đội bóng quốc doanh ra đời do cơ quan hay tỉnh thành nào đó quản lý. Song dù bóng đá quốc doanh thì dân Hà Nội vẫn rất mê môn thể thao này. Bóng đá chân đất phát triển mạnh với các “đội bóng phố tôi”. Buổi chiều trong công viên, ngã tư, các khoảng đất trống lúc nào cũng có thanh thiếu niên cởi trần đá gôn tôm. Tại khu Cao-Xà-Lá (gọi tắt của nhà máy cao su, xà phòng và thuốc lá) ở ngã tư Sở có sân bóng khá rộng. Chiều nào cũng có các đội đấu với nhau. Ngày Chủ nhật, sân nhộn nhịp từ sáng đến tắt nắng. Sân này có một Mạnh Thường Quân cấp áo in số, trao thưởng cho đội thắng, mua bóng mới... tên là Sáu, ông Sáu làm nghề xe bò nên mọi người gọi là Sáu “bò”. Bóng thời kỳ này được khâu bằng những miếng da hình lục lăng có một lỗ để nhét ruột cao su (thời đó gọi là vécxi), khi bơm căng nhét vòi cao su vào nhồi miếng da che cái lỗ nên quả bóng không tròn vì thế khi đá sệt nếu không mạnh bóng không theo ý muốn. Thỉnh thoảng có người đạp xe qua dính bóng đổ cả xe và người. Với giải chuyên nghiệp, trận nào khán giả cũng kín sân, nhất là giải Bóng đá quân đội các nước Xã hội chủ nghĩa (SKDA). Ngày 5-12-1984, diễn ra trận khai mạc tại sân Hàng Đẫy và trong một trận, vài chục người không có vé trèo lên mái nhà ngói hai tầng góc Nguyễn Thái Học-Trịnh Hoài Đức, sức nặng làm sập mái, hơn hai chục người bị thương, may không ai thiệt mạng. Giải SKDA tại Hà Nội năm 1984 là giải cuối cùng vì sau đó các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã. Trong giải này cầu thủ đá hay nhất là Khidiatulin của đội quân đội Xô Viết.
Không chỉ xem, các trận đấu trong nước tường thuật trên Đài Tiếng nói Việt Nam cũng thu hút rất đông người nghe. Họ đứng dưới các loa truyền thanh tại các góc phố, nơi công cộng chăm chú lắng nghe. Mùa đông, gió đông bắc thổi mạnh nghe không rõ có người mê quá trèo lên cột, tay bám cột đứng nghe. Gặp hôm trời mưa thì trùm áo nghe hết trận mới về. Vì bóng đá ăn lương tháng nên cầu thủ có đá hay, trận nào cũng sút tung lưới đối phương thì đúng niên hạn mới tăng bậc lương hoặc thăng quân hàm. Tuy nhiên đó là thời kỳ đẹp trong lịch sử bóng đá Việt Nam, các đội đá cống hiến, còn khán giả nhân văn vì họ luôn cổ vũ cho đội thua.
_________________
Tháng 2-1912, Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội (Stade Hanôien) ra đời, đội bóng không có lính Pháp và lê dương chỉ có Tây làm ở các công sở và người Việt Nam yêu thích môn thể thao này. Họ đá tập trên bãi Mangin, tuy là đá tập nhưng thu hút rất đông người đến xem, có lẽ do nó hoàn toàn mới mẻ với dân Hà Nội. Trận cầu đầu tiên giữa Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội và Nhà binh 9eRIC diễn ra ngày 1-11-1913 tại Mangin đã lôi cuốn gần 3.000 khán giả, kết quả đội Nhà binh 9eRIC thắng 5-3. Trong hồi ký, đốc lý Hà Nội Logerot (giữ chức từ 9-1912 đến 2-1915) viết: “Không thể tưởng tượng được dân An Nam đến xem quá đông. Họ không hiểu luật chơi nhưng mỗi lần cầu thủ An Nam có bóng dẫn về phía cầu môn đội 9eRIC họ reo hò ầm ĩ. Tuy nhiên sức mạnh của Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội vẫn phải nhờ đến các cầu thủ người Pháp là Menin, Megy, Bernard, Bonardi...”
Trận đấu này đã truyền cảm hứng bóng đá cho thiếu niên Hà Nội, nhất là học sinh. Các trường tiểu học Sinh Từ, Hàng Vôi, Cửa Đông... lập các đội bóng chân đất. Các nhà buôn Hoa kiều, Việt Nam và Nhật tận dụng cơ hội nhập bóng bằng cao su to như quả bưởi từ Hồng Công đáp ứng nhu cầu con trẻ. Ở các phố, thiếu niên tập trung thành đội chơi bóng và đấu giao hữu tại những bãi đất trống hay tại ngã ba, ngã tư vắng người. Tuy nhiên bãi trống gần Nhà thương Đồn Thủy (Bệnh viện Hữu Nghị hiện nay), trước Trường Hàng Kèn (nay là trường tiểu học Quang Trung), đường Gambetta (Trần Hưng Đạo hiện nay) được ưa chuộng nhất. Từ học sinh tiểu học, bóng đá lan sang các trường trung học, trường Bưởi, Albert Saurrat có đội bóng mạnh bên cạnh môn bóng rổ. Tại sao thiếu niên Hà Nội mê bóng đá mà không mê hockey dù môn thể thao này cũng có tính tập thể? Có lẽ chơi bóng đá không tốn nhiều tiền và người Việt Nam nhỏ bé rất phù hợp với yêu cầu là khéo léo, uyển chuyển, mặt khác bóng đá cũng không nguy hiểm như hockey.
Thấy bóng đá dễ chơi, khỏe người lại không tốn tiền như đua xe đạp, quần vợt, cũng không cần phải có phòng rộng có bàn như bóng bàn nên bắt chước thiếu niên, công chức các công sở, thanh niên, công nhân các hãng đã nhiệt tình tham gia môn thể thao này. Đến những năm cuối thập niên đầu tiên thế kỷ XX, Hà Nội xuất hiện khá nhiều câu lạc bộ mà cầu thủ hoàn toàn là người Việt như: Tia Chớp (Eclair), Ngọn Giáo (La Lance), Stát Hà Nội (Stade Hanôien)... Cầu thủ phải tự sắm áo, giày, đóng tiền tháng để mua bóng. Để cổ vũ bóng đá, một số Mạnh Thường Quân đã chi thêm tiền cho các đội, trong đó có ông Trần văn Quý ở Sở Lục lộ. Chính trên sân Mangin, một giải vô địch bóng đá riêng cho Bắc Kỳ đã được tổ chức lần đầu vào khoảng 1918-1919. Lúc đầu khán giả vào xem không mất tiền nhưng sau ban tổ chức kê bàn ngăn bốn đường vào sân bán mỗi vé một hào.
Năm 1919, ông Nguyễn Quý Toản đi du học ở Pháp về mở Trường thể dục thể thao (École d’éducation Physique - EDEP) đầu tiên ở Hà Nội trên khu đất sau nhà máy diêm (nay là khu tập thể Vân Hồ, quận Hai Bà Trưng). EDEP thu hút rất đông thanh niên đến luyện tập các môn xà đơn, xà kép, bóng bàn, quần vợt... và đặc biệt là bóng đá. Năm 1930, thành phố quy hoạch khu vực này nên đã đổi cho EDEP một bãi đất trống rộng mấy hécta ở phía bắc phố Cát Linh và EDEP đã đổi tên thành Hội thể thao Bắc Kỳ (Société d’éducation Physique du Tonkin - SEPTO) và SEPTO cải tạo bãi Cát Linh thành sân SEPTO (sau này là sân Hàng Đẫy) nhưng rất đơn giản.
Nhận thấy người Hà Nội rất thích xem bóng đá, một số công ty cho đây là cơ hội tốt để quảng bá nên họ đã cho lập các đội bóng. Năm 1924, Nhà Godard Tràng Tiền (chuyên bán hàng tiêu dùng, bây giờ là Trung tâm Thương mại Tràng Tiền) lập Racing Club (còn gọi là đội Gà nòi). Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp thắng thế lên nắm chính quyền càng khuyến khích phong trào thể thao ở các nước thuộc địa. Toàn quyền Đông Dương khi đó là Châtel ủng hộ, Tổng ủy viên thanh niên Đông Dương Ducouroy đã nghĩ ra nhiều trò nên thể thao Hà Nội phát triển rất mạnh nhất là bóng đá. Nhưng ở các vùng quê, bóng đá bị nhuốm màu chính trị, họ bắt dân đi xem để quên đi thực tại khốn khổ, truyện ngắn Tinh thần thể dục của nhà văn Nguyễn Công Hoan đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy năm 1939 đã vạch trần thủ đoạn này.
Các công ty, hãng buôn lớn tuyển cầu thủ lập đội và trả lương để họ quanh năm chơi bóng. Các đội mạnh thập niên 30 thế kỷ XX phải kể đến Câu lạc bộ Ô-tôphố Tràng Thi (Auto Hall Club), Sở Hỏa xa (Utaga). Cũng trong những năm này, Hà Nội tổ chức thi đấu giữa các đội mạnh và đấu với các đội nhà binh Pháp. Tuy nhiên vì hay xảy ra ẩu đả nên chính quyền đã cấm các đội bóng người Việt đá với các đội Pháp dù chỉ giao hữu. Đội bóng mạnh nhờ có cầu thủ giỏi, đội Tia Chớp có Văn Đức Vịnh (thầy thuốc), Nhuận (lái xe), Tâm A (còn gọi là Tâm Toit), Viễn, Ba già, Biềng... Đội Ngọn Giáo có Thịnh, Stát Hà Nội có Thi, Thông (em Thịnh). Tuy nhiên nổi danh nhất được người ham mê bóng đá gọi là “Túc cầu tiểu vương” Nguyễn Thông. Sinh ra ở làng Thịnh Yên (nay thuộc phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng), Nguyễn Thông mê bóng đá từ nhỏ và từng là “ngôi sao” chân đất tại các sân Pasteur, Nhà Dầu. Nguyễn Thông bắt đầu đá cho các đội chuyên nghiệp từ lúc 17 tuổi. Tiếng tăm lan khắp ba xứ vì thế các đội bóng nổi tiếng trong Nam, ngoài Bắc rất muốn có tiền đạo này trong đội của mình. Sau khi đầu quân cho nhiều đội ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, cuối thập niên 30, ông mới đá tại Hà Nội. Sau 1954, Nguyễn Thông về đội Thể Công rồi trường Thể dục Thể thao Trung ương. Do bị kẹt lại, sau đó lạc đơn vị, giấy tờ mất hết, nên ông bị thiệt thòi vì cấp hàm không có. Mãi đến khi Đoàn TDTT Quân đội (Thể Công) thành lập, ông mới được đề bạt chức trung đội trưởng. Đá bóng hay nhưng chuyện tình duyên lại éo le, trắc trở còn sự nghiệp thì không may mắn và chịu oan trái. Trong một bài báo, tác giả Tân Linh viết: “Năm 1942, ông lập gia đình với cô gái xinh đẹp đất cảng Lê thị Trang... Nguyễn Thọ, con trai danh thủ nói với tôi: Bố tôi lúc đó đã ba mươi trong khi mẹ tôi mới 18 tuổi, vừa học xong trung học. Bà ngoại lúc đầu không ưng anh chàng đá bóng dù bố tôi rất nổi tiếng, nhưng ông ngoại tôi thì rất mến tài và đồng ý cho hai người lấy nhau. Họ lần lượt có với nhau hai người con trai. Từ Hải Phòng, danh thủ Nguyễn Thông bí mật hoạt động trong lực lượng công an xung phong. Lúc kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Thông ra mặt trận thì người vợ của ông bị một sĩ quan người Pháp theo đuổi. Như để giữ tiết hạnh với chồng, bà ôm hai con trai xuống tàu vào Nam nhưng tại đất Sài Gòn, bà đã không lẩn trốn được định mệnh. Mấy năm trời bặt vô âm tín, nghĩ chồng đã mất, bà buộc phải lấy người Pháp từng theo đuổi mình. Lần hôn nhân này, bà đã lại có thêm 6 người con... Dẫu giàu sang nhưng lòng người đàn bà ấy vẫn chưa lạnh ước thề, năm 1954, qua những người di cư vào Nam, bà được tin ông vẫn còn sống và hiện ở trong đội Thể Công. Lỗi hẹn với người chồng yêu quý, thương hai đứa con sống xa cha, bà đã tìm cách gửi hai người con với ông là Nguyễn Phú và Nguyễn Thọ ra Bắc cho mẹ chồng, để cha con được đoàn tụ...”. Về oan trái của Nguyễn Thông, nhà báo Tân Linh viết: “Năm 1965, lúc ngoài 40 tuổi, Nguyễn Thông được điều về Trường Cán bộ TDTT Trung ương. Ông lặng lẽ chôn chặt nỗi đau riêng để mong đóng góp cho bộ môn bóng đá đầu tiên của ngành đào tạo thể thao nước nhà. Nhưng khi mọi chuyện đang tốt đẹp, bỗng dưng ông bị gọi kiểm điểm về tội “quan hệ nam nữ bất chính”. Câu chuyện có lẽ bắt đầu từ lời đồn thổi về quan hệ của thầy Thông với cô giáo tên H. Quan hệ yêu đương trong sáng, trong khi “Trai không vợ, gái chưa chồng”... Ông Triệu Ngọc Sơn, học trò của Nguyễn Thông, đồng thời là trưởng bộ môn bóng đá hồi đó của Trường TDTT Trung ương kể: “Thầy Thông không bằng cấp, nhưng danh tiếng thì lẫy lừng, vì vậy, để loại ông ra, người ta đã tạo cớ vi phạm đạo đức... Và ‘kịch bản’ được hoàn tất trong khi ai cũng biết vợ ông bỏ vào Nam sống tại Sài Gòn và đã lấy chồng...”. Ông bị kỷ luật, không được quản lý, thôi công tác giảng dạy nhưng không được phân công công tác khác. Biết tin Nguyễn Thông bị kỷ luật, Lê Siêu - Trưởng ty Thể dục Thể thao Lạng Sơn xin ông về để gây dựng phong trào bóng đá cho tỉnh. Chuyển lên xứ Lạng nhưng chẳng ai xóa án kỷ luật oan trái cho ông. Ông tá túc trong một gian nhỏ tại sân vận động. Năm 1976, bất ngờ ông nhận được bức điện của người vợ cũ gửi ra mong muốn ông vào Sài Gòn. Gặp nhau nhưng chẳng biết nói gì, còn bà kể cho ông khúc mắc cuộc đời. Người chồng Pháp biết tin Nguyễn Thông vào tìm vợ cũ đã lấy đó làm lý do đưa các con về Pháp. Ông quyết định quay ra Hà Nội vì không thể phá vỡ hạnh phúc của bà. Trở lên Lạng Sơn ông tiếp tục công việc huấn luyện bóng đá. Rồi một ngày, người ta phát hiện trên chiếc ghế đá gần đường pít Nguyễn Thông đã tắt thở...
Khi bóng đá phát triển thì các bãi đất trống, đường phố chỉ phù hợp với đá chân đất mang tính nghiệp dư, bóng đá chuyên nghiệp cần phải có sân đúng tiêu chuẩn, nhưng Hà Nội khi đó chỉ duy nhất sân Mangin đáp ứng được yêu cầu, tuy nhiên sân này lại do quân đội Pháp quản lý và chỉ để cho các giải thi đấu chân giầy chính thức. Để có sân luyện tập và thi đấu, chủ các đội bóng đã kết hợp với nhau xin chính quyền thành phố các bãi đất rộng làm sân. Ðội Tia Chớpvà Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội lập ra sân Nhà Dầu (gần kho xăng hãng Shell, sát cầu Long Biên), Racing club thì xin bãi Bắc Qua, họ cho lập hàng rào và đặt tên là Stade Lepage. Từ năm 1936 đến 1938, bãi Hàng Đẫy được SEPTO tiến hành xây dựng, có tường bao quanh. Khán đài A bằng gỗ, gồm 400 chỗ ngồi. Mặt sân được san phẳng để chơi bóng, tuy nhiên sau mỗi trận mưa mặt sân lại bị lồi lõm. Trong sân không có khu vệ sinh, không có nhà tắm cho cầu thủ.
Ngày 8-3-1946 là mốc thời gian đáng nhớ với ngành thể dục thể thao Việt Nam nói chung và bóng đá Hà Nội nói riêng. Chiều hôm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến sân SEPTO dự buổi khai mạc hội khỏe và xem trận đấu bóng đá giữa đội Thanh niên Cứu quốc Hoàng Diệu và đội Vệ Quốc đoàn. Khi hai đội xếp hàng ngang trên sân chào khán giả, ban tổ chức và trọng tài đã mời Chủ tịch Hồ Chí Minh xuống đá quả bóng danh dự, thay tiếng còi khai mạc trận đấu. Đó thực sự là sự kiện lớn và là ngày không thể quên trong lịch sử bóng đá Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX. Trận đọ sức trên sân cỏ giữa hai lực lượng tuyên truyền và vũ trang tại thủ đô Hà Nội này được ghi nhận là trận bóng đầu tiên sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Vì sân không đạt tiêu chuẩn, thiếu các công trình phụ trợ nên năm 1956, ngay sau ngày thành tái lập Ban Thể dục thể thao Trung ương, nhà nước đã cho xây dựng lại sân Hàng Đẫy. Công trình được khởi công ngày 16-2-1957 và hoàn thành sau 18 tháng thi công. Chiều 24-8-1958, Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội long trọng làm lễ khánh thành sân vận động mới.
Sau 1954, chế độ mới quan niệm khác nên bóng đá tư nhân bị xóa sổ ở miền Bắc. Các đội bóng quốc doanh ra đời do cơ quan hay tỉnh thành nào đó quản lý. Song dù bóng đá quốc doanh thì dân Hà Nội vẫn rất mê môn thể thao này. Bóng đá chân đất phát triển mạnh với các “đội bóng phố tôi”. Buổi chiều trong công viên, ngã tư, các khoảng đất trống lúc nào cũng có thanh thiếu niên cởi trần đá gôn tôm. Tại khu Cao-Xà-Lá (gọi tắt của nhà máy cao su, xà phòng và thuốc lá) ở ngã tư Sở có sân bóng khá rộng. Chiều nào cũng có các đội đấu với nhau. Ngày Chủ nhật, sân nhộn nhịp từ sáng đến tắt nắng. Sân này có một Mạnh Thường Quân cấp áo in số, trao thưởng cho đội thắng, mua bóng mới... tên là Sáu, ông Sáu làm nghề xe bò nên mọi người gọi là Sáu “bò”. Bóng thời kỳ này được khâu bằng những miếng da hình lục lăng có một lỗ để nhét ruột cao su (thời đó gọi là vécxi), khi bơm căng nhét vòi cao su vào nhồi miếng da che cái lỗ nên quả bóng không tròn vì thế khi đá sệt nếu không mạnh bóng không theo ý muốn. Thỉnh thoảng có người đạp xe qua dính bóng đổ cả xe và người. Với giải chuyên nghiệp, trận nào khán giả cũng kín sân, nhất là giải Bóng đá quân đội các nước Xã hội chủ nghĩa (SKDA). Ngày 5-12-1984, diễn ra trận khai mạc tại sân Hàng Đẫy và trong một trận, vài chục người không có vé trèo lên mái nhà ngói hai tầng góc Nguyễn Thái Học-Trịnh Hoài Đức, sức nặng làm sập mái, hơn hai chục người bị thương, may không ai thiệt mạng. Giải SKDA tại Hà Nội năm 1984 là giải cuối cùng vì sau đó các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã. Trong giải này cầu thủ đá hay nhất là Khidiatulin của đội quân đội Xô Viết.
Không chỉ xem, các trận đấu trong nước tường thuật trên Đài Tiếng nói Việt Nam cũng thu hút rất đông người nghe. Họ đứng dưới các loa truyền thanh tại các góc phố, nơi công cộng chăm chú lắng nghe. Mùa đông, gió đông bắc thổi mạnh nghe không rõ có người mê quá trèo lên cột, tay bám cột đứng nghe. Gặp hôm trời mưa thì trùm áo nghe hết trận mới về. Vì bóng đá ăn lương tháng nên cầu thủ có đá hay, trận nào cũng sút tung lưới đối phương thì đúng niên hạn mới tăng bậc lương hoặc thăng quân hàm. Tuy nhiên đó là thời kỳ đẹp trong lịch sử bóng đá Việt Nam, các đội đá cống hiến, còn khán giả nhân văn vì họ luôn cổ vũ cho đội thua.
_________________
Tác giả :
Nguyễn Ngọc Tiến