Đến Phủ Khai Phong Làm Nhân Viên Công Vụ
Quyển 2 - Chương 3
Tra án Trần Châu Ngự Miêu uy nghiêm hiển lộ.
Nổi giận dạy phường Đăng Đồ[1], giả chịu ngục lao.
[1] Đăng Đồ: Cách nói ngắn gọn của “Đăng Đồ Tử”, xưa ở nước Sở có Đăng Đồ Tử vốn ghen ghét với Tống Ngọc tài hoa tuấn tú, đã gièm pha với vua Sở rằng Tống Ngọc là kẻ háo sắc. Tống Ngọc bèn trả lời: “Tâu bệ hạ, mỹ nữ trong thiên hạ không nơi nào sánh bằng nước Sở, mỹ nữ nước Sở không đâu sánh bằng quê hương thần, mỹ nữ quê hương thần không đâu sánh bằng người đẹp cạnh nhà thần. Nàng ấy nếu cao thêm một phân thì quá cao, nếu bớt đi một phân thì quá thấp; nếu thoa thêm chút phấn thì quá trắng; nếu thoa thêm chút son thì quá đỏ. Lông mày cong mượt, da trắng như tuyết, eo lưng thon thả. Ngay cả một tuyệt thế giai nhân như vậy quan tâm đến thần suốt ba năm mà thần vẫn chưa xao lòng, thì không lẽ thần là người háo sắc? Ngược lại, Đăng Đồ Tử không phải là kẻ tốt lành gì. Hắn có người vợ xấu xí, đầu tóc rối bù, lỗ tai dị tật, hàm răng lởm chởm, môi trề, bước đi hụt trước thiếu sau, lại thêm lưng gù, người đầy mụn ghẻ. Đăng Đồ Tử thế mà lại thích cô ta, có liền năm mụn con. Bệ hạ thấy không, chỉ cần là phụ nữ thì Đăng Đồ Tử thích ngay, vì thế hắn ta mới là kẻ háo sắc”. Bởi miệng lưỡi sắc bén của Tống Ngọc mà vua Sở đã kết tội háo sắc cho Đăng Đồ Tử khiến Đăng Đồ Tử phải mang tiếng xấu ngàn năm. Ngày nay cụm từ “Đăng Đồ Tử” dùng để chỉ những kẻ háo sắc.
Trần Châu cách Đông Kinh Biện Lương hơn trăm dặm về phía bắc, tiếp giáp với biên thùy, lượng mưa hàng năm rất ít, liên tục nhiều năm xảy ra đại hạn, cuộc sống của bách tính khổ không kể xiết. Có điều hạn hán thiên tai chẳng qua chỉ là thứ yếu, họa do con người gây ra mới là đại nạn. Trong địa phận của Trần Châu, có một vị hoàng đế thứ hai, chính là An Lạc, chức quan thế tập, là con trai độc nhất của thái sư đương triều Bàng Cát, là đại quốc cữu đương triều, Bàng Dục.
Tên Bàng Dục này ở Trần Châu tác oai tác quái, vơ vét rúc rỉa đất đai, ức hiếp dân lành, tuy bách tính trong thành Trần Châu vô cùng căm hận hắn, nhưng cũng bởi thân phận đại quốc cữu của Bàng Dục mà chỉ dám oán hận trong lòng chứ không dám nói ra, còn các quan viên lớn nhỏ xung quanh châu phủ thì toàn lũ a dua a tòng nịnh hót Bàng Dục, hắn bảo sao thì nghe vậy.
Lúc này đang là chính ngọ, trên đường lớn ở cửa đông trong Trần Châu phủ, bỗng xuất hiện ba con tuấn mã màu nâu phi tới, hai con tuấn mã đi đầu, mỗi con có một người cưỡi. Một người trong số đó vận áo dài màu lam, mày mắt sáng như sao, tuấn tú văn nhã, lưng thẳng như cán bút, đeo một thanh cổ kiếm với tua kiếm màu vàng ở ngang hông; người còn lại, mặt đen mày rậm, cao to vạm vỡ, bên sườn đeo một thanh đao, oai phong lẫm liệt. Phía sau hai người này khoảng chưa đến năm bước chân là một con tuấn mã màu nâu, có điều ngồi trên lưng ngựa không phải chỉ có một người, mà là một đôi thiếu niên tuổi tác cũng gần tương đương nhau. Người ngồi phía trước, tay cầm roi quất ngựa khuôn mặt trắng trẻo, thần sắc lộ vẻ mỏi mệt; người ngồi phía sau dáng người mảnh khảnh, ốm yếu, mặt tròn mắt nhỏ, sắc mặt trắng xanh, vắt va vắt vẻo như thể chỉ miễn cưỡng ngồi được trên lưng ngựa, cơ hồ muốn ngã.
Ba con tuấn mã, hai trước một sau, đi trên đường lớn của Đông môn, thực vô cùng bắt mắt, là tiêu điểm thu hút vô số những ánh mắt của người đi đường.
Người thanh niên mặc áo lam đi đầu vừa đi vừa ngắm nhìn xung quanh, đôi mày lưỡi mác khẽ nhíu lại, thầm nghĩ: Nghe nói Trần Châu gặp đại hạn, nạn dân chết đói vô số, nhưng theo như quang cảnh trên đường lúc này thì dường như không có chỗ nào không ổn cả.
Chỉ thấy trên đường cái, hàng quán san sát, thương lái lại qua, bách tính lố nhố đầy đường, tuy không sầm uất náo nhiệt như ở Đông Kinh, nhưng so với những châu phủ khác thì không có gì khác biệt. Có điều quan sát tỉ mỉ thì lại thấy nam nữ già trẻ đang đi trên đường hành vi tuy không có gì đáng ngờ, nhưng thấn sắc trên khuôn mặt họ lại có chút gì đó kỳ quái, đượm vẻ đau thương.
Chàng thanh niên áo lam ghìm dây cương rồi xoay người nhảy xuống, chặn một thanh niên trẻ tuổi lại, khẽ thi lễ hỏi: “Vị tiểu ca này, xin hỏi…”.
Lời còn chưa nói xong thì đã thấy cậu thanh niên kia xua tay, lắc đầu kêu lên: “Đừng hỏi tôi, tôi… cái gì tôi cũng không biết cả”.
Câu còn chưa nói hết thì cậu ta đã quay đầu chạy biến, như thể sau lưng có cơn đại hồng thủy hay loài mãnh thú nào vậy.
Chàng thanh niên áo lam không khỏi cảm thấy có chút kinh ngạc. Lại thấy đại hán với khuôn mặt ngăm đen cưỡi ngựa phía sau mình quay người nhảy xuống, đi đến bên cạnh, cung kính hạ giọng hỏi: “Triển đại nhân, đây là?”.
Chàng thanh niên áo lam khoát tay, lại chặn một người khác lại, nhưng lần này còn chưa mở miệng hỏi thì người nọ đã lắc đầu rất mạnh rồi vội vã rời đi, để lại hai người họ ngơ ngác không hiểu gì.
Người ngồi trên con ngựa thứ ba thấy thế cũng nhảy xuống, đi đến bên cạnh hai người họ, khuôn mặt mang vẻ nghi hoặc. Chỉ còn cậu thiếu niên với đôi mắt dài nhỏ là không có hành động gì, nom cứ như thể bị rút hết xương cốt vậy, cậu ta nằm rạp trên mình ngựa, phều phào mở miệng hỏi: “Mấy vị đại nhân, nếu không phiền thì chúng ta có thể đến tửu lâu nghỉ ngơi một lát trước được không?”.
“Kim Kiền!”, đại hán mặt ngăm đen không vui nói: “Suốt dọc đường phiền phức ngươi mang đến cho chúng ta còn không ít sao, mới đi được mấy dặm lộ trình mà đã không chịu được thế hả?”.
Người thanh niên trắng trẻo bên cạnh cũng nói: “Trương đại ca nói đúng, đường đường là một sai dịch của Khai Phong phủ, đã không biết cưỡi ngựa, lại còn ốm yếu như vậy, thật không biết ngươi làm thế nào mà có thể được thăng lên làm bổ khoái nữa?”.
Kim Kiền bám trên lưng ngựa, thầm lườm nguýt trợn mắt, nghĩ bụng:
Bà nó, không biết cưỡi ngựa có gì mà kỳ lạ chứ? Tôi đường đường là một người hiện đại, sao có cơ hội mà tiếp xúc loại hình vận chuyển có hiệu suất thấp như vậy chứ, hừ hừ, cái chuyện cưỡi ngựa này không những có yêu cầu về kỹ thuật, thể lực mà còn cả độ chịu ma sát của da nữa… Ai mà có kỹ thuật cưỡi ngựa tuyệt vời nhất thì khẳng định phần da chỗ bàn tọa kẻ đó dày nhất… Ui da, thế này thì quả thực là muốn lấy mạng già của cái mông mình rồi…
Triển Chiêu liếc nhìn sắc mặt của Kim Kiền khẽ thở dài một cái rồi nói: “Chúng ta đến tửu lâu nghỉ ngơi một lát, cũng tiện thể thăm dò tin tức”.
“Triển đại nhân quả là cao kiến”, Trương Long, Triệu Hổ lập tức đồng thanh đáp.
Kim Kiền bên kia ho khan hai tiếng.
Ba người dắt ngựa đi về phía trước, không bao lâu sau thì thấy một tòa tửu lâu cao ba tầng với mái ngói cong cong và cột trụ đỏ thẩm, thực hoa lệ vô cùng, một biển hiệu đề chữ vàng được treo ngay chính giữa cửa lớn, trên đó trạm trổ ba chữ “Dục Lạc Lâu”. Tửu lâu khí thế như vậy lại tọa lạc trên một giao lộ quá đỗi bình thường, đưa tới cảm giác có chút gì đó không ăn nhập.
Ba người lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau, dắt ngựa đi tới trước cửa tửu lâu. Tiểu nhị chạy việc vừa nhìn thấy họ liền vội vàng bước tới chào hỏi: “Ôi, ba vị đại gia, đướng sá xa xôi tới đây, xin mời vào bên trong, xin mời”.
Lời còn chưa hết thì đã nghe một giọng nói yếu ớt từ trên lưng ngựa truyền tới, thều thào: “Là bốn vị đại gia…”.
Tiểu nhị bị dọa cho giật mình nhảy dựng lên, định thần nhìn lại thì thấy một thiếu niên ốm yếu như con ốc sên đang bò từ trên lưng ngựa xuống, loạng choạng đi vào cửa tửu lâu.
Tiểu nhị kia cũng là kẻ sáng dạ liền vội vàng sửa lại: “Ôi, tiểu nhân mắt mũi kèm nhèm không nhìn thấy đại gia, xin mời ngài vào trong”.
Khóe môi Trương Long, Triệu Hổ có xu hướng bị kéo lên trên, giật giật rúm ró cả lại, họ chỉ nhướng mày không nói. Triển Chiêu thấy vậy chỉ đành bất đắc dĩ lên tiếng: “Tiểu nhị ca, hãy dắt ba con ngựa này xuống rồi cho chúng ăn cho bọn ta”.
Tiểu nhị lập tức đáp ứng, gọi mã phu đến dắt ngựa đi, sau đó đưa ba người lên lầu hai của tửu lâu.
Lúc này tuy đã tới trưa nhưng cả tửu lâu rộng lớn lại chỉ có lác đác vài khách ngồi rải rác, quang cảnh thật quá quạnh quẽ đìu hiu.
Bốn người ngồi ở góc đông nam, vừa hay gần cửa sổ, gió nhẹ hiu hiu đưa tới cảm giác cũng thật tự tại, thoải mái.
“Các vị đại gia nhìn thật lạ mắt, phải chăng là lần đầu tiên tới Trần Châu này?”, tiểu nhị vừa lau bàn vừa hỏi.
Triển Chiêu không đáp ngay, chỉ trầm ngâm nhìn tiểu nhị một cái, rồi mới chậm rãi trả lời: “Nhãn lực của tiểu nhị ca đây thật không tồi, bốn người chúng tôi là thương nhân đi qua đây, muốn tìm một nơi dừng chân chốc lát. Tiểu nhị ca có biết lữ quán nào gần đây không?”.
Dứt lời, Triển Chiêu liền lấy từ trong người ra mấy văn tiền đặt lên bàn.
“Có, đương nhiên là có”, tiểu nhị vừa nhìn thấy tiền lập tức bày ra gương mặt tươi cười đáp: “Ở ngay đầu phố này có khách điếm Dục Lạc, điều kiện cũng không tồi”.
Triển Chiêu gật gật đầu, lại hỏi: “Chẳng hay hiện giờ đi tới đó liệu có còn phòng trống không?”.
“Mấy vị đại gia xin hãy an tâm, nhất định là còn phòng. Ở Trần Châu này không nơi nào sánh được bằng chỗ đó, vả lại khách buôn đi qua đây thưa thớt, khách điếm tất nhiên là vắng khách rồi.”
“Khách buôn qua đây rất thưa thớt ư, là vì sao vậy?”
Tiểu nhị nghe xong câu hỏi này, không khỏi có chút sửng sốt, nhướng mày hỏi: “Vị đại gia này, ngài không biết thật hay là giả vờ không biết vậy, hiện giờ Trần Châu nào phải là mảnh đất lành cho thương nhân, mà nếu có khách buôn tới thì e rằng cũng chỉ là mua bán quan tài mà thôi”.
Mọi người nghe xong không khỏi bàng hoàng.
Triệu Hổ buột miệng hỏi: “Quan tài ư?”.
Tiểu nhị bỗng nhận ra mình vừa lỡ lời, liền vội vàng chuyển đề tài: “Các vị đại gia, muốn dùng thứ gì vậy?”.
“Tiểu nhị ca mang lên vài món ăn nhẹ là được rồi”. Triển Chiêu ôn tồn nói.
Đợi đến khi tiểu nhị rời đi, Trương Long thấp giọng nói: “Triển đại nhân, ngài có cảm thấy Trần Châu này nơi nào cũng lộ ra vẻ quỷ quái khác thường không?”.
Triển Chiêu lim dim mắt thưởng trà, lát sau mới đáp: “Triển mỗ cũng cảm thấy không bình thường”.
Triệu Hổ vội nói: “Triển đại nhân, ngài thấy chúng ta nên tới nơi đâu để tra án?”.
Trương Long trừng mắt lên nói: “Tất nhiên là điều tra từ nhà Trương Tụng Đức rồi. Triển đại nhân, ngài nói xem có đúng không?”.
Triển Chiêu chưa vội đáp, mà đưa mắt nhìn sang Kim Kiền đang tì cằm trên mép bàn, hỏi: “Kim Kiền, ngươi có ý gì không?”.
Kim Kiền đã đói đến hồn xiêu phách tán, đột nhiên lại nghe thấy Triển Chiêu hỏi, lại thấy bốn ánh mắt nóng bỏng bắn về phía mình thì vội vàng lấy lại tinh thần, ngồi thẳng dậy đáp: “Tại hạ cho rằng nên bắt đầu điều tra từ tửu lâu này”.
Ba người còn lại đều sửng sốt.
Trương Long hạ giọng hỏi: “Kim Kiền, vì sao ngươi lại nói ra những lời bậy bạ này?”.
Kim Kiền liếc Trương Long một cái, thầm nghĩ: Vớ vẩn, nếu không nói như vậy, cứ theo như cái bọn yêu nghề, kinh nghiệp dã man mấy người, chắc chắn sẽ lật tung từng tấc đất của nhà Trương Tụng Đức ở Trần Châu này lên, tới lúc đó, há chẳng phải mình vô cớ bị liên lụy, bị hành chết sao? Vậy nên mới nói điều tra từ chỗ này, xem ra tương đối an toàn, chí ít mình cũng có được mấy khắc để nghỉ ngơi.
Bụng thì nghĩ thế, nhưng miệng thì tất nhiên không thể phát ngôn bừa bãi thế được. Kim Kiền đảo mắt, nhất thời nảy ra một ý bèn mở miệng nói: “Theo như lời của Trương Phúc Tùng thì chứng cứ vô tội của Trương Tụng Đức, ngoại trừ đơn thuốc kia, quá nửa là phán đoán của lão về nhân phẩm thiếu gia nhà mình. Trương Phúc Tùng kia cứ nhất nhất nói Trương Tụng Đức là bậc chính nhân quân tử, không thể làm những việc thông dâm, hại người như thế, nhưng những lời ấy chẳng qua là lời nói từ một phía, sao có thể làm bằng chứng được?”.
Những lời này vừa nói ra, ba người không khỏi có chút kinh ngạc, nhưng Triệu Hổ vẫn không can tâm, hỏi tiếp: “Nếu đã như thế, lẽ nào tửu lâu này lại có thể tra ra manh mối gì ư?”.
Kim Kiền nhướng mày, nói: “Trương Tụng Đức là một đại phu của Trần Châu phủ, hiện giờ lại bị nhốt trong ngục, bách tính Trần Châu tất sẽ bàn tán về chuyện đó, mà tửu lâu này, người ra vào vô số, là nơi tin tức xuyên suốt nhất, bắt đầu từ đây tất nhiên là có thể tìm được manh mối trong vụ án của Trương Tụng Đức, hoặc giả cũng có thể từ lời nói của dân chúng mà phán đoán được một, hai phần về nhân phẩm của Trương Tụng Đức”.
“Nếu như vẫn không có cách nào làm rõ vụ án này thì phải làm thế nào?”, Triệu Hổ cũng hỏi.
Kim Kiền nhún vai đáp: “Vậy chỉ còn cách nửa đêm đột nhập vào đại lao, hỏi Trương Tụng Đức thôi”.
Ba người nghe xong đều im lặng.
Trương Long, Triệu Hổ tuy lòng không phục nhưng nhất thời không có lời nào để phản bác. Triển Chiêu thì mang theo vẻ mặt tán thưởng, gật đầu.
Cho tới khi thức ăn được mang lên, mọi người đều trầm mặc, chẳng ai nói gì lẳng lặng dùng bữa, có điều bất tri giác họ đều dỏng tai lên, cố gắng nghe ngóng xung quanh, chỉ có mỗi mình Kim Kiền là chuyên tâm “đấu trí” với đám đồ ăn trước mặt.
Nhưng tửu lâu vốn rất rộng, khách nhân thì thưa thớt, lại ngồi phân tán khắp nơi, mấy người bọn họ nghe ngóng cả nửa ngày trời cũng chẳng có thu hoạch gì. Đương khi mọi người có chút sốt ruột, thì đột nhiên nghe thấy dưới lầu tiểu nhị cao giọng hô lớn: “Ôi, Bàng gia, ngài tới rồi, xin mời vào trong, bàn riêng của ngài đã chuẩn bị xong rồi”.
Cùng với tiếng của tiểu nhị là tiếng lạch bạch lộp bộp của một đám người đang đi lên cầu thang, tiểu nhị đi trước dẫn đường, theo sau là năm, sáu người. Người đi đầu, thân hình cao hơn một trượng, vận trường bào bằng gấm, chân đi giày da màu đen, mặt như cái bánh nướng, lông mày hình chữ bát, mắt thì híp, mũi thì to tướng đỏ như quả táo nằm chình ình ngay chính giữa mặt, ôm cái phụng phệ, chỉ thấy bụng mà chẳng thấy chân đâu, lắc lư leo lên lầu hai rồi ngồi xuống chỠcách Triển Chiêu một bàn.
Năm người sau lưng hắn đều mặc trang phục của đầy tớ, cung kính đứng cạnh bàn.
“Bàng gia, hôm nay ngài muốn dùng gì?”
Bàng gia mở miệng lộ hai hàm răng vàng khè, nói: “Dọn lên một bàn theo lệ cũ đi”.
“Có ngay!”, tiểu nhị đáp rồi nhanh nhẹn chạy xuống lầu.
Bàng gia kia ngồi cạnh bàn, vẻ như nhàm chán, hết nhìn đông rồi lại ngó tây, rồi thoáng một cái liền liếc đến bàn của Triển Chiêu.
Chỉ thấy hắn từ từ đứng dậy, lắc la lắc lư đi đến cạnh bàn của Triển Chiêu, đánh giá Triển Chiêu từ trên xuống dưới mấy lượt rồi mở miệng nói: “Mấy người các ngươi nom rất lạ mặt, là người từ nơi khác đến sao?”.
Trương Long vừa nhìn đã biết kẻ này rất “đức hạnh” rồi, cảm thấy rất không thuận mắt, bất giác khẩu khí cũng gai góc lên vài phần: “Ông đây đến từ nơi nào còn không tới phiên ngươi quản”.
“Cái gì?”, sắc mặt tên Bàng gia kia vụt biến đổi, cao giọng quát: “Ngươi dám nói với ta những lời đó, ngươi có biết ta là ai không?”.
Trương Long hừ lạnh: “Ta quan tâm ngươi là ai sao?”.
“Hỗn xược!”, một gã sai vặt đứng bên cạnh tên họ Bàng kia quát: “Đây chính là đại quản gia của Hầu gia phủ chúng ta, được An Lạc hầu ban cho họ Bàng tên Đại – Bàng quản gia! Mấy tên tiểu tốt không hiểu phép tắc quy củ các ngươi còn không mau kính cẩn mà gọi một tiếng Bàng đại gia?!”.
Kim Kiền vừa nghe vậy đã thấy vô cùng buồn cười, thiếu chút nữa thì phun toàn bộ cơmmiệng ra, thầm nghĩ: Bàng đại gia? Còn là Bàng bụng lu[2] nữa kìa!
[2] Trong tiếng Trung, Bàng đại gia và Bàng bụng lu cách phát âm gần giống nhau.
Trương Long lại không có dây thần kinh hài hước nào đứng phắt ngay dậy quát: “Chẳng qua chỉ là một tên quản gia coi cổng cho nhà họ Bàng, thế mà dám phách lối hung hăng thế sao?”.
“Cái gì?”, mấy tên sai vặt đứng xung quanh Bàng Đại lập tức xông đến bao lấy Trương Long, tên nào tên nấy mặt mũi hung tợn. Trương Long hiểu ngay tình huống, hai tay xiết chặt lại. Nhìn thấy hai bên chuẩn bị động thủ, Triển Chiêu nãy giờ im bặt bỗng đứng bật dậy, chắp tay nói: “Bàng đại gia, chúng tôi chẳng qua là thương nhân thuận đường đi ngang qua đây, không hiểu phép tắc, mong ngài lượng thứ”.
Những lời này vừa thốt ra, đừng nói là Bàng Đại mà ngay cả Trương Long, Triệu Hổ cũng sửng sốt, Kim Kiền thì vội vàng bưng chén trà lên uống một hơi cho thuận khí.
Bàng Đại nhất thời ngẩn ra, sau đó định thần lại nhìn kỹ người trước mặt.
Chỉ thấy người thanh niên này, có một đôi mắt đen lấp lánh như ánh sao, thân người thẳng như cây tùng đón gió, phong thái vững vàng tựa núi, thâm trầm như biển, kiếm tuệ đung đưa trong gió, bức tranh ấy quả là hữu tình vô hạn.
Bàng Đại ngây ngẩn nhìn Triển Chiêu hồi lâu, đột nhiên hắn rút ra một cái quạt, chẳng biết là lôi ra từ đâu nữa, phạch một cái xòe quạt ra, vẻ mặt mờ ám đi tới cạnh Triển Chiêu, lả lơi nói: “Vị tiểu ca này, không biết có hứng thú tới phủ Hầu gia vui chơi một chuyến không?”.
“Phụt…”
Cơm cùng nước trà từ miệng Kim Kiền thẳng tắp một hàng bay tới đậu trên mặt Bàng Đại.
Về phần Bàng Đại thì khuôn mặt dính đầy những hạt cơm, nước trà nhỏ tong tỏng xuống từ khuôn mặt núc ních những thịt của hắn, dáng vẻ nom vô cùng tức cười.
Thế nhưng, lúc này Kim Kiền lại không cười nổi, mà Trương Long, Triệu Hổ cũng thế, cười không được giận chẳng xong, còn đám trợ thủ của Bàng Đại cũng không có vẻ gì là phẫn nộ. Hiện giờ, vẻ mặt của tất cả chỉ thể hiện có một thứ, đó là – cực kỳ hoảng sợ.
Áo tuyền một màu lam kia xưa nay luôn ôn hòa bình tĩnh, nhưng lúc này lại như bầu trời âm u trước trận cuồng phong mưa tuôn xối xả, mây đen cuồn cuộn nổi lên không ngừng; đôi môi lúc nào cũng mang một màu sắc hồng sáng ấm áp thì giờ đây lại trở nên tím tái, gân xanh hằn trên mu bàn tay cầm kiếm, còn vỏ kiếm thì kêu lạch cạch không ngừng.
Mọi người chỉ cảm thấy cơn cuồng phong trước mắt đang ầm ào nổi lên, bỗng cái bóng màu lam lóe lên như chớp giật, đến khi định thần lại, Bàng Đại đã nằm ngay đơ đúng chữ “đại[3]“, hai mắt trắng dã, nằm nguyên tại chỗ, không nhúc nhích.
[3] Chữ đại (trong ngoặc là từ tiếng Hán), từ tượng hình chỉ một người đang dang hai tay hai chân.
Hoàn toàn yên lặng.
Đột nhiên, một gã sai vặt hô hoán kêu lên: “Cứu với, Bàng đại gia bị giết rồi!”.
Sau đó, những tiếng tri hô kêu cứu cứ liên tiếp vang rền.
“Bàng đại gia, Bàng đại gia…”
“Người đâu, mau đi báo quan…”
…
Hiện trường vô cùng hỗn loạn, còn ba người Kim Kiền, Trương Long, Triệu Hổ lại ngẩn ra đứng yên tại chỗ, mắt mở to nhìn bóng dáng màu lam u ám khiến người ta sợ hãi kia, do dự không biết có nên tiến lên không.
Đúng lúc mọi người đang lúng túng khó xử thì đột nhiên phía sau cầu thang vang lên những tiếng bước chân rầm rập, mấy nha dịch mặc sai phục vừa chạy lên vừa quát lớn: “Kẻ nào, kẻ nào báo quan?”.
Trong số đó có một gã nha sai tinh mắt, liếc một cái đã nhìn thấy Bàng Đại nằm thẳng đơ trên đất, nhất thời luống cuống, càng quát to hơn nữa: “Kẻ nào, rốt cuộc là kẻ nào đả thương Bàng đại gia?”.
Mấy gã sai vặt nhìn thấy quan sai liền như thấy được người nhà mình, đều chạy tới, nhất tề chỉ về phía bốn người Triển Chiêu, dị khẩu đồng thanh kêu lên: “Chính là bọn chúng!”.
Nha sai lập tức xông tới bao vây họ lại.
Kim Kiền thấy tình hình không ổn, đang tính bỏ chạy thì bỗng thấy chân cứng lại, cho dù là nửa bước cũng không tài nào nhúc nhích nổi.
Kim Kiền kinh sợ, quay phắt sang nhìn Triển Chiêu. Chỉ thấy Tiểu Miêu, chẳng có tí xíu nào là phẫn nộ cả, vẫn là Nam hiệp ôn hòa nho nhã như trước, có điều giữa mi tâm hiện lên vẻ hài lòng vì đã đạt được ý đồ.
Kim Kiền thầm kêu khổ không thôi, chỉ có thể giương mắt lên mà nhìn Trương Long, Triệu Hổ thể hiện thần uy đột phá vòng vây, mở đường máu xông ra ngoài. còn chính mình thì bị điểm huyệt không tài nào nhúc nhích được với Tiểu Miêu chẳng mảy may phản kháng bị đám bổ khoái áp giải ra khỏi tửu lâu, vô cùng rõ ràng, điểm đến chính là đại lao của phủ nha.
Đương nhiên, Kim Kiền cũng không bỏ qua ánh mắt đầy thâm ý của Trương Long, Triệu Hổ liếc nhìn Triển Chiêu trước khi rời đi.
Nổi giận dạy phường Đăng Đồ[1], giả chịu ngục lao.
[1] Đăng Đồ: Cách nói ngắn gọn của “Đăng Đồ Tử”, xưa ở nước Sở có Đăng Đồ Tử vốn ghen ghét với Tống Ngọc tài hoa tuấn tú, đã gièm pha với vua Sở rằng Tống Ngọc là kẻ háo sắc. Tống Ngọc bèn trả lời: “Tâu bệ hạ, mỹ nữ trong thiên hạ không nơi nào sánh bằng nước Sở, mỹ nữ nước Sở không đâu sánh bằng quê hương thần, mỹ nữ quê hương thần không đâu sánh bằng người đẹp cạnh nhà thần. Nàng ấy nếu cao thêm một phân thì quá cao, nếu bớt đi một phân thì quá thấp; nếu thoa thêm chút phấn thì quá trắng; nếu thoa thêm chút son thì quá đỏ. Lông mày cong mượt, da trắng như tuyết, eo lưng thon thả. Ngay cả một tuyệt thế giai nhân như vậy quan tâm đến thần suốt ba năm mà thần vẫn chưa xao lòng, thì không lẽ thần là người háo sắc? Ngược lại, Đăng Đồ Tử không phải là kẻ tốt lành gì. Hắn có người vợ xấu xí, đầu tóc rối bù, lỗ tai dị tật, hàm răng lởm chởm, môi trề, bước đi hụt trước thiếu sau, lại thêm lưng gù, người đầy mụn ghẻ. Đăng Đồ Tử thế mà lại thích cô ta, có liền năm mụn con. Bệ hạ thấy không, chỉ cần là phụ nữ thì Đăng Đồ Tử thích ngay, vì thế hắn ta mới là kẻ háo sắc”. Bởi miệng lưỡi sắc bén của Tống Ngọc mà vua Sở đã kết tội háo sắc cho Đăng Đồ Tử khiến Đăng Đồ Tử phải mang tiếng xấu ngàn năm. Ngày nay cụm từ “Đăng Đồ Tử” dùng để chỉ những kẻ háo sắc.
Trần Châu cách Đông Kinh Biện Lương hơn trăm dặm về phía bắc, tiếp giáp với biên thùy, lượng mưa hàng năm rất ít, liên tục nhiều năm xảy ra đại hạn, cuộc sống của bách tính khổ không kể xiết. Có điều hạn hán thiên tai chẳng qua chỉ là thứ yếu, họa do con người gây ra mới là đại nạn. Trong địa phận của Trần Châu, có một vị hoàng đế thứ hai, chính là An Lạc, chức quan thế tập, là con trai độc nhất của thái sư đương triều Bàng Cát, là đại quốc cữu đương triều, Bàng Dục.
Tên Bàng Dục này ở Trần Châu tác oai tác quái, vơ vét rúc rỉa đất đai, ức hiếp dân lành, tuy bách tính trong thành Trần Châu vô cùng căm hận hắn, nhưng cũng bởi thân phận đại quốc cữu của Bàng Dục mà chỉ dám oán hận trong lòng chứ không dám nói ra, còn các quan viên lớn nhỏ xung quanh châu phủ thì toàn lũ a dua a tòng nịnh hót Bàng Dục, hắn bảo sao thì nghe vậy.
Lúc này đang là chính ngọ, trên đường lớn ở cửa đông trong Trần Châu phủ, bỗng xuất hiện ba con tuấn mã màu nâu phi tới, hai con tuấn mã đi đầu, mỗi con có một người cưỡi. Một người trong số đó vận áo dài màu lam, mày mắt sáng như sao, tuấn tú văn nhã, lưng thẳng như cán bút, đeo một thanh cổ kiếm với tua kiếm màu vàng ở ngang hông; người còn lại, mặt đen mày rậm, cao to vạm vỡ, bên sườn đeo một thanh đao, oai phong lẫm liệt. Phía sau hai người này khoảng chưa đến năm bước chân là một con tuấn mã màu nâu, có điều ngồi trên lưng ngựa không phải chỉ có một người, mà là một đôi thiếu niên tuổi tác cũng gần tương đương nhau. Người ngồi phía trước, tay cầm roi quất ngựa khuôn mặt trắng trẻo, thần sắc lộ vẻ mỏi mệt; người ngồi phía sau dáng người mảnh khảnh, ốm yếu, mặt tròn mắt nhỏ, sắc mặt trắng xanh, vắt va vắt vẻo như thể chỉ miễn cưỡng ngồi được trên lưng ngựa, cơ hồ muốn ngã.
Ba con tuấn mã, hai trước một sau, đi trên đường lớn của Đông môn, thực vô cùng bắt mắt, là tiêu điểm thu hút vô số những ánh mắt của người đi đường.
Người thanh niên mặc áo lam đi đầu vừa đi vừa ngắm nhìn xung quanh, đôi mày lưỡi mác khẽ nhíu lại, thầm nghĩ: Nghe nói Trần Châu gặp đại hạn, nạn dân chết đói vô số, nhưng theo như quang cảnh trên đường lúc này thì dường như không có chỗ nào không ổn cả.
Chỉ thấy trên đường cái, hàng quán san sát, thương lái lại qua, bách tính lố nhố đầy đường, tuy không sầm uất náo nhiệt như ở Đông Kinh, nhưng so với những châu phủ khác thì không có gì khác biệt. Có điều quan sát tỉ mỉ thì lại thấy nam nữ già trẻ đang đi trên đường hành vi tuy không có gì đáng ngờ, nhưng thấn sắc trên khuôn mặt họ lại có chút gì đó kỳ quái, đượm vẻ đau thương.
Chàng thanh niên áo lam ghìm dây cương rồi xoay người nhảy xuống, chặn một thanh niên trẻ tuổi lại, khẽ thi lễ hỏi: “Vị tiểu ca này, xin hỏi…”.
Lời còn chưa nói xong thì đã thấy cậu thanh niên kia xua tay, lắc đầu kêu lên: “Đừng hỏi tôi, tôi… cái gì tôi cũng không biết cả”.
Câu còn chưa nói hết thì cậu ta đã quay đầu chạy biến, như thể sau lưng có cơn đại hồng thủy hay loài mãnh thú nào vậy.
Chàng thanh niên áo lam không khỏi cảm thấy có chút kinh ngạc. Lại thấy đại hán với khuôn mặt ngăm đen cưỡi ngựa phía sau mình quay người nhảy xuống, đi đến bên cạnh, cung kính hạ giọng hỏi: “Triển đại nhân, đây là?”.
Chàng thanh niên áo lam khoát tay, lại chặn một người khác lại, nhưng lần này còn chưa mở miệng hỏi thì người nọ đã lắc đầu rất mạnh rồi vội vã rời đi, để lại hai người họ ngơ ngác không hiểu gì.
Người ngồi trên con ngựa thứ ba thấy thế cũng nhảy xuống, đi đến bên cạnh hai người họ, khuôn mặt mang vẻ nghi hoặc. Chỉ còn cậu thiếu niên với đôi mắt dài nhỏ là không có hành động gì, nom cứ như thể bị rút hết xương cốt vậy, cậu ta nằm rạp trên mình ngựa, phều phào mở miệng hỏi: “Mấy vị đại nhân, nếu không phiền thì chúng ta có thể đến tửu lâu nghỉ ngơi một lát trước được không?”.
“Kim Kiền!”, đại hán mặt ngăm đen không vui nói: “Suốt dọc đường phiền phức ngươi mang đến cho chúng ta còn không ít sao, mới đi được mấy dặm lộ trình mà đã không chịu được thế hả?”.
Người thanh niên trắng trẻo bên cạnh cũng nói: “Trương đại ca nói đúng, đường đường là một sai dịch của Khai Phong phủ, đã không biết cưỡi ngựa, lại còn ốm yếu như vậy, thật không biết ngươi làm thế nào mà có thể được thăng lên làm bổ khoái nữa?”.
Kim Kiền bám trên lưng ngựa, thầm lườm nguýt trợn mắt, nghĩ bụng:
Bà nó, không biết cưỡi ngựa có gì mà kỳ lạ chứ? Tôi đường đường là một người hiện đại, sao có cơ hội mà tiếp xúc loại hình vận chuyển có hiệu suất thấp như vậy chứ, hừ hừ, cái chuyện cưỡi ngựa này không những có yêu cầu về kỹ thuật, thể lực mà còn cả độ chịu ma sát của da nữa… Ai mà có kỹ thuật cưỡi ngựa tuyệt vời nhất thì khẳng định phần da chỗ bàn tọa kẻ đó dày nhất… Ui da, thế này thì quả thực là muốn lấy mạng già của cái mông mình rồi…
Triển Chiêu liếc nhìn sắc mặt của Kim Kiền khẽ thở dài một cái rồi nói: “Chúng ta đến tửu lâu nghỉ ngơi một lát, cũng tiện thể thăm dò tin tức”.
“Triển đại nhân quả là cao kiến”, Trương Long, Triệu Hổ lập tức đồng thanh đáp.
Kim Kiền bên kia ho khan hai tiếng.
Ba người dắt ngựa đi về phía trước, không bao lâu sau thì thấy một tòa tửu lâu cao ba tầng với mái ngói cong cong và cột trụ đỏ thẩm, thực hoa lệ vô cùng, một biển hiệu đề chữ vàng được treo ngay chính giữa cửa lớn, trên đó trạm trổ ba chữ “Dục Lạc Lâu”. Tửu lâu khí thế như vậy lại tọa lạc trên một giao lộ quá đỗi bình thường, đưa tới cảm giác có chút gì đó không ăn nhập.
Ba người lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau, dắt ngựa đi tới trước cửa tửu lâu. Tiểu nhị chạy việc vừa nhìn thấy họ liền vội vàng bước tới chào hỏi: “Ôi, ba vị đại gia, đướng sá xa xôi tới đây, xin mời vào bên trong, xin mời”.
Lời còn chưa hết thì đã nghe một giọng nói yếu ớt từ trên lưng ngựa truyền tới, thều thào: “Là bốn vị đại gia…”.
Tiểu nhị bị dọa cho giật mình nhảy dựng lên, định thần nhìn lại thì thấy một thiếu niên ốm yếu như con ốc sên đang bò từ trên lưng ngựa xuống, loạng choạng đi vào cửa tửu lâu.
Tiểu nhị kia cũng là kẻ sáng dạ liền vội vàng sửa lại: “Ôi, tiểu nhân mắt mũi kèm nhèm không nhìn thấy đại gia, xin mời ngài vào trong”.
Khóe môi Trương Long, Triệu Hổ có xu hướng bị kéo lên trên, giật giật rúm ró cả lại, họ chỉ nhướng mày không nói. Triển Chiêu thấy vậy chỉ đành bất đắc dĩ lên tiếng: “Tiểu nhị ca, hãy dắt ba con ngựa này xuống rồi cho chúng ăn cho bọn ta”.
Tiểu nhị lập tức đáp ứng, gọi mã phu đến dắt ngựa đi, sau đó đưa ba người lên lầu hai của tửu lâu.
Lúc này tuy đã tới trưa nhưng cả tửu lâu rộng lớn lại chỉ có lác đác vài khách ngồi rải rác, quang cảnh thật quá quạnh quẽ đìu hiu.
Bốn người ngồi ở góc đông nam, vừa hay gần cửa sổ, gió nhẹ hiu hiu đưa tới cảm giác cũng thật tự tại, thoải mái.
“Các vị đại gia nhìn thật lạ mắt, phải chăng là lần đầu tiên tới Trần Châu này?”, tiểu nhị vừa lau bàn vừa hỏi.
Triển Chiêu không đáp ngay, chỉ trầm ngâm nhìn tiểu nhị một cái, rồi mới chậm rãi trả lời: “Nhãn lực của tiểu nhị ca đây thật không tồi, bốn người chúng tôi là thương nhân đi qua đây, muốn tìm một nơi dừng chân chốc lát. Tiểu nhị ca có biết lữ quán nào gần đây không?”.
Dứt lời, Triển Chiêu liền lấy từ trong người ra mấy văn tiền đặt lên bàn.
“Có, đương nhiên là có”, tiểu nhị vừa nhìn thấy tiền lập tức bày ra gương mặt tươi cười đáp: “Ở ngay đầu phố này có khách điếm Dục Lạc, điều kiện cũng không tồi”.
Triển Chiêu gật gật đầu, lại hỏi: “Chẳng hay hiện giờ đi tới đó liệu có còn phòng trống không?”.
“Mấy vị đại gia xin hãy an tâm, nhất định là còn phòng. Ở Trần Châu này không nơi nào sánh được bằng chỗ đó, vả lại khách buôn đi qua đây thưa thớt, khách điếm tất nhiên là vắng khách rồi.”
“Khách buôn qua đây rất thưa thớt ư, là vì sao vậy?”
Tiểu nhị nghe xong câu hỏi này, không khỏi có chút sửng sốt, nhướng mày hỏi: “Vị đại gia này, ngài không biết thật hay là giả vờ không biết vậy, hiện giờ Trần Châu nào phải là mảnh đất lành cho thương nhân, mà nếu có khách buôn tới thì e rằng cũng chỉ là mua bán quan tài mà thôi”.
Mọi người nghe xong không khỏi bàng hoàng.
Triệu Hổ buột miệng hỏi: “Quan tài ư?”.
Tiểu nhị bỗng nhận ra mình vừa lỡ lời, liền vội vàng chuyển đề tài: “Các vị đại gia, muốn dùng thứ gì vậy?”.
“Tiểu nhị ca mang lên vài món ăn nhẹ là được rồi”. Triển Chiêu ôn tồn nói.
Đợi đến khi tiểu nhị rời đi, Trương Long thấp giọng nói: “Triển đại nhân, ngài có cảm thấy Trần Châu này nơi nào cũng lộ ra vẻ quỷ quái khác thường không?”.
Triển Chiêu lim dim mắt thưởng trà, lát sau mới đáp: “Triển mỗ cũng cảm thấy không bình thường”.
Triệu Hổ vội nói: “Triển đại nhân, ngài thấy chúng ta nên tới nơi đâu để tra án?”.
Trương Long trừng mắt lên nói: “Tất nhiên là điều tra từ nhà Trương Tụng Đức rồi. Triển đại nhân, ngài nói xem có đúng không?”.
Triển Chiêu chưa vội đáp, mà đưa mắt nhìn sang Kim Kiền đang tì cằm trên mép bàn, hỏi: “Kim Kiền, ngươi có ý gì không?”.
Kim Kiền đã đói đến hồn xiêu phách tán, đột nhiên lại nghe thấy Triển Chiêu hỏi, lại thấy bốn ánh mắt nóng bỏng bắn về phía mình thì vội vàng lấy lại tinh thần, ngồi thẳng dậy đáp: “Tại hạ cho rằng nên bắt đầu điều tra từ tửu lâu này”.
Ba người còn lại đều sửng sốt.
Trương Long hạ giọng hỏi: “Kim Kiền, vì sao ngươi lại nói ra những lời bậy bạ này?”.
Kim Kiền liếc Trương Long một cái, thầm nghĩ: Vớ vẩn, nếu không nói như vậy, cứ theo như cái bọn yêu nghề, kinh nghiệp dã man mấy người, chắc chắn sẽ lật tung từng tấc đất của nhà Trương Tụng Đức ở Trần Châu này lên, tới lúc đó, há chẳng phải mình vô cớ bị liên lụy, bị hành chết sao? Vậy nên mới nói điều tra từ chỗ này, xem ra tương đối an toàn, chí ít mình cũng có được mấy khắc để nghỉ ngơi.
Bụng thì nghĩ thế, nhưng miệng thì tất nhiên không thể phát ngôn bừa bãi thế được. Kim Kiền đảo mắt, nhất thời nảy ra một ý bèn mở miệng nói: “Theo như lời của Trương Phúc Tùng thì chứng cứ vô tội của Trương Tụng Đức, ngoại trừ đơn thuốc kia, quá nửa là phán đoán của lão về nhân phẩm thiếu gia nhà mình. Trương Phúc Tùng kia cứ nhất nhất nói Trương Tụng Đức là bậc chính nhân quân tử, không thể làm những việc thông dâm, hại người như thế, nhưng những lời ấy chẳng qua là lời nói từ một phía, sao có thể làm bằng chứng được?”.
Những lời này vừa nói ra, ba người không khỏi có chút kinh ngạc, nhưng Triệu Hổ vẫn không can tâm, hỏi tiếp: “Nếu đã như thế, lẽ nào tửu lâu này lại có thể tra ra manh mối gì ư?”.
Kim Kiền nhướng mày, nói: “Trương Tụng Đức là một đại phu của Trần Châu phủ, hiện giờ lại bị nhốt trong ngục, bách tính Trần Châu tất sẽ bàn tán về chuyện đó, mà tửu lâu này, người ra vào vô số, là nơi tin tức xuyên suốt nhất, bắt đầu từ đây tất nhiên là có thể tìm được manh mối trong vụ án của Trương Tụng Đức, hoặc giả cũng có thể từ lời nói của dân chúng mà phán đoán được một, hai phần về nhân phẩm của Trương Tụng Đức”.
“Nếu như vẫn không có cách nào làm rõ vụ án này thì phải làm thế nào?”, Triệu Hổ cũng hỏi.
Kim Kiền nhún vai đáp: “Vậy chỉ còn cách nửa đêm đột nhập vào đại lao, hỏi Trương Tụng Đức thôi”.
Ba người nghe xong đều im lặng.
Trương Long, Triệu Hổ tuy lòng không phục nhưng nhất thời không có lời nào để phản bác. Triển Chiêu thì mang theo vẻ mặt tán thưởng, gật đầu.
Cho tới khi thức ăn được mang lên, mọi người đều trầm mặc, chẳng ai nói gì lẳng lặng dùng bữa, có điều bất tri giác họ đều dỏng tai lên, cố gắng nghe ngóng xung quanh, chỉ có mỗi mình Kim Kiền là chuyên tâm “đấu trí” với đám đồ ăn trước mặt.
Nhưng tửu lâu vốn rất rộng, khách nhân thì thưa thớt, lại ngồi phân tán khắp nơi, mấy người bọn họ nghe ngóng cả nửa ngày trời cũng chẳng có thu hoạch gì. Đương khi mọi người có chút sốt ruột, thì đột nhiên nghe thấy dưới lầu tiểu nhị cao giọng hô lớn: “Ôi, Bàng gia, ngài tới rồi, xin mời vào trong, bàn riêng của ngài đã chuẩn bị xong rồi”.
Cùng với tiếng của tiểu nhị là tiếng lạch bạch lộp bộp của một đám người đang đi lên cầu thang, tiểu nhị đi trước dẫn đường, theo sau là năm, sáu người. Người đi đầu, thân hình cao hơn một trượng, vận trường bào bằng gấm, chân đi giày da màu đen, mặt như cái bánh nướng, lông mày hình chữ bát, mắt thì híp, mũi thì to tướng đỏ như quả táo nằm chình ình ngay chính giữa mặt, ôm cái phụng phệ, chỉ thấy bụng mà chẳng thấy chân đâu, lắc lư leo lên lầu hai rồi ngồi xuống chỠcách Triển Chiêu một bàn.
Năm người sau lưng hắn đều mặc trang phục của đầy tớ, cung kính đứng cạnh bàn.
“Bàng gia, hôm nay ngài muốn dùng gì?”
Bàng gia mở miệng lộ hai hàm răng vàng khè, nói: “Dọn lên một bàn theo lệ cũ đi”.
“Có ngay!”, tiểu nhị đáp rồi nhanh nhẹn chạy xuống lầu.
Bàng gia kia ngồi cạnh bàn, vẻ như nhàm chán, hết nhìn đông rồi lại ngó tây, rồi thoáng một cái liền liếc đến bàn của Triển Chiêu.
Chỉ thấy hắn từ từ đứng dậy, lắc la lắc lư đi đến cạnh bàn của Triển Chiêu, đánh giá Triển Chiêu từ trên xuống dưới mấy lượt rồi mở miệng nói: “Mấy người các ngươi nom rất lạ mặt, là người từ nơi khác đến sao?”.
Trương Long vừa nhìn đã biết kẻ này rất “đức hạnh” rồi, cảm thấy rất không thuận mắt, bất giác khẩu khí cũng gai góc lên vài phần: “Ông đây đến từ nơi nào còn không tới phiên ngươi quản”.
“Cái gì?”, sắc mặt tên Bàng gia kia vụt biến đổi, cao giọng quát: “Ngươi dám nói với ta những lời đó, ngươi có biết ta là ai không?”.
Trương Long hừ lạnh: “Ta quan tâm ngươi là ai sao?”.
“Hỗn xược!”, một gã sai vặt đứng bên cạnh tên họ Bàng kia quát: “Đây chính là đại quản gia của Hầu gia phủ chúng ta, được An Lạc hầu ban cho họ Bàng tên Đại – Bàng quản gia! Mấy tên tiểu tốt không hiểu phép tắc quy củ các ngươi còn không mau kính cẩn mà gọi một tiếng Bàng đại gia?!”.
Kim Kiền vừa nghe vậy đã thấy vô cùng buồn cười, thiếu chút nữa thì phun toàn bộ cơmmiệng ra, thầm nghĩ: Bàng đại gia? Còn là Bàng bụng lu[2] nữa kìa!
[2] Trong tiếng Trung, Bàng đại gia và Bàng bụng lu cách phát âm gần giống nhau.
Trương Long lại không có dây thần kinh hài hước nào đứng phắt ngay dậy quát: “Chẳng qua chỉ là một tên quản gia coi cổng cho nhà họ Bàng, thế mà dám phách lối hung hăng thế sao?”.
“Cái gì?”, mấy tên sai vặt đứng xung quanh Bàng Đại lập tức xông đến bao lấy Trương Long, tên nào tên nấy mặt mũi hung tợn. Trương Long hiểu ngay tình huống, hai tay xiết chặt lại. Nhìn thấy hai bên chuẩn bị động thủ, Triển Chiêu nãy giờ im bặt bỗng đứng bật dậy, chắp tay nói: “Bàng đại gia, chúng tôi chẳng qua là thương nhân thuận đường đi ngang qua đây, không hiểu phép tắc, mong ngài lượng thứ”.
Những lời này vừa thốt ra, đừng nói là Bàng Đại mà ngay cả Trương Long, Triệu Hổ cũng sửng sốt, Kim Kiền thì vội vàng bưng chén trà lên uống một hơi cho thuận khí.
Bàng Đại nhất thời ngẩn ra, sau đó định thần lại nhìn kỹ người trước mặt.
Chỉ thấy người thanh niên này, có một đôi mắt đen lấp lánh như ánh sao, thân người thẳng như cây tùng đón gió, phong thái vững vàng tựa núi, thâm trầm như biển, kiếm tuệ đung đưa trong gió, bức tranh ấy quả là hữu tình vô hạn.
Bàng Đại ngây ngẩn nhìn Triển Chiêu hồi lâu, đột nhiên hắn rút ra một cái quạt, chẳng biết là lôi ra từ đâu nữa, phạch một cái xòe quạt ra, vẻ mặt mờ ám đi tới cạnh Triển Chiêu, lả lơi nói: “Vị tiểu ca này, không biết có hứng thú tới phủ Hầu gia vui chơi một chuyến không?”.
“Phụt…”
Cơm cùng nước trà từ miệng Kim Kiền thẳng tắp một hàng bay tới đậu trên mặt Bàng Đại.
Về phần Bàng Đại thì khuôn mặt dính đầy những hạt cơm, nước trà nhỏ tong tỏng xuống từ khuôn mặt núc ních những thịt của hắn, dáng vẻ nom vô cùng tức cười.
Thế nhưng, lúc này Kim Kiền lại không cười nổi, mà Trương Long, Triệu Hổ cũng thế, cười không được giận chẳng xong, còn đám trợ thủ của Bàng Đại cũng không có vẻ gì là phẫn nộ. Hiện giờ, vẻ mặt của tất cả chỉ thể hiện có một thứ, đó là – cực kỳ hoảng sợ.
Áo tuyền một màu lam kia xưa nay luôn ôn hòa bình tĩnh, nhưng lúc này lại như bầu trời âm u trước trận cuồng phong mưa tuôn xối xả, mây đen cuồn cuộn nổi lên không ngừng; đôi môi lúc nào cũng mang một màu sắc hồng sáng ấm áp thì giờ đây lại trở nên tím tái, gân xanh hằn trên mu bàn tay cầm kiếm, còn vỏ kiếm thì kêu lạch cạch không ngừng.
Mọi người chỉ cảm thấy cơn cuồng phong trước mắt đang ầm ào nổi lên, bỗng cái bóng màu lam lóe lên như chớp giật, đến khi định thần lại, Bàng Đại đã nằm ngay đơ đúng chữ “đại[3]“, hai mắt trắng dã, nằm nguyên tại chỗ, không nhúc nhích.
[3] Chữ đại (trong ngoặc là từ tiếng Hán), từ tượng hình chỉ một người đang dang hai tay hai chân.
Hoàn toàn yên lặng.
Đột nhiên, một gã sai vặt hô hoán kêu lên: “Cứu với, Bàng đại gia bị giết rồi!”.
Sau đó, những tiếng tri hô kêu cứu cứ liên tiếp vang rền.
“Bàng đại gia, Bàng đại gia…”
“Người đâu, mau đi báo quan…”
…
Hiện trường vô cùng hỗn loạn, còn ba người Kim Kiền, Trương Long, Triệu Hổ lại ngẩn ra đứng yên tại chỗ, mắt mở to nhìn bóng dáng màu lam u ám khiến người ta sợ hãi kia, do dự không biết có nên tiến lên không.
Đúng lúc mọi người đang lúng túng khó xử thì đột nhiên phía sau cầu thang vang lên những tiếng bước chân rầm rập, mấy nha dịch mặc sai phục vừa chạy lên vừa quát lớn: “Kẻ nào, kẻ nào báo quan?”.
Trong số đó có một gã nha sai tinh mắt, liếc một cái đã nhìn thấy Bàng Đại nằm thẳng đơ trên đất, nhất thời luống cuống, càng quát to hơn nữa: “Kẻ nào, rốt cuộc là kẻ nào đả thương Bàng đại gia?”.
Mấy gã sai vặt nhìn thấy quan sai liền như thấy được người nhà mình, đều chạy tới, nhất tề chỉ về phía bốn người Triển Chiêu, dị khẩu đồng thanh kêu lên: “Chính là bọn chúng!”.
Nha sai lập tức xông tới bao vây họ lại.
Kim Kiền thấy tình hình không ổn, đang tính bỏ chạy thì bỗng thấy chân cứng lại, cho dù là nửa bước cũng không tài nào nhúc nhích nổi.
Kim Kiền kinh sợ, quay phắt sang nhìn Triển Chiêu. Chỉ thấy Tiểu Miêu, chẳng có tí xíu nào là phẫn nộ cả, vẫn là Nam hiệp ôn hòa nho nhã như trước, có điều giữa mi tâm hiện lên vẻ hài lòng vì đã đạt được ý đồ.
Kim Kiền thầm kêu khổ không thôi, chỉ có thể giương mắt lên mà nhìn Trương Long, Triệu Hổ thể hiện thần uy đột phá vòng vây, mở đường máu xông ra ngoài. còn chính mình thì bị điểm huyệt không tài nào nhúc nhích được với Tiểu Miêu chẳng mảy may phản kháng bị đám bổ khoái áp giải ra khỏi tửu lâu, vô cùng rõ ràng, điểm đến chính là đại lao của phủ nha.
Đương nhiên, Kim Kiền cũng không bỏ qua ánh mắt đầy thâm ý của Trương Long, Triệu Hổ liếc nhìn Triển Chiêu trước khi rời đi.
Tác giả :
Âu Dương Mặc Tâm