Đêm Thao Thức
Chương 3
Đường đến nhà Webb đưa Irene ngang qua khu vực trung tâm bé xíu của thị trấn Dunsley. Chuyến đi này rõ ràng là một trải nghiệm khiến nàng lo lắng. Dường như có quá nhiều thứ quen thuộc ở nơi đây.
Không đúng, nàng phản bác. Sau từng ấy năm nơi đây lẽ ra phải thay đổi nhiều hơn thế này chứ. Nàng dừng một chút ngay biển dừng nơi giao nhau của bốn con đường tạo nên giao lộ chính của trấn. Có vẻ Dunsley mười bảy năm trước đã rơi vào hố đen vũ trụ và bị kẹt lại trong chiều thời gian đứng yên ngưng đọng.
Thật vậy, mặt tiền hầu hết các cửa hiệu đã được sơn sửa lại. Một số tiệm đã đổi tên. Nhưng những thay đổi này chỉ diễn ra trên bề mặt. Mọi thứ vẫn như cũ một cách khó chịu, nếu không muốn nói là lỗi thời. Phải, dứt khoát là thời gian ở đây đã ngừng trôi rồi, Irene tự nhủ.
Hầu như chẳng còn chiếc xe nào khác trên đường vào giờ này. Nàng nhấn mạnh chân ga, nôn nóng hướng tới điểm đến.
Đèn vẫn còn sáng bên ngoài bãi đậu xe rải sỏi của quán bar Harry’s Hang-Out. Chữ H thứ hai trên cái bảng hiệu đèn neon phai màu vẫn còn nhấp nháy, đúng như mười bảy năm trước. Vài chiếc bán tải móp méo và SUV đậu đằng trước vẫn y như những gì đã đậu trong bãi xe ấy hồi nàng còn nhỏ. Không ít lần cha nàng bị kéo ra khỏi giường lúc nửa đêm chỉ để dẹp yên một cuộc cãi vã ở bar Harry.
Nàng cho xe chạy qua công viên và đi thêm một đoạn ngắn nữa. Đến lối Woodcrest thì nàng rẽ trái để tiến vào khu vực giàu chất thượng lưu nhất mà thị trấn Dunsley sở hữu.
Các ngôi nhà ở lối Woodcrest nằm trên những khoảnh đất rộng lớn cây cối rậm rạp kéo dài xuống tới mé nước. Chỉ một ít căn thuộc về dân địa phương. Hầu hết là nhà nghỉ hè, vào mùa này thường tối tăm và trống vắng.
Nàng chạy chậm lại và rẽ vào con đường hẹp dẫn đến nhà Webb. Các cửa sổ bên hông kiến trúc hai tầng này tối om, nhưng ngọn đèn ngay thềm trước còn sáng. Không có xe nào đậu trên lối đi cong cong. Thế nghĩa là không có ai ở nhà, Irene tự nhủ. Nhưng email của Pamela đã ghi rất rõ ngày hẹn cơ mà.
Nàng dừng xe, tắt máy, khoanh tay đặt trên vô lăng, suy nghĩ phải làm gì tiếp. Quyết định đi đến lối Woodcrest sau khi không cuộc gọi nào của mình được trả lời là quyết định xuất phát từ một phút ngẫu hứng do cảm giác bực bội và nôn nóng mỗi lúc một dâng cao.
Pamela đã đợi nàng tối nay. Cô ấy lẽ ra phải đang ở đây chờ nàng chứ. Có chuyện không ổn rồi.
Irene mở cửa xe và chầm chậm bước xuống. Hơi lạnh của đêm bủa vây. Nàng phải mất vài giây để trấn áp nỗi lo sợ do đêm đen đem đến. Đoạn nàng bước vội đến vùng an toàn nơi cửa trước sáng đèn và bấm chuông.
Không ai trả lời.
Nàng nhìn quanh và thấy cửa ga ra đang đóng. Nếu nàng nhớ không lầm, có một cửa sổ nhỏ ở mé bên kia.
Irene ngần ngừ. Bên kia ga ra rất tối. Nàng lần tay tới chiếc đèn pin mini trong túi áo. Mình cần nhiều ánh sáng hơn, nàng thầm nghĩ. Cây đèn pin chuyên dụng cất ở hộc đựng đồ vặt trong xe có thể to hơn nhưng vẫn không đủ đẩy lùi bóng đêm đen kịt như thế này. Nàng trở lại xe, mở cốp lấy ra một trong hai cây đèn pin công nghiệp. Khi nàng bật công tắc lên, tia sáng chói lóa cắt một sọc dài qua màn đêm khiến nàng vững tâm hơn.
Lấy hết can đảm, Irene quay lại lối đi, vòng qua góc ga ra và nhìn qua ô cửa kính đầy bụi. Một chiếc BMW lù lù bên trong.
Thêm một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng nàng. Ai đó, chắc là Pamela, đang ở đây. Nhưng tại sao người này không trả lời máy hay ra mở cửa?
Qua khóe mắt nàng nhác thấy một tia sáng le lói. Tia sáng phát ra từ phần sau căn nhà.
Nàng quay lại và chầm chậm tiến đến nguồn sáng, bụng có cảm giác như mình là một con thiêu thân bị hút theo ngọn nến.
Con đường dẫn nàng lướt qua cánh cửa kho dụng cụ bên hông nhà. Nàng nhớ rõ lối vào này. Pamela từng giấu một chìa khóa phụ bên dưới bậc thềm để ban đêm cô có thể lẻn ra lẻn vào nhà. Thoáng nhói lòng, Irene chợt nghĩ cha Pamela hay người quản gia nào có lưu tâm đến chuyện đi đi về về của cô đâu.
Thuở mười lăm tuổi, nàng và mọi thiếu niên trong vùng đều ganh tị với mức độ tự do mà Pamela Webb có được. Nhưng nhìn từ quan điểm người lớn, rõ ràng sự tự do thái quá của cô bạn cũ thực chất là do sự thờ ơ của cha mẹ. Mẹ Pamela mất trong một vụ tai nạn thuyền giữa hồ khi cô chưa đầy năm tuổi. Những năm sau đó, cha cô, ông Ryland Webb, lại mải mê theo đuổi sự nghiệp chính trị. Kết quả là Pamela bị bỏ rơi cho cho cả tá vú em và quản gia chăm sóc.
Irene mở then cổng ở cuối đường và bước vào khu vườn tràn ngập ánh trăng. Bức rèm che ô cửa sổ cao từ trần đến sàn nhà mở toang. Ánh sáng nàng đang lần theo phát ra từ ngọn đèn bàn vặn rất nhỏ.
Irene rọi cây đèn pin to tướng qua khung cửa kính. Thật không ngờ nàng kinh ngạc khi thấy mình nhận ra hầu hết vật dụng trong phòng. Lại thêm một trường hợp khác của miền thời gian ngưng đọng nữa rồi, nàng nhủ thầm. Nhiều năm trước, ngôi nhà được trang hoàng nhờ tay của một chuyên gia thiết kế từ San Francisco. Nội thất thể hiện nét xa hoa của căn biệt thự nghỉ dưỡng trượt tuyết. Pamela ngầm đặt tên cho ngôi nhà này là Cầu Tiêu Thanh Nhã.
Nàng cẩn thận xem xét căn phòng tối một cách có hệ thống, bắt đầu từ mạn bên trái nơi lò sưởi bằng đá to tướng tạo thành phần lớn bức tường. Đến giữa phòng, nàng nhìn thấy một chiếc dép đi trong nhà chơ vơ chổng vó. Nó nằm trên tấm thảm ở một đầu chiếc sofa da màu nâu. Một gót chân trần tháp thoáng bên rìa cái gối tựa.
Irene sững người. Dạ dày quặn lên, nàng đi dọc theo dãy cửa sổ cho đến khi có thể chĩa thẳng đèn pin vào sofa.
Một phụ nữ đang nằm trên đống gối tựa. Cô mặc quần màu vàng nâu và áo lụa xanh dương. Gương mặt xoay vào trong. Mái tóc vàng xõa trên nền da nâu của chiếc ghế. Một cánh tay mảnh khảnh buông thõng xuống nền nhà.
Trên chiếc bàn nước thâm thấp bằng gỗ có một bình cocktail và một cốc martini đã cạn.
“Pamela.”Irene đấm lên khung cửa kính. “Pamela, dậy đi.”
Người phụ nữ trên ghế bành không động đậy.
Irene chụp tay nắm của cánh cửa trượt, dùng hết sức bình sinh đẩy mạnh. Cửa khóa.
Quay ngoắt người lại, nàng chạy ào ra khỏi vườn, ánh đèn pin quét qua quét lại đến điên loạn, rồi nàng vội vã đến chỗ cửa phòng vật dụng.
Nàng quỳ xuống, lần tay mò dưới bậc thềm cuối cùng. Ngón tay nàng quơ trúng một phong bì nhỏ dán ở mặt dưới tấm cao su phủ bậc thềm.
Phải loay hoay một lúc nàng mới gỡ được miếng băng keo dán lâu năm, cuối cùng cái phong bì cũng rơi xuống tay nàng. Nàng có thể cảm thấy sức nặng của chiếc chìa khóa bên trong. Vừa đứng dậy, nàng vừa xé toạc phong bì lấy cái chìa khóa rồi lập cập tra vào ổ.
Nàng mở cửa, lần tay đến công tắc đèn. Bóng đèn trên trần chớp chớp rồi bật lên ánh sáng yếu ớt soi rọi một mớ dụng cụ đi thuyền, câu cá và trượt nước có tuổi hàng thập kỳ.
Nàng chạy dọc theo hành lang tối vào phòng khách.
“Pamela, mình đây, Irene đây. Dậy đi.”
Nàng dừng lại bên sofa và với tay chụp lấy vai Pamela.
Da thịt bên dưới lần áo lụa mỏng lạnh băng. Nhân dạng của người phụ nữ này không lẫn vào đâu được.
Thời gian mười bảy năm đã để lại quá ít thay đổi trên gương mặt tuyệt đẹp của Pamela. Thậm chí ngay cả khi chết, cô vẫn là một nàng tóc vàng mang vẻ đẹp cổ điển quý tộc.
“Trời ơi, không.”
Irene bước thụt lùi, cố nén cơn nôn ọe chực trào lên. Một cách vô thức, nàng cho tay vào ví lấy điện thoại di động.
Một bóng người đang đi dọc theo hành lang tối om nối với kho dụng cụ.
Nàng quay ngoắt người lại, tay nắm chặt cây đèn pin nặng trịch. Ánh sáng chói lòa chiếu thẳng lên người Luke. Đó là tất cả những gì nàng có thể làm để ngăn tiếng thét gần như làm nàng nghẹt thở.
“Chết rồi à?” Luke hỏi, tiến đến ghế bành.
“Anh đang làm gì ở đây? Mà thôi.” Hỏi han gì để sau. Ngón tay nàng run rẩy nhấn phím 911. “Cô ấy lạnh lắm. Quá lạnh.”
Anh với xuống đặt ngón tay lên cổ họng của người phụ nữ đầy vẻ thành thục. Tìm xem có mạch đập hay không, Irene nghĩ. Nhìn cách anh làm, nàng biết đây không phải lần đầu tiên anh xử lý một xác chết.
“Chết thật rồi,” anh nói khẽ. “Có vẻ cô ta đã chết một lúc khá lâu.”
Cả hai liếc qua chiếc bình rỗng trên bàn. Kế bên là một lọ thuốc. Cả lọ thuốc này cũng rỗng nốt.
Irene cố chống chọi cảm giác tội lỗi đang dâng trào. “Lẽ ra tôi nên đến đây sớm hơn.”
“Tại sao?” anh hỏi. Anh khuỵu chân xuống để đọc nhãn dán trên lọ thuốc nhỏ. “Làm sao cô biết được chứ?”
“Tôi không thể, tôi cũng không biết,” nàng thều thào. “Nhưng tôi đã biết có điều gì đấy bất ổn khi cô ấy không bắt máy.”
Anh trầm ngâm xem xét xác chết. “Trước khi cô nhận phòng chiều nay thì người cô ta đã lạnh rồi.”
Dứt khoát anh chàng này có kinh nghiệm với các xác chết, Irene tự nhủ.
Giọng người trực tổng đài 911 sắc lạnh bên tai nàng, yêu cầu cho biết chuyện gì đã xảy ra.
Irene hít sâu, trấn tĩnh lại rồi mô tả chi tiết một cách nhanh chóng và chính xác hết sức. Tập trung vào sự kiện giúp nàng trấn tĩnh phần nào.
Cuộc gọi vừa kết thúc thì một cơn tê cứng lạ kỳ đã xâm chiếm nàng. Nàng lóng ngóng suýt làm rơi chiếc điện thoại trước khi có thể bỏ nó trở lại túi xách. Nàng không thể nhìn cái xác thêm lần nữa.
“Chúng ta không cần đợi trong này,” Luke vừa nói vừa kéo cánh tay nàng. “Ta đi ra ngoài nào.”
Nàng không cãi lại. Anh đưa nàng trở ra theo lối dọc hành lang, qua căn tiền sảnh tới bậc tam cấp đằng trước nhà.
“Anh đến đây bằng cách nào?”
Nàng nhìn quanh lối chạy xe. “Xe của anh đâu?”
“Tôi đậu nó ở phía cuối đường.” Nàng choáng váng hiểu ra. “Anh theo dõi tôi.”
“Ừ.”
Giọng anh chẳng có vẻ xin lỗi, hay ngượng ngùng hoặc lóng ngóng gì. Chỉ là một câu tuyên bố đơn giản, ừ, tôi theo dõi cô đó. Vậy thì sao nào? Cơn giận làm nàng sôi người, làm tan chảy một phần cảm giác tê cứng vừa rồi. “Tại sao anh làm vậy? Anh không có bất cứ quyền gì...”
“Người phụ nữ trên chiếc sofa trong kia,” anh nói, cắt ngang dòng dung nham phẫn nộ của nàng bằng thái độ trịch thượng của người quen ra lệnh. “Đó có phải là người cô cố gắng liên lạc suốt tối nay không?” Nàng nghiến răng, hai tay khoanh chặt trước ngực. “Nếu anh không trả lời câu hỏi của tôi thì tôi thấy không có lý do gì để trả lời anh.”
“Tùy cô thôi, thưa cô Stenson.” Anh hơi xoay đầu hướng về phía có tiếng còi hụ. “Nhưng rõ ràng cô quen biết nạn nhân.”
Irene ngập ngừng. “Chúng tôi từng là bạn rất lâu rồi. Tôi chưa từng gặp hoặc nói chuyện với cô ấy suốt mười bảy năm qua.”
“Tôi rất tiếc,” anh đột nhiên dịu giọng, ánh mắt ảm đạm đến lạ kỳ. “Một người thân tự sát lúc nào cũng là sự thật khó tiếp nhận với những người còn lại.”
“Tôi không chắc đây là do tự sát,” nàng đáp, trước khi ngừng lại để suy nghĩ.
Anh cúi đầu, tiếp thu một giả thiết khác. “Có thể là tai nạn do uống thuốc quá liều.”
Nàng cũng không tin khả năng đó nốt, nhưng lần này nàng quyết định im lặng.
“Tại sao tối nay cô đến gặp cô ta?” Luke hỏi.
“Anh quan tâm làm gì?” nàng đốp chát lại. “Tại sao anh theo tôi đến đây?”
Một chiếc xe cảnh sát rẽ vào lối xe chạy trước khi anh kịp trả lời, ấy là giả dụ như anh có trả lời, nàng rầu rĩ nghĩ. Loạt ánh sáng chói lòa nhấp nháy trong đêm đen. Tiếng còi hụ đinh tai đến nỗi nàng bất giác đưa tay lên bịt tai lại.
Đột nhiên tiếng còi tắt ngấm. Một cảnh sát mặc đồng phục bước xuống xe. Anh ta liếc nhìn Irene trước rồi ngay lập tức quay sang Luke.
“Nhận tin báo có xác chết,” anh ta nói.
Luke giật ngón tay cái chỉ về lối hành lang ngay sau lưng. “Phòng trước.”
Viên cảnh sát thò đầu nhìn vào tiền sảnh. Xem ra anh ta không sẵn lòng đi vào nhà. Irene nhận ra anh ta còn khá trẻ. Trong suốt sự nghiệp ngắn ngủi tại Dunsley này, có lẽ anh ta chưa tiếp cận với nhiều xác chết lắm.
“Tự sát à?” viên cảnh sát hỏi, có vẻ không thoải mái.
“Hoặc quá liều,” Luke đáp. Anh liếc sang Irene. “Ít ra là trông có vẻ như thế.”
Viên cảnh sát gật đầu nhưng vẫn chẳng tiến vào điều tra gì cả.
Thêm một loạt còi hụ nữa từ đằng xa. Họ đồng loạt nhìn ra đường. Một xe cứu thương và một xe cảnh sát nữa chạy về phía căn nhà.
“Chắc là sếp,” viên cảnh sát nói, lộ rõ vẻ nhẹ nhõm.
Hai chiếc xe đậu ngay sau xe của viên cảnh sát đến trước. Hai nhân viên y tế xuống xe cứu thương và mang găng tay vào. Cả hai đều nhìn Luke chờ đợi.
“Phòng trước,” Luke lặp lại.
Irene thở dài. Kiểu người lãnh đạo, nàng nhắc nhở mình. Kiểu người mà ai cũng tự động tìm đến xin chỉ thị trong cơn khủng hoảng.
Các nhân viên y tế biến mất trong hành lang. Viên cảnh sát trẻ bước theo sau, sẵn lòng nhường cho nhân viên y tế dẫn đường.
Cửa xe cảnh sát thứ hai bật mở. Một người đàn ông to lớn bệ vệ tầm bốn mươi bước ra. Mái tóc nâu nhạt của anh ta thưa dần trên đỉnh đầu. Gương mặt góc cạnh với những đường nét rắn rỏi phủ nét u ám. Không như Pamela, năm tháng đã để lại dấu ấn rõ nét lên Sam McPherson, Irene nghĩ thầm.
Anh ta lướt mắt xem xét Irene từ đầu đến chân. Ánh mắt cho thấy anh ta vẫn chưa nhận ra nàng. Anh ta quay sang Luke, cũng như những người khác.
“Danner,” anh ta hỏi. “Anh làm gì ở đây thế?”
“Chào sếp.” Luke hất cằm về phía Irene. “Tôi đi với cô Stenson. Cô ấy là khách ở nhà nghỉ.”
“Stenson ư?” Sam quay ngoắt người lại và nhìn Irene kỹ hơn. “Irene Stenson?”
Nàng xốc lại tinh thần. “Chào Sam.”
Anh ta nhăn mặt. “Tôi chẳng thể nào nhận ra cô. Cô thay đổi nhiều quá. Cô quay về đây làm gì vậy?”
“Tôi đến gặp Pamela. Giờ anh là cảnh sát trưởng ở đây rồi à?”
“Tiếp quản sau khi Bob Thornhill mất,” Sam thờ ơ đáp. Anh ta nhìn về phía cửa, vẻ căng thẳng lướt qua mặt. “Cô chắc là Pamela trong đó chứ?”
“Chắc.”
“Tôi cũng đã e rằng như thế.” Anh ta thở dài ngao ngán. “Nghe đồn cô ấy trở lại thị trấn tuần này. Nhưng tối nay khi nhận cuộc gọi, tôi đã hy vọng chỉ là do nhầm lẫn. Biết đâu cô ấy cho bạn mình ở thành phố mượn nhà vài ngày.”
“Đó là Pamela,” Irene đáp.
“Chết tiệt.” Sam lắc đầu, trông đau khổ tang thương nhưng đành cam chịu sự đã rồi. “Cô là người tìm thấy cô ấy à?”
“Vâng.”
Anh ta dành cho Luke một cái nhìn dò xét ngắn rồi trở lại với nàng. “Chuyện xảy ra như thế nào?”
“Chiều nay tôi tới Dunsley rất trễ,” nàng đáp. “Tôi cố gọi cho Pamela vài lần suốt buổi tối. Không ai trả lời máy. Tôi bắt đầu thấy lo lắng nên cuối cùng quyết định đến đây xem cô ấy có nhà không.”
“Cathy Thomas, người nhận cuộc gọi của cô, nói rằng cô báo cáo có thuốc và rượu ở hiện trường.”
“Đúng vậy,” Irene đáp. “Nhưng...” Nàng định bảo nàng không nghĩ rằng Pamela tự sát, nhưng Luke quắc mắt nhìn khiến nàng, dù bực mình lắm, vẫn ngập ngừng không nói tiếp.
Ngay lúc nàng chuẩn bị tiếp lời thì Sam đã lên tiếng.
“Cứ nghĩ là cô ấy đã khá ổn rồi chứ,” Sam nói khẽ. “Cô ấy cứ vào ra trung tâm cai nghiện mãi sau khi tốt nghiệp, nhưng vài năm qua, cô ấy có vẻ như đang tránh xa ba cái thứ rác rưởi ấy rồi.”
“Lọ thuốc trong kia có kê toa trên đó,” Luke nói.
Sam nheo nheo mắt. “Chắc cô ấy lại tái điều trị.” Anh ta tiến vào tiền sảnh và dừng lại ở ngay ngưỡng cửa, quay lại nói với Irene. “Cô sẽ ở lại đây một thời gian nữa chứ?”
“Tôi định sáng mai sẽ đi,” nàng nói dù trong lòng hiện không chắc sẽ làm gì tiếp.
“Sáng mai tôi muốn hỏi cô vài điều. Thủ tục thôi mà.” Sam hất đầu về phía Luke. “Cả anh cũng vậy nhé, anh Danner.”
“Được rồi,” Luke đáp.
Irene gật đầu, không nói gì.
“Tôi sẽ gặp cả hai tại đồn khoảng chín rưỡi sáng mai,” Sam nói.
Anh ta biến mất vào trong nhà. Luke nhìn Irene. “Cô không hẳn là người lạ ở thị trấn Dunsley này, phải không?”
“Tôi lớn lên ở đây. Rời khỏi đây năm mười lăm tuổi.”
“Đây là lần đầu cô trở về à?”
“Ừ.”
Anh chăm chú nhìn nàng trong ánh sáng của bóng đèn trước thềm. “Tôi cho rằng cô có kỷ niệm không đẹp đối với nơi đây.”
“Những gì tôi có ở đây là ác mộng thì đúng hơn, anh Danner ạ.”
Nàng băng qua lối đi bước lên xe mình.
Đây sẽ là một trong những đêm thật dài đây, Irene vừa nhủ thầm vừa khởi động máy, một trong những đêm dài vô tận nho nhỏ khi mà không một thói quen thông thường nào có tác dụng.
Không đúng, nàng phản bác. Sau từng ấy năm nơi đây lẽ ra phải thay đổi nhiều hơn thế này chứ. Nàng dừng một chút ngay biển dừng nơi giao nhau của bốn con đường tạo nên giao lộ chính của trấn. Có vẻ Dunsley mười bảy năm trước đã rơi vào hố đen vũ trụ và bị kẹt lại trong chiều thời gian đứng yên ngưng đọng.
Thật vậy, mặt tiền hầu hết các cửa hiệu đã được sơn sửa lại. Một số tiệm đã đổi tên. Nhưng những thay đổi này chỉ diễn ra trên bề mặt. Mọi thứ vẫn như cũ một cách khó chịu, nếu không muốn nói là lỗi thời. Phải, dứt khoát là thời gian ở đây đã ngừng trôi rồi, Irene tự nhủ.
Hầu như chẳng còn chiếc xe nào khác trên đường vào giờ này. Nàng nhấn mạnh chân ga, nôn nóng hướng tới điểm đến.
Đèn vẫn còn sáng bên ngoài bãi đậu xe rải sỏi của quán bar Harry’s Hang-Out. Chữ H thứ hai trên cái bảng hiệu đèn neon phai màu vẫn còn nhấp nháy, đúng như mười bảy năm trước. Vài chiếc bán tải móp méo và SUV đậu đằng trước vẫn y như những gì đã đậu trong bãi xe ấy hồi nàng còn nhỏ. Không ít lần cha nàng bị kéo ra khỏi giường lúc nửa đêm chỉ để dẹp yên một cuộc cãi vã ở bar Harry.
Nàng cho xe chạy qua công viên và đi thêm một đoạn ngắn nữa. Đến lối Woodcrest thì nàng rẽ trái để tiến vào khu vực giàu chất thượng lưu nhất mà thị trấn Dunsley sở hữu.
Các ngôi nhà ở lối Woodcrest nằm trên những khoảnh đất rộng lớn cây cối rậm rạp kéo dài xuống tới mé nước. Chỉ một ít căn thuộc về dân địa phương. Hầu hết là nhà nghỉ hè, vào mùa này thường tối tăm và trống vắng.
Nàng chạy chậm lại và rẽ vào con đường hẹp dẫn đến nhà Webb. Các cửa sổ bên hông kiến trúc hai tầng này tối om, nhưng ngọn đèn ngay thềm trước còn sáng. Không có xe nào đậu trên lối đi cong cong. Thế nghĩa là không có ai ở nhà, Irene tự nhủ. Nhưng email của Pamela đã ghi rất rõ ngày hẹn cơ mà.
Nàng dừng xe, tắt máy, khoanh tay đặt trên vô lăng, suy nghĩ phải làm gì tiếp. Quyết định đi đến lối Woodcrest sau khi không cuộc gọi nào của mình được trả lời là quyết định xuất phát từ một phút ngẫu hứng do cảm giác bực bội và nôn nóng mỗi lúc một dâng cao.
Pamela đã đợi nàng tối nay. Cô ấy lẽ ra phải đang ở đây chờ nàng chứ. Có chuyện không ổn rồi.
Irene mở cửa xe và chầm chậm bước xuống. Hơi lạnh của đêm bủa vây. Nàng phải mất vài giây để trấn áp nỗi lo sợ do đêm đen đem đến. Đoạn nàng bước vội đến vùng an toàn nơi cửa trước sáng đèn và bấm chuông.
Không ai trả lời.
Nàng nhìn quanh và thấy cửa ga ra đang đóng. Nếu nàng nhớ không lầm, có một cửa sổ nhỏ ở mé bên kia.
Irene ngần ngừ. Bên kia ga ra rất tối. Nàng lần tay tới chiếc đèn pin mini trong túi áo. Mình cần nhiều ánh sáng hơn, nàng thầm nghĩ. Cây đèn pin chuyên dụng cất ở hộc đựng đồ vặt trong xe có thể to hơn nhưng vẫn không đủ đẩy lùi bóng đêm đen kịt như thế này. Nàng trở lại xe, mở cốp lấy ra một trong hai cây đèn pin công nghiệp. Khi nàng bật công tắc lên, tia sáng chói lóa cắt một sọc dài qua màn đêm khiến nàng vững tâm hơn.
Lấy hết can đảm, Irene quay lại lối đi, vòng qua góc ga ra và nhìn qua ô cửa kính đầy bụi. Một chiếc BMW lù lù bên trong.
Thêm một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng nàng. Ai đó, chắc là Pamela, đang ở đây. Nhưng tại sao người này không trả lời máy hay ra mở cửa?
Qua khóe mắt nàng nhác thấy một tia sáng le lói. Tia sáng phát ra từ phần sau căn nhà.
Nàng quay lại và chầm chậm tiến đến nguồn sáng, bụng có cảm giác như mình là một con thiêu thân bị hút theo ngọn nến.
Con đường dẫn nàng lướt qua cánh cửa kho dụng cụ bên hông nhà. Nàng nhớ rõ lối vào này. Pamela từng giấu một chìa khóa phụ bên dưới bậc thềm để ban đêm cô có thể lẻn ra lẻn vào nhà. Thoáng nhói lòng, Irene chợt nghĩ cha Pamela hay người quản gia nào có lưu tâm đến chuyện đi đi về về của cô đâu.
Thuở mười lăm tuổi, nàng và mọi thiếu niên trong vùng đều ganh tị với mức độ tự do mà Pamela Webb có được. Nhưng nhìn từ quan điểm người lớn, rõ ràng sự tự do thái quá của cô bạn cũ thực chất là do sự thờ ơ của cha mẹ. Mẹ Pamela mất trong một vụ tai nạn thuyền giữa hồ khi cô chưa đầy năm tuổi. Những năm sau đó, cha cô, ông Ryland Webb, lại mải mê theo đuổi sự nghiệp chính trị. Kết quả là Pamela bị bỏ rơi cho cho cả tá vú em và quản gia chăm sóc.
Irene mở then cổng ở cuối đường và bước vào khu vườn tràn ngập ánh trăng. Bức rèm che ô cửa sổ cao từ trần đến sàn nhà mở toang. Ánh sáng nàng đang lần theo phát ra từ ngọn đèn bàn vặn rất nhỏ.
Irene rọi cây đèn pin to tướng qua khung cửa kính. Thật không ngờ nàng kinh ngạc khi thấy mình nhận ra hầu hết vật dụng trong phòng. Lại thêm một trường hợp khác của miền thời gian ngưng đọng nữa rồi, nàng nhủ thầm. Nhiều năm trước, ngôi nhà được trang hoàng nhờ tay của một chuyên gia thiết kế từ San Francisco. Nội thất thể hiện nét xa hoa của căn biệt thự nghỉ dưỡng trượt tuyết. Pamela ngầm đặt tên cho ngôi nhà này là Cầu Tiêu Thanh Nhã.
Nàng cẩn thận xem xét căn phòng tối một cách có hệ thống, bắt đầu từ mạn bên trái nơi lò sưởi bằng đá to tướng tạo thành phần lớn bức tường. Đến giữa phòng, nàng nhìn thấy một chiếc dép đi trong nhà chơ vơ chổng vó. Nó nằm trên tấm thảm ở một đầu chiếc sofa da màu nâu. Một gót chân trần tháp thoáng bên rìa cái gối tựa.
Irene sững người. Dạ dày quặn lên, nàng đi dọc theo dãy cửa sổ cho đến khi có thể chĩa thẳng đèn pin vào sofa.
Một phụ nữ đang nằm trên đống gối tựa. Cô mặc quần màu vàng nâu và áo lụa xanh dương. Gương mặt xoay vào trong. Mái tóc vàng xõa trên nền da nâu của chiếc ghế. Một cánh tay mảnh khảnh buông thõng xuống nền nhà.
Trên chiếc bàn nước thâm thấp bằng gỗ có một bình cocktail và một cốc martini đã cạn.
“Pamela.”Irene đấm lên khung cửa kính. “Pamela, dậy đi.”
Người phụ nữ trên ghế bành không động đậy.
Irene chụp tay nắm của cánh cửa trượt, dùng hết sức bình sinh đẩy mạnh. Cửa khóa.
Quay ngoắt người lại, nàng chạy ào ra khỏi vườn, ánh đèn pin quét qua quét lại đến điên loạn, rồi nàng vội vã đến chỗ cửa phòng vật dụng.
Nàng quỳ xuống, lần tay mò dưới bậc thềm cuối cùng. Ngón tay nàng quơ trúng một phong bì nhỏ dán ở mặt dưới tấm cao su phủ bậc thềm.
Phải loay hoay một lúc nàng mới gỡ được miếng băng keo dán lâu năm, cuối cùng cái phong bì cũng rơi xuống tay nàng. Nàng có thể cảm thấy sức nặng của chiếc chìa khóa bên trong. Vừa đứng dậy, nàng vừa xé toạc phong bì lấy cái chìa khóa rồi lập cập tra vào ổ.
Nàng mở cửa, lần tay đến công tắc đèn. Bóng đèn trên trần chớp chớp rồi bật lên ánh sáng yếu ớt soi rọi một mớ dụng cụ đi thuyền, câu cá và trượt nước có tuổi hàng thập kỳ.
Nàng chạy dọc theo hành lang tối vào phòng khách.
“Pamela, mình đây, Irene đây. Dậy đi.”
Nàng dừng lại bên sofa và với tay chụp lấy vai Pamela.
Da thịt bên dưới lần áo lụa mỏng lạnh băng. Nhân dạng của người phụ nữ này không lẫn vào đâu được.
Thời gian mười bảy năm đã để lại quá ít thay đổi trên gương mặt tuyệt đẹp của Pamela. Thậm chí ngay cả khi chết, cô vẫn là một nàng tóc vàng mang vẻ đẹp cổ điển quý tộc.
“Trời ơi, không.”
Irene bước thụt lùi, cố nén cơn nôn ọe chực trào lên. Một cách vô thức, nàng cho tay vào ví lấy điện thoại di động.
Một bóng người đang đi dọc theo hành lang tối om nối với kho dụng cụ.
Nàng quay ngoắt người lại, tay nắm chặt cây đèn pin nặng trịch. Ánh sáng chói lòa chiếu thẳng lên người Luke. Đó là tất cả những gì nàng có thể làm để ngăn tiếng thét gần như làm nàng nghẹt thở.
“Chết rồi à?” Luke hỏi, tiến đến ghế bành.
“Anh đang làm gì ở đây? Mà thôi.” Hỏi han gì để sau. Ngón tay nàng run rẩy nhấn phím 911. “Cô ấy lạnh lắm. Quá lạnh.”
Anh với xuống đặt ngón tay lên cổ họng của người phụ nữ đầy vẻ thành thục. Tìm xem có mạch đập hay không, Irene nghĩ. Nhìn cách anh làm, nàng biết đây không phải lần đầu tiên anh xử lý một xác chết.
“Chết thật rồi,” anh nói khẽ. “Có vẻ cô ta đã chết một lúc khá lâu.”
Cả hai liếc qua chiếc bình rỗng trên bàn. Kế bên là một lọ thuốc. Cả lọ thuốc này cũng rỗng nốt.
Irene cố chống chọi cảm giác tội lỗi đang dâng trào. “Lẽ ra tôi nên đến đây sớm hơn.”
“Tại sao?” anh hỏi. Anh khuỵu chân xuống để đọc nhãn dán trên lọ thuốc nhỏ. “Làm sao cô biết được chứ?”
“Tôi không thể, tôi cũng không biết,” nàng thều thào. “Nhưng tôi đã biết có điều gì đấy bất ổn khi cô ấy không bắt máy.”
Anh trầm ngâm xem xét xác chết. “Trước khi cô nhận phòng chiều nay thì người cô ta đã lạnh rồi.”
Dứt khoát anh chàng này có kinh nghiệm với các xác chết, Irene tự nhủ.
Giọng người trực tổng đài 911 sắc lạnh bên tai nàng, yêu cầu cho biết chuyện gì đã xảy ra.
Irene hít sâu, trấn tĩnh lại rồi mô tả chi tiết một cách nhanh chóng và chính xác hết sức. Tập trung vào sự kiện giúp nàng trấn tĩnh phần nào.
Cuộc gọi vừa kết thúc thì một cơn tê cứng lạ kỳ đã xâm chiếm nàng. Nàng lóng ngóng suýt làm rơi chiếc điện thoại trước khi có thể bỏ nó trở lại túi xách. Nàng không thể nhìn cái xác thêm lần nữa.
“Chúng ta không cần đợi trong này,” Luke vừa nói vừa kéo cánh tay nàng. “Ta đi ra ngoài nào.”
Nàng không cãi lại. Anh đưa nàng trở ra theo lối dọc hành lang, qua căn tiền sảnh tới bậc tam cấp đằng trước nhà.
“Anh đến đây bằng cách nào?”
Nàng nhìn quanh lối chạy xe. “Xe của anh đâu?”
“Tôi đậu nó ở phía cuối đường.” Nàng choáng váng hiểu ra. “Anh theo dõi tôi.”
“Ừ.”
Giọng anh chẳng có vẻ xin lỗi, hay ngượng ngùng hoặc lóng ngóng gì. Chỉ là một câu tuyên bố đơn giản, ừ, tôi theo dõi cô đó. Vậy thì sao nào? Cơn giận làm nàng sôi người, làm tan chảy một phần cảm giác tê cứng vừa rồi. “Tại sao anh làm vậy? Anh không có bất cứ quyền gì...”
“Người phụ nữ trên chiếc sofa trong kia,” anh nói, cắt ngang dòng dung nham phẫn nộ của nàng bằng thái độ trịch thượng của người quen ra lệnh. “Đó có phải là người cô cố gắng liên lạc suốt tối nay không?” Nàng nghiến răng, hai tay khoanh chặt trước ngực. “Nếu anh không trả lời câu hỏi của tôi thì tôi thấy không có lý do gì để trả lời anh.”
“Tùy cô thôi, thưa cô Stenson.” Anh hơi xoay đầu hướng về phía có tiếng còi hụ. “Nhưng rõ ràng cô quen biết nạn nhân.”
Irene ngập ngừng. “Chúng tôi từng là bạn rất lâu rồi. Tôi chưa từng gặp hoặc nói chuyện với cô ấy suốt mười bảy năm qua.”
“Tôi rất tiếc,” anh đột nhiên dịu giọng, ánh mắt ảm đạm đến lạ kỳ. “Một người thân tự sát lúc nào cũng là sự thật khó tiếp nhận với những người còn lại.”
“Tôi không chắc đây là do tự sát,” nàng đáp, trước khi ngừng lại để suy nghĩ.
Anh cúi đầu, tiếp thu một giả thiết khác. “Có thể là tai nạn do uống thuốc quá liều.”
Nàng cũng không tin khả năng đó nốt, nhưng lần này nàng quyết định im lặng.
“Tại sao tối nay cô đến gặp cô ta?” Luke hỏi.
“Anh quan tâm làm gì?” nàng đốp chát lại. “Tại sao anh theo tôi đến đây?”
Một chiếc xe cảnh sát rẽ vào lối xe chạy trước khi anh kịp trả lời, ấy là giả dụ như anh có trả lời, nàng rầu rĩ nghĩ. Loạt ánh sáng chói lòa nhấp nháy trong đêm đen. Tiếng còi hụ đinh tai đến nỗi nàng bất giác đưa tay lên bịt tai lại.
Đột nhiên tiếng còi tắt ngấm. Một cảnh sát mặc đồng phục bước xuống xe. Anh ta liếc nhìn Irene trước rồi ngay lập tức quay sang Luke.
“Nhận tin báo có xác chết,” anh ta nói.
Luke giật ngón tay cái chỉ về lối hành lang ngay sau lưng. “Phòng trước.”
Viên cảnh sát thò đầu nhìn vào tiền sảnh. Xem ra anh ta không sẵn lòng đi vào nhà. Irene nhận ra anh ta còn khá trẻ. Trong suốt sự nghiệp ngắn ngủi tại Dunsley này, có lẽ anh ta chưa tiếp cận với nhiều xác chết lắm.
“Tự sát à?” viên cảnh sát hỏi, có vẻ không thoải mái.
“Hoặc quá liều,” Luke đáp. Anh liếc sang Irene. “Ít ra là trông có vẻ như thế.”
Viên cảnh sát gật đầu nhưng vẫn chẳng tiến vào điều tra gì cả.
Thêm một loạt còi hụ nữa từ đằng xa. Họ đồng loạt nhìn ra đường. Một xe cứu thương và một xe cảnh sát nữa chạy về phía căn nhà.
“Chắc là sếp,” viên cảnh sát nói, lộ rõ vẻ nhẹ nhõm.
Hai chiếc xe đậu ngay sau xe của viên cảnh sát đến trước. Hai nhân viên y tế xuống xe cứu thương và mang găng tay vào. Cả hai đều nhìn Luke chờ đợi.
“Phòng trước,” Luke lặp lại.
Irene thở dài. Kiểu người lãnh đạo, nàng nhắc nhở mình. Kiểu người mà ai cũng tự động tìm đến xin chỉ thị trong cơn khủng hoảng.
Các nhân viên y tế biến mất trong hành lang. Viên cảnh sát trẻ bước theo sau, sẵn lòng nhường cho nhân viên y tế dẫn đường.
Cửa xe cảnh sát thứ hai bật mở. Một người đàn ông to lớn bệ vệ tầm bốn mươi bước ra. Mái tóc nâu nhạt của anh ta thưa dần trên đỉnh đầu. Gương mặt góc cạnh với những đường nét rắn rỏi phủ nét u ám. Không như Pamela, năm tháng đã để lại dấu ấn rõ nét lên Sam McPherson, Irene nghĩ thầm.
Anh ta lướt mắt xem xét Irene từ đầu đến chân. Ánh mắt cho thấy anh ta vẫn chưa nhận ra nàng. Anh ta quay sang Luke, cũng như những người khác.
“Danner,” anh ta hỏi. “Anh làm gì ở đây thế?”
“Chào sếp.” Luke hất cằm về phía Irene. “Tôi đi với cô Stenson. Cô ấy là khách ở nhà nghỉ.”
“Stenson ư?” Sam quay ngoắt người lại và nhìn Irene kỹ hơn. “Irene Stenson?”
Nàng xốc lại tinh thần. “Chào Sam.”
Anh ta nhăn mặt. “Tôi chẳng thể nào nhận ra cô. Cô thay đổi nhiều quá. Cô quay về đây làm gì vậy?”
“Tôi đến gặp Pamela. Giờ anh là cảnh sát trưởng ở đây rồi à?”
“Tiếp quản sau khi Bob Thornhill mất,” Sam thờ ơ đáp. Anh ta nhìn về phía cửa, vẻ căng thẳng lướt qua mặt. “Cô chắc là Pamela trong đó chứ?”
“Chắc.”
“Tôi cũng đã e rằng như thế.” Anh ta thở dài ngao ngán. “Nghe đồn cô ấy trở lại thị trấn tuần này. Nhưng tối nay khi nhận cuộc gọi, tôi đã hy vọng chỉ là do nhầm lẫn. Biết đâu cô ấy cho bạn mình ở thành phố mượn nhà vài ngày.”
“Đó là Pamela,” Irene đáp.
“Chết tiệt.” Sam lắc đầu, trông đau khổ tang thương nhưng đành cam chịu sự đã rồi. “Cô là người tìm thấy cô ấy à?”
“Vâng.”
Anh ta dành cho Luke một cái nhìn dò xét ngắn rồi trở lại với nàng. “Chuyện xảy ra như thế nào?”
“Chiều nay tôi tới Dunsley rất trễ,” nàng đáp. “Tôi cố gọi cho Pamela vài lần suốt buổi tối. Không ai trả lời máy. Tôi bắt đầu thấy lo lắng nên cuối cùng quyết định đến đây xem cô ấy có nhà không.”
“Cathy Thomas, người nhận cuộc gọi của cô, nói rằng cô báo cáo có thuốc và rượu ở hiện trường.”
“Đúng vậy,” Irene đáp. “Nhưng...” Nàng định bảo nàng không nghĩ rằng Pamela tự sát, nhưng Luke quắc mắt nhìn khiến nàng, dù bực mình lắm, vẫn ngập ngừng không nói tiếp.
Ngay lúc nàng chuẩn bị tiếp lời thì Sam đã lên tiếng.
“Cứ nghĩ là cô ấy đã khá ổn rồi chứ,” Sam nói khẽ. “Cô ấy cứ vào ra trung tâm cai nghiện mãi sau khi tốt nghiệp, nhưng vài năm qua, cô ấy có vẻ như đang tránh xa ba cái thứ rác rưởi ấy rồi.”
“Lọ thuốc trong kia có kê toa trên đó,” Luke nói.
Sam nheo nheo mắt. “Chắc cô ấy lại tái điều trị.” Anh ta tiến vào tiền sảnh và dừng lại ở ngay ngưỡng cửa, quay lại nói với Irene. “Cô sẽ ở lại đây một thời gian nữa chứ?”
“Tôi định sáng mai sẽ đi,” nàng nói dù trong lòng hiện không chắc sẽ làm gì tiếp.
“Sáng mai tôi muốn hỏi cô vài điều. Thủ tục thôi mà.” Sam hất đầu về phía Luke. “Cả anh cũng vậy nhé, anh Danner.”
“Được rồi,” Luke đáp.
Irene gật đầu, không nói gì.
“Tôi sẽ gặp cả hai tại đồn khoảng chín rưỡi sáng mai,” Sam nói.
Anh ta biến mất vào trong nhà. Luke nhìn Irene. “Cô không hẳn là người lạ ở thị trấn Dunsley này, phải không?”
“Tôi lớn lên ở đây. Rời khỏi đây năm mười lăm tuổi.”
“Đây là lần đầu cô trở về à?”
“Ừ.”
Anh chăm chú nhìn nàng trong ánh sáng của bóng đèn trước thềm. “Tôi cho rằng cô có kỷ niệm không đẹp đối với nơi đây.”
“Những gì tôi có ở đây là ác mộng thì đúng hơn, anh Danner ạ.”
Nàng băng qua lối đi bước lên xe mình.
Đây sẽ là một trong những đêm thật dài đây, Irene vừa nhủ thầm vừa khởi động máy, một trong những đêm dài vô tận nho nhỏ khi mà không một thói quen thông thường nào có tác dụng.
Tác giả :
Jayne Ann Krentz