Đại Tranh Chi Thế
Quyển 3 - Chương 193: Huyết chiến sa trường (Thượng Hạ)
“Keng! Chát!” Hai tiếng khô khốc vang dội, hai thanh trường mâu chạm nhau tóe lửa, hai chiếc chiến xa đã xẹt qua, tuy mới giao chiến có một hiệp, Vương Tôn Hùng hai chân run rẩy, lảo đảo đứng không vững trên xe, vội đưa tay bấu chặt thanh gỗ thế mới đứng thẳng được, cánh tay tê tái đau nhói từng chập.
“Lao nhọn!”
Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng lại cùng lúc hét lớn, Tái Cừu cắm lại thanh trường mâu trên tay lên xe, nhổ ra một cây lao dài gần sáu thước, cán tròn như trứng, chĩa từ phía sau hướng về trước, đầu mũi lao sắc nhọn chỉ thẳng vào hàng binh sĩ cầm đoản kiếm đang đỡ khiên theo sau sát chiến xa quân Ngô.
Từ trên đồi cao nhìn xuống, chiến xa hai bên cuốn tung một lớp bụi mù mịt, nhìn như một cơn sóng khổng lồ, gầm thét dữ tợn ập vào phía đối phương, khi chiến xa hai bên từng chiếc từng chiếc lướt qua nhau, cứ như hai luồng sóng lớn đập mạnh vào nhau, bọt sóng bật tung tóe lên cao, trong con sóng mờ mờ ảo ảo ẩn hiện từng lớp chiến xa, từng hàng chiến sĩ, như một dãy đá ngầm nhô lên giữa sóng biển mênh mông.
Hai con sóng va mạnh vào nhau, máu tươi bắn ra nhuộm đỏ cả mặt đất, các binh sĩ đứng trên chiến xa không đâm trúng đối phương bị dính đòn rú lên đau đớn ngã lăn ra, bị chiến xa kéo lê, bị bánh xe nghiền nát, hóa thành mớ thịt bầy nhầy máu me hòa chung với đất đỏ…
Tiếp theo hàng kiếm thủ đụng phải lao nhọn từ chiến xa của đối phương đâm tới, liền bị bật lùi lại mấy mét, dù cho tấm khiên kiên cố thế nào đi nữa, dưới sức công phá từ tốc độ lao nhanh của chiến xa cộng với độ sắc nhọn của cây lao dài, hàng chiến xa va vào hàng kiếm thủ che khiên như cây kim đâm thủng mảnh giấy, các binh sĩ che khiên không phải bị chiến xa hất tung lên trời, thì cả thân người bị lao nhọn đâm xuyên qua ngực lôi theo, rồi sau đó là tên thứ hai, tên thứ ba…, cứ như xiên kẹo hồ lô vậy.
Khi lao nhọn bị chém gãy hoặc chiến xa hết thế lao nhanh không còn tiếp tục đâm tới được nữa, lúc này chiến xa đã lọt vào giữa vòng vây quân địch, bánh xe vẽ theo một vệt máu dài từ từ chạy chậm lại, binh lính trên xe vứt bỏ lao dài, rút kiếm, kích, mâu ra chiến đấu, Khánh Kỵ và Tái Cừu đứng trên xe đâm chém quyết liệt với đám quân Ngô cầm kiếm và trường mâu vây lấy chiến xa. Hàng kiếm thủ và trường mâu thủ bên quân Ngô xông lên huyết chiến với quân chủng cùng loại bên quân của Khánh Kỵ. Khắp chiến trường đều là vang vọng tiếng hò hét xung trận, tiếng giẫm đạp lên nhau, tiếng binh khí va chạm chan chát, tiếng rú lên đau đớn…
A Cừu tập trung điều khiển chiến xa, không ngừng thúc ngựa thay đổi vị trí, chiến xa vừa di chuyển vừa chiến đấu, tránh cho bị bộ binh kẻ địch vây khốn không thoát ra được, đồng thời dáo dác nhìn xung quanh trong thiên binh vạn mã, truy tìm chiến xa của chủ tướng phe địch. Các chiến xa khác bên quân Khánh Kỵ cũng đang cố gắng tiếp cận chủ soái, một mặt chiến đấu với quân địch, một mặt thu ngắn khoảng cách từ từ, tiếp ứng lẫn nhau, tránh bị quân địch tấn công cả trước mặt sau lưng.
Mặc dù là vậy, tấm giáp da dày bốn lớp trên người Khánh Kỵ đã có vài chỗ bị đâm thủng, nhiều vết trầy xướt, may mà có chiến xa hai bên trợ chiến, cung thủ trên xe và Tái Cừu đang điên tiết bắn giết, Khánh Kỵ mới không bị thụ thương. Còn A Cừu điều khiển chiến xa lúc này đã đổi tư thế từ ngồi thành đứng thẳng, một tay giữ chặt dây cương buộc bốn con chiến mã, một tay cầm đoản kiếm, không ngừng “leng keng leng keng” đỡ gạt binh khí của quân địch đâm tới, hai mắt trợn tròn giận dữ, hơi thở phập phù tung cả lọn râu dưới cằm, nhìn bộ dạng còn đáng sợ hơn cả Khánh Kỵ. (Nói thêm: Khi giáp chiến, muốn vô hiệu hóa chiến xa phe địch cách tốt nhất là tiêu diệt người điều khiển xe, vì người điều khiển xe bận đốc thúc ngựa chiến kéo xe, lại không cầm binh khí dài để chiến đấu được, chỉ còn cách cầm đoản kiếm chống đỡ, do đó quân Ngô chủ yếu tập trung tấn công A Cừu, chỉ cần người điều khiển xe bị tiêu diệt, chiến xa không thể chạy tiếp, lúc đó mới bao vây tiêu diệt binh lính trên xe cũng chưa muộn.)
“Phục binh của Lương Hổ Tử đâu rồi, sao giờ này còn chưa xuất hiện?” Thúc Tôn Diêu Quang đứng trên đồi theo dõi trận chiến, dậm chân liên hồi: “Ta phải xuống dưới kia!”
Quý Tôn Tiểu Man điệu đà xoay xoay cây ngọc tiêu trong tay, quay qua hỏi: “Khánh Kỵ dặn chúng ta đứng ở đây xem náo nhiệt, cô xuống núi chẳng lẽ nhìn rõ hơn khi đứng ở đây à?”
Thúc Tôn Diêu Quang nguýt dài: “Đứng xem ở đây, có bằng trực tiếp xuống đó tham chiến rõ hơn không?” Nói xong không chờ Tiểu Man trả lời quay phắt người bỏ đi.
Quý Tôn Tiểu Man chìa môi nhủ thầm: “Hình như cũng có lí, cô cũng không sợ nguy hiểm, chẳng lẽ ta lại sợ?”
Nghĩ vậy Tiểu Man cũng sải bước đuổi theo, hai tì nữ vội ôm đàn bám theo sau.
Khánh Kỵ đứng trên chiến xa, một mặt cầm trường mâu chiến đấu, một mặt đưa mắt quan sát tình hình chiến sự xung quanh. Lúc này binh sĩ hai bên đã lao vào hỗn chiến loạn xạ, tiếng thét của tướng lĩnh không còn nghe rõ được nữa, chỉ dựa vào tiếng trống tiếng chiêng truyền quân lệnh chỉ huy chiến đấu, đám quân Ngô dám liều chết xông vào Khánh Kỵ ít đi thấy rõ, dù sao Khánh Kỵ cũng từng là tướng quân trẻ tuổi oai danh nhất trong quân đội Ngô quốc, với lại hắn có biệt danh “Muôn người khó địch”, binh lính của Ngô vừa kính nể vừa sợ hãi trước Khánh Kỵ, giờ không có tướng lĩnh đốc chiến, đều cố tránh chiến xa của Khánh Kỵ ra càng xa càng tốt, chỉ quay sang chém giết với đám binh lính bình thường, nhờ thế Khánh Kỵ được lơi tay quan sát tình hình trên chiến trường.
Binh sĩ đôi bên hỗn chiến loạn xạ, bộ binh còn giữ được đội hình, chiến xa một khi lao thẳng về phía quân địch đều xông vào trận địa bộ binh đối phương, dàn chiến xa trước quân địch đông đúc không thể quay đầu lại, cứ thế mà tiến lên giết địch, lúc này Vương Tôn Hùng đã dẫn đội chiến xa và bộ binh quân Ngô xông vào đến tận hậu trận của Khánh Kỵ, tương tự Khánh Kỵ và chiến xa của mình cũng đang ở hậu trận quân Ngô, ở giữa là bộ binh của hai bên đang giao chiến ác liệt.
“Thời cơ này tốt lắm. Lương Hổ Tử từ trên cao đánh ập xuống, chắc sẽ chiếm trọn ưu thế.”
Khánh Kỵ vừa nghĩ đến đấy, phía ngang hông chiến trường vang lên tiếng hò hét xung trận. Hai cánh quân đang giao chiến y như hai con sóng mạnh đập vào nhau, bọt sóng tung tóe, ngay bên bìa rừng bên hông đột nhiên có một cánh quân xông thẳng ra lao vào chỗ tiếp giáp giữa hai ngọn sóng, người đi đầu là độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử, tay vung thanh kiếm sáng loáng, hai bên trái phải có hai dũng sĩ cầm mâu theo sát, sau lưng Lương Hổ Tử tiếng gào như sấm, đã có mấy trăm người điên cuồng lao ra từ trong rừng, phía sau còn nhiều người liên tiếp ùa ra không ngớt, chẳng biết được hắn có bao nhiêu binh sĩ mai phục tại đây.
Những binh sĩ này đều dùng binh khí thô sơ, xem giống như một thanh gỗ bự, một đầu được bọc bằng đồng, nhưng binh khí này lạ ở chỗ đầu thanh gỗ bự còn tua tủa những chiếc gai nhọn, không dài lắm, chỉ độ nửa thước, những chiếc gai cũng không sắc lắm, vì quá sắc chạm phải áo giáp sẽ bị gãy, những chiếc gai to bè như ngón tay cái, nếu đập vào người thì chắc lủng một lỗ to, sức sát thương không cần nói cũng hiểu.
Đấy chính là lí do Khánh Kỵ trang bị vũ khí do hắn phát minh riêng này cho đám lính mới tuyển mộ, vì sử dụng vũ khí này không cần tập luyện nhiều, chỉ cần có sức khỏe là được, đại đội lang nha bổng được phát huy tối đa sức chiến đấu nhờ vũ khí, đám tân binh mới tuyển lựa là bọn nông dân khỏe mạnh, nếu không thì là bọn lưu manh vô lại hung hăng, tính kỉ luật, tinh thần hợp tác, kĩ năng chiến đấu đều yếu kém, nhưng nếu lựa chọn binh khí phù hợp, thêm vào tính bất ngờ xông ra khi hai bên đang hỗn chiến, trên tay lại cầm binh khí quái lạ có tác dụng uy hiếp tinh thần địch, mỗi khi lang nha bổng to bự được giơ lên đập xuống, những chiếc gai đồng khoan từng lỗ to trên tấm thân tội nghiệp của quân Ngô, máu thịt văng tung tóe, quân Ngô lập tức hoảng loạn.
Cánh quân này phóng chạy như bay, không ngừng phang lang nha bổng túi bụi vào quân Ngô chắn trước mặt, theo chân Lương Hổ Tử điên cuồng lao lên, chỉ một lúc đã chia tách được người ngựa hai bên đang hỗn chiến ra, sau đó quay sang đám quân Ngô bị sót lại không kịp rút lui, phang tới tấp vào đầu vào cổ của chúng, có cánh quân này nhảy vào tham chiến, quân Ngô bị chia cắt ra làm hai, một trăm chiếc chiến xa và số ít bộ binh theo sau của Vương Tôn Hùng bị kẹt lại ở phía hậu quân của Khánh Kỵ, lúc này bị quân Khánh Kỵ bao vây mấy lớp không thoát ra được, cung tên bắn ào ạt về phía ấy, lính Ngô dính tên lăn ra chết như rạ, xong quân Khánh Kỵ lại đồng loạt đâm trường mâu, hoặc đâm người, hoặc nhằm vào ngựa, ngựa chết chiến xa không di chuyển được thành ra vật cản trở, cục diện trận chiến thay đổi rõ rệt, ưu thế lúc này hoàn toàn thuộc về quân của Khánh Kỵ.
Còn bên kia chiến tuyến, mấy chục chiến xa của Khánh Kỵ vẫn giữ được đội hình phối hợp, xông pha vào hậu quân của Vương Tôn Hùng, theo sau là kiếm thủ bám sát chiến xa, tiếp cận đại đội trường mâu của quân Ngô, khi giao chiến gần ưu thế về vũ khí lập tức hiện rõ, nhất là đám lính cầm lang nha bổng do Lương Hổ Tử chỉ huy, cứ giơ lên phang vào đầu lính Ngô, dù cho có đội mũ sắt cũng trào óc ra, đám lính thường đâu được đội mũ sắt bảo vệ, bị đập trúng đầu nát cả sọ, bị đánh trúng thân thì rú lên thảm thiết, trong một lúc tiếng kêu la làm binh sĩ quân Ngô hoảng loạn cả lên, không còn ý chí chiến đấu. Đúng lúc này người bên Khánh Kỵ lại la to danh hiệu của hắn, khơi lại kí ức bị lãng quên về chàng trai đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc của binh lính Ngô.
Quân Ngô bại trận như núi đổ!
Thời hiện đại đã không còn cảnh tác chiến tập hợp mấy vạn người chen chúc chém giết nhau trên chiến trường chật hẹp, trong điện ảnh cũng hiếm khi lột tả được cảnh chân thật của chiến trận, nên khó mà tưởng tượng được cảnh bại trận như núi đổ của quân Ngô lúc này là như thế nào? (Câu này tác giả tự phân bua chăng?)
Binh sĩ là lá gan của tướng, tướng là linh hồn của binh sĩ, một khi chia cắt binh sĩ và tướng chỉ huy ra, binh sĩ có đông cũng như một nhúm cát rời rạc, nếu thống soái phe địch vốn là người mà binh sĩ e sợ tận đáy lòng, bị tấn công mạnh mẽ sẽ khiếp sợ hơn gấp bội, trong trận chiến hôm nay, không biết là ai dẫn đầu bỏ chạy, chỉ thấy quân Ngô như gặp cơn đại dịch lan tỏa, rất nhanh, binh sĩ phía Ngô mất hết ý chí chiến đấu quay đầu cắm cổ chạy như điên.
Khánh Kỵ cầm mâu oai vệ đứng trên xe, ra lệnh nổi hồi chiêng dừng truy đuổi, cho dù là vậy, đám lính mới của Lương Hổ Tử xưa nay quen thói hung hăng, lại không có ý thức gì về kỉ luật quân đội vẫn điên cuồng truy sát quân Ngô, phải mất hồi lâu mới chịu dừng lại. Khánh Kỵ quay đầu lại nhìn về hậu quân của mình, một trăm chiếc chiến xa của Vương Tôn Hùng bị bao vây túm tụm lại một chỗ, ra sức chống đỡ một cách tuyệt vọng từng lớp từng lớp binh sĩ không ngừng lao lên của Khánh Kỵ. Nhìn cảnh tượng ấy, như một tảng đá ngầm nhô lên giữa biển khơi, bị từng đợt sóng trắng xóa vỗ ập vào, lúc ẩn lúc hiện.
Khánh Kỵ không nhịn được nỗi vui mừng, trên môi nở một nụ cười mãn nguyện.
Vào thời này, muốn phân biệt thành phần trong quân đội là rất dễ. Lúc đầu, những người có tư cách mặc áo giáp lên chiến trường chiến đấu, chỉ có quốc dân và quý tộc, quốc dân chính là người ở trong thành thị, còn bọn nông dân chân đất quê mùa, gọi là dã nhân, họ không có tư cách đi đánh trận. Sau này, quy mô chiến tranh ngày càng mở rộng, dân nông thôn cũng bị triệu tập vào quân đội trở thành binh sĩ, nhưng quý tộc, quốc dân, dã nhân có sự phân chia giai cấp rõ ràng, binh lính có tư cách cưỡi chiến xa ra trận, đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc, binh lính theo sau chiến xa hỗ trợ tác chiến thì là quốc dân có khả năng chiến đấu cao, có nghĩa là bây giờ quân Ngô bị cắt làm đôi, đám quân Ngô đang bị vây khốn ở hậu quân Khánh Kỵ mới chính là cánh quân chủ lực tinh nhuệ thật sự.
Đám lính mới cầm lang nha bổng đang truy đuổi quân Ngô bỏ chạy không nghe theo hiệu lệnh lui quân, nhưng cũng không dám chống lại đội chiến xa của Khánh Kỵ, đợi khi mấy chục chiếc chiến xa của Khánh Kỵ chạy tới trước mặt quát tháo, đám lưu manh vô lại đang hăng máu này mới chịu dừng lại, kéo lê lang nha bổng dính bê bết máu thịt quay về, trên đường đi tiện thể cúi xuống thu lụm của cải trên xác chết nằm la liệt trên chiến trường.
Đám lính chịu rời bỏ quê hương tòng quân này, cho dù là nông dân chân đất, hay là dũng sĩ các nước chư hầu đến đầu quân, tất cả đều là bọn hung hăng, nếu ở thành thị thì trong mắt dân lành họ chẳng qua chỉ là một đám lưu manh vô lại, nhưng trên chiến trường khốc liệt, họ lại trở thành những chiến sĩ trời sinh, thắng lợi trong trận chiến hôm nay, phần lớn được quyết định bởi tính hung bạo của đại đội lang nha bổng này.
Đại đội lang nha bổng từ từ tập hợp lại, dán mắt vào chiến xa quân Ngô đang vất vả chống trả giữa vòng vây, hai mắt chúng lộ rõ tia sáng tham lam. Họ biết những binh lính Ngô đang cưỡi chiến xa kia xuất thân tầng lớp quý tộc, đó mới là người giàu thật sự, tuy khi ra trận không ai mang theo của cải bên mình, nhưng bao nhiêu binh khí, áo giáp, ngọc bội, tất cả đều rất có giá trị, đám lính hung hăng này thèm thuồng nắm chặt lang nha bổng trong tay, ánh mắt háo hức trông theo thống soái của họ - Độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử.
Khánh Kỵ đã đánh xe quay về, lúc này Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man vừa từ trên núi đi xuống. Nhìn thấy hai người, Khánh Kỵ chau mày nói: “Hai nàng sao lại xuống đây? Cứ đứng phía sau chờ đợi, đừng lại gần.”
Dứt lời Khánh Kỵ quay đầu trở lại chiến trường, đứng trên xe hắn nhìn rất rõ, phía không xa đằng kia là chiến xa của Vương Tôn Hùng. Chiến xa đó sắp xông qua hậu quân quay đầu lại, nhưng nay bị đại đội lang nha bổng của Lương Hổ Tử chặn mất đường lui, không nhận được tiếp viện bị bao vây ở giữa, tiến không được lùi cũng không xong, hình như bánh xe của hắn đã bị phá hỏng, lọt thỏm vào hố cát không nhúc nhích được.
Vương Tôn Hùng xem ra cũng có tài chỉ huy, trong lúc lòng quân hoang mang vẫn ra lệnh cho mười mấy chiến xa lại gần, sau đó liên kết đống chiến xa lại với nhau, tạo thành một lá chắn, tất cả binh sĩ đều nhảy xuống xe, trong cùng là cung thủ, bên ngoài là kiếm thủ trường mâu phối hợp với nhau, tạo thành một đội hình phòng thủ liên hoàn chặt chẽ, bọn chúng không ai hò hét, chỉ cắn rắn im lặng tập trung chống trả.
“La to lên, bảo chúng đầu hàng, sẽ được tha mạng!” Khánh Kỵ chăm chú nhìn trong giây lát, hạ giọng ra lệnh.
Tái Cừu lập tức dẫn theo mấy mươi binh sĩ la to mệnh lệnh của Khánh Kỵ, nhưng câu trả lời chỉ là tiếng binh khí leng keng chống cự, một vòng tròn lớn đang vây lấy một vòng tròn nhỏ bên trong, xen giữ hai vòng tròn là một khoảng không hẹp cho binh khí chạm nhau, binh sĩ hai bên đột nhiên im bặt chăm chú chiến đấu, giờ chỉ còn nghe thấy tiếng binh khí va nhau, máu văng tung tóe, người bị đâm trúng nhanh chóng đổ rạp xuống, trở thành miếng giẻ bị xung quanh xông vào giẫm đạp lên để lấp vị trí, ngoại trừ tiếng binh khí, hơi thở hổn hển như trâu của các binh sĩ vang tận bên tai Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nhắm nghiền mắt, thở dài một hơi.
“Công tử, bọn chúng đã quyết tâm chống cự đến cùng, hơn nữa, lão tặc Cơ Quang đã có lệnh, họ cũng không thoát được đâu, tuyệt đối không dám buông vũ khí đầu hàng. Xin công tử đừng mềm lòng.”
Tái Cừu sợ Khánh Kỵ thương hại quân Ngô, sẽ mở một con đường sống cho đám quân địch hung hăng này. Nghe Khánh Kỵ thở dài, vội lên tiếng nhắc nhở.
“Ta biết.”
Khánh Kỵ nhảy phóc xuống xe, đến bên Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, âu yếm hỏi: “Chiến trường máu me thế này, không sợ à?”
Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười dịu dàng, nhẹ giọng nói: “Không sợ, còn nhớ thiếp từng nói gì với chàng không?”
“Gì vậy?”
“Chàng nếu đi giết người, thiếp sẽ theo chàng đi giết người!”
Khánh Kỵ ngớ người, sau đó nở một nụ cười mãn nguyện. Hắn đương nhiên còn nhớ, lúc đó hắn thắng được Thúc Tôn Diêu Quang làm tì nữ của hắn, sau đó sứ giả của Ngô quốc đến Lỗ, Quý Tôn Ý Như có ý e dè, muốn đuổi hắn ra khỏi Lỗ quốc, trong hoàn cảnh nguy nan, nàng đã bày tỏ tấm lòng với một vương tử lưu vong như hắn.
Tiếng binh khí va nhau văng vẳng không ngớt, gió lạnh rít vào trong khe núi, mang theo hơi lạnh từ phương Bắc, tà áo nhuốm máu đỏ của Khánh Kỵ bị gió thổi phất phơ. Khánh Kỵ nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Thúc Tôn Diêu Quang, quay qua ra lệnh: “Không chịu đầu hàng thì giết sạch, chỉ để lại một mình Vương Tôn Hùng.”
Hai huynh đệ A Cừu, Tái Cừu mở to mắt ra đợi lệnh, khi Khánh Kỵ vừa dứt lời, hai người vội mở miệng hô tuân lệnh rồi chạy đi sắp xếp.
“Ta từng nghe nàng đánh đàn chưa nhỉ?”
“Chàng nói thử xem?”
“Ừm…Hình như là chưa, ta chỉ mới nghe nàng hát.”
Thúc Tôn Diêu Quang cảm thấy lạ: “Có chuyện này ư? Thiếp từng hát cho chàng nghe rồi à?”
Khánh Kỵ nhướn người về phía trước, đặt cằm vào bờ vai thon thả của Diêu Quang, nói nhỏ bên chiếc tai nhỏ nhắn xinh xinh của nàng: “Tất nhiên là có, lúc ở Phí thành, trong tẩm thất của nàng, nàng ứ a ứ a…”
“Bốp!” Lưng Khánh Kỵ bị Diêu Quang vỗ mạnh, nàng đỏ mặt nhìn hắn, đôi mắt e thẹn, chớp chớp liên hồi.
Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, đứng thẳng người ung dung nói: “Ra đại sảnh, vào tẩm thất, lên chiến trường, nữ nhân thế này biết tìm đâu ra? Ha ha, còn nhớ khúc nhạc Bạch thủy thao thao không? Đàn cho ta nghe, thế nào?”
“Được!” Thúc Tôn Diêu Quang nở một nụ cười dịu dàng với Khánh Kỵ.
Tiếng đàn thánh thót vang lên trên chiến trường tràn ngập sát khí, len lỏi giữa ngàn vạn binh sĩ đang hăng say chiến đấu, trong một lúc như át đi mùi tanh của máu, át cả tiếng leng keng khô khốc khi binh khí va nhau.
“Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu. Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu…”
Khánh Kỵ ngẩng đầu lên nhìn vào bầu trời bao la trên chiến trường, khúc nhạc như một dòng sông nhỏ róc rách len lỏi trong tim hắn, tâm trí vượt qua thiên sơn vạn thủy, giờ đã bay cao bay xa tận bầu trời Ngô quốc: Tôn Vũ, Anh Đào, các ngươi hiện giờ…đã tấn công vào Ngô hay chưa?
Quý Tôn Tiểu Man hai mắt ngấn lệ lầm lủi bước sang một bên, nàng không chịu thừa nhận thấy cảnh Diêu Quang và Khánh Kỵ âu yếm, trong lòng cảm thấy không vui. “Vì gió ở đây thổi mạnh, nên cát bay vào mắt, nhất định là vì lí do này.” Tiểu Man đang tự an ủi trong lòng.
Nàng đưa tay vuốt ve cây tiêu ngọc giắt ở dây lưng , tuy nàng muốn lập tức chứng minh cho Khánh Kỵ thấy, thật ra tài thổi sáo của nàng hay hơn gấp vạn lần tài đánh đàn của Thúc Tôn Diêu Quang, nhưng hiện giờ Tiểu Man lại không muốn cùng hòa tấu với tiếng đàn của Diêu Quang chút nào.
Đưa mắt dáo dác nhìn xung quanh, Tiểu Man phát hiện trên một chiếc chiến xa ngã chổng bánh có treo mớ bùi nhùi gì đó, thì ra là một tấm lưới. Nàng lại gần thu tấm lưới trong tay, nhón gót nhìn Vương Tôn Hùng thọ thương ở vai, đang điên cuồng chống cự như một con hổ bị dồn vào đường cùng, nắm chặt Hàm Quang kiếm trong tay, Tiểu Man đột nhiên nhảy vút lên không trung, nhẹ tựa chim én, lao về phía ấy…
“Lao nhọn!”
Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng lại cùng lúc hét lớn, Tái Cừu cắm lại thanh trường mâu trên tay lên xe, nhổ ra một cây lao dài gần sáu thước, cán tròn như trứng, chĩa từ phía sau hướng về trước, đầu mũi lao sắc nhọn chỉ thẳng vào hàng binh sĩ cầm đoản kiếm đang đỡ khiên theo sau sát chiến xa quân Ngô.
Từ trên đồi cao nhìn xuống, chiến xa hai bên cuốn tung một lớp bụi mù mịt, nhìn như một cơn sóng khổng lồ, gầm thét dữ tợn ập vào phía đối phương, khi chiến xa hai bên từng chiếc từng chiếc lướt qua nhau, cứ như hai luồng sóng lớn đập mạnh vào nhau, bọt sóng bật tung tóe lên cao, trong con sóng mờ mờ ảo ảo ẩn hiện từng lớp chiến xa, từng hàng chiến sĩ, như một dãy đá ngầm nhô lên giữa sóng biển mênh mông.
Hai con sóng va mạnh vào nhau, máu tươi bắn ra nhuộm đỏ cả mặt đất, các binh sĩ đứng trên chiến xa không đâm trúng đối phương bị dính đòn rú lên đau đớn ngã lăn ra, bị chiến xa kéo lê, bị bánh xe nghiền nát, hóa thành mớ thịt bầy nhầy máu me hòa chung với đất đỏ…
Tiếp theo hàng kiếm thủ đụng phải lao nhọn từ chiến xa của đối phương đâm tới, liền bị bật lùi lại mấy mét, dù cho tấm khiên kiên cố thế nào đi nữa, dưới sức công phá từ tốc độ lao nhanh của chiến xa cộng với độ sắc nhọn của cây lao dài, hàng chiến xa va vào hàng kiếm thủ che khiên như cây kim đâm thủng mảnh giấy, các binh sĩ che khiên không phải bị chiến xa hất tung lên trời, thì cả thân người bị lao nhọn đâm xuyên qua ngực lôi theo, rồi sau đó là tên thứ hai, tên thứ ba…, cứ như xiên kẹo hồ lô vậy.
Khi lao nhọn bị chém gãy hoặc chiến xa hết thế lao nhanh không còn tiếp tục đâm tới được nữa, lúc này chiến xa đã lọt vào giữa vòng vây quân địch, bánh xe vẽ theo một vệt máu dài từ từ chạy chậm lại, binh lính trên xe vứt bỏ lao dài, rút kiếm, kích, mâu ra chiến đấu, Khánh Kỵ và Tái Cừu đứng trên xe đâm chém quyết liệt với đám quân Ngô cầm kiếm và trường mâu vây lấy chiến xa. Hàng kiếm thủ và trường mâu thủ bên quân Ngô xông lên huyết chiến với quân chủng cùng loại bên quân của Khánh Kỵ. Khắp chiến trường đều là vang vọng tiếng hò hét xung trận, tiếng giẫm đạp lên nhau, tiếng binh khí va chạm chan chát, tiếng rú lên đau đớn…
A Cừu tập trung điều khiển chiến xa, không ngừng thúc ngựa thay đổi vị trí, chiến xa vừa di chuyển vừa chiến đấu, tránh cho bị bộ binh kẻ địch vây khốn không thoát ra được, đồng thời dáo dác nhìn xung quanh trong thiên binh vạn mã, truy tìm chiến xa của chủ tướng phe địch. Các chiến xa khác bên quân Khánh Kỵ cũng đang cố gắng tiếp cận chủ soái, một mặt chiến đấu với quân địch, một mặt thu ngắn khoảng cách từ từ, tiếp ứng lẫn nhau, tránh bị quân địch tấn công cả trước mặt sau lưng.
Mặc dù là vậy, tấm giáp da dày bốn lớp trên người Khánh Kỵ đã có vài chỗ bị đâm thủng, nhiều vết trầy xướt, may mà có chiến xa hai bên trợ chiến, cung thủ trên xe và Tái Cừu đang điên tiết bắn giết, Khánh Kỵ mới không bị thụ thương. Còn A Cừu điều khiển chiến xa lúc này đã đổi tư thế từ ngồi thành đứng thẳng, một tay giữ chặt dây cương buộc bốn con chiến mã, một tay cầm đoản kiếm, không ngừng “leng keng leng keng” đỡ gạt binh khí của quân địch đâm tới, hai mắt trợn tròn giận dữ, hơi thở phập phù tung cả lọn râu dưới cằm, nhìn bộ dạng còn đáng sợ hơn cả Khánh Kỵ. (Nói thêm: Khi giáp chiến, muốn vô hiệu hóa chiến xa phe địch cách tốt nhất là tiêu diệt người điều khiển xe, vì người điều khiển xe bận đốc thúc ngựa chiến kéo xe, lại không cầm binh khí dài để chiến đấu được, chỉ còn cách cầm đoản kiếm chống đỡ, do đó quân Ngô chủ yếu tập trung tấn công A Cừu, chỉ cần người điều khiển xe bị tiêu diệt, chiến xa không thể chạy tiếp, lúc đó mới bao vây tiêu diệt binh lính trên xe cũng chưa muộn.)
“Phục binh của Lương Hổ Tử đâu rồi, sao giờ này còn chưa xuất hiện?” Thúc Tôn Diêu Quang đứng trên đồi theo dõi trận chiến, dậm chân liên hồi: “Ta phải xuống dưới kia!”
Quý Tôn Tiểu Man điệu đà xoay xoay cây ngọc tiêu trong tay, quay qua hỏi: “Khánh Kỵ dặn chúng ta đứng ở đây xem náo nhiệt, cô xuống núi chẳng lẽ nhìn rõ hơn khi đứng ở đây à?”
Thúc Tôn Diêu Quang nguýt dài: “Đứng xem ở đây, có bằng trực tiếp xuống đó tham chiến rõ hơn không?” Nói xong không chờ Tiểu Man trả lời quay phắt người bỏ đi.
Quý Tôn Tiểu Man chìa môi nhủ thầm: “Hình như cũng có lí, cô cũng không sợ nguy hiểm, chẳng lẽ ta lại sợ?”
Nghĩ vậy Tiểu Man cũng sải bước đuổi theo, hai tì nữ vội ôm đàn bám theo sau.
Khánh Kỵ đứng trên chiến xa, một mặt cầm trường mâu chiến đấu, một mặt đưa mắt quan sát tình hình chiến sự xung quanh. Lúc này binh sĩ hai bên đã lao vào hỗn chiến loạn xạ, tiếng thét của tướng lĩnh không còn nghe rõ được nữa, chỉ dựa vào tiếng trống tiếng chiêng truyền quân lệnh chỉ huy chiến đấu, đám quân Ngô dám liều chết xông vào Khánh Kỵ ít đi thấy rõ, dù sao Khánh Kỵ cũng từng là tướng quân trẻ tuổi oai danh nhất trong quân đội Ngô quốc, với lại hắn có biệt danh “Muôn người khó địch”, binh lính của Ngô vừa kính nể vừa sợ hãi trước Khánh Kỵ, giờ không có tướng lĩnh đốc chiến, đều cố tránh chiến xa của Khánh Kỵ ra càng xa càng tốt, chỉ quay sang chém giết với đám binh lính bình thường, nhờ thế Khánh Kỵ được lơi tay quan sát tình hình trên chiến trường.
Binh sĩ đôi bên hỗn chiến loạn xạ, bộ binh còn giữ được đội hình, chiến xa một khi lao thẳng về phía quân địch đều xông vào trận địa bộ binh đối phương, dàn chiến xa trước quân địch đông đúc không thể quay đầu lại, cứ thế mà tiến lên giết địch, lúc này Vương Tôn Hùng đã dẫn đội chiến xa và bộ binh quân Ngô xông vào đến tận hậu trận của Khánh Kỵ, tương tự Khánh Kỵ và chiến xa của mình cũng đang ở hậu trận quân Ngô, ở giữa là bộ binh của hai bên đang giao chiến ác liệt.
“Thời cơ này tốt lắm. Lương Hổ Tử từ trên cao đánh ập xuống, chắc sẽ chiếm trọn ưu thế.”
Khánh Kỵ vừa nghĩ đến đấy, phía ngang hông chiến trường vang lên tiếng hò hét xung trận. Hai cánh quân đang giao chiến y như hai con sóng mạnh đập vào nhau, bọt sóng tung tóe, ngay bên bìa rừng bên hông đột nhiên có một cánh quân xông thẳng ra lao vào chỗ tiếp giáp giữa hai ngọn sóng, người đi đầu là độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử, tay vung thanh kiếm sáng loáng, hai bên trái phải có hai dũng sĩ cầm mâu theo sát, sau lưng Lương Hổ Tử tiếng gào như sấm, đã có mấy trăm người điên cuồng lao ra từ trong rừng, phía sau còn nhiều người liên tiếp ùa ra không ngớt, chẳng biết được hắn có bao nhiêu binh sĩ mai phục tại đây.
Những binh sĩ này đều dùng binh khí thô sơ, xem giống như một thanh gỗ bự, một đầu được bọc bằng đồng, nhưng binh khí này lạ ở chỗ đầu thanh gỗ bự còn tua tủa những chiếc gai nhọn, không dài lắm, chỉ độ nửa thước, những chiếc gai cũng không sắc lắm, vì quá sắc chạm phải áo giáp sẽ bị gãy, những chiếc gai to bè như ngón tay cái, nếu đập vào người thì chắc lủng một lỗ to, sức sát thương không cần nói cũng hiểu.
Đấy chính là lí do Khánh Kỵ trang bị vũ khí do hắn phát minh riêng này cho đám lính mới tuyển mộ, vì sử dụng vũ khí này không cần tập luyện nhiều, chỉ cần có sức khỏe là được, đại đội lang nha bổng được phát huy tối đa sức chiến đấu nhờ vũ khí, đám tân binh mới tuyển lựa là bọn nông dân khỏe mạnh, nếu không thì là bọn lưu manh vô lại hung hăng, tính kỉ luật, tinh thần hợp tác, kĩ năng chiến đấu đều yếu kém, nhưng nếu lựa chọn binh khí phù hợp, thêm vào tính bất ngờ xông ra khi hai bên đang hỗn chiến, trên tay lại cầm binh khí quái lạ có tác dụng uy hiếp tinh thần địch, mỗi khi lang nha bổng to bự được giơ lên đập xuống, những chiếc gai đồng khoan từng lỗ to trên tấm thân tội nghiệp của quân Ngô, máu thịt văng tung tóe, quân Ngô lập tức hoảng loạn.
Cánh quân này phóng chạy như bay, không ngừng phang lang nha bổng túi bụi vào quân Ngô chắn trước mặt, theo chân Lương Hổ Tử điên cuồng lao lên, chỉ một lúc đã chia tách được người ngựa hai bên đang hỗn chiến ra, sau đó quay sang đám quân Ngô bị sót lại không kịp rút lui, phang tới tấp vào đầu vào cổ của chúng, có cánh quân này nhảy vào tham chiến, quân Ngô bị chia cắt ra làm hai, một trăm chiếc chiến xa và số ít bộ binh theo sau của Vương Tôn Hùng bị kẹt lại ở phía hậu quân của Khánh Kỵ, lúc này bị quân Khánh Kỵ bao vây mấy lớp không thoát ra được, cung tên bắn ào ạt về phía ấy, lính Ngô dính tên lăn ra chết như rạ, xong quân Khánh Kỵ lại đồng loạt đâm trường mâu, hoặc đâm người, hoặc nhằm vào ngựa, ngựa chết chiến xa không di chuyển được thành ra vật cản trở, cục diện trận chiến thay đổi rõ rệt, ưu thế lúc này hoàn toàn thuộc về quân của Khánh Kỵ.
Còn bên kia chiến tuyến, mấy chục chiến xa của Khánh Kỵ vẫn giữ được đội hình phối hợp, xông pha vào hậu quân của Vương Tôn Hùng, theo sau là kiếm thủ bám sát chiến xa, tiếp cận đại đội trường mâu của quân Ngô, khi giao chiến gần ưu thế về vũ khí lập tức hiện rõ, nhất là đám lính cầm lang nha bổng do Lương Hổ Tử chỉ huy, cứ giơ lên phang vào đầu lính Ngô, dù cho có đội mũ sắt cũng trào óc ra, đám lính thường đâu được đội mũ sắt bảo vệ, bị đập trúng đầu nát cả sọ, bị đánh trúng thân thì rú lên thảm thiết, trong một lúc tiếng kêu la làm binh sĩ quân Ngô hoảng loạn cả lên, không còn ý chí chiến đấu. Đúng lúc này người bên Khánh Kỵ lại la to danh hiệu của hắn, khơi lại kí ức bị lãng quên về chàng trai đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc của binh lính Ngô.
Quân Ngô bại trận như núi đổ!
Thời hiện đại đã không còn cảnh tác chiến tập hợp mấy vạn người chen chúc chém giết nhau trên chiến trường chật hẹp, trong điện ảnh cũng hiếm khi lột tả được cảnh chân thật của chiến trận, nên khó mà tưởng tượng được cảnh bại trận như núi đổ của quân Ngô lúc này là như thế nào? (Câu này tác giả tự phân bua chăng?)
Binh sĩ là lá gan của tướng, tướng là linh hồn của binh sĩ, một khi chia cắt binh sĩ và tướng chỉ huy ra, binh sĩ có đông cũng như một nhúm cát rời rạc, nếu thống soái phe địch vốn là người mà binh sĩ e sợ tận đáy lòng, bị tấn công mạnh mẽ sẽ khiếp sợ hơn gấp bội, trong trận chiến hôm nay, không biết là ai dẫn đầu bỏ chạy, chỉ thấy quân Ngô như gặp cơn đại dịch lan tỏa, rất nhanh, binh sĩ phía Ngô mất hết ý chí chiến đấu quay đầu cắm cổ chạy như điên.
Khánh Kỵ cầm mâu oai vệ đứng trên xe, ra lệnh nổi hồi chiêng dừng truy đuổi, cho dù là vậy, đám lính mới của Lương Hổ Tử xưa nay quen thói hung hăng, lại không có ý thức gì về kỉ luật quân đội vẫn điên cuồng truy sát quân Ngô, phải mất hồi lâu mới chịu dừng lại. Khánh Kỵ quay đầu lại nhìn về hậu quân của mình, một trăm chiếc chiến xa của Vương Tôn Hùng bị bao vây túm tụm lại một chỗ, ra sức chống đỡ một cách tuyệt vọng từng lớp từng lớp binh sĩ không ngừng lao lên của Khánh Kỵ. Nhìn cảnh tượng ấy, như một tảng đá ngầm nhô lên giữa biển khơi, bị từng đợt sóng trắng xóa vỗ ập vào, lúc ẩn lúc hiện.
Khánh Kỵ không nhịn được nỗi vui mừng, trên môi nở một nụ cười mãn nguyện.
Vào thời này, muốn phân biệt thành phần trong quân đội là rất dễ. Lúc đầu, những người có tư cách mặc áo giáp lên chiến trường chiến đấu, chỉ có quốc dân và quý tộc, quốc dân chính là người ở trong thành thị, còn bọn nông dân chân đất quê mùa, gọi là dã nhân, họ không có tư cách đi đánh trận. Sau này, quy mô chiến tranh ngày càng mở rộng, dân nông thôn cũng bị triệu tập vào quân đội trở thành binh sĩ, nhưng quý tộc, quốc dân, dã nhân có sự phân chia giai cấp rõ ràng, binh lính có tư cách cưỡi chiến xa ra trận, đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc, binh lính theo sau chiến xa hỗ trợ tác chiến thì là quốc dân có khả năng chiến đấu cao, có nghĩa là bây giờ quân Ngô bị cắt làm đôi, đám quân Ngô đang bị vây khốn ở hậu quân Khánh Kỵ mới chính là cánh quân chủ lực tinh nhuệ thật sự.
Đám lính mới cầm lang nha bổng đang truy đuổi quân Ngô bỏ chạy không nghe theo hiệu lệnh lui quân, nhưng cũng không dám chống lại đội chiến xa của Khánh Kỵ, đợi khi mấy chục chiếc chiến xa của Khánh Kỵ chạy tới trước mặt quát tháo, đám lưu manh vô lại đang hăng máu này mới chịu dừng lại, kéo lê lang nha bổng dính bê bết máu thịt quay về, trên đường đi tiện thể cúi xuống thu lụm của cải trên xác chết nằm la liệt trên chiến trường.
Đám lính chịu rời bỏ quê hương tòng quân này, cho dù là nông dân chân đất, hay là dũng sĩ các nước chư hầu đến đầu quân, tất cả đều là bọn hung hăng, nếu ở thành thị thì trong mắt dân lành họ chẳng qua chỉ là một đám lưu manh vô lại, nhưng trên chiến trường khốc liệt, họ lại trở thành những chiến sĩ trời sinh, thắng lợi trong trận chiến hôm nay, phần lớn được quyết định bởi tính hung bạo của đại đội lang nha bổng này.
Đại đội lang nha bổng từ từ tập hợp lại, dán mắt vào chiến xa quân Ngô đang vất vả chống trả giữa vòng vây, hai mắt chúng lộ rõ tia sáng tham lam. Họ biết những binh lính Ngô đang cưỡi chiến xa kia xuất thân tầng lớp quý tộc, đó mới là người giàu thật sự, tuy khi ra trận không ai mang theo của cải bên mình, nhưng bao nhiêu binh khí, áo giáp, ngọc bội, tất cả đều rất có giá trị, đám lính hung hăng này thèm thuồng nắm chặt lang nha bổng trong tay, ánh mắt háo hức trông theo thống soái của họ - Độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử.
Khánh Kỵ đã đánh xe quay về, lúc này Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man vừa từ trên núi đi xuống. Nhìn thấy hai người, Khánh Kỵ chau mày nói: “Hai nàng sao lại xuống đây? Cứ đứng phía sau chờ đợi, đừng lại gần.”
Dứt lời Khánh Kỵ quay đầu trở lại chiến trường, đứng trên xe hắn nhìn rất rõ, phía không xa đằng kia là chiến xa của Vương Tôn Hùng. Chiến xa đó sắp xông qua hậu quân quay đầu lại, nhưng nay bị đại đội lang nha bổng của Lương Hổ Tử chặn mất đường lui, không nhận được tiếp viện bị bao vây ở giữa, tiến không được lùi cũng không xong, hình như bánh xe của hắn đã bị phá hỏng, lọt thỏm vào hố cát không nhúc nhích được.
Vương Tôn Hùng xem ra cũng có tài chỉ huy, trong lúc lòng quân hoang mang vẫn ra lệnh cho mười mấy chiến xa lại gần, sau đó liên kết đống chiến xa lại với nhau, tạo thành một lá chắn, tất cả binh sĩ đều nhảy xuống xe, trong cùng là cung thủ, bên ngoài là kiếm thủ trường mâu phối hợp với nhau, tạo thành một đội hình phòng thủ liên hoàn chặt chẽ, bọn chúng không ai hò hét, chỉ cắn rắn im lặng tập trung chống trả.
“La to lên, bảo chúng đầu hàng, sẽ được tha mạng!” Khánh Kỵ chăm chú nhìn trong giây lát, hạ giọng ra lệnh.
Tái Cừu lập tức dẫn theo mấy mươi binh sĩ la to mệnh lệnh của Khánh Kỵ, nhưng câu trả lời chỉ là tiếng binh khí leng keng chống cự, một vòng tròn lớn đang vây lấy một vòng tròn nhỏ bên trong, xen giữ hai vòng tròn là một khoảng không hẹp cho binh khí chạm nhau, binh sĩ hai bên đột nhiên im bặt chăm chú chiến đấu, giờ chỉ còn nghe thấy tiếng binh khí va nhau, máu văng tung tóe, người bị đâm trúng nhanh chóng đổ rạp xuống, trở thành miếng giẻ bị xung quanh xông vào giẫm đạp lên để lấp vị trí, ngoại trừ tiếng binh khí, hơi thở hổn hển như trâu của các binh sĩ vang tận bên tai Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nhắm nghiền mắt, thở dài một hơi.
“Công tử, bọn chúng đã quyết tâm chống cự đến cùng, hơn nữa, lão tặc Cơ Quang đã có lệnh, họ cũng không thoát được đâu, tuyệt đối không dám buông vũ khí đầu hàng. Xin công tử đừng mềm lòng.”
Tái Cừu sợ Khánh Kỵ thương hại quân Ngô, sẽ mở một con đường sống cho đám quân địch hung hăng này. Nghe Khánh Kỵ thở dài, vội lên tiếng nhắc nhở.
“Ta biết.”
Khánh Kỵ nhảy phóc xuống xe, đến bên Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, âu yếm hỏi: “Chiến trường máu me thế này, không sợ à?”
Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười dịu dàng, nhẹ giọng nói: “Không sợ, còn nhớ thiếp từng nói gì với chàng không?”
“Gì vậy?”
“Chàng nếu đi giết người, thiếp sẽ theo chàng đi giết người!”
Khánh Kỵ ngớ người, sau đó nở một nụ cười mãn nguyện. Hắn đương nhiên còn nhớ, lúc đó hắn thắng được Thúc Tôn Diêu Quang làm tì nữ của hắn, sau đó sứ giả của Ngô quốc đến Lỗ, Quý Tôn Ý Như có ý e dè, muốn đuổi hắn ra khỏi Lỗ quốc, trong hoàn cảnh nguy nan, nàng đã bày tỏ tấm lòng với một vương tử lưu vong như hắn.
Tiếng binh khí va nhau văng vẳng không ngớt, gió lạnh rít vào trong khe núi, mang theo hơi lạnh từ phương Bắc, tà áo nhuốm máu đỏ của Khánh Kỵ bị gió thổi phất phơ. Khánh Kỵ nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Thúc Tôn Diêu Quang, quay qua ra lệnh: “Không chịu đầu hàng thì giết sạch, chỉ để lại một mình Vương Tôn Hùng.”
Hai huynh đệ A Cừu, Tái Cừu mở to mắt ra đợi lệnh, khi Khánh Kỵ vừa dứt lời, hai người vội mở miệng hô tuân lệnh rồi chạy đi sắp xếp.
“Ta từng nghe nàng đánh đàn chưa nhỉ?”
“Chàng nói thử xem?”
“Ừm…Hình như là chưa, ta chỉ mới nghe nàng hát.”
Thúc Tôn Diêu Quang cảm thấy lạ: “Có chuyện này ư? Thiếp từng hát cho chàng nghe rồi à?”
Khánh Kỵ nhướn người về phía trước, đặt cằm vào bờ vai thon thả của Diêu Quang, nói nhỏ bên chiếc tai nhỏ nhắn xinh xinh của nàng: “Tất nhiên là có, lúc ở Phí thành, trong tẩm thất của nàng, nàng ứ a ứ a…”
“Bốp!” Lưng Khánh Kỵ bị Diêu Quang vỗ mạnh, nàng đỏ mặt nhìn hắn, đôi mắt e thẹn, chớp chớp liên hồi.
Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, đứng thẳng người ung dung nói: “Ra đại sảnh, vào tẩm thất, lên chiến trường, nữ nhân thế này biết tìm đâu ra? Ha ha, còn nhớ khúc nhạc Bạch thủy thao thao không? Đàn cho ta nghe, thế nào?”
“Được!” Thúc Tôn Diêu Quang nở một nụ cười dịu dàng với Khánh Kỵ.
Tiếng đàn thánh thót vang lên trên chiến trường tràn ngập sát khí, len lỏi giữa ngàn vạn binh sĩ đang hăng say chiến đấu, trong một lúc như át đi mùi tanh của máu, át cả tiếng leng keng khô khốc khi binh khí va nhau.
“Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu. Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu…”
Khánh Kỵ ngẩng đầu lên nhìn vào bầu trời bao la trên chiến trường, khúc nhạc như một dòng sông nhỏ róc rách len lỏi trong tim hắn, tâm trí vượt qua thiên sơn vạn thủy, giờ đã bay cao bay xa tận bầu trời Ngô quốc: Tôn Vũ, Anh Đào, các ngươi hiện giờ…đã tấn công vào Ngô hay chưa?
Quý Tôn Tiểu Man hai mắt ngấn lệ lầm lủi bước sang một bên, nàng không chịu thừa nhận thấy cảnh Diêu Quang và Khánh Kỵ âu yếm, trong lòng cảm thấy không vui. “Vì gió ở đây thổi mạnh, nên cát bay vào mắt, nhất định là vì lí do này.” Tiểu Man đang tự an ủi trong lòng.
Nàng đưa tay vuốt ve cây tiêu ngọc giắt ở dây lưng , tuy nàng muốn lập tức chứng minh cho Khánh Kỵ thấy, thật ra tài thổi sáo của nàng hay hơn gấp vạn lần tài đánh đàn của Thúc Tôn Diêu Quang, nhưng hiện giờ Tiểu Man lại không muốn cùng hòa tấu với tiếng đàn của Diêu Quang chút nào.
Đưa mắt dáo dác nhìn xung quanh, Tiểu Man phát hiện trên một chiếc chiến xa ngã chổng bánh có treo mớ bùi nhùi gì đó, thì ra là một tấm lưới. Nàng lại gần thu tấm lưới trong tay, nhón gót nhìn Vương Tôn Hùng thọ thương ở vai, đang điên cuồng chống cự như một con hổ bị dồn vào đường cùng, nắm chặt Hàm Quang kiếm trong tay, Tiểu Man đột nhiên nhảy vút lên không trung, nhẹ tựa chim én, lao về phía ấy…
Tác giả :
Nguyệt Quan