Đại Phách Quan
Chương 11
Một bát mỳ trứng trộn rau xanh nóng hổi đưa đến trước mặt Niếp Thập Tam, Niếp Thập Tam một phen bắt lấy tay Hạ Mẫn Chi, cặp mắt đen nhánh ánh lên một tia nguy hiểm: “Có nhớ ta không?”
Hạ Mẫn Chi tim đánh thịch một hồi, lại chán ghét rút tay khỏi bàn tay ấm áp của hắn: “Nhân lúc còn nóng mau ăn đi, lải nhải nhiều thế làm gì?”
————–
Hôm nay Hạ Mẫn Chi cùng Tả thiếu khanh (Tả thiếu khanh là chức quan, không phải tên người ^^) ở Đại Lý Tự xử xong một án giết người trả thù, dọc đường về nhà đầu cứ choáng váng, tựa hồ còn có thể nhìn thấy từng mảng đỏ thẫm trên nền đá đen bóng trong hình điện.
Nếu không phải vạn bất đắc dĩ, Hạ Mẫn Chi cực hiếm khi đề nghị dụng hình với phạm nhân.
Tên phạm nhân hôm nay ngoan cố hung hãn, một trăm trượng giáng xuống, huyết nhục tứ tung, ngay cả xương cốt cũng lộ ra, khiến Hạ Mẫn Chi nhìn đến chỉ muốn nôn mửa một trận.
Về tới nhà, uống ngay một chén nước mới cảm thấy khá hơn, Hạ bá mỉm cười lấy ra một phong thư, nói: “Là Thập Tam từ Sở Châu gửi về.”
Hạ Mẫn Chi mừng rỡ, tiếp nhận mở ra xem, chỉ vài dòng ít ỏi mà ngay ngắn:
Gần đây đến Sở Châu, bên hồ Giải Kiếm ở Võ Đang phá Lưỡng Nghi kiếm trận, bại dưới Thái Cực kiếm của Thanh Vân chưởng môn. Kiếm pháp Võ Đang, miên lý tàng châm (trong lụa giấu kim – nhìn bề ngoài mềm mại nhưng ẩn chứa mũi nhọn sắc bén bên trong), tinh thâm ảo diệu, phen này giao thủ, đối với Giang Hà kiếm rất có lợi.
Nét bút tự do như trường thương đại kích, cát vàng ngàn dặm, lâm ly từng dòng trên giấy, Hạ Mẫn Chi dùng hai ngón tay gấp thư, biểu tình khinh thường: “Viết chữ xấu như vậy, cư nhiên không biết xấu hổ phô bày trước mặt người khác.”
Nhưng vừa xoay người lại trân trọng cất vào trong chiếc hộp bằng gỗ tử đàn.
Tự hiểu được, Niếp Thập Tam đang chia sẻ cùng mình những trải nghiệm mà hắn trân quý nhất tâm đắc nhất, không khỏi mừng thầm trong dạ.
Qua vài ngày sau, thư của Niếp Thập Tam lại tới: Vừa đến Ký Châu, Thương Lãng kiếm phái, hữu danh vô thực.
Cứ thế nhận thư, hạ đi thu đến, đã được gần mười phong thư, đều chỉnh chỉnh tề tề an vị trong hộp gỗ.
Nửa đêm mồng năm tháng chín.
Hạ Mẫn Chi đang ngủ, cửa sổ đột nhiên mở ra, một bóng người nhảy vào, nhanh nhẹn như linh miêu, chậm rãi đi đến bên giường.
Hạ Mẫn Chi mở mắt ra, cười nói: “Thập Tam!”
Đã thấy Niếp Thập Tam một thân hắc y ngồi trước giường, mỉm cười chăm chú nhìn mình.
Cả người Niếp Thập Tam toát ra một loại vị đạo thanh sảng của núi rừng cây lá, lại hòa quyện cùng khí tức mãnh liệt của nam tử, lặng lẽ tản mác dưới ánh trăng.
Mà ánh trăng rọi trên người hắn, không còn vẻ u nhã ôn nhuận, trái lại càng nhiệt liệt sáng ngời như nắng xuân, tràn đầy sức sống.
Hạ Mẫn Chi chớp chớp mắt, đôi nhãn châu như lưu ly lóng lánh thủy quang: “Ngươi về rồi sao?”
Niếp Thập Tam khàn giọng nói: “Hôm nay là sinh thần của ta, ta về ăn mỳ trường thọ.”
Hạ Mẫn Chi đứng dậy cười nói: “Theo ta đến trù phòng…”
Một bát mỳ trứng trộn rau xanh nóng hổi đưa đến trước mặt Niếp Thập Tam, Niếp Thập Tam một phen bắt lấy tay Hạ Mẫn Chi, cặp mắt đen nhánh ánh lên một tia nguy hiểm: “Có nhớ ta không?”
Hạ Mẫn Chi tim đánh thịch một hồi, lại chán ghét rút tay khỏi bàn tay ấm áp của hắn: “Nhân lúc còn nóng mau ăn đi, lải nhải nhiều thế làm gì?”
Niếp Thập Tam thấp giọng phì cười, cũng không hỏi nữa, vùi đầu mà ăn.
Hạ Mẫn Chi ngắm nhìn hắn, mấy tháng không gặp, Niếp Thập Tam có hơi ngâm đen hơn, nhưng trông càng mạnh mẽ, làn da màu mật ong dưới ánh nến như dải gấm mềm mại sáng bóng, vừa căng mịn vừa đàn hồi, ban nãy một đường đi tới trù phòng, phát hiện hắn đã cao hơn mình gần nửa cái đầu, vai rộng chân dài, đường nét trên mặt càng phân minh. Đã gần cuối thu, nhưng chỉ mặc một kiện y sam đơn bạc, khiến đường cong hoàn hảo như ẩn như hiện bên dưới lớp áo. Bên hông đeo một thanh kiếm mà mình chưa từng thấy qua.
Hạ Mẫn Chi hiếu kỳ, gỡ xuống nhìn thử, chỉ thấy thân kiếm hẹp dài, trên vỏ kiếm khắc hai chữ “Thuần quân”, rút kiếm ra, kiếm quang như tuyết, mũi kiếm như sương, sáng trong như nước, không khỏi kinh ngạc: “Quả thật là Thuần quân trong Việt ngũ kiếm?”
Niếp Thập Tam dùng đũa cuốn mỳ, hỏi: “Ngươi biết Thuần quân kiếm?”
Hạ Mẫn Chi gật đầu: “Trong Việt tuyệt thư có nhắc tới thanh kiếm này.” Lại nói: “Nhìn hoa văn, như phù dung nở rộ, ngắm đường vân, như chòm sao xoay chuyển, nhìn quang mang, thuần khiết như nước viên mãn như hồ, ngắm đoạn thân, sắc cạnh như đá, nhìn khí thế, ngời sáng như băng sơn. Chính là nói về nó. Ngươi từ đâu có được?”
Niếp Thập Tam cười đến có chút ái muội, đôi con ngươi đen nhánh bị hơi nóng trong bát mỳ phủ lên một màn sương mờ ảo, hiếm khi ôn nhu như nước: “Được người ta tặng.”
Tựa hồ có chút ngượng ngùng, thoáng nhìn Hạ Mẫn Chi, giải thích: “Chỉ là bằng hữu thôi, ngươi đừng nghĩ nhiều…”
Hạ Mẫn Chi trầm mặc nửa ngày, cảm thấy đêm thu càng lạnh, càng gắt gao thu người trong tấm áo choàng bằng vải thô, mỉm cười: “Làm thiếu hiệp giang hồ quả thật rất tốt, tiên y nộ mã (sống xa hoa đầy đủ), danh kiếm phong lưu.”
Nhìn sâu vào mắt Niếp Thập Tam, kiên quyết nói: “Ngươi cứ từ từ mà ăn, ta về phòng nghỉ ngơi trước, gần đây những vụ án lớn cần phúc thẩm rất nhiều, không thể bồi ngươi.”
Dứt lời đứng dậy, ra đến cửa lại dặn dò: “Ăn xong nhớ rửa bát!”
Niếp Thập Tam tỏ vẻ như vô sự, cúi đầu tiếp tục ăn mỳ, khóe miệng cong lên, nhãn thần tràn đầy thâm trầm cùng tự tin “nhất định có được”.
Sáng sớm hôm sau, Hạ Mẫn Chi thẳng tiến trù phòng, đã thấy Hạ bá đang làm điểm tâm.
Trên bàn là bát mỳ tối qua của Niếp Thập Tam, đã được rửa sạch sẽ, còn dằn lên một tờ giấy, Hạ Mẫn Chi cầm lên nhìn thử, chính là bút tích nổi tiếng phóng khoáng của Niếp Thập Tam: Thuần quân kiếm là do Thanh Vân đạo trưởng của Võ Đang tặng, yên tâm.
Lập tức cả giận nói: “Yên tâm cái gì? Chạy đến núi Võ Đang đánh nhau với người ta, đánh xong còn cướp kiếm của người ta, đúng là tên cường đạo bại hoại! Sớm muộn gì cũng bị bắt đến Đại Lý Tự, tới chừng đó cho hắn một trận trượng hình, ta mới yên tâm!”
Nhưng khóe miệng lại nhịn không được cong lên, một nụ cười thuần túy như ánh nắng mai nở rộ trên khuôn mặt.
Hạ bá bưng qua hai chén cháo, cười nói: “Thập Tam đêm qua trở về, buộc lão đầu như ta so chiêu với hắn đến nửa đêm, trời chưa sáng đã xuất hành, đúng là con sói non không bao giờ chịu ở yên một chỗ.”
Hạ Mẫn Chi nói: “Sau này cứ mặc kệ hắn là được, nửa đêm nửa hôm, so chiêu cái gì?”
Hạ bá thở dài: “Ta đã không còn là đối thủ của hắn, e rằng sau này có van cầu, hắn cũng chưa chắc chịu đấu với ta.”
Từ trong ngực lấy ra nhất xấp ngân phiếu: “Đây là tiền trước kia ngươi cầm đàn đưa cho hắn, hắn nói dùng không hết.”
Hạ Mẫn Chi đón lấy ngân phiếu, vội nói: “Sao lại dùng không hết, ai… lẽ nào hắn muốn giết người cướp của?”
Hạ bá bật cười: “Đừng nóng lòng, tiểu tử Thập Tam này rất cao ngạo, sẽ không làm những chuyện thấp hèn như thế, Giang gia năm xưa nổi tiếng phú quý khắp Trung Nguyên, tuy bị cả nhà bị xử trảm, nhưng làm phụ mẫu lẽ nào không để lại cho nhi tử mình một con đường lui.”
Vỗ vai Hạ Mẫn Chi: “Cha mẹ hắn đều nặc danh gửi vào các tiền trang ở Trung Nguyên một số bạc, hắn chỉ cần nhờ vào mặt dây đeo cẩn ngọc trên cổ và dấu tay, liền có thể rút ra.”
Hạ Mẫn Chi ngẩn người, nghiến răng nói: “Tên bại hoại này! Có tiền cư nhiên cũng không nói cho ta biết… tốt nhất đừng quay về nữa!”
Hạ bá uống xong chén cháo, thản nhiên nói: “Ta rất hy vọng hắn quay về.”
Nhìn Hạ Mẫn Chi, nhãn thần khắc sâu vẻ không đành lòng: “Trước khi tiểu thiếu gia gặp hắn, cõi lòng không khác gì tàn tro, Thập Tam là người tốt, có hắn ở bên ngươi, nếu một ngày nào đó ta bị chân khí phản phệ mà chết thì cũng yên lòng.”
Tay Hạ Mẫn Chi siết chặt đôi đũa, thanh âm bình tĩnh: “Hạ bá, người phải sống lâu trăm tuổi.”
Vừa qua Tết, trong quân trại trấn thủ ở Nam Cương liền xảy ra một vụ án lớn.
Năm trước thành Trinh Tuyền ở Nam Cương có tiểu đội binh mã của man tộc phản bội Trữ quốc, Hiệu úy kỵ binh Phùng Tê Ngô giết hai mươi bá tính trong thôn trang ngoại thành Trinh Tuyền, ngụy biện rằng những kẻ mình giết chính là bọn Nam hoang phản loạn để lập công.
Bản thân vụ án không phức tạp, nhưng gia thế của Phùng Tê Ngô lại cực kỳ phức tạp.
Phùng Tê Ngô là cháu ngoại của Binh bộ tả thị lang Ngụy Lan Đình, mà chất nữ (cháu gái họ) của Ngụy Lan Đình chính là Thục Hoa phu nhân đang được sủng ái trong cung.
Gia thế Phùng Tê Ngô không chỉ hiển hách, mà còn đang gặp thời thế, mọi sự đều đã chuẩn bị đầy đủ, chỉ thiếu bước lập công, một khi lập được đại công, liền có thể từ Nam Cương trở về Tĩnh Phong, gia nhập thẳng vào Binh bộ, nhậm chức Chủ sự dễ như trở bàn tay.
Mắt thấy Binh bộ đã hạ chiếu thăng quan, không ngờ thôn dân còn sống sót sau đại họa ngàn dặm xa xôi đến cáo trạng lên Đại Lý tự, ngay cả Văn Đế cũng bị kinh động, hạ chỉ Đại Lý Tự phải nghiêm ngặt điều tra án này.
Vì thế Phùng Tê Ngô tuy trở về Tĩnh Phong, nhưng chưa đến Binh bộ đã bị mời tới đại lao của Đại Lý Tự.
Chánh khanh (tương đương thẩm phán) Đại Lý Tự Hàn Thoái Tư mấy hôm nay lật đi lật lại quyển tông về Nam Cương đại án, không thiết ăn uống, tiến thoái lưỡng nan.
Chốn quan trường đều có “môn đạo” (những mối liên hệ móc nối câu kết), thế cục rõ ràng cũng được, rối rắm cũng được, đành rằng quá thấu hiểu nhau, nhưng không thể triệt để vạch trần, nhất định phải chừa lại một tầng trướng lụa.
Tầng trướng lụa này cũng giống như chiêng trống trên hí đài (sân khấu kịch), thoạt nhìn vô dụng, nhưng lại không thể thiếu.
Vở tuồng vừa bắt đầu, tiếng chiêng trống lập tức vang lên, nhỏ to nhanh chậm, trầm bổng khúc chiết, ý vị thâm trường, nghe tiếng chiêng trống, người biết thưởng thức liền hiểu vở tuồng này nên xướng thế nào, nhảy theo nhịp trống, hoặc lướt qua hí đài, hoặc tu sức lên diễn, chỉ có thể ngầm hiểu, không thể nói thành lời.
Hàn Thoái Tư lăn lộn trong quan trường gần ba mươi năm, đương nhiên tinh thông môn đạo, liếc mắt một cái liền nhìn ra, vụ án này không dễ thẩm quyết.
Thục Hoa phu nhân vừa sinh hạ một vị hoàng tử, Ngụy Lan Đình tuy là tả thị lang, nhưng vì Binh Bộ Thượng Thư đang định cáo lão hồi hương, nên coi như đã nắm quyền thượng thư.
Điểm mấu chốt vẫn là Văn Đế, lòng dạ thiên tử vốn khó dò, lần này cũng thế.
Hạ chỉ “nghiêm ngặt điều tra”, chứ không phải “nghiêm khắc xử trí”, chỉ sai khác vài con chữ, nhưng ý tứ bên trong phải tuyệt đối cân nhắc.
Lật lại quyển tông, thôn dân có nhân chứng, Phùng Tê Ngô cũng có thuộc hạ làm nhân chứng.
Vật chứng chỉ còn hai cỗ thi thể không rõ nhân dạng, nếu không phải Phùng Tê Ngô sơ suất, e rằng một cỗ cũng không còn, ngỗ tác (coi như bác sĩ pháp y hồi đó ^^) khám nghiệm tử thi chỉ kết luận một câu “Chết do đao thương, vết thương chuẩn xác, vào năm phân, ra năm phân, lực đạo vừa phải.”
Cố chịu đựng cơn đau đầu thẩm vấn hai lần, Phùng Tê Ngô tất nhiên không nhận tội, chỉ nói kẻ hắn giết chính là phiến quân man tộc, Hàn Thoái Tư cũng không dám dụng hình.
Mắt thấy đã đến lúc thích hợp để cáo lão hồi hương, Hàn Thoái Tư tam đại đồng đường (một nhà ba thế hệ), chắc chắn không muốn sinh chuyện thị phi, thừa biết vụ án này mình không nguyện đụng tới, cũng không thể đụng tới.
Đang cân nhắc, chợt thấy sau điện có một người chậm rãi đi qua, một thân quan phục thất phẩm, thân hình cao ráo, lại có chút mảnh mai, khí chất thanh nhã lại được trời phú một đôi mắt đào hoa, chính là Ti trực Hạ Mẫn Chi.
Vị thám hoa này, từng trước mặt mọi người xin thánh ân ban nhà ngay tại Quỳnh lâm yến nhưng Hoàng Thượng trái lại không hề nổi giận, còn có tin đồn người này thường xuyên được triệu vào cung bồi Văn Đế đánh cờ trò chuyện, Hàn Thoái Tư lập tức mỉm cười.
Ngày hôm sau, Hàn Thoái Tư đột nhiên bệnh nặng, lại nhờ Tả thiếu khanh trình lên tấu chương, viết rằng Đại Lý Tự Ti trực Hạ Mẫn Chi thông tuệ cần mẫn, minh pháp công chính, xin để hắn thay mình thẩm tra Nam Cương đại án này. Còn vượt trội hơn cả đám người tả hữu thiếu khanh, tả hữu tự thừa.
Tối đó Văn Đế nhìn tấu sớ, mỉm cười: “Lão hồ ly Hàn Thoái Tư này…” Lệnh cho Từ Diên lập tức mời Hạ Mẫn Chi vào cung.
Hạ Mẫn Chi ban đêm yết kiến, Văn Đế chỉ vào tấu chương nói: “Hàn Thoái Tư vừa dâng sớ cho trẫm, ngươi đoán xem hắn nói gì trong đó?”
Hạ Mẫn Chi hôm nay vừa nhận được thư Niếp Thập Tam gửi từ Lương Châu, trong thư kể về cảnh tượng hùng vĩ ánh trăng vạn dặm đồng tuyết bao la nơi biên quan, trong lòng đang thập phần cao hứng, liền cười nói: “Nếu thần đoán đúng, Hoàng Thượng sẽ thưởng gì?”
Nhìn nụ cười vẫn còn mang hơi hướng ấu tử của Hạ Mẫn Chi, Văn Đế chỉ thấy thật yêu thích, hòa nhã ưng thuận: “Ngươi muốn gì cứ việc nói.”
Hạ Mẫn Chi cúi đầu trầm ngâm, dưới ánh đèn lưu ly đường nét ngũ quan phi thường thanh tú nhu mỹ, quả thật hệt như được cẩn ngọc, thần sắc Văn đế không khỏi có chút lơ đãng.
Nửa ngày, Hạ Mẫn Chi cười nói: “Hiện tại vẫn chưa muốn gì, sau này hẵng tính.” Đôi mắt trong suốt mang theo vài phần giảo hoạt: “Hoàng Thượng đã bảo ta đoán, có lẽ trong sớ nhất định nhắc tới ta.”
“Hàn đại nhân mấy ngày qua chỉ phiền não về một chuyện, chính là Nam Cương đại án.”
“Nam Cương đại án không dễ tra cũng không dễ xử, Hàn đại nhân hôm nay cáo bệnh nghỉ ở nhà…”
“Lẽ này nào đã ném củ khoai lang nóng bỏng tay này qua cho ta?”
Văn Đế vỗ tay mỉm cười: “Hay lắm, ngươi đoán đúng rồi! Ta truyền ngươi đến đây, là muốn nghe ý kiến của ngươi, nếu ngươi không muốn tiếp nhận, ta sẽ khiến bệnh của Hàn Thoái Tư ngày mai liền khỏi hẳn.”
Hạ Mẫn Chi ngẫm nghĩ một hồi, mâu quang có chút băng lãnh, lại cuồn cuộn nhiệt huyết sắc sảo, cười nói: “Nếu Hàn đại nhân đã đề bạt, ta liền nhận vụ án này vậy.”
Văn Đế chăm chú nhìn hắn, gật đầu nói: “Cũng được, ngươi cứ thoải mái mà hảo hảo thẩm tra, vụ án này nếu phán không tốt chỉ sợ sẽ rối loạn lòng dân, nhất là bốn tộc vùng biên quan chịu sự cai quản của Đại Trữ.”
Đang nói, Từ Diên đã bưng bánh khoai từ cùng chè táo đỏ ngân nhĩ tiến vào, cười nói: “Đêm đã khuya, Hoàng Thượng và Hạ đại nhân dùng chút điểm tâm khuya đi.”
Văn Đế nhìn canh giờ: “Giờ tý rồi sao, thảo nào trẫm lại cảm thấy hơi mệt, Mẫn Chi tối nay cứ ngủ lại trong cung đi.”
Phân phó Từ Diên: “Dẫn hắn đến Đan Hạc uyển.”
Hạ Mẫn Chi ngẩn người, nhưng không nói gì, chỉ theo Từ Diên một đường đi tới Đan Hạc uyển.
Vừa qua Tết, tiết trời vẫn còn lạnh, Đan Hạc uyển càng buốt giá, Hạ Mẫn Chi bước vào phòng, Từ Diên đã sớm phân phó cung nữ thắp đèn thắp nến, sắp xếp lại đệm chăn, một bên nói không ngớt miệng: “Hai mươi năm nay, từng thứ từng vật ở nơi này đều được giữ nguyên trạng, Hoàng Thượng cứ cách ngày lại đến xem, cho nên một hạt bụi cũng không có.”
Rót cho Hạ Mẫn Chi một chén trà nóng: “Hạ đại nhân, mấy năm qua Hoàng thượng luôn khổ sở trong lòng, ngay cả một người có thể ở bên cạnh trò chuyện cũng không có, nếu ngài rảnh rỗi xin hãy vào cung bồi người nhiều hơn.”
Hạ Mẫn Chi mỉm cười gật đầu, đi đến trước trang đài (bàn trang điểm), chỉ thấy gương đồng được lau đến sáng loáng, soi đến từng phân từng điểm trên người đều hiện rõ, cầm lên một cái rổ nhỏ, một ít trang sức trâm cài được sắp đặt chỉnh tề trong đó, tiện tay lấy một hộp tròn bằng bạch ngọc, mở ra chỉ thấy chút phấn tàn, vẫn là màu hồng tường vi, nhưng lại ảm đạm bám nơi đáy hộp, tựa như một mảnh huơng hồn chưa được trở về cố hương.
Nhấc lên một nhánh châu hoa (một loại trang sức cài lên tóc), bạch kim làm cán, mã não như huyết châu khảm thành một đóa hoa lựu, dưới ánh đèn đẹp đến quỷ dị, tựa hồ sẽ mãi mãi đỏ rực như thế, diễm lệ như thế, sáng bóng như thế, nhưng chủ nhân của châu hoa, đã sớm hóa thành tro bụi, theo gió phiêu tán đi.
Từ Diên nhìn châu hoa, chậm rãi nói: “Đây là năm xưa Hoàng Thượng từ Giang Nam mang về cung tặng cho An Hòa công chúa, khi đó Hoàng Thượng vẫn còn là Hoàng thái tử, công chúa cũng vừa đến tuổi cập kê, tình huynh muội phi thường thắm thiết, đóa châu hoa này là thứ công chúa yêu nhất, lão nô hiện tại vẫn nhớ rõ tháng Năm năm đó, ngự hoa viên trăm hoa đua nở, trên búi tóc công chúa chỉ cài đóa hoa lựu này, một thân y sam tuyết bạch, diễm sắc kia rực rỡ đến chói mắt, chói đến lão nô cũng mở mắt không ra… Hoa trong ngự uyển đều bị lu mờ…”
Thanh âm có chút lanh lảnh của Từ Diên như xé tan bầu không khí giá rét, ký ức về hai mươi năm trước rõ ràng như ập đến trước mắt, vươn tay liền có thể chạm vào.
Hạ Mẫn Chi lẳng lặng lắng nghe, ngón tay vuốt ve từng chiếc bàn chiếc ghế trong phòng, tâm can như được vỗ về trong làn nước ấm, cả người như chìm vào cõi mộng ôn nhu nhất, thần hồn phiêu đãng, không muốn tỉnh lại.
Trong cơn mơ màng, thấy thân mình đã nằm trong lớp chăn ấm áp, có người giúp kéo chăn lại ngay ngắn, thắp chút An tức hương, nhẹ nhàng thổi tắt nến.
Trong mộng hoa lựu còn đỏ rực hơn cả lửa, dung nhan mẫu thân lúc trẻ vô cùng trong sáng tràn ngập hạnh phúc, bao nhiêu ưu thương cùng hoảng sợ tựa như phiến băng mỏng dưới ánh mặt trời, triệt để tan biến.
Một bàn tay to lớn vuốt ve khuôn mặt mình, lưu luyến thật lâu trên nốt ruồi nơi khóe mắt, rốt cục thở dài một hơi, tiếng thở dài này tựa hồ xuất phát từ cõi sâu thẳm nào đó trong linh hồn, khiến người nghe đến muốn rơi lệ.
Sáng sớm tỉnh dậy, căn phòng tràn ngập nắng mai, Hạ Mẫn Chi cũng không đi gặp Văn Đế, tự rời cung về nhà.
Hôm ấy còn có chỉ dụ, thất phẩm Ti trực Hạ Mẫn Chi chủ thẩm Nam Cương đại án, tạm nắm quyền Chánh khanh Đại Lý Tự.
Nhất thời cả triều đều chấn kinh.
Đàn Khinh Trần lúc đó đang cùng tri phủ ba châu ở Giang Nam là Ngọc Châu, Thành Châu, Duy Châu thưởng mai ngâm thơ, biết được chuyện này, lập tức có điểm thất thần, bị một nàng ca kỹ bên cạnh đụng đổ cả chén rượu, thiến sa la quần (áo đỏ quần lụa) của nàng ta lập tức ướt một mảng.
Tri phủ Ngọc Châu cực kỳ phong nhã, cười nói: “Quả thật là huyết sắc la quần phiên tửu ô! Như Mộng, còn không tạ ơn vương gia đã ban rượu?”
Mọi người đều cười ầm lên, Đàn Khinh Trần càng cười như gió xuân phơi phới: “Bổn vương mạo phạm giai nhân, tự phạt ba chén vậy.”
Hạ Mẫn Chi tim đánh thịch một hồi, lại chán ghét rút tay khỏi bàn tay ấm áp của hắn: “Nhân lúc còn nóng mau ăn đi, lải nhải nhiều thế làm gì?”
————–
Hôm nay Hạ Mẫn Chi cùng Tả thiếu khanh (Tả thiếu khanh là chức quan, không phải tên người ^^) ở Đại Lý Tự xử xong một án giết người trả thù, dọc đường về nhà đầu cứ choáng váng, tựa hồ còn có thể nhìn thấy từng mảng đỏ thẫm trên nền đá đen bóng trong hình điện.
Nếu không phải vạn bất đắc dĩ, Hạ Mẫn Chi cực hiếm khi đề nghị dụng hình với phạm nhân.
Tên phạm nhân hôm nay ngoan cố hung hãn, một trăm trượng giáng xuống, huyết nhục tứ tung, ngay cả xương cốt cũng lộ ra, khiến Hạ Mẫn Chi nhìn đến chỉ muốn nôn mửa một trận.
Về tới nhà, uống ngay một chén nước mới cảm thấy khá hơn, Hạ bá mỉm cười lấy ra một phong thư, nói: “Là Thập Tam từ Sở Châu gửi về.”
Hạ Mẫn Chi mừng rỡ, tiếp nhận mở ra xem, chỉ vài dòng ít ỏi mà ngay ngắn:
Gần đây đến Sở Châu, bên hồ Giải Kiếm ở Võ Đang phá Lưỡng Nghi kiếm trận, bại dưới Thái Cực kiếm của Thanh Vân chưởng môn. Kiếm pháp Võ Đang, miên lý tàng châm (trong lụa giấu kim – nhìn bề ngoài mềm mại nhưng ẩn chứa mũi nhọn sắc bén bên trong), tinh thâm ảo diệu, phen này giao thủ, đối với Giang Hà kiếm rất có lợi.
Nét bút tự do như trường thương đại kích, cát vàng ngàn dặm, lâm ly từng dòng trên giấy, Hạ Mẫn Chi dùng hai ngón tay gấp thư, biểu tình khinh thường: “Viết chữ xấu như vậy, cư nhiên không biết xấu hổ phô bày trước mặt người khác.”
Nhưng vừa xoay người lại trân trọng cất vào trong chiếc hộp bằng gỗ tử đàn.
Tự hiểu được, Niếp Thập Tam đang chia sẻ cùng mình những trải nghiệm mà hắn trân quý nhất tâm đắc nhất, không khỏi mừng thầm trong dạ.
Qua vài ngày sau, thư của Niếp Thập Tam lại tới: Vừa đến Ký Châu, Thương Lãng kiếm phái, hữu danh vô thực.
Cứ thế nhận thư, hạ đi thu đến, đã được gần mười phong thư, đều chỉnh chỉnh tề tề an vị trong hộp gỗ.
Nửa đêm mồng năm tháng chín.
Hạ Mẫn Chi đang ngủ, cửa sổ đột nhiên mở ra, một bóng người nhảy vào, nhanh nhẹn như linh miêu, chậm rãi đi đến bên giường.
Hạ Mẫn Chi mở mắt ra, cười nói: “Thập Tam!”
Đã thấy Niếp Thập Tam một thân hắc y ngồi trước giường, mỉm cười chăm chú nhìn mình.
Cả người Niếp Thập Tam toát ra một loại vị đạo thanh sảng của núi rừng cây lá, lại hòa quyện cùng khí tức mãnh liệt của nam tử, lặng lẽ tản mác dưới ánh trăng.
Mà ánh trăng rọi trên người hắn, không còn vẻ u nhã ôn nhuận, trái lại càng nhiệt liệt sáng ngời như nắng xuân, tràn đầy sức sống.
Hạ Mẫn Chi chớp chớp mắt, đôi nhãn châu như lưu ly lóng lánh thủy quang: “Ngươi về rồi sao?”
Niếp Thập Tam khàn giọng nói: “Hôm nay là sinh thần của ta, ta về ăn mỳ trường thọ.”
Hạ Mẫn Chi đứng dậy cười nói: “Theo ta đến trù phòng…”
Một bát mỳ trứng trộn rau xanh nóng hổi đưa đến trước mặt Niếp Thập Tam, Niếp Thập Tam một phen bắt lấy tay Hạ Mẫn Chi, cặp mắt đen nhánh ánh lên một tia nguy hiểm: “Có nhớ ta không?”
Hạ Mẫn Chi tim đánh thịch một hồi, lại chán ghét rút tay khỏi bàn tay ấm áp của hắn: “Nhân lúc còn nóng mau ăn đi, lải nhải nhiều thế làm gì?”
Niếp Thập Tam thấp giọng phì cười, cũng không hỏi nữa, vùi đầu mà ăn.
Hạ Mẫn Chi ngắm nhìn hắn, mấy tháng không gặp, Niếp Thập Tam có hơi ngâm đen hơn, nhưng trông càng mạnh mẽ, làn da màu mật ong dưới ánh nến như dải gấm mềm mại sáng bóng, vừa căng mịn vừa đàn hồi, ban nãy một đường đi tới trù phòng, phát hiện hắn đã cao hơn mình gần nửa cái đầu, vai rộng chân dài, đường nét trên mặt càng phân minh. Đã gần cuối thu, nhưng chỉ mặc một kiện y sam đơn bạc, khiến đường cong hoàn hảo như ẩn như hiện bên dưới lớp áo. Bên hông đeo một thanh kiếm mà mình chưa từng thấy qua.
Hạ Mẫn Chi hiếu kỳ, gỡ xuống nhìn thử, chỉ thấy thân kiếm hẹp dài, trên vỏ kiếm khắc hai chữ “Thuần quân”, rút kiếm ra, kiếm quang như tuyết, mũi kiếm như sương, sáng trong như nước, không khỏi kinh ngạc: “Quả thật là Thuần quân trong Việt ngũ kiếm?”
Niếp Thập Tam dùng đũa cuốn mỳ, hỏi: “Ngươi biết Thuần quân kiếm?”
Hạ Mẫn Chi gật đầu: “Trong Việt tuyệt thư có nhắc tới thanh kiếm này.” Lại nói: “Nhìn hoa văn, như phù dung nở rộ, ngắm đường vân, như chòm sao xoay chuyển, nhìn quang mang, thuần khiết như nước viên mãn như hồ, ngắm đoạn thân, sắc cạnh như đá, nhìn khí thế, ngời sáng như băng sơn. Chính là nói về nó. Ngươi từ đâu có được?”
Niếp Thập Tam cười đến có chút ái muội, đôi con ngươi đen nhánh bị hơi nóng trong bát mỳ phủ lên một màn sương mờ ảo, hiếm khi ôn nhu như nước: “Được người ta tặng.”
Tựa hồ có chút ngượng ngùng, thoáng nhìn Hạ Mẫn Chi, giải thích: “Chỉ là bằng hữu thôi, ngươi đừng nghĩ nhiều…”
Hạ Mẫn Chi trầm mặc nửa ngày, cảm thấy đêm thu càng lạnh, càng gắt gao thu người trong tấm áo choàng bằng vải thô, mỉm cười: “Làm thiếu hiệp giang hồ quả thật rất tốt, tiên y nộ mã (sống xa hoa đầy đủ), danh kiếm phong lưu.”
Nhìn sâu vào mắt Niếp Thập Tam, kiên quyết nói: “Ngươi cứ từ từ mà ăn, ta về phòng nghỉ ngơi trước, gần đây những vụ án lớn cần phúc thẩm rất nhiều, không thể bồi ngươi.”
Dứt lời đứng dậy, ra đến cửa lại dặn dò: “Ăn xong nhớ rửa bát!”
Niếp Thập Tam tỏ vẻ như vô sự, cúi đầu tiếp tục ăn mỳ, khóe miệng cong lên, nhãn thần tràn đầy thâm trầm cùng tự tin “nhất định có được”.
Sáng sớm hôm sau, Hạ Mẫn Chi thẳng tiến trù phòng, đã thấy Hạ bá đang làm điểm tâm.
Trên bàn là bát mỳ tối qua của Niếp Thập Tam, đã được rửa sạch sẽ, còn dằn lên một tờ giấy, Hạ Mẫn Chi cầm lên nhìn thử, chính là bút tích nổi tiếng phóng khoáng của Niếp Thập Tam: Thuần quân kiếm là do Thanh Vân đạo trưởng của Võ Đang tặng, yên tâm.
Lập tức cả giận nói: “Yên tâm cái gì? Chạy đến núi Võ Đang đánh nhau với người ta, đánh xong còn cướp kiếm của người ta, đúng là tên cường đạo bại hoại! Sớm muộn gì cũng bị bắt đến Đại Lý Tự, tới chừng đó cho hắn một trận trượng hình, ta mới yên tâm!”
Nhưng khóe miệng lại nhịn không được cong lên, một nụ cười thuần túy như ánh nắng mai nở rộ trên khuôn mặt.
Hạ bá bưng qua hai chén cháo, cười nói: “Thập Tam đêm qua trở về, buộc lão đầu như ta so chiêu với hắn đến nửa đêm, trời chưa sáng đã xuất hành, đúng là con sói non không bao giờ chịu ở yên một chỗ.”
Hạ Mẫn Chi nói: “Sau này cứ mặc kệ hắn là được, nửa đêm nửa hôm, so chiêu cái gì?”
Hạ bá thở dài: “Ta đã không còn là đối thủ của hắn, e rằng sau này có van cầu, hắn cũng chưa chắc chịu đấu với ta.”
Từ trong ngực lấy ra nhất xấp ngân phiếu: “Đây là tiền trước kia ngươi cầm đàn đưa cho hắn, hắn nói dùng không hết.”
Hạ Mẫn Chi đón lấy ngân phiếu, vội nói: “Sao lại dùng không hết, ai… lẽ nào hắn muốn giết người cướp của?”
Hạ bá bật cười: “Đừng nóng lòng, tiểu tử Thập Tam này rất cao ngạo, sẽ không làm những chuyện thấp hèn như thế, Giang gia năm xưa nổi tiếng phú quý khắp Trung Nguyên, tuy bị cả nhà bị xử trảm, nhưng làm phụ mẫu lẽ nào không để lại cho nhi tử mình một con đường lui.”
Vỗ vai Hạ Mẫn Chi: “Cha mẹ hắn đều nặc danh gửi vào các tiền trang ở Trung Nguyên một số bạc, hắn chỉ cần nhờ vào mặt dây đeo cẩn ngọc trên cổ và dấu tay, liền có thể rút ra.”
Hạ Mẫn Chi ngẩn người, nghiến răng nói: “Tên bại hoại này! Có tiền cư nhiên cũng không nói cho ta biết… tốt nhất đừng quay về nữa!”
Hạ bá uống xong chén cháo, thản nhiên nói: “Ta rất hy vọng hắn quay về.”
Nhìn Hạ Mẫn Chi, nhãn thần khắc sâu vẻ không đành lòng: “Trước khi tiểu thiếu gia gặp hắn, cõi lòng không khác gì tàn tro, Thập Tam là người tốt, có hắn ở bên ngươi, nếu một ngày nào đó ta bị chân khí phản phệ mà chết thì cũng yên lòng.”
Tay Hạ Mẫn Chi siết chặt đôi đũa, thanh âm bình tĩnh: “Hạ bá, người phải sống lâu trăm tuổi.”
Vừa qua Tết, trong quân trại trấn thủ ở Nam Cương liền xảy ra một vụ án lớn.
Năm trước thành Trinh Tuyền ở Nam Cương có tiểu đội binh mã của man tộc phản bội Trữ quốc, Hiệu úy kỵ binh Phùng Tê Ngô giết hai mươi bá tính trong thôn trang ngoại thành Trinh Tuyền, ngụy biện rằng những kẻ mình giết chính là bọn Nam hoang phản loạn để lập công.
Bản thân vụ án không phức tạp, nhưng gia thế của Phùng Tê Ngô lại cực kỳ phức tạp.
Phùng Tê Ngô là cháu ngoại của Binh bộ tả thị lang Ngụy Lan Đình, mà chất nữ (cháu gái họ) của Ngụy Lan Đình chính là Thục Hoa phu nhân đang được sủng ái trong cung.
Gia thế Phùng Tê Ngô không chỉ hiển hách, mà còn đang gặp thời thế, mọi sự đều đã chuẩn bị đầy đủ, chỉ thiếu bước lập công, một khi lập được đại công, liền có thể từ Nam Cương trở về Tĩnh Phong, gia nhập thẳng vào Binh bộ, nhậm chức Chủ sự dễ như trở bàn tay.
Mắt thấy Binh bộ đã hạ chiếu thăng quan, không ngờ thôn dân còn sống sót sau đại họa ngàn dặm xa xôi đến cáo trạng lên Đại Lý tự, ngay cả Văn Đế cũng bị kinh động, hạ chỉ Đại Lý Tự phải nghiêm ngặt điều tra án này.
Vì thế Phùng Tê Ngô tuy trở về Tĩnh Phong, nhưng chưa đến Binh bộ đã bị mời tới đại lao của Đại Lý Tự.
Chánh khanh (tương đương thẩm phán) Đại Lý Tự Hàn Thoái Tư mấy hôm nay lật đi lật lại quyển tông về Nam Cương đại án, không thiết ăn uống, tiến thoái lưỡng nan.
Chốn quan trường đều có “môn đạo” (những mối liên hệ móc nối câu kết), thế cục rõ ràng cũng được, rối rắm cũng được, đành rằng quá thấu hiểu nhau, nhưng không thể triệt để vạch trần, nhất định phải chừa lại một tầng trướng lụa.
Tầng trướng lụa này cũng giống như chiêng trống trên hí đài (sân khấu kịch), thoạt nhìn vô dụng, nhưng lại không thể thiếu.
Vở tuồng vừa bắt đầu, tiếng chiêng trống lập tức vang lên, nhỏ to nhanh chậm, trầm bổng khúc chiết, ý vị thâm trường, nghe tiếng chiêng trống, người biết thưởng thức liền hiểu vở tuồng này nên xướng thế nào, nhảy theo nhịp trống, hoặc lướt qua hí đài, hoặc tu sức lên diễn, chỉ có thể ngầm hiểu, không thể nói thành lời.
Hàn Thoái Tư lăn lộn trong quan trường gần ba mươi năm, đương nhiên tinh thông môn đạo, liếc mắt một cái liền nhìn ra, vụ án này không dễ thẩm quyết.
Thục Hoa phu nhân vừa sinh hạ một vị hoàng tử, Ngụy Lan Đình tuy là tả thị lang, nhưng vì Binh Bộ Thượng Thư đang định cáo lão hồi hương, nên coi như đã nắm quyền thượng thư.
Điểm mấu chốt vẫn là Văn Đế, lòng dạ thiên tử vốn khó dò, lần này cũng thế.
Hạ chỉ “nghiêm ngặt điều tra”, chứ không phải “nghiêm khắc xử trí”, chỉ sai khác vài con chữ, nhưng ý tứ bên trong phải tuyệt đối cân nhắc.
Lật lại quyển tông, thôn dân có nhân chứng, Phùng Tê Ngô cũng có thuộc hạ làm nhân chứng.
Vật chứng chỉ còn hai cỗ thi thể không rõ nhân dạng, nếu không phải Phùng Tê Ngô sơ suất, e rằng một cỗ cũng không còn, ngỗ tác (coi như bác sĩ pháp y hồi đó ^^) khám nghiệm tử thi chỉ kết luận một câu “Chết do đao thương, vết thương chuẩn xác, vào năm phân, ra năm phân, lực đạo vừa phải.”
Cố chịu đựng cơn đau đầu thẩm vấn hai lần, Phùng Tê Ngô tất nhiên không nhận tội, chỉ nói kẻ hắn giết chính là phiến quân man tộc, Hàn Thoái Tư cũng không dám dụng hình.
Mắt thấy đã đến lúc thích hợp để cáo lão hồi hương, Hàn Thoái Tư tam đại đồng đường (một nhà ba thế hệ), chắc chắn không muốn sinh chuyện thị phi, thừa biết vụ án này mình không nguyện đụng tới, cũng không thể đụng tới.
Đang cân nhắc, chợt thấy sau điện có một người chậm rãi đi qua, một thân quan phục thất phẩm, thân hình cao ráo, lại có chút mảnh mai, khí chất thanh nhã lại được trời phú một đôi mắt đào hoa, chính là Ti trực Hạ Mẫn Chi.
Vị thám hoa này, từng trước mặt mọi người xin thánh ân ban nhà ngay tại Quỳnh lâm yến nhưng Hoàng Thượng trái lại không hề nổi giận, còn có tin đồn người này thường xuyên được triệu vào cung bồi Văn Đế đánh cờ trò chuyện, Hàn Thoái Tư lập tức mỉm cười.
Ngày hôm sau, Hàn Thoái Tư đột nhiên bệnh nặng, lại nhờ Tả thiếu khanh trình lên tấu chương, viết rằng Đại Lý Tự Ti trực Hạ Mẫn Chi thông tuệ cần mẫn, minh pháp công chính, xin để hắn thay mình thẩm tra Nam Cương đại án này. Còn vượt trội hơn cả đám người tả hữu thiếu khanh, tả hữu tự thừa.
Tối đó Văn Đế nhìn tấu sớ, mỉm cười: “Lão hồ ly Hàn Thoái Tư này…” Lệnh cho Từ Diên lập tức mời Hạ Mẫn Chi vào cung.
Hạ Mẫn Chi ban đêm yết kiến, Văn Đế chỉ vào tấu chương nói: “Hàn Thoái Tư vừa dâng sớ cho trẫm, ngươi đoán xem hắn nói gì trong đó?”
Hạ Mẫn Chi hôm nay vừa nhận được thư Niếp Thập Tam gửi từ Lương Châu, trong thư kể về cảnh tượng hùng vĩ ánh trăng vạn dặm đồng tuyết bao la nơi biên quan, trong lòng đang thập phần cao hứng, liền cười nói: “Nếu thần đoán đúng, Hoàng Thượng sẽ thưởng gì?”
Nhìn nụ cười vẫn còn mang hơi hướng ấu tử của Hạ Mẫn Chi, Văn Đế chỉ thấy thật yêu thích, hòa nhã ưng thuận: “Ngươi muốn gì cứ việc nói.”
Hạ Mẫn Chi cúi đầu trầm ngâm, dưới ánh đèn lưu ly đường nét ngũ quan phi thường thanh tú nhu mỹ, quả thật hệt như được cẩn ngọc, thần sắc Văn đế không khỏi có chút lơ đãng.
Nửa ngày, Hạ Mẫn Chi cười nói: “Hiện tại vẫn chưa muốn gì, sau này hẵng tính.” Đôi mắt trong suốt mang theo vài phần giảo hoạt: “Hoàng Thượng đã bảo ta đoán, có lẽ trong sớ nhất định nhắc tới ta.”
“Hàn đại nhân mấy ngày qua chỉ phiền não về một chuyện, chính là Nam Cương đại án.”
“Nam Cương đại án không dễ tra cũng không dễ xử, Hàn đại nhân hôm nay cáo bệnh nghỉ ở nhà…”
“Lẽ này nào đã ném củ khoai lang nóng bỏng tay này qua cho ta?”
Văn Đế vỗ tay mỉm cười: “Hay lắm, ngươi đoán đúng rồi! Ta truyền ngươi đến đây, là muốn nghe ý kiến của ngươi, nếu ngươi không muốn tiếp nhận, ta sẽ khiến bệnh của Hàn Thoái Tư ngày mai liền khỏi hẳn.”
Hạ Mẫn Chi ngẫm nghĩ một hồi, mâu quang có chút băng lãnh, lại cuồn cuộn nhiệt huyết sắc sảo, cười nói: “Nếu Hàn đại nhân đã đề bạt, ta liền nhận vụ án này vậy.”
Văn Đế chăm chú nhìn hắn, gật đầu nói: “Cũng được, ngươi cứ thoải mái mà hảo hảo thẩm tra, vụ án này nếu phán không tốt chỉ sợ sẽ rối loạn lòng dân, nhất là bốn tộc vùng biên quan chịu sự cai quản của Đại Trữ.”
Đang nói, Từ Diên đã bưng bánh khoai từ cùng chè táo đỏ ngân nhĩ tiến vào, cười nói: “Đêm đã khuya, Hoàng Thượng và Hạ đại nhân dùng chút điểm tâm khuya đi.”
Văn Đế nhìn canh giờ: “Giờ tý rồi sao, thảo nào trẫm lại cảm thấy hơi mệt, Mẫn Chi tối nay cứ ngủ lại trong cung đi.”
Phân phó Từ Diên: “Dẫn hắn đến Đan Hạc uyển.”
Hạ Mẫn Chi ngẩn người, nhưng không nói gì, chỉ theo Từ Diên một đường đi tới Đan Hạc uyển.
Vừa qua Tết, tiết trời vẫn còn lạnh, Đan Hạc uyển càng buốt giá, Hạ Mẫn Chi bước vào phòng, Từ Diên đã sớm phân phó cung nữ thắp đèn thắp nến, sắp xếp lại đệm chăn, một bên nói không ngớt miệng: “Hai mươi năm nay, từng thứ từng vật ở nơi này đều được giữ nguyên trạng, Hoàng Thượng cứ cách ngày lại đến xem, cho nên một hạt bụi cũng không có.”
Rót cho Hạ Mẫn Chi một chén trà nóng: “Hạ đại nhân, mấy năm qua Hoàng thượng luôn khổ sở trong lòng, ngay cả một người có thể ở bên cạnh trò chuyện cũng không có, nếu ngài rảnh rỗi xin hãy vào cung bồi người nhiều hơn.”
Hạ Mẫn Chi mỉm cười gật đầu, đi đến trước trang đài (bàn trang điểm), chỉ thấy gương đồng được lau đến sáng loáng, soi đến từng phân từng điểm trên người đều hiện rõ, cầm lên một cái rổ nhỏ, một ít trang sức trâm cài được sắp đặt chỉnh tề trong đó, tiện tay lấy một hộp tròn bằng bạch ngọc, mở ra chỉ thấy chút phấn tàn, vẫn là màu hồng tường vi, nhưng lại ảm đạm bám nơi đáy hộp, tựa như một mảnh huơng hồn chưa được trở về cố hương.
Nhấc lên một nhánh châu hoa (một loại trang sức cài lên tóc), bạch kim làm cán, mã não như huyết châu khảm thành một đóa hoa lựu, dưới ánh đèn đẹp đến quỷ dị, tựa hồ sẽ mãi mãi đỏ rực như thế, diễm lệ như thế, sáng bóng như thế, nhưng chủ nhân của châu hoa, đã sớm hóa thành tro bụi, theo gió phiêu tán đi.
Từ Diên nhìn châu hoa, chậm rãi nói: “Đây là năm xưa Hoàng Thượng từ Giang Nam mang về cung tặng cho An Hòa công chúa, khi đó Hoàng Thượng vẫn còn là Hoàng thái tử, công chúa cũng vừa đến tuổi cập kê, tình huynh muội phi thường thắm thiết, đóa châu hoa này là thứ công chúa yêu nhất, lão nô hiện tại vẫn nhớ rõ tháng Năm năm đó, ngự hoa viên trăm hoa đua nở, trên búi tóc công chúa chỉ cài đóa hoa lựu này, một thân y sam tuyết bạch, diễm sắc kia rực rỡ đến chói mắt, chói đến lão nô cũng mở mắt không ra… Hoa trong ngự uyển đều bị lu mờ…”
Thanh âm có chút lanh lảnh của Từ Diên như xé tan bầu không khí giá rét, ký ức về hai mươi năm trước rõ ràng như ập đến trước mắt, vươn tay liền có thể chạm vào.
Hạ Mẫn Chi lẳng lặng lắng nghe, ngón tay vuốt ve từng chiếc bàn chiếc ghế trong phòng, tâm can như được vỗ về trong làn nước ấm, cả người như chìm vào cõi mộng ôn nhu nhất, thần hồn phiêu đãng, không muốn tỉnh lại.
Trong cơn mơ màng, thấy thân mình đã nằm trong lớp chăn ấm áp, có người giúp kéo chăn lại ngay ngắn, thắp chút An tức hương, nhẹ nhàng thổi tắt nến.
Trong mộng hoa lựu còn đỏ rực hơn cả lửa, dung nhan mẫu thân lúc trẻ vô cùng trong sáng tràn ngập hạnh phúc, bao nhiêu ưu thương cùng hoảng sợ tựa như phiến băng mỏng dưới ánh mặt trời, triệt để tan biến.
Một bàn tay to lớn vuốt ve khuôn mặt mình, lưu luyến thật lâu trên nốt ruồi nơi khóe mắt, rốt cục thở dài một hơi, tiếng thở dài này tựa hồ xuất phát từ cõi sâu thẳm nào đó trong linh hồn, khiến người nghe đến muốn rơi lệ.
Sáng sớm tỉnh dậy, căn phòng tràn ngập nắng mai, Hạ Mẫn Chi cũng không đi gặp Văn Đế, tự rời cung về nhà.
Hôm ấy còn có chỉ dụ, thất phẩm Ti trực Hạ Mẫn Chi chủ thẩm Nam Cương đại án, tạm nắm quyền Chánh khanh Đại Lý Tự.
Nhất thời cả triều đều chấn kinh.
Đàn Khinh Trần lúc đó đang cùng tri phủ ba châu ở Giang Nam là Ngọc Châu, Thành Châu, Duy Châu thưởng mai ngâm thơ, biết được chuyện này, lập tức có điểm thất thần, bị một nàng ca kỹ bên cạnh đụng đổ cả chén rượu, thiến sa la quần (áo đỏ quần lụa) của nàng ta lập tức ướt một mảng.
Tri phủ Ngọc Châu cực kỳ phong nhã, cười nói: “Quả thật là huyết sắc la quần phiên tửu ô! Như Mộng, còn không tạ ơn vương gia đã ban rượu?”
Mọi người đều cười ầm lên, Đàn Khinh Trần càng cười như gió xuân phơi phới: “Bổn vương mạo phạm giai nhân, tự phạt ba chén vậy.”
Tác giả :
Trần Tiểu Thái