Đại Đường Song Long Truyện
Chương 202: Thọ yên vinh phú
Từ Tử Lăng cùng Khấu Trọng đứng tách ra xa, chỉ lưu ý biến hoá xung quanh Vương Thế Sung. Tuy gã không thể thay đổi chiều cao, song trên đầu đã cố ý quấn một chiếc khăn võ sĩ màu đỏ, bộ y phục trên người cũng làm gã co vẻ béo lên một chút, nên trừ phi là người đặc biệt chú ý, bằng không cũng khó mà nhìn ra sơ hở, huống hồ mọi người đều tưởng rằng gã đã rời khỏi thành từ hôm qua rồi.
Có điều phải đợi đến lúc Lý Thế Dân và Đạt Lợi qua chào Vương Thế Sung, Từ Tử Lăng mới cảm thấy yên tâm hẳn, bởi vì cả Lý Tịnh đứng bên cạnh Lý Thế Dân cũng chỉ liếc nhìn qua chứ không hề để ý đến gã. Gã không chú ý bọn họ nói gì, lại càng không lo lắng Trầm Lạc Nhạn sẽ phát động tấn công trong lúc này. Lang Phụng phụ trách tuần phòng ở tất cả các con đường đi tới Vinh phủ, nếu địch nhân có hành động gì, sẽ lập tức gặp phải đòn phủ đầu nặng nề.
Do có tin tức của Khả Phong cung cấp, Trầm Lạc Nhạn nhất định sẽ tương kế tựu kế, đợi lúc Vương Thế Sung trở về Hoàng Thành mới ra tay hành thích, vì vậy yến tiệc này lại trở thành nơi an toàn nhất.
Nói năng khách khí được mấy câu, những bá chủ và phú hào nắm giữ sinh tử và hạnh phúc của vạn dân này liền chuyến snag vấn đề tiền bạc và hàng hoá, có thể thấy đây thực sự là vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến thiên hạ dân sinh.
Chỉ nghe có người nói: “Hiện giờ người người nhà nhà đúc tiền lậu để thay thế tiền Ngũ Thù của triều trước, nhưng chất lượng tiền mới rất tệ, nên đã dần dần hình thành thói quen dùng gạo, vải để đánh giá giá trị của vật phẩm, thật khiến người ta phải thúc thủ vô sách”.
Vương Thế Sung nói: “Nếu là tiền từ các lò đúc của quan phủ thì phẩm chất tuyệt đối không có vấn đề, vấn đề là nằm ở các lò đúc tiền lậu trong dân gian, tiền từ các lò này đúc ra ngay cả chữ bên trên cũng không rõ ràng, hầu như chỉ thấy một vêt mờ mờ”.
Trưởng Tôn Vô Kỵ đứng bên cạnh Lý Thế Dân thở dài: “Lò đúc tiền của quan phủ cũng có vấn đề, từ đời Hán đến nay, việc khai thác các khoáng sản như kim ngân đồng thiếc chì đều thuộc quan doanh. Nhưng triều trước để bảo đảm việc có đủ tiền để lưu thông, đồng thời lại muốn giữ chất lượng, thế nên phải dùng một lượng quặng rất lớn. Dương Quảng đã từng mở hai mươi mỏ vàng trong mười hai huyện ở Vũ Lăng, dân dịch sáu mươi vạn người, tử thương vô số, vậy mà chỉ lấy được năm mươi lượng hoàng kim, phế địa trăm dặm. Quan viên đốc thúc khoáng sản trở thành ác tặc tàn hại lê dân, chưa thấy lợi đâu đã thấy hại trước mắt rồi”.
Từ Tử Lăng nghe mà chỉ biết chau mày, gã có thể khẳng định Khấu Trọng chưa từng nghĩ đến những chuyện này, chỉ có những người đã quản chính trị dân trong thời gian dài như Vương Thế Sung, Lý Thế Dân mới ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Trưởng Tôn Vô Kỵ quả không hổ danh trí giả, một lời nói ra khiến người tỉnh ngộ.
Cùng lúc gã cũng lưu ý thấy Đột Lợi lắng nghe rất chú tâm, một tia sáng loé qua trong đầu, gã lập tức hiểu ra tại sao người Đột Quyết lại phải thông qua những người Trung Nguyên chịu khống chế để tiến hành xâm lược, bởi vì trị vì cả một vùng đât rộng lớn như Trung Nguyên, không phải là chuyện mà một dân tộc lấy du mục làm gốc có thể làm được. Vì thế người Đột Quyết chỉ cần đoạt lấy tài vật, mỹ nữ của Trung Nguyên, nên mới tích cực hỗ trợ những đạo nghĩa quân cùng nổi loạn như vậy.
Lý Thế Dân xen miệng vào nói: “Hiện giờ những thứ gọi là tiền mới đều là tiền Ngũ Thù của tiền triều đúc lại, còn những thứ tiền kém chất lượng của dân gian, thì cũng là tiền Ngũ Thù nung chảy có pha thêm các tạp vật, một văn tiền có thể hoá thành mấy văn tiền,ai nấy thấy lợi cũng làm, vì tế không thể nào cấm được một cách triệt để. Phương pháp giải quyết duy nhất, chính là thiên hạ trùng quy nhất thống, nhờ sức mạnh của triều đình trung ương, tiêu diệt tệ nạn này. Còn thiên hạ, e rằng không ai làm gì được”.
Từ Tử Lăng cũng phải thầm bội phục, nếu Khấu Trọng không phải huynh đệ của gã, mà để cho gã chọn một người, chỉ sợ gã cũng sẽ chọn Lý Thế Dân làm quân chủ tương lai của vạn dân Trung Nguyên.
Cách nghĩ này khiến gã cảm thấy rất khó chịu.
Bất luận Lý Thế Dân thắng hay Khấu Trọng thắng, người kia cũng chỉ có một vận mệnh duy nhất, đó chính là cái chết. Chuyện này phải kết thúc thế nào đây?.
o0o
Khấu Trọng còn định trêu cợt mỹ nữ Quy Tử xưa nay luôn lạnh lùng với gã như một tảng băng này thì nàng đã nhanh nhẹn tránh đi. Phục Khiên, Hình Mạc Phi và hai mỹ nữ Thổ Lỗ Hồn cũng vừa hay bước đế bên gã, không biết có phải vì không muốn gặp bọn họ mà Linh Lung Kiều đã né đi hay không. Sau khi Phục Khiên giới thiệu, gã đã biết được phương danh của hai mỹ nữ này, người cao hơn tên Thảo An, người còn lại là Hoa Na, cả hai đều chan chứa vẻ phong tình của nữ nhân dị quốc, đồng thời lại có sự bạo dạn và hoang dã mà nữ nhân Trung Nguyên hiếm người có được. Ánh mắt của hai mỹ nữ này nhìn Khấu Trọng còn phóng túng vô kỵ hơn cả ánh mắt hắn nhìn bọn họ nữa.
Đặc biệt là Hoa Na, mái tóc dài đen óng ánh xoã xuống vai hết sức tự nhiên, bồng bềnh như những làn sóng, đôi môi hồng phấn, cặp mắt sáng long lanh như ngọc, cùng với đôi gò má cao, hàng lông mày lá liễu, làn da trắng mịnh như tuyết, quả thực không hề thua kém gì những tuyệt thế mỹ nữ như Trầm Lạc Nhạn hay Tống Ngọc Trí.
Khấu Trọng không biết quan hệ của hai nữ nhân này và Phục Khiên thế nào, nên cũng không tiện trêu chọc, chỉ né tránh ánh mắt đầy khiêu khích của họ rồi mỉm cười hỏi họ Phục: “Đêm nay hình như không tiện động thủ lắm thì phải?”.
Phục Khiên đảo mắt một vòng khắp toàn trường, cuối cùng dừng lại ở chỗ Lý Thế Dân, Đột Lợi, Vương Thế Sung và Vinh Phụng Tường đang đứng, thuận miệng đáp: “Muốn động thủ thì ở đâu cũng có thể động thủ, Vinh lão bản chắc cũng không để bụng đâu. Có điều đây là lần đầu tiên ta tham gia yến hội của người Hán các vị, không muốn phá hoại không khí hoà bình náo nhiệt lúc này”.
Khấu Trọng cảm thấy trong mấy lời tuỳ tiện của y, cơ hồ như ám thị điều gì đó, liền mỉm cười nói: “Vì vậy nếu như ở trên lôi đài hoặc nơi chiến hoả liên miên, Vương tử mới đại triển sở trường, đúng không?”.
Phục Khiên cũng mỉm cười, nói lảng sang chuyện khác: “Người đứng bên cạnh Lý Thế Dân đang nhìn Khấu huynh là thần thánh phương nào vậy?”.
Khấu Trọng cười khổ: “Người này tên Lý Tịnh, là phu quân của Hồng Phất Nữ”.
Phục Khiên gật đầu: “Người này đúng là phi phàm, chẳng trách lại lọt được vào mắt xanh của Hồng Phất Nữ. Ủa, tại sao nàng ta không đến nhỉ?”.
Hoa Na cười khúc khích: “Sao vương tử “khôn” hỏi trực “tiết” y ấy? Nô gia đoán y sắp lại đây rồi!”. Giọng nói của nàng không thuần, chữ ‘không” nói thành chữ “khôn”, chữ “tiếp” nói nhầm thành “tiết”, nhưng nghe rất vui tai.
Lý Tịnh quả nhiên chầm chậm cất bước lại gần bọn họ, bộ pháp bình ổn hữu lực, khí thế hùng hậu như thiên quân vạn mã.
Phục Khiên tán thưởng: “Người này có thể làm đại tướng”.
Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Vương tử chỉ nhìn thoáng qua mà đã biết sao? Vậy Lý Thế Dân thì thế nào?”.
Phục Khiên chậm rãi nói: “Ta giỏi nhất chính là xem tướng người. Y thấy bọn ta đang đàm luận về mình, ấy vậy mà không hề có vẻ bất an, ngược lại còn chủ động đến tham gia, hơn nữa từ bộ pháp thập phần tự tin hùng dũng của y, có thể thấy người này là bậc quả cảm dám làm dám chịu, tuyệt đối không phải hạng tầm thường”.
Hình Mạc Phi cũng gật đầu tán đồng: “Người Lý Thế Dân chịu trọng dụng, đâu thể nào là hạng thường được”.
Lúc này Lý Tịnh đã bước đến trước mặt năm người, thi lễ nói: “Lý Tịnh tham kiến Phục vương tử!”. Kế đó lại quay sang Khấu Trọng: “Có thể nói riêng với ta mấy câu không?”.
Phục Khiên cười lên ha hả: “Lý huynh có thể trả lời một câu hỏi của bản nhân trước được chăng?”.
Lý Tịnh nhìn thẳng vào đôi mắt sắc bén như đao của Phục Khiên, ung dung đáp: “Xin vương tử cứ hỏi!”.
Phục Khiên ngửa mặt cười một tràng dài, làm tất cả mọi người trong sảnh đều phải chú ý, rồi mới cao giọng hỏi: “Nếu quý chủ may mắn lấy được thiên hạ, không biết có hám công hám lợi như Dương Quảng mà khoe khoang thị uy, khuếch trương thế lực với Tây Vực chúng ta không?”.
Bao nhiêu tiếng ồn ào huyên náo trong sảnh lập tức tắt lịm, cả đám tỳ bộc đang chiêu đãi khách nhân cũng dừng lại không dám di động, cỉ còn lại tiếng nhạc dặt dìu, từ đây có thể thấy được sức ảnh hưởng của câu hỏi này thế nào.
Câu hỏi này vốn phải do Lý Thế Dân trả lời thì thoả đáng hơn cả, nhưng vấn đề là Lý Thế Dân không phải thái tử, nếu tranh trả lời, thì cũng đồng nghĩa với việc y tỏ rõ muốn tranh giành quyền thừa kế hoàng vị với huynh trưởng Lý Kiến Thành. Còn Lý Tịnh thì có đáp hay không cũng đều không thoả đáng như nhau, nếu như lời lẽ ấp úng vòng vo, sẽ chỉ khiến Phục Khiên khinh thường cả y lẫn Lý Thế Dân.
Chiêu này của Phục Khiên quả rất lợi hại.
Thế nhưng Lý Tịnh cũng chẳng phải hạng thường, ung dung cười cười đáp: “Bất luận là ai giành được thiên hạ cũng phải hiểu rõ sự khác biệt giữa Hán và Hồ chính là ở tập tục và phong thổ. Nhân giả chỉ sợ không đủ đức trạch, chứ không đi đố kỵ với những gì khác mình. Dùng đức trị nhân, có thể biến bốn phương thành một nhà, nghi kỵ đố kỵ nhiều, cốt nhục cũng thành cừu nhân. Không biết Phục vương tử có nghĩ như vậy không?”.
Những lời này vừa đánh vừa xoa, chúng nhân nghe xong đều phải thầm tán thưởng.
Phục Khiên lại cười lên ha hả, liên tiếp thốt ba tiếng: “Hảo! Hảo! Hảo”, rồivui vẻ nói với Khấu Trọng và Lý Tịnh: “Hai vị cứ tự tiện!”.
o0o
Khấu Trọng và Lý Tịnh vòng qua các bàn tiệc, đi ra từ cửa hông đến một hành lang vắng.
Trận mưa lớn hồi sáng đã tạnh hẳn, nhưng thời tiết vẫn chưa tốt lên được bao nhiêu, trên trời tinh nguyệt vô quang, dưới lan can nơi hai người đang đứng là một hồ cá lớn có giả sơn bên trong. Bên hồ trồng rất nhiều hoa mẫu đơn, vì bị trận mưa lớn vùi dập nên cánh hoa rải khắp mặt hồ, dập dềnh dập dềnh.
Lý Tịnh trầm giọng nói: “Đêm qua Tiểu Lăng ra thành đi đâu vậy?”.
Khấu Trọng rất muốn châm chọc y, định hỏi xem có phải đã phái người giám thị bọn gã cả mười hai canh giờ không, nhưng lời ra đến miệng lại niệm tình huynh đệ năm xưa mà thu lại, cố nén bực dọc nói: “Hắn có việc gấp, phải đi kiếm một số bằng hữu”.
Lý Tịnh thở dài nói: “Ôi! Tại sao lại đến nước này chứ?”.
Khấu Trọng chăm chú nhìn những con cá đang tung tăng bơi trong hồ, nhạt giọng nói: “Nói hay lắm, tối qua suýt chút nữa thì ta bị hồng phất của đại tẩu tiễn xuống địa phủ rồi đấy!”.
Lý Tịnh giật mình quay sang nhìn gã: “Cái gì?”.
Khấu Trọng nhún vai: “Không có gì! Ta cũng không trách nàng ta, cái này gọi là yêu chồng thương con mà!”.
Lý Tịnh im lặng hồi lâu, rồi mới ngần ngừ hỏi: “Bao giờ thì hai đệ trở về phương Nam?”.
Khấu Trọng nở một nụ cười chua chát, chỉ cần nghĩ đến chuyện bất hạnh của Tố Tố, là gã lại cảm thấy tất cả thành tựu mình đã đạt được như tan thành bọt nước, không hề có gì đáng để khoe khoang, tự hào. Chỉ nghe gã ủ rũ nói: “Ngươi đừng để ý đến chuyện của Tố tỷ nữa được không? Hiện giờ ngay cả lực khí để trách móc ngươi bọn ta cũng không có nữa rồi!”.
Lý Tịnh biến sắc, lo lắng hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Tại sao tối nay đệ cứ có vẻ ủ rũ chán nản như vậy?”.
Khấu Trọng nghĩ lại chuyện cũ, chút nữa thì bật khóc, nghiến răng phất tay bỏ đi.
Lý Tịnh vươn tay chộp lấy vai gã, quát lớn: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”.
Khấu Trọng nghẹn giọng nói: “Sai lầm lớn nhất của Tố tỷ chính là đã quen biết ba chúng ta, như vậy đã đủ chưa?”.
Dứt lời liền hất mạnh tay Lý Tịnh ra, loạng choạng đi vào trong sảnh.
o0o
Khấu Trọng vừa bước qua cửa thì gặp ngay một người đi thẳng tới, đối phương kéo gã sang một bên, hạ thấp giọng nói: “Ta đang tìm huyng đây!”.
Khấu Trọng lúc này không có tâm tình nói chuyện với người khác, chỉ bực mình đáp: “Hầu huynh có chuyện gì vậy?”.
Thì ra người này chính là Đa Tình Công Tử Hầu Bi Bạch.
Lý Tịnh đi phía sau thấy gã nói chuyện với người khác, liền thở dài một tiếng, ủ rũ bỏ đi.
Những tân khách khác đã bắt đầu nhập tiệc, chỉ còn lại Lý Thế Dân, Vương Thế Sung và mấy nhóm khác vẫn còn đang nói cười huyên thuyên.
Vinh Phụng Tường thì đang đứng với Phục Khiên, thần thái dường như rất hưng phấn.
Vân Ngọc Chân cũng đã tới và đang thì thầm to nhỏ gì đó với Tống Lỗ và Liễu Thanh. Ngoài ra còn có thêm mấy người khách mới là Bạch Thanh Nhi, Trịnh Thạch Như và Trịnh Thục Minh.
Đội nhạc tạm thời dừng lại, tiếng pháo, tiếng chúc rượu, tiếng cười đùa, tiếng thiếu niên nam nữ vui chơi nhảy múa không ngừng truyền lại từ sảnh trước và hậu viện, so ra thì không khí trong này có vẻ nghiêm túc hơn nhiều.
Hầu Bi Bạch kéo Khấu Trọng lại một góc khuất, thấp giọng nói: “Tử Lăng huynh đâu? Sao không thấy huynh ấy đến tham dự trường náo nhiệt này? Tối qua ta có gặp Phi Huyên, nàng nói chuyện Hoà Thị Bích đã được giải quyết rồi mà”.
Khấu Trọng nói: “Tiểu Lăng có việc nên không thể đến được, rốt cuộc là huynh có chuyện gì vậy?”.
Đôi mắt đầy mị lực của Hầu Bi Bạch liếc về phía bàn của Đổng Thục Ni và Vinh Giảo Giảo. Bàn tiệc đó là một trong bốn bàn được kê ở giữa, cũng đã gần đủ người, bao gồm cả hai huynh đệ Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nô, tất cả đều là người trẻ tuổi, ai nấy đều đang tranh nhau xum xoe lấy lòng hai nữ nhân, nhưng ánh mắt của Đổng Thục Ni và Vinh Giảo Giảo lại cứ liếc về phía Khấu Trọng và Hầu Bi Bạch, rõ ràng là rất có hứng thú với hai người,
Hầu Hi Bạch nói: “Phong Hàn huynh và Tử Lăng huynh có nhắc đến chuyện tại hạ từng theo dấu yêu nữ Âm Quý Phái với huynh chưa?”.
Khấu Trọng giờ mới nhớ Từ Tử Lăng đã từng nhắc gã chuyện này, miễn cưỡng phấn chấn tinh thần, mỉm cười nói: “Kết quả thế nào? Rốt cuộc yêu nữ đó là ai?”.
Hầu Hi Bạch dịch người lại gần hơn một chút, nhỏ giọng thì thầm: “Chính là tuyệt thế mỹ nữ mặc áo vải hoa Vân Nam. Toàn trường chỉ có mình ả ta mặc loại y phục này, hiển nhiên là hạng thích được nổi bật”.
Khấu Trọng trước nay chưa từng lưu ý xem các nữ tử ăn mặc thế nào, chỉ dựa vào trực giácẩcm nhận nàng ta có đẹp hay không mà thôi, nên nghe y nói vậy thì cau mày nói: “Huynh là chuyên gia về các mỹ nhân, còn ta thì một khiếu chẳng thông, đừng nói kiểu thâm ảo như vậy được không?”.
Hầu Hi Bạch phì cười nói: “Ta không tiện chỉ ra ả, bởi vì tất cả nữ tử trẻ tuổi trong đại sảnh này đều đang nhìn đăm đăm vào chúng ta. Vải hoa Vân Nam là thứ vải dùng sáp trong qúa trình nhuộm, thuốc nhuộm thấm những kẽ nứt trên bề mặt sáp, tạo thành những hoa văn biến hoá vô cùng, lại rất tự nhiên, không hề có định thức nhất định, màu sắc cũng rất đặc bịêt”.
Khấu Trọng giờ mới phát giác ra đó chính là y phcụ của Đổng Thục Ni, giật mình thốt: “Không phải huynh muốn nói ả điêu nữ mặc áo lam hồng sặc sỡ kia đấy chứ?”.
Hầu Hi Bạch mừng rỡ nói: “Khấu huynh quả là vừa nói đã hiểu, chính là nữ nhân này, tuyệt đối không thể sai được, ả ta là ai vậy?”.
Khấu Trọng hít vào một hơi nói: “Không ngờ không phải Vinh Giảo Giảo mà là ả, thật khiến người ta không thể nào tưởng tượng được, có điều khinh công của nữ tử này đích thực rất cao, chỉ là ta không biết ả cũng am hiểu võ công mà thôi”.
Hầu Hi Bạch lại hỏi: “Ả là ai?”.
Khấu Trọng cười khổ: “Ả là cháu của Vương Thế Sung, nhưng có lẽ không phải là yêu nữ Âm Quý Phái”.
Trong lòng thầm nhớ đến một đoạn hương lửa mặn nồng với Đổng Thục Ni, chỗ cao minh nhất của nữ nhân này chính là tự nhận mình khinh công rất giỏi nhưng võ công lại tầm thường, còn bọn gã thì chưa từng hoài nghi lời nói của ả, bởi vì thực sự Đổng Thục Ni không có lý do để nói dối.
Hầu Hi Bạch ngạc nhiên: “Huynh dám khẳng định chứ?”.
Khấu Trọng nói: “Nếu ả thực sự là yêu nhân Âm Quý Phái, ta và Tiểu Lăng đã mất mạng mấy lần rồi! Làm sao đứng đây nói chuyện với huynh được nữa”.
Vinh Phụng Tường cười lớn ngắt ngang cuộc nói chuyện của hai người, rồi ân cần mời các khách nhân còn đang đứng nhập tiệc.
Có điều phải đợi đến lúc Lý Thế Dân và Đạt Lợi qua chào Vương Thế Sung, Từ Tử Lăng mới cảm thấy yên tâm hẳn, bởi vì cả Lý Tịnh đứng bên cạnh Lý Thế Dân cũng chỉ liếc nhìn qua chứ không hề để ý đến gã. Gã không chú ý bọn họ nói gì, lại càng không lo lắng Trầm Lạc Nhạn sẽ phát động tấn công trong lúc này. Lang Phụng phụ trách tuần phòng ở tất cả các con đường đi tới Vinh phủ, nếu địch nhân có hành động gì, sẽ lập tức gặp phải đòn phủ đầu nặng nề.
Do có tin tức của Khả Phong cung cấp, Trầm Lạc Nhạn nhất định sẽ tương kế tựu kế, đợi lúc Vương Thế Sung trở về Hoàng Thành mới ra tay hành thích, vì vậy yến tiệc này lại trở thành nơi an toàn nhất.
Nói năng khách khí được mấy câu, những bá chủ và phú hào nắm giữ sinh tử và hạnh phúc của vạn dân này liền chuyến snag vấn đề tiền bạc và hàng hoá, có thể thấy đây thực sự là vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến thiên hạ dân sinh.
Chỉ nghe có người nói: “Hiện giờ người người nhà nhà đúc tiền lậu để thay thế tiền Ngũ Thù của triều trước, nhưng chất lượng tiền mới rất tệ, nên đã dần dần hình thành thói quen dùng gạo, vải để đánh giá giá trị của vật phẩm, thật khiến người ta phải thúc thủ vô sách”.
Vương Thế Sung nói: “Nếu là tiền từ các lò đúc của quan phủ thì phẩm chất tuyệt đối không có vấn đề, vấn đề là nằm ở các lò đúc tiền lậu trong dân gian, tiền từ các lò này đúc ra ngay cả chữ bên trên cũng không rõ ràng, hầu như chỉ thấy một vêt mờ mờ”.
Trưởng Tôn Vô Kỵ đứng bên cạnh Lý Thế Dân thở dài: “Lò đúc tiền của quan phủ cũng có vấn đề, từ đời Hán đến nay, việc khai thác các khoáng sản như kim ngân đồng thiếc chì đều thuộc quan doanh. Nhưng triều trước để bảo đảm việc có đủ tiền để lưu thông, đồng thời lại muốn giữ chất lượng, thế nên phải dùng một lượng quặng rất lớn. Dương Quảng đã từng mở hai mươi mỏ vàng trong mười hai huyện ở Vũ Lăng, dân dịch sáu mươi vạn người, tử thương vô số, vậy mà chỉ lấy được năm mươi lượng hoàng kim, phế địa trăm dặm. Quan viên đốc thúc khoáng sản trở thành ác tặc tàn hại lê dân, chưa thấy lợi đâu đã thấy hại trước mắt rồi”.
Từ Tử Lăng nghe mà chỉ biết chau mày, gã có thể khẳng định Khấu Trọng chưa từng nghĩ đến những chuyện này, chỉ có những người đã quản chính trị dân trong thời gian dài như Vương Thế Sung, Lý Thế Dân mới ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Trưởng Tôn Vô Kỵ quả không hổ danh trí giả, một lời nói ra khiến người tỉnh ngộ.
Cùng lúc gã cũng lưu ý thấy Đột Lợi lắng nghe rất chú tâm, một tia sáng loé qua trong đầu, gã lập tức hiểu ra tại sao người Đột Quyết lại phải thông qua những người Trung Nguyên chịu khống chế để tiến hành xâm lược, bởi vì trị vì cả một vùng đât rộng lớn như Trung Nguyên, không phải là chuyện mà một dân tộc lấy du mục làm gốc có thể làm được. Vì thế người Đột Quyết chỉ cần đoạt lấy tài vật, mỹ nữ của Trung Nguyên, nên mới tích cực hỗ trợ những đạo nghĩa quân cùng nổi loạn như vậy.
Lý Thế Dân xen miệng vào nói: “Hiện giờ những thứ gọi là tiền mới đều là tiền Ngũ Thù của tiền triều đúc lại, còn những thứ tiền kém chất lượng của dân gian, thì cũng là tiền Ngũ Thù nung chảy có pha thêm các tạp vật, một văn tiền có thể hoá thành mấy văn tiền,ai nấy thấy lợi cũng làm, vì tế không thể nào cấm được một cách triệt để. Phương pháp giải quyết duy nhất, chính là thiên hạ trùng quy nhất thống, nhờ sức mạnh của triều đình trung ương, tiêu diệt tệ nạn này. Còn thiên hạ, e rằng không ai làm gì được”.
Từ Tử Lăng cũng phải thầm bội phục, nếu Khấu Trọng không phải huynh đệ của gã, mà để cho gã chọn một người, chỉ sợ gã cũng sẽ chọn Lý Thế Dân làm quân chủ tương lai của vạn dân Trung Nguyên.
Cách nghĩ này khiến gã cảm thấy rất khó chịu.
Bất luận Lý Thế Dân thắng hay Khấu Trọng thắng, người kia cũng chỉ có một vận mệnh duy nhất, đó chính là cái chết. Chuyện này phải kết thúc thế nào đây?.
o0o
Khấu Trọng còn định trêu cợt mỹ nữ Quy Tử xưa nay luôn lạnh lùng với gã như một tảng băng này thì nàng đã nhanh nhẹn tránh đi. Phục Khiên, Hình Mạc Phi và hai mỹ nữ Thổ Lỗ Hồn cũng vừa hay bước đế bên gã, không biết có phải vì không muốn gặp bọn họ mà Linh Lung Kiều đã né đi hay không. Sau khi Phục Khiên giới thiệu, gã đã biết được phương danh của hai mỹ nữ này, người cao hơn tên Thảo An, người còn lại là Hoa Na, cả hai đều chan chứa vẻ phong tình của nữ nhân dị quốc, đồng thời lại có sự bạo dạn và hoang dã mà nữ nhân Trung Nguyên hiếm người có được. Ánh mắt của hai mỹ nữ này nhìn Khấu Trọng còn phóng túng vô kỵ hơn cả ánh mắt hắn nhìn bọn họ nữa.
Đặc biệt là Hoa Na, mái tóc dài đen óng ánh xoã xuống vai hết sức tự nhiên, bồng bềnh như những làn sóng, đôi môi hồng phấn, cặp mắt sáng long lanh như ngọc, cùng với đôi gò má cao, hàng lông mày lá liễu, làn da trắng mịnh như tuyết, quả thực không hề thua kém gì những tuyệt thế mỹ nữ như Trầm Lạc Nhạn hay Tống Ngọc Trí.
Khấu Trọng không biết quan hệ của hai nữ nhân này và Phục Khiên thế nào, nên cũng không tiện trêu chọc, chỉ né tránh ánh mắt đầy khiêu khích của họ rồi mỉm cười hỏi họ Phục: “Đêm nay hình như không tiện động thủ lắm thì phải?”.
Phục Khiên đảo mắt một vòng khắp toàn trường, cuối cùng dừng lại ở chỗ Lý Thế Dân, Đột Lợi, Vương Thế Sung và Vinh Phụng Tường đang đứng, thuận miệng đáp: “Muốn động thủ thì ở đâu cũng có thể động thủ, Vinh lão bản chắc cũng không để bụng đâu. Có điều đây là lần đầu tiên ta tham gia yến hội của người Hán các vị, không muốn phá hoại không khí hoà bình náo nhiệt lúc này”.
Khấu Trọng cảm thấy trong mấy lời tuỳ tiện của y, cơ hồ như ám thị điều gì đó, liền mỉm cười nói: “Vì vậy nếu như ở trên lôi đài hoặc nơi chiến hoả liên miên, Vương tử mới đại triển sở trường, đúng không?”.
Phục Khiên cũng mỉm cười, nói lảng sang chuyện khác: “Người đứng bên cạnh Lý Thế Dân đang nhìn Khấu huynh là thần thánh phương nào vậy?”.
Khấu Trọng cười khổ: “Người này tên Lý Tịnh, là phu quân của Hồng Phất Nữ”.
Phục Khiên gật đầu: “Người này đúng là phi phàm, chẳng trách lại lọt được vào mắt xanh của Hồng Phất Nữ. Ủa, tại sao nàng ta không đến nhỉ?”.
Hoa Na cười khúc khích: “Sao vương tử “khôn” hỏi trực “tiết” y ấy? Nô gia đoán y sắp lại đây rồi!”. Giọng nói của nàng không thuần, chữ ‘không” nói thành chữ “khôn”, chữ “tiếp” nói nhầm thành “tiết”, nhưng nghe rất vui tai.
Lý Tịnh quả nhiên chầm chậm cất bước lại gần bọn họ, bộ pháp bình ổn hữu lực, khí thế hùng hậu như thiên quân vạn mã.
Phục Khiên tán thưởng: “Người này có thể làm đại tướng”.
Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Vương tử chỉ nhìn thoáng qua mà đã biết sao? Vậy Lý Thế Dân thì thế nào?”.
Phục Khiên chậm rãi nói: “Ta giỏi nhất chính là xem tướng người. Y thấy bọn ta đang đàm luận về mình, ấy vậy mà không hề có vẻ bất an, ngược lại còn chủ động đến tham gia, hơn nữa từ bộ pháp thập phần tự tin hùng dũng của y, có thể thấy người này là bậc quả cảm dám làm dám chịu, tuyệt đối không phải hạng tầm thường”.
Hình Mạc Phi cũng gật đầu tán đồng: “Người Lý Thế Dân chịu trọng dụng, đâu thể nào là hạng thường được”.
Lúc này Lý Tịnh đã bước đến trước mặt năm người, thi lễ nói: “Lý Tịnh tham kiến Phục vương tử!”. Kế đó lại quay sang Khấu Trọng: “Có thể nói riêng với ta mấy câu không?”.
Phục Khiên cười lên ha hả: “Lý huynh có thể trả lời một câu hỏi của bản nhân trước được chăng?”.
Lý Tịnh nhìn thẳng vào đôi mắt sắc bén như đao của Phục Khiên, ung dung đáp: “Xin vương tử cứ hỏi!”.
Phục Khiên ngửa mặt cười một tràng dài, làm tất cả mọi người trong sảnh đều phải chú ý, rồi mới cao giọng hỏi: “Nếu quý chủ may mắn lấy được thiên hạ, không biết có hám công hám lợi như Dương Quảng mà khoe khoang thị uy, khuếch trương thế lực với Tây Vực chúng ta không?”.
Bao nhiêu tiếng ồn ào huyên náo trong sảnh lập tức tắt lịm, cả đám tỳ bộc đang chiêu đãi khách nhân cũng dừng lại không dám di động, cỉ còn lại tiếng nhạc dặt dìu, từ đây có thể thấy được sức ảnh hưởng của câu hỏi này thế nào.
Câu hỏi này vốn phải do Lý Thế Dân trả lời thì thoả đáng hơn cả, nhưng vấn đề là Lý Thế Dân không phải thái tử, nếu tranh trả lời, thì cũng đồng nghĩa với việc y tỏ rõ muốn tranh giành quyền thừa kế hoàng vị với huynh trưởng Lý Kiến Thành. Còn Lý Tịnh thì có đáp hay không cũng đều không thoả đáng như nhau, nếu như lời lẽ ấp úng vòng vo, sẽ chỉ khiến Phục Khiên khinh thường cả y lẫn Lý Thế Dân.
Chiêu này của Phục Khiên quả rất lợi hại.
Thế nhưng Lý Tịnh cũng chẳng phải hạng thường, ung dung cười cười đáp: “Bất luận là ai giành được thiên hạ cũng phải hiểu rõ sự khác biệt giữa Hán và Hồ chính là ở tập tục và phong thổ. Nhân giả chỉ sợ không đủ đức trạch, chứ không đi đố kỵ với những gì khác mình. Dùng đức trị nhân, có thể biến bốn phương thành một nhà, nghi kỵ đố kỵ nhiều, cốt nhục cũng thành cừu nhân. Không biết Phục vương tử có nghĩ như vậy không?”.
Những lời này vừa đánh vừa xoa, chúng nhân nghe xong đều phải thầm tán thưởng.
Phục Khiên lại cười lên ha hả, liên tiếp thốt ba tiếng: “Hảo! Hảo! Hảo”, rồivui vẻ nói với Khấu Trọng và Lý Tịnh: “Hai vị cứ tự tiện!”.
o0o
Khấu Trọng và Lý Tịnh vòng qua các bàn tiệc, đi ra từ cửa hông đến một hành lang vắng.
Trận mưa lớn hồi sáng đã tạnh hẳn, nhưng thời tiết vẫn chưa tốt lên được bao nhiêu, trên trời tinh nguyệt vô quang, dưới lan can nơi hai người đang đứng là một hồ cá lớn có giả sơn bên trong. Bên hồ trồng rất nhiều hoa mẫu đơn, vì bị trận mưa lớn vùi dập nên cánh hoa rải khắp mặt hồ, dập dềnh dập dềnh.
Lý Tịnh trầm giọng nói: “Đêm qua Tiểu Lăng ra thành đi đâu vậy?”.
Khấu Trọng rất muốn châm chọc y, định hỏi xem có phải đã phái người giám thị bọn gã cả mười hai canh giờ không, nhưng lời ra đến miệng lại niệm tình huynh đệ năm xưa mà thu lại, cố nén bực dọc nói: “Hắn có việc gấp, phải đi kiếm một số bằng hữu”.
Lý Tịnh thở dài nói: “Ôi! Tại sao lại đến nước này chứ?”.
Khấu Trọng chăm chú nhìn những con cá đang tung tăng bơi trong hồ, nhạt giọng nói: “Nói hay lắm, tối qua suýt chút nữa thì ta bị hồng phất của đại tẩu tiễn xuống địa phủ rồi đấy!”.
Lý Tịnh giật mình quay sang nhìn gã: “Cái gì?”.
Khấu Trọng nhún vai: “Không có gì! Ta cũng không trách nàng ta, cái này gọi là yêu chồng thương con mà!”.
Lý Tịnh im lặng hồi lâu, rồi mới ngần ngừ hỏi: “Bao giờ thì hai đệ trở về phương Nam?”.
Khấu Trọng nở một nụ cười chua chát, chỉ cần nghĩ đến chuyện bất hạnh của Tố Tố, là gã lại cảm thấy tất cả thành tựu mình đã đạt được như tan thành bọt nước, không hề có gì đáng để khoe khoang, tự hào. Chỉ nghe gã ủ rũ nói: “Ngươi đừng để ý đến chuyện của Tố tỷ nữa được không? Hiện giờ ngay cả lực khí để trách móc ngươi bọn ta cũng không có nữa rồi!”.
Lý Tịnh biến sắc, lo lắng hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Tại sao tối nay đệ cứ có vẻ ủ rũ chán nản như vậy?”.
Khấu Trọng nghĩ lại chuyện cũ, chút nữa thì bật khóc, nghiến răng phất tay bỏ đi.
Lý Tịnh vươn tay chộp lấy vai gã, quát lớn: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”.
Khấu Trọng nghẹn giọng nói: “Sai lầm lớn nhất của Tố tỷ chính là đã quen biết ba chúng ta, như vậy đã đủ chưa?”.
Dứt lời liền hất mạnh tay Lý Tịnh ra, loạng choạng đi vào trong sảnh.
o0o
Khấu Trọng vừa bước qua cửa thì gặp ngay một người đi thẳng tới, đối phương kéo gã sang một bên, hạ thấp giọng nói: “Ta đang tìm huyng đây!”.
Khấu Trọng lúc này không có tâm tình nói chuyện với người khác, chỉ bực mình đáp: “Hầu huynh có chuyện gì vậy?”.
Thì ra người này chính là Đa Tình Công Tử Hầu Bi Bạch.
Lý Tịnh đi phía sau thấy gã nói chuyện với người khác, liền thở dài một tiếng, ủ rũ bỏ đi.
Những tân khách khác đã bắt đầu nhập tiệc, chỉ còn lại Lý Thế Dân, Vương Thế Sung và mấy nhóm khác vẫn còn đang nói cười huyên thuyên.
Vinh Phụng Tường thì đang đứng với Phục Khiên, thần thái dường như rất hưng phấn.
Vân Ngọc Chân cũng đã tới và đang thì thầm to nhỏ gì đó với Tống Lỗ và Liễu Thanh. Ngoài ra còn có thêm mấy người khách mới là Bạch Thanh Nhi, Trịnh Thạch Như và Trịnh Thục Minh.
Đội nhạc tạm thời dừng lại, tiếng pháo, tiếng chúc rượu, tiếng cười đùa, tiếng thiếu niên nam nữ vui chơi nhảy múa không ngừng truyền lại từ sảnh trước và hậu viện, so ra thì không khí trong này có vẻ nghiêm túc hơn nhiều.
Hầu Bi Bạch kéo Khấu Trọng lại một góc khuất, thấp giọng nói: “Tử Lăng huynh đâu? Sao không thấy huynh ấy đến tham dự trường náo nhiệt này? Tối qua ta có gặp Phi Huyên, nàng nói chuyện Hoà Thị Bích đã được giải quyết rồi mà”.
Khấu Trọng nói: “Tiểu Lăng có việc nên không thể đến được, rốt cuộc là huynh có chuyện gì vậy?”.
Đôi mắt đầy mị lực của Hầu Bi Bạch liếc về phía bàn của Đổng Thục Ni và Vinh Giảo Giảo. Bàn tiệc đó là một trong bốn bàn được kê ở giữa, cũng đã gần đủ người, bao gồm cả hai huynh đệ Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nô, tất cả đều là người trẻ tuổi, ai nấy đều đang tranh nhau xum xoe lấy lòng hai nữ nhân, nhưng ánh mắt của Đổng Thục Ni và Vinh Giảo Giảo lại cứ liếc về phía Khấu Trọng và Hầu Bi Bạch, rõ ràng là rất có hứng thú với hai người,
Hầu Hi Bạch nói: “Phong Hàn huynh và Tử Lăng huynh có nhắc đến chuyện tại hạ từng theo dấu yêu nữ Âm Quý Phái với huynh chưa?”.
Khấu Trọng giờ mới nhớ Từ Tử Lăng đã từng nhắc gã chuyện này, miễn cưỡng phấn chấn tinh thần, mỉm cười nói: “Kết quả thế nào? Rốt cuộc yêu nữ đó là ai?”.
Hầu Hi Bạch dịch người lại gần hơn một chút, nhỏ giọng thì thầm: “Chính là tuyệt thế mỹ nữ mặc áo vải hoa Vân Nam. Toàn trường chỉ có mình ả ta mặc loại y phục này, hiển nhiên là hạng thích được nổi bật”.
Khấu Trọng trước nay chưa từng lưu ý xem các nữ tử ăn mặc thế nào, chỉ dựa vào trực giácẩcm nhận nàng ta có đẹp hay không mà thôi, nên nghe y nói vậy thì cau mày nói: “Huynh là chuyên gia về các mỹ nhân, còn ta thì một khiếu chẳng thông, đừng nói kiểu thâm ảo như vậy được không?”.
Hầu Hi Bạch phì cười nói: “Ta không tiện chỉ ra ả, bởi vì tất cả nữ tử trẻ tuổi trong đại sảnh này đều đang nhìn đăm đăm vào chúng ta. Vải hoa Vân Nam là thứ vải dùng sáp trong qúa trình nhuộm, thuốc nhuộm thấm những kẽ nứt trên bề mặt sáp, tạo thành những hoa văn biến hoá vô cùng, lại rất tự nhiên, không hề có định thức nhất định, màu sắc cũng rất đặc bịêt”.
Khấu Trọng giờ mới phát giác ra đó chính là y phcụ của Đổng Thục Ni, giật mình thốt: “Không phải huynh muốn nói ả điêu nữ mặc áo lam hồng sặc sỡ kia đấy chứ?”.
Hầu Hi Bạch mừng rỡ nói: “Khấu huynh quả là vừa nói đã hiểu, chính là nữ nhân này, tuyệt đối không thể sai được, ả ta là ai vậy?”.
Khấu Trọng hít vào một hơi nói: “Không ngờ không phải Vinh Giảo Giảo mà là ả, thật khiến người ta không thể nào tưởng tượng được, có điều khinh công của nữ tử này đích thực rất cao, chỉ là ta không biết ả cũng am hiểu võ công mà thôi”.
Hầu Hi Bạch lại hỏi: “Ả là ai?”.
Khấu Trọng cười khổ: “Ả là cháu của Vương Thế Sung, nhưng có lẽ không phải là yêu nữ Âm Quý Phái”.
Trong lòng thầm nhớ đến một đoạn hương lửa mặn nồng với Đổng Thục Ni, chỗ cao minh nhất của nữ nhân này chính là tự nhận mình khinh công rất giỏi nhưng võ công lại tầm thường, còn bọn gã thì chưa từng hoài nghi lời nói của ả, bởi vì thực sự Đổng Thục Ni không có lý do để nói dối.
Hầu Hi Bạch ngạc nhiên: “Huynh dám khẳng định chứ?”.
Khấu Trọng nói: “Nếu ả thực sự là yêu nhân Âm Quý Phái, ta và Tiểu Lăng đã mất mạng mấy lần rồi! Làm sao đứng đây nói chuyện với huynh được nữa”.
Vinh Phụng Tường cười lớn ngắt ngang cuộc nói chuyện của hai người, rồi ân cần mời các khách nhân còn đang đứng nhập tiệc.
Tác giả :
Huỳnh Dị