Cuộc Đời Của Pi
Chương 50
Tôi nằm trên tấm bạt, quấn chăn, ngủ, mơ, dậy, mộng mị, và nói chung là chẳng có việc gì khác. Một làn gió nhẹ đều đặn thổi. Thỉnh thoảng những tia nước từ đỉnh sóng bạc lại bắn lên làm ướt xuồng. Richard Parker đã biến dạng dưới tấm bạt. Nó không ưa bị ướt, cũng như chuyển động dập dềnh của chiếc xuồng. Trời xanh, không khí ấm áp, và biển chuyển mình đều đặn bình thường. Tôi tỉnh dậy vì một tiếng nổ. Tôi mở mắt và thấy nước trên trời. Nó đổ ập xuống tôi. Tôi lại ngẩng lên nhìn. Trời xanh không mây. Lại một tiếng nổ nữa, về phía trái, không mạnh mẽ như tiếng trước. Richard Parker gầm gào dữ tợn. Nước lại ào vào tôi. Nó có mùi khó chịu.
Tôi nhìn qua mép xuồng. Cái đầu tiên tôi thấy là một vật đen sì to lớn đang nổi trên mặt nước. Mất vài giây tôi hiểu ra nó là cái gì. Một vết nhăn hình vòng cung xung quanh mép nó làm cho tôi vỡ nhẽ. Đó là một con mắt. Nó là một con cá voi. Mắt nó to bằng cả đầu tôi, đang nhìn thẳng vào tôi.
Richard Parker từ dưới tấm bạt đi ra. Nó rít lên. Tôi cảm nhận được một sự biến động rất kín đáo trong tia nhìn của con cá voi và biết rằng nó đang nhìn sang Richard Parker. Nó nhìn như thể trong độ ba mươi giây rồi nhẹ nhàng lặn xuống. Tôi đã lo cá voi có thể dùng đuôi quật xuồng, nhưng nó lặn một mạch và biến dạng xuống đáy biển xanh sẫm. Cái đuôi nó là một cái vợt tròn khổng lồ dần dần mờ đi.
Tôi nghĩ cá voi đang tìm bạn. Chắc nó thấy tôi không cùng cỡ với nó, và ngoài ra, có vẻ tôi đã có bạn rồi.
Chúng tôi thấy một số cá voi nhưng không con nào gần như con đầu tiên đó. Tôi thường nghe tiếng chép miệng và phịt nước trước khi nhìn thấy chúng. Thường chúng nổi lên cách một quãng ngắn, có khi ba bốn con một lúc, như một quần đảo núi lửa. Những con vật khổng lồ này luôn luôn nâng đỡ tinh thần tôi. Tôi tin rằng chúng hiểu tình cảm của tôi lắm, hễ nhìn thấy tôi là một con sẽ thốt lên, “Chao ôi! Kia chính là cậu bé đắm tàu với con mèo nhỏ mà Bamphoo đã kể cho tớ nghe. Tội nghiệp chưa kìa. Mong sao cho cậu ấy có đủ tôm riu. Tớ phải bảo cho Mumphoo, Tomphoo và Stimphoo biết mới được. Không biết có con tàu nào quanh đây không để tớ đi báo động cho cậu ấy. Mẹ cậu ấy sung sướng phải biết nếu gặp lại được con. Tạm biết nhé, cậu bé của tớ. Tớ sẽ cố giúp cậu. Tên tớ là Pimphoo”. Và thế là, qua đường thông tin tự nhiên, tất cả cá voi ở Thái Bình Dương đều biết đến tôi, và nhẽ ra tôi đã được cứu rồi nếu Pimphoo không đến kêu cứu với một tàu Nhật Bản và bị họ bắn chết, rồi Lamphoo cũng chịu chung số phận ấy với một con tàu Na Uy. Nghề săn cá là một tội ác tày đình.
Cá heo cũng là những khách thăm tương đối thường xuyên. Một đàn đã ở quanh chúng tôi suốt cả một ngày một đêm. Chúng rất vui vẻ. Chúng lặn, chúng nhảy, chúng rượt đuổi nhau ngay dưới xuồng có vẻ như chẳng có việc gì khác ngoài việc nô giỡn. Tôi đã cố thử bắt một con. Nhưng chẳng có con nào đến gần đủ tầm cái lao. Ngay có đủ tầm đi nữa thì chúng cũng quá nhanh và quá lớn. Tôi bỏ ý định đó và chỉ ngắm nhìn chúng mà thôi.
Tôi thấy cả thảy sáu con chim. Con nào tôi cũng nghĩ là một thiên thần báo hiệu có đất liền ở gần. Nhưng chúng là những loài chim đi biển có thể lượn qua Thái Bình Dương với chỉ một sải cánh mà thôi. Tôi nhìn chúng, sợ hãi, ghen tị và tủi thân.
Đã hai lần tôi được nhìn thấy một con hải điểu chính cống (1). Con nào cũng đang bay rất cao vào không hề lưu ý gì đến chúng tôi. Tôi nhìn chúng, miệng há hốc. Chúng thật sự là cái gì đó siêu nhiên và không thể hiểu được.
Một lần khác, ngay gần xuồng, có hai con chim hải âu pêtren (2) bay lướt qua, chân đập đập trên mặt nước. Chúng cũng không hề để ý đến chúng tôi, và cũng làm cho tôi kinh ngạc không kém.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng thu hút được sự chú ý của một con hải âu đuôi ngắn khác, gọi là loài shearwater, vì khi bay chúng bay đập đầu cánh xuống mặt nước, nhưng cũng thuộc cùng một họ với chim hải âu pêtren. Con này lượn tròn trên đầu chúng tôi, rồi cuối cùng hạ cánh xuống. Nó thò chân, khép cánh và đậu xuống nước, nhẹ nhàng như cái nút chai. Nó nhìn tôi tò mò. Tôi vội vàng mắc mồi bằng một miếng thịt cá bay và quăng dây ra chỗ nó. Không kịp lắp hòn chì nên tôi loay hoay mãi mới cho mồi đến gần được con chim. Nhử nó đến lần thứ ba thì con chim dùng cánh bơi như chèo thuyền đến chỗ cái mồi đang chìm và phấn khích. Tôi để yên thêm vài giây rồi mới giật. Con chim kêu choe choé và khạc ngay miếng mồi ra. Trước khi tôi kịp thử lại lần nữa, nó dang cánh và cất mình lên không trung. Chỉ hai ba cái đập cánh, nó đã rộng đường bay đi mất.
Tôi may mắn hơn với một con chim khoang mặt đen. Nó thình lình hiện ra, lượn về phía chúng tôi, sải cánh dài hàng thước. Nó đậu xuống trên mạn xuồng ngay trong tầm tay của tôi. Cặp mắt tròn xoe của nó hút lấy tôi, vừa ngạc nhiên vừa nghiêm nghị. Đó là một con chim to lớn có tấm thân trắng muốt như tuyết và đôi cánh đen tuyền ở đầu và cạnh. Cái đầu gồ ghề to tướng của nó có một cặp mỏ rất nhọn màu vàng da cam và cặp mắt đỏ giữa khoang mặt đen khiến nó trông hệt như một tên trộm vừa thức trắng một đêm dài. Chỉ có cặp chân rộng có màng màu nâu có vẻ như chưa được thiết kế kĩ lắm. Con chim không biết sợ là gì. Nó đứng ra rỉa lông hàng nhiều phút liền. Lớp lông bên trong của nó thật mềm mại. Khi đã xong, nó ngẩng lên và mọi thứ lại đâu vào đấy, nó lộ nguyên hình là một con tàu không gian có hình khí động học trơn tru tuyệt đẹp. Tôi biếu nó một miếng thịt dorado. Nó nhặt miếng thịt ngay trong tay tôi, mỏ nó đâm vào lòng bàn tay thật dứt khoát.
Tôi bẻ gãy cổ nó bằng cách ấn đầu nó ngửa ra sau, một tay hất mạnh cặp mỏ, tay kia giữ chặt cổ. Lông nó chắc đến nỗi khi tôi vặt lông, da nó bị kéo theo ra soàn soạt. Không phải à vặt lông nữa, mà là xé xác. Nó nhẹ, đúng là để bay lượn, một khối lớn vậy mà không nặng chút nào. Tôi lấy dao lột da nó. Lớn xác nhưng có thật ít thịt, chỉ có một chút ở ngực. Thịt nó nhai sần sật hơn thịt dorado, nhưng vị thì cũng không khác nhiều. Trong bụng nó, ngoài miếng dorado tôi vừa biếu nó, còn thấy có ba con cá nhỏ. Tôi rửa chúng cho hết nhớt rồi chén cả ba. Tôi ăn cả tim, gan, và phổi của con chim. Tôi nuốt cặp mắt và lưỡi nó với một ngụm nước. Tôi đập vỡ sọ nó và nhể những miếng óc nhỏ xíu ra ăn. Tôi ăn cả màng da chân, những gì còn lại của nó chỉ là da, xương và lông. Tôi thả hết xuống cho Richard Parker. Con hổ đã không nhìn thấy con chim lúc nó bay đến. Một bàn chân màu da cam thò ra.
Nhiều ngày sau, lông con chim đã vẫn còn bay lên từ chỗ nằm của Richard Parker và bị gió thổi xuống biển.
Chẳng có con chim nào báo hiệu đất liền.
Chú thích
(1) Nguyên văn: albatross, một loài chim biển khổng lồ, sải cánh dài tới gần bốn thước, chân có mạng, thuộc họ Diomedeidae, có thể lượn trên không rất lâu (ND)
(2) Nguyên văn: petrel, một loài chim biển hay bay là là trên mặt nước, nên được đặt theo tên thánh Peter, là người tương truyền đã đi bộ trên mặt nước như chúa Jesus (ND).
Tôi nhìn qua mép xuồng. Cái đầu tiên tôi thấy là một vật đen sì to lớn đang nổi trên mặt nước. Mất vài giây tôi hiểu ra nó là cái gì. Một vết nhăn hình vòng cung xung quanh mép nó làm cho tôi vỡ nhẽ. Đó là một con mắt. Nó là một con cá voi. Mắt nó to bằng cả đầu tôi, đang nhìn thẳng vào tôi.
Richard Parker từ dưới tấm bạt đi ra. Nó rít lên. Tôi cảm nhận được một sự biến động rất kín đáo trong tia nhìn của con cá voi và biết rằng nó đang nhìn sang Richard Parker. Nó nhìn như thể trong độ ba mươi giây rồi nhẹ nhàng lặn xuống. Tôi đã lo cá voi có thể dùng đuôi quật xuồng, nhưng nó lặn một mạch và biến dạng xuống đáy biển xanh sẫm. Cái đuôi nó là một cái vợt tròn khổng lồ dần dần mờ đi.
Tôi nghĩ cá voi đang tìm bạn. Chắc nó thấy tôi không cùng cỡ với nó, và ngoài ra, có vẻ tôi đã có bạn rồi.
Chúng tôi thấy một số cá voi nhưng không con nào gần như con đầu tiên đó. Tôi thường nghe tiếng chép miệng và phịt nước trước khi nhìn thấy chúng. Thường chúng nổi lên cách một quãng ngắn, có khi ba bốn con một lúc, như một quần đảo núi lửa. Những con vật khổng lồ này luôn luôn nâng đỡ tinh thần tôi. Tôi tin rằng chúng hiểu tình cảm của tôi lắm, hễ nhìn thấy tôi là một con sẽ thốt lên, “Chao ôi! Kia chính là cậu bé đắm tàu với con mèo nhỏ mà Bamphoo đã kể cho tớ nghe. Tội nghiệp chưa kìa. Mong sao cho cậu ấy có đủ tôm riu. Tớ phải bảo cho Mumphoo, Tomphoo và Stimphoo biết mới được. Không biết có con tàu nào quanh đây không để tớ đi báo động cho cậu ấy. Mẹ cậu ấy sung sướng phải biết nếu gặp lại được con. Tạm biết nhé, cậu bé của tớ. Tớ sẽ cố giúp cậu. Tên tớ là Pimphoo”. Và thế là, qua đường thông tin tự nhiên, tất cả cá voi ở Thái Bình Dương đều biết đến tôi, và nhẽ ra tôi đã được cứu rồi nếu Pimphoo không đến kêu cứu với một tàu Nhật Bản và bị họ bắn chết, rồi Lamphoo cũng chịu chung số phận ấy với một con tàu Na Uy. Nghề săn cá là một tội ác tày đình.
Cá heo cũng là những khách thăm tương đối thường xuyên. Một đàn đã ở quanh chúng tôi suốt cả một ngày một đêm. Chúng rất vui vẻ. Chúng lặn, chúng nhảy, chúng rượt đuổi nhau ngay dưới xuồng có vẻ như chẳng có việc gì khác ngoài việc nô giỡn. Tôi đã cố thử bắt một con. Nhưng chẳng có con nào đến gần đủ tầm cái lao. Ngay có đủ tầm đi nữa thì chúng cũng quá nhanh và quá lớn. Tôi bỏ ý định đó và chỉ ngắm nhìn chúng mà thôi.
Tôi thấy cả thảy sáu con chim. Con nào tôi cũng nghĩ là một thiên thần báo hiệu có đất liền ở gần. Nhưng chúng là những loài chim đi biển có thể lượn qua Thái Bình Dương với chỉ một sải cánh mà thôi. Tôi nhìn chúng, sợ hãi, ghen tị và tủi thân.
Đã hai lần tôi được nhìn thấy một con hải điểu chính cống (1). Con nào cũng đang bay rất cao vào không hề lưu ý gì đến chúng tôi. Tôi nhìn chúng, miệng há hốc. Chúng thật sự là cái gì đó siêu nhiên và không thể hiểu được.
Một lần khác, ngay gần xuồng, có hai con chim hải âu pêtren (2) bay lướt qua, chân đập đập trên mặt nước. Chúng cũng không hề để ý đến chúng tôi, và cũng làm cho tôi kinh ngạc không kém.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng thu hút được sự chú ý của một con hải âu đuôi ngắn khác, gọi là loài shearwater, vì khi bay chúng bay đập đầu cánh xuống mặt nước, nhưng cũng thuộc cùng một họ với chim hải âu pêtren. Con này lượn tròn trên đầu chúng tôi, rồi cuối cùng hạ cánh xuống. Nó thò chân, khép cánh và đậu xuống nước, nhẹ nhàng như cái nút chai. Nó nhìn tôi tò mò. Tôi vội vàng mắc mồi bằng một miếng thịt cá bay và quăng dây ra chỗ nó. Không kịp lắp hòn chì nên tôi loay hoay mãi mới cho mồi đến gần được con chim. Nhử nó đến lần thứ ba thì con chim dùng cánh bơi như chèo thuyền đến chỗ cái mồi đang chìm và phấn khích. Tôi để yên thêm vài giây rồi mới giật. Con chim kêu choe choé và khạc ngay miếng mồi ra. Trước khi tôi kịp thử lại lần nữa, nó dang cánh và cất mình lên không trung. Chỉ hai ba cái đập cánh, nó đã rộng đường bay đi mất.
Tôi may mắn hơn với một con chim khoang mặt đen. Nó thình lình hiện ra, lượn về phía chúng tôi, sải cánh dài hàng thước. Nó đậu xuống trên mạn xuồng ngay trong tầm tay của tôi. Cặp mắt tròn xoe của nó hút lấy tôi, vừa ngạc nhiên vừa nghiêm nghị. Đó là một con chim to lớn có tấm thân trắng muốt như tuyết và đôi cánh đen tuyền ở đầu và cạnh. Cái đầu gồ ghề to tướng của nó có một cặp mỏ rất nhọn màu vàng da cam và cặp mắt đỏ giữa khoang mặt đen khiến nó trông hệt như một tên trộm vừa thức trắng một đêm dài. Chỉ có cặp chân rộng có màng màu nâu có vẻ như chưa được thiết kế kĩ lắm. Con chim không biết sợ là gì. Nó đứng ra rỉa lông hàng nhiều phút liền. Lớp lông bên trong của nó thật mềm mại. Khi đã xong, nó ngẩng lên và mọi thứ lại đâu vào đấy, nó lộ nguyên hình là một con tàu không gian có hình khí động học trơn tru tuyệt đẹp. Tôi biếu nó một miếng thịt dorado. Nó nhặt miếng thịt ngay trong tay tôi, mỏ nó đâm vào lòng bàn tay thật dứt khoát.
Tôi bẻ gãy cổ nó bằng cách ấn đầu nó ngửa ra sau, một tay hất mạnh cặp mỏ, tay kia giữ chặt cổ. Lông nó chắc đến nỗi khi tôi vặt lông, da nó bị kéo theo ra soàn soạt. Không phải à vặt lông nữa, mà là xé xác. Nó nhẹ, đúng là để bay lượn, một khối lớn vậy mà không nặng chút nào. Tôi lấy dao lột da nó. Lớn xác nhưng có thật ít thịt, chỉ có một chút ở ngực. Thịt nó nhai sần sật hơn thịt dorado, nhưng vị thì cũng không khác nhiều. Trong bụng nó, ngoài miếng dorado tôi vừa biếu nó, còn thấy có ba con cá nhỏ. Tôi rửa chúng cho hết nhớt rồi chén cả ba. Tôi ăn cả tim, gan, và phổi của con chim. Tôi nuốt cặp mắt và lưỡi nó với một ngụm nước. Tôi đập vỡ sọ nó và nhể những miếng óc nhỏ xíu ra ăn. Tôi ăn cả màng da chân, những gì còn lại của nó chỉ là da, xương và lông. Tôi thả hết xuống cho Richard Parker. Con hổ đã không nhìn thấy con chim lúc nó bay đến. Một bàn chân màu da cam thò ra.
Nhiều ngày sau, lông con chim đã vẫn còn bay lên từ chỗ nằm của Richard Parker và bị gió thổi xuống biển.
Chẳng có con chim nào báo hiệu đất liền.
Chú thích
(1) Nguyên văn: albatross, một loài chim biển khổng lồ, sải cánh dài tới gần bốn thước, chân có mạng, thuộc họ Diomedeidae, có thể lượn trên không rất lâu (ND)
(2) Nguyên văn: petrel, một loài chim biển hay bay là là trên mặt nước, nên được đặt theo tên thánh Peter, là người tương truyền đã đi bộ trên mặt nước như chúa Jesus (ND).
Tác giả :
Yann Martel