Con Chim Khát Tổ
Chương 14
Sáng hôm sau trời trong mát, nắng đẹp. Strike đi tàu điện đến khu Chelsea hiền hòa, nhiều cây cối. Mặc dù từng sống lang thang khắp London, hắn hầu như không bao giờ bén mảng đến đây. Mẹ Strike chưa bao giờ với tới nổi một tấc đất gần Bệnh viện Hoàng Gia Chelsea, ngay trong những giai đoạn bà phung phí tiền bạc mạnh tay nhất. Dưới ánh nắng mùa xuân, tòa nhà bệnh viện hiện lên trầm mặc và nền nã.
Trước mặt Strike là con phố Franklin Row xinh đẹp với những dãy nhà gạch đỏ, hàng cây tiêu huyền và một bãi cỏ rộng lớn có hàng rào bao quanh. Một đám học sinh tiểu học đang chơi thể thao trên bãi cỏ, mặc áo thun Aertex và quần short màu xanh sẫm, xung quanh có các thầy cô mặc đồ thể thao đứng trông chừng. Tiếng cười đùa của bọn trẻ làm ngắt quãng sự yên lặng tĩnh tại ở khu phố vốn dường như chỉ có tiếng chim hót. Strike sải bước trên vỉa hè, hai tay đút túi quần. Đường phố không một bóng xe chạy qua.
Phía trên bốn bậc cấp bằng đá trắng là một cánh cửa lắp kính. Kế đó là bảng chuông cửa bằng nhựa Bakelite kiểu cũ xưa gắn trên tường. Strike kiểm tra lại có đúng là tên của phu nhân Yvette Bristow nằm bên cạnh dòng chữ Căn hộ E hay không rồi quay xuống vỉa hè, đứng đợi trong ánh nắng ấm áp dìu dịu, thỉnh thoảng nhìn về hai phía đầu đường.
Mười giờ rưỡi. John Bristow vẫn chưa đến. Khu phố không một bóng người, trừ khoảng hai mươi đứa trẻ con bên kia hàng rào bãi cỏ. Chúng đang chơi đến trò chạy qua những vòng tròn và cột mốc đủ màu.
Mười giờ bốn mươi lăm phút, điện thoại của Strike rung lên trong túi. Robin nhắn tin:
Alison vừa gọi để báo rằng JB bận không tới được. JB không muốn anh nói chuyện với bà mẹ mà không có mặt ông ấy.
Ngay lập tức Strike nhắn tin của Bristow:
Anh còn bận bao lâu nữa? Vẫn gặp hôm nay được chứ?
Hắn chưa kịp gởi tin nhắn thì điện thoại đổ chuông.
“A lô?” Strike nói.
“Oggy?” Giọng lành lạnh của Graham Hardacre vang lên, từ tận nước Đức. “Tao có thông tin về Agyeman rồi.”
“Mày thiêng quá xá.” Strike rút cuốn sổ ra. “Nói đi.”
“Anh chàng này là Trung úy Jonah Francis Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia. Hai mươi mốt tuổi, chưa kết hôn, đợt làm nhiệm vụ gần đây nhất bắt đầu từ ngày Mười Một tháng Giêng, kết thúc vào tháng Sáu tới. Người thân gần nhất là mẹ. Không anh chị em, không con cái.”
Strike hí hoáy viết hết vào sổ, điện thoại kẹp giữa cằm và bả vai.
“Tao nợ mày vụ này rồi, Hardy,” hắn vừa nói vừa cất cuốn sổ. “Không có hình ảnh gì hả?”
“Để đó tao email cho một cái.”
Strike đọc cho Hardacre địa chỉ email của văn phòng. Sau vài màn hỏi thăm thông thường về cuộc sống và chúc tụng lẫn nhau, hắn dập máy.
Mười một giờ kém năm. Strike vẫn đứng đợi giữa khu phố hiền hoà, xanh tươi, điện thoại cầm trong tay. Đám trẻ con vẫn mải chơi với mấy cái vòng và túi hạt xốp. Một chiếc máy bay màu bạc bé xíu vạch một đường trắng dày trên nền trời xanh nhàn nhạt. Cuối cùng, điện thoại phát ra tín hiệu báo tin nhắn, nghe rất rõ trên con phố vắng lặng. Bristow trả lời:
Hôm nay không được rồi. Tôi phải đi Rye có việc. Hay ngày mai vậy?
Strike thở dài.
“Xin lỗi nhé John,” hắn lẩm bẩm rồi leo lên bậc tam cấp và bấm chuông nhà phu nhân Bristow.
Sảnh đón khách yên tĩnh, rộng rãi và sáng sủa, nhưng vẫn có vẻ gì đó ảm đạm của những nơi công cộng, mặc dù có đặt thêm bình hoa trông như cái xô cắm đầy hoa khô, thêm thảm lót màu xanh mờ và tường sơn vàng nhạt, chắc chủ nhân cố ý chọn toàn những thứ nhẹ nhàng dễ chịu như vậy. Giống với toà nhà chung cư Kentigern Gardens, ở đây cũng có thang máy, nhưng cửa bằng gỗ. Strike quyết định đi cầu thang bộ. Toà nhà trông hơi cũ kỹ nhưng vẫn lặng lẽ toát lên vẻ giàu có.
Cô y tá Macmillan[1] người Caribe ra mở cửa, mỉm cười thân thiện. Cô cũng chính là người bấm nút mở cửa vào sảnh ở tầng dưới cho Strike sau khi hắn bấm chuông.
[1. Một tổ chức chuyên chăm sóc người bệnh ung thư ở Anh quốc.]
“Tôi cứ tưởng là anh Bristow,” cô ta nhanh nhẹn nói.
“Không, tôi là Cormoran Strike. John vẫn đang trên đường đi.”
Cô y tá cho hắn vào. Hành lang dẫn vào phòng khách nhà phu nhân Bristow ấm cúng dễ chịu. Giấy dán tường màu đỏ phai, trên tường treo nhiều tranh màu nước lồng khung mạ vàng cũ xưa. Giá để dù đi mưa đựng đầy các loại gậy chống. Mấy chiếc áo khoác được treo lên một hàng móc áo ngay ngắn. Strike liếc qua phải, thoáng thấy thư phòng ở cuối hành lang, bên trong có một chiếc bàn gỗ nặng nề và chiếc ghế xoay, lưng ghế quay ra phía cửa.
“Phiền anh đợi trong phòng khách. Tôi đi xem phu nhân đã sẵn sàng gặp anh chưa nhé.”
“Vâng, được.”
Hắn bước qua cánh cửa cô y tá vừa chỉ, vào một phòng khách trang nhã với tường sơn màu hoa anh thảo, đầy kệ sách và khung ảnh. Một chiếc điện thoại quay số kiểu cổ đặt trên chiếc bàn con, cạnh đó là ghế sofa bọc vải hoa. Strike đợi cô y tá đi ra hẳn, rồi nhấc ống nghe điện thoại lên, khéo léo gác kênh máy, nhìn lướt qua khó nhận ra.
Gần cửa sổ lớn là chiếc bàn mặt tủ kiểu cọ, trên bàn có một tấm ảnh lớn lồng khung bạc, chụp đám cưới của Ngài Alec Bristow và phu nhân. Chú rể trông già hơn nhiều so với cô dâu. Ngài Alec phốp pháp, râu ria, đang mỉm cười rạng rỡ bên cô dâu mảnh khảnh, tóc vàng, xinh đẹp kiểu nhàn nhạt. Giả vờ đang chiêm ngưỡng bức ảnh, Strike đứng quay lưng về phía cửa và nhanh tay mở ngăn kéo nhỏ ngay dưới mặt chiếc bàn gỗ xoan đào tinh tế. Bên trong là giấy viết thư màu xanh nhạt và bì thư cùng màu. Hắn đóng ngăn kéo lại ngay.
“Anh Strike? Anh có thể vào gặp phu nhân được rồi.”
Hai người trở ra hành lang có giấy dán tường đỏ rồi đi một đoạn ngắn đến một phòng ngủ rộng lớn với hai màu chủ đạo trắng và xanh trứng sáo. Mọi thứ trong phòng toát lên vẻ thanh lịch, trang nhã. Bên trái là hai cánh cửa đang khép hờ, một mở vào buồng tắm, một mở vào tủ áo quần siêu lớn. Bàn ghế trong phòng tinh tế, mang hơi hướm phong cách Pháp. Bình truyền nước gắn trên giá đứng bằng thép, bộ vệ sinh sạch sẽ sáng bóng đặt trên tủ ngăn kéo cùng với vô số thuốc men. Những món đạo cụ của bệnh tật lạc lõng trong căn phòng thanh nhã như những kẻ trà trộn không mời.
Người đàn bà đau yếu mặc áo khoác len dày màu trắng ngà, nằm lọt thỏm trên chiếc giường gỗ chạm trổ, đỡ lưng bằng những chiếc gối màu trắng. Vẻ đẹp thanh xuân của phu nhân Bristow đã hoàn toàn biến mất. Dưới làn da mỏng manh, trong suốt, và đã bắt đầu bong vảy, những đốt xương lộ rõ, gầy guộc và góc cạnh. Đôi mắt của phu nhân trũng sâu, mờ đục. Mái tóc bạc trắng lơ thơ như tóc trẻ con, lộ cả lớp da đầu hồng nhạt. Hai cánh tay xương xẩu đặt hờ trên lớp chăn, trên tay gắn kim truyền dịch. Cái chết đã hiện diện trong căn phòng, chừng như đang lịch sự và kiên nhẫn đứng chờ ngay sau lớp màn cửa.
Mùi hoa chanh thoang thoảng trong không khí, nhưng vẫn không át được mùi thuốc sát trùng và bệnh tật, khiến Strike nhớ đến mấy tháng dai dẳng nằm viện. Cửa sổ lớn thứ hai đã được nâng lên khoảng vài tấc, hứng lấy chút không khí ấm áp trong lành và tiếng trẻ con chơi đùa từ xa vọng vào, nhìn ra những cành cao nhất trên hàng cây tiêu huyền xanh mát trong nắng.
“Anh là thám tử à?”
Giọng của phu nhân Bristow mỏng manh, khàn và hơi nhịu. Trước đó Strike vẫn còn băn khoăn không biết liệu Bristw đã nói thật với mẹ ông ta về hắn chưa. Hắn mừng là phu nhân đã biết trước.
“Vâng, tôi là Cormoran Strike.”
“John đâu rồi?”
“Anh ấy bận việc ở văn phòng.”
“Lại bận nữa à,” bà ta lẩm bẩm, rồi nói tiếp, “Tony bắt John làm việc cực khổ quá. Không công bằng chút nào.” Bà ta cố nheo mắt nhìn hắn, rồi khẽ đưa ngón tay lên chỉ một chiếc ghế nhỏ. “Ngồi xuống đi.”
Hai mống mắt đã bạc màu của phu nhân Bristow có những đường trắng đục viền quanh. Khi ngồi xuống Strike để ý trên bàn con cạnh giường có thêm hai khung ảnh bạc nữa. Một luồng điện chạy qua người Strike khi hắn nhìn vào đôi mắt của Charlie Bristow trong ảnh. Gương mặt tròn trịa, đuôi tóc hơi dài, Charlie dừng lại mãi ở tuổi lên mười trong chiếc áo sơ mi đồng phục có cổ áo chìa ra và nút thắt cà vạt to tướng. Trông Charlie y hệt như lúc vẫy tay tạm biệt Cormoran Strike, cậu bạn thân nhất, ríu rít hẹn gặp nhau sau kỳ nghỉ Phục Sinh.
Bên cạnh ảnh của Charlie là một tấm ảnh nhỏ hơn, chụp một cô bé xinh lạ thường, tóc đen dài xoăn từng lọn, đôi mắt to màu nâu, mặc đồng phục màu xanh sẫm. Lula Landry trong ảnh chắc chỉ độ sáu tuổi.
“Mary,” phu nhân Bristow gọi khẽ, cô y tá chạy ngay đến. “Cô có thể lấy cho anh Strike đây ít cà phê? Hay anh dùng trà nhỉ?” bà ta quay sang hỏi hắn. Trong giây lát, Strike như quay trở về khoảnh khắc cách đây hai thập kỷ rưỡi, trong khu vườn rực nắng ở nhà Charlie với người mẹ tóc vàng duyên dáng tay cầm bình nước chanh mát lạnh.
“Cho tôi một tách cà phê vậy, cảm ơn cô nhiều.”
“Xin anh bỏ quá cho vì tôi không tự pha được,” phu nhân Bristow nói, sau khi cô y tác đã đi ra ngoài, bước chân vội vã, “nhưng anh thấy đó, giờ tôi phải nương nhờ lòng tốt của kẻ khác. Như Blanche Dubois[2] tội nghiệp.”
[2. Nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng A streetcar named desire của Tennessee Williams, từng được dịch ra tiếng Việt với tựa Chuyến tàu mang tên dục vọng (NXB Trẻ, 2011) - ND]
Bà nhắm mắt lại trong giây lát, như để tập trung cảm nhận sự đau đớn bên trong cơ thể. Hắn không biết phu nhân Bristow đã uống bao nhiêu thuốc và còn tỉnh táo tới đâu. Đằng sau phong thái nền nã đó, Strike vẫn thấy vương vấn chút chua chát trong từng lời nói, tựa như mùi hoa chanh không thể át hết mùi bệnh tật trong phòng. Hắn thấy ngạc nhiên, chẳng phải Bristow gần như lúc nào cũng túc trực cạnh bên để tận tình chăm sóc bà mẹ đó sao?
“Tại sao John không tới?” phu nhân Bristow lại hỏi, mắt vẫn nhắm.
“Anh ấy bận việc ở văn phòng,” Strike lặp lại.
“À, đúng rồi. Anh có nói.”
“Thưa phu nhân, tôi muốn hỏi bà một vài câu. Tôi xin bà lượng thứ nếu câu hỏi quá riêng tư, hoặc làm bà phải phiền lòng.”
“Nếu anh đã gặp những chuyện mà tôi phải trải qua,” bà ta lặng lẽ nói, “thì chẳng còn gì có thể gây đau đớn được nữa. Cứ gọi tôi là Yvette.”
“Cảm ơn phu nhân. Bà không phiền nếu tôi ghi chép lại chứ?”
“Không, không sao cả,” bà ta trả lời, nhìn hắn lấy cây viết và cuốn sổ ra, vẻ hơi tò mò.
“Nếu bà không phiền, tôi muốn bắt đầu từ việc Lula đã đến với gia đình như thế nào. Khi nhận nuôi bà có biết gì về gốc gác của cô ấy không?”
Phu nhân Bristow giờ đây như hiện thân của sự bất lực và thụ động, hai cánh tay vẫn hờ hững đặt trên lớp chăn.
“Không,” bà ta trả lời. “Tôi chẳng biết gì cả. Chắc Alec biết, nhưng nếu có đi nữa thì ông ấy cũng không bao giờ kể với tôi.”
“Tại sao bà nghĩ Alec biết gì đó?”
“Alec luôn tìm hiểu tường tận mọi thứ,” bà ta trả lời, dịu dàng mỉm cười hoài niệm. “Ông ấy là người làm ăn giỏi, anh biết đó.”
“Nhưng ông ấy chưa bao giờ nói gì với bà về gia đình đầu tiên của Lula?”
“Ôi không, ông ấy không nói những chuyện đó đâu.” Có vẻ như phu nhân Bristow thấy câu hỏi thật kỳ lạ. “Tôi muốn con bé chỉ là của tôi, của riêng tôi mà thôi, anh hiểu không. Alec nếu có biết gì thì vẫn muốn che chở cho tôi. Tôi không thể chịu được cái ý nghĩ rằng ai đó sẽ tìm đến và đòi lại nó. Tôi đã mất Charlie; tôi rất muốn có một đứa con gái; ý nghĩ sẽ mất nó thật…”
Cô y tá quay trở lại cầm theo một chiếc khay với hai cái tách và một đĩa bánh qui sô cô la.
“Một cà phê,” cô ta vui vẻ nói, đặt cái tách bên cạnh Strike trên chiếc bàn con gần hắn, và “một trà hoa cúc.”
Rồi cô ta lại vội vã bước ra. Phu nhân Bristow khép mắt lại. Strike uống một ngụm cà phê đen, rồi hỏi tiếp:
“Năm ngoái Lula bắt đầu đi tìm bố mẹ ruột, có phải vậy không thưa bà?”
“Đúng thế,” phu nhân Bristow trả lời, mắt vẫn nhắm. “Lúc đó tôi vừa phát hiện ung thư.”
Cả hai im lặng. Strike khẽ đặt tách cà phê xuống. Tiếng trẻ con hò hét từ xa vọng vào qua ô cửa sổ đang mở.
“John và Tony rất giận nó,” phu nhân Bristow nói tiếp. “Cả hai đều thấy nó không nên đi bắt đầu đi tìm mẹ đẻ trong khi tôi ốm đau như vậy. Khi phát hiện thì khối u đã tiến triển. Tôi phải làm hoá trị ngay. John rất ngoan; nó lái xe chở tôi đi về bệnh viện, đến ở cùng tôi những ngày tệ hại nhất. Đến Tony cũng hay ghé qua. Vậy mà Lula dường như chỉ biết có…” Bà ta thở dài, mở đôi mắt mờ, nhìn mặt Strike. “Tony luôn nói con bé được chiều quá hoá hư. Lỗi tại tôi cả. Tôi từng mất Charlie, anh thấy đó, tôi yêu con bé bao nhiêu cũng không đủ.”
“Bà có biết được Lula đã tìm ra những gì về gia đình ruột thịt của cô ấy không?”
“Không, tôi không biết gì cả. Tôi nghĩ nó cũng biết chuyện đó làm tôi rất phiền. Nó không kể gì nhiều. Tôi biết nó đã tìm ra mẹ ruột, đương nhiên rồi, vì báo chí ồn ào kinh khủng sau đó. Bà ta đúng như những điều Tony đoán. Bà ta còn không muốn sinh ra Lula. Một người đàn bà chẳng ra gì, chẳng ra gì cả.” phu nhân Bristow thì thầm. “Nhưng Lula cứ đi gặp bà ta mãi. Trong lúc tôi vẫn còn hoá trị. Tôi bị rụng hết tóc…”
Giọng bà ta yếu dần đi. Strike thấy mình thật thô lỗ (mà có lẽ bà ta cũng thấy vậy) khi vẫn phải tiếp tục hỏi:
“Còn người cha ruột thì sao? Cô ấy có bao giờ kể gì về ông ta không?”
“Không,” phu nhân Bristow đáp, giọng yếu ớt. “Tôi không hỏi. Tôi có cảm giác nó không thiết tha gì nữa sau khi tìm ra bà mẹ khủng khiếp đó. Tôi không muốn nói chuyện đó với nó, không muốn chút nào cả. Quá đau lòng. Tôi nghĩ nó cũng biết vậy.”
“Cô ấy không nói gì về người cha ruột khi gặp bà lần cuối sau?” Strike vẫn hỏi tiếp.
“Ôi không có,” bà ta trả lời, giọng nhẹ nhàng. “Không nói gì. Nó cũng chẳng ở lâu, anh biết đó. Tôi còn nhớ vừa vào đến nơi nó đã nói là không ở được lâu. Nó phải đi gặp Ciara Porter bạn nó.”
Strike nhận ra chút tủi thân phảng phất trong giọng nói của bà ta, tựa như mùi đau ốm lâu ngày vương vấn trong phòng: có chút gì ẩm mốc, chết chóc. Phu nhân Bristow làm hắn nhớ đến Rochelle, mặc dù hai người nhìn bên ngoài thật như một trời một vực. Cả hai đều có cái hờn tủi của những người nghĩ mình bị người khác quay lưng, bỏ rơi.
“Bà có nhớ là hôm đó bà và Lula nói những chuyện gì không?”
“Anh biết đó, tôi uống rất nhiều thuốc giảm đau. Tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Tôi không nhớ hết được.”
“Nhưng bà nhớ Lula có ghé vào thăm?” Strike hỏi.
“Có chứ,” bà ta nói. “Nó đánh thức tôi dậy vì trước đó tôi vẫn còn ngủ.”
“Bà có nhớ hai người nói chuyện gì không?”
“Chuyện ca phẫu thuật, đương nhiên rồi,” bà ta nói, thoáng sự khó chịu. “Sau đó có nói một chút về anh của nó.”
“Anh của cô ấy…?”
“Charlie,” phu nhân Bristow trả lời, giọng buồn bã. “Tôi kể lại ngày Charlie chết. Trước đó tôi chưa bao giờ nói chuyện đó với Lula cả. Ngày tồi tệ nhất, kinh khủng nhất trong đời tôi.”
Strike có thể hình dung cảnh phu nhân Bristow vừa mệt mỏi kiệt sức nhưng cũng không kém phần ai oán, cố giữ cô con gái đang miễn cưỡng ngồi lại bằng cách nói về sự đau đớn hành xác, rồi về đứa con trai đã chết.
“Làm sao tôi biết được đó lại là lần cuối cùng tôi thấy con bé?” bà ta nói, thở nặng nhọc. “Khi đó tôi không biết sẽ lại mất thêm một đứa con nữa.”
Đôi mắt phu nhân Bristow đỏ ngàu, ngấn nước. Bà ta khẽ chớp mắt, hai giọt nước mắt tròn mẩy lăn dài trên gò má hốc hác.
“Phiền anh mở ngăn kéo,” phu nhân Bristow thì thào, chỉ ngón tay gầy guộc về chiếc bàn con cạnh giường, “lấy cho tôi mấy viên thuốc?”
Strike mở ngăn kéo bàn. Bên trong có nhiều hộp trắng, đủ loại thuốc men được dán nhãn khác nhau.
“Thuốc nào…”
“Loại nào cũng được. Như nhau cả,” bà ta nói.
Hắn lấy ra một chiếc hộp trắng có dán nhãn ghi chú rõ ràng là Valium. Chỗ thuốc trong hộp đủ cho bà ta uống quá liều mười lần.
“Anh cho tôi vài viên được không?” bà ta nói. “Tôi sẽ uống với trà, nếu đã nguội bớt.”
Hắn đưa mấy viên thuốc và tách trà cho phu nhân Bristow. Đôi bàn tay bà ta run rẩy, hắn phải đưa tay đỡ lấy cái đĩa tách. Hắn tự dưng (thật vô duyên) thấy mình như một vị linh mục đang cử hành thánh lễ.
“Cảm ơn anh,” bà ta thì thào, ngả người lên gối khi hắn đặt tách trà xuống bàn, rồi lại não nùng nhìn hắn. “Hình như John có nói với tôi là anh biết Charlie?”
“Vâng, đúng thế.” Strike đáp. “Tôi không bao giờ quên được anh ấy cả.”
“Đương nhiên rồi. Nó là đứa trẻ đáng yêu nhất. Ai cũng nói thế. Đứa trẻ xinh xắn, dễ thương nhất mà tôi từng biết. Không ngày nào mà tôi không nhớ nó cả.”
Bên ngoài cửa sổ, đám trẻ con vẫn đang hò hét, hàng cây tiêu huyền lao xao. Strike nghĩ đến một sáng mùa đông vài tháng trước. Khi đó hẳn hàng cây đã rụng lá, chỉ còn trơ trụi cành khô, còn Lula đang ngồi ngay chỗ hắn đây, đôi mắt xinh đẹp dán vào tấm hình của Charlie quá cố, trong khi bà mẹ mê man kể lại một câu chuyện khủng khiếp.
“Trước đó tôi chưa bao giờ kể chuyện Charlie cho Lula cả. Tôi còn nhớ, hôm đó Charlie và John đạp xe ra ngoài chơi. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng John gào thét, và tiếng Tony la hét, rồi la hét…”
Strike vẫn chưa đặt bút viết. Hắn mải quan sát gương mặt người đàn bà hấp hối đang kể chuyện.
“Alec không để tôi nhìn thấy cảnh đó, không cho tôi tới gần mỏ đá. Khi ông ấy kể lại, tôi ngất xỉu. Tôi tưởng tôi chết mất thôi. Tôi muốn chết. Tôi không hiểu tại sao Chúa có thể để chuyện đó xảy ra được.
“Nhưng sau đó tôi nghĩ rằng có lẽ tôi đáng chịu tất cả,” phu nhân Bristow mơ hồ nói, mắt dán lên trần nhà. “Tôi luôn tự hỏi phải chăng mình đang bị trừng phạt. Vì tôi yêu thương cả ba quá mức. Tôi nuông chiều chúng. Tôi không biết nói không Charlie, Alec rồi cả Lula. Tôi nghĩ ắt hẳn đó phải là sự trừng phạt bởi vì nếu không thì quá độc ác, phải vậy không? Chúa khiến tôi phải chịu đau đớn đến ba lần.”
Strike không biết nói sao. Dường như bà ta muốn tìm kiếm chút thương hại, một sự thương hại vượt ra ngoài khả năng của hắn. Phu nhân Bristow nằm đó, quấn trong lớp áo choàng vô hình của một vị thánh tử vì đạo, mang thêm sự bất lực và thụ động như những món đồ trang sức. Nhưng khi nhìn bà ta, Strike vẫn thấy không quý mến nổi.
“Tôi rất muốn có Lula,” phu nhân Bristow nói, “nhưng tôi không nghĩ nó… Nó là một đứa bé đáng yêu. Rất xinh đẹp. Vì nó tôi có thể làm tất cả. Nhưng nó không yêu tôi như Charlie và John yêu tôi. Có lẽ đã quá trễ. Có lẽ vì chúng tôi nhận nuôi nó quá trễ.
“Khi nó mới về John ghen tị lắm. Thằng bé rất đau khổ sau khi Charlie… nhưng rồi hai đứa trở nên rất thân thiết. Thân lắm.”
Một cái nhướng mày khiến lớp da mỏng như giấy trên trán bà ta nhăn lại.
“Vậy nên Tony đã nói sai.”
“Ông ấy nói sai chuyện gì?” Strike khẽ hỏi.
Ngón tay phu nhân Bristow co lại trên tấm chăn. Bà ta nuốt nước bọt.
“Tony nghĩ chúng tôi không nên nhận nuôi Lula.”
“Tại sao không?” Strike hỏi.
“Tony không thích đứa nào trong đám con tôi cả” Yvette Bristow trả lời. “Em trai tôi là người rất nghiệt ngã. Rất lạnh lùng. Cậu ấy nói những lời thật khủng khiếp sau khi Charlie chết. Alec xông vào đánh cậu ấy. Những chuyện Tony nói không hề đúng sự thật. Không đúng tí nào cả.”
Đôi mắt mờ đục của bà ta nhìn mặt Strike, hắn thoáng nhận ra người đàn bà của ngày trước, khi hãy còn nhan sắc: một chút quyến luyến, một chút trẻ con, xinh đẹp, thích phụ thuộc vào người khác. Một người đàn bà cực kỳ nữ tính, được nâng niu, bảo vệ trong vòng tay Ngài Alec; mọi ước ao, mọi ý thích tình cờ đều được thoả mãn.
“Tony nói gì vậy?”
“Những điều khủng khiếp về John và Charlie. Rất kinh khủng. Tôi không…” bà ta nói, yếu ớt, “… muốn lặp lại. Rồi khi nghe rằng chúng tôi sắp nhận nuôi một bé gái, cậu ấy gọi ngay cho Alec để ngăn cản. Alec giận lắm," bà ta thì thào. “Sau đó ông ấy cấm cửa Tony”.
“Hôm đó bà có kể hết chuyện này cho Lula không?” Strike hỏi. “Về Tony, về những điều ông ấy nói sau khi Charlie chết, rồi cả khi bà sắp nhận nuôi cô ấy?”
Câu hỏi đó với phu nhân Bristow dường như một lời quở trách. Bà ta khống chế:
“Tôi không nhớ chính xác đã nói gì với nó. Khi đó tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Nhiều thuốc men quá nên tôi hơi buồn ngủ. Tôi không nhớ rõ lắm…”
Và rồi, phu nhân Bristow bất ngờ đổi chủ đề:
“Anh chàng đó khiến tôi nhớ đến Charlie. Bạn trai của Lula ấy. Một cậu rất đẹp trai. Tên gì nhỉ?”
“Evan Duffield?”
“Đúng vậy. Anh ta có đến thăm tôi. Cũng mới đây thôi. Tôi không biết chính xác… tôi không còn nhớ ngày tháng nữa. Nhiều thuốc men quá. Nhưng anh ta có đến thăm tôi. Thật là tử tế. Anh ta muốn nói chuyện về Lula”.
Strike nhớ Bristow từng nói mẹ anh ta không biết Duffield là ai. Hắn tự hỏi phải chăng phu nhân Bristow đã vờ vĩnh với ông con trai, kiểu như cố tỏ ra đãng trí để được Bristow chú ý chăm sóc hơn.
“Charlie mà còn sống hẳn cũng sẽ đẹp trai như thế. Hẳn nó phải thành ca sĩ, hay diễn viên. Nó rất thích trình diễn, anh có nhớ không? Tôi thấy thương Evan quá. Anh ta ngồi đây khóc với tôi. Anh ta nói cứ tưởng Lula có người khác”.
“Người khác là ai?”
“Tay ca sĩ ”, phu nhân Bristow nói mơ hồ. “Tay ca sĩ viết bài hát về Lula. Khi còn trẻ và đẹp như vậy người ta dễ cư xử tàn nhẫn. Tôi thấy tội Evan. Anh ta nói rằng anh ta rất ân hận. Tôi nói anh ta không có việc gì phải ân hận cả”.
“Tại sao anh ta ân hận?”
“Vì đã không theo nó vào nhà. Vì đã không có ở đó, để ngăn nó lại”.
“Nếu bà có thể nhớ lại thêm một chút, ngay hôm trước khi Lula mất…?”
Bà ta tỏ vẻ hơi trách móc.
“Tôi e là tôi không nhớ gì nữa. Tôi đã kể với anh tất cả những gì tôi còn nhớ. Lúc đó tôi vừa ra viện. Tôi không tỉnh táo. Nhiều thuốc giảm đau quá”.
“Tôi hiểu. Tôi chỉ muốn biết hôm đó Tony có ghé thăm bà không?”
Im lặng một lúc. Gương mặt yếu ớt của phu nhân Bristow đanh lại.
“Không, tôi không nhớ là Tony ghé qua”, cuối cùng bà ta lên tiếng. “Tôi biết cậu ấy nói là có ghé qua thăm, nhưng tôi không nhớ. Có lẽ khi đó tôi đang ngủ”.
“Ông ấy nói lúc đó Lula cũng đang ở đây”, Strike nói.
Phu nhân Bristow khẽ nhún đôi vai gầy gò yếu ớt.
“Có lẽ vậy”, bà ta nói tiếp, “nhưng tôi không nhớ”. Rồi bà ta nói to hơn một chút. “Cậu ấy đã dễ chịu hơn với tôi, vì biết tôi gần đi rồi. Cậu ấy hay ghé thăm lắm. Đương nhiên là lúc nào cũng nói xấu John. Xưa nay cậu ấy vẫn thế. Nhưng John rất hiếu thảo với tôi. Nó đã đỡ đần tôi rất nhiều khi ốm đau…làm cả những việc mà đáng ra con trai không phải làm. Những việc đó nếu Lula làm thì hợp lý hơn… nhưng con bé được chiều quá. Tôi yêu nó lắm, nhưng nhiều khi nó khá ích kỷ. Rất ích kỷ”.
“Vậy vào cái ngày cuối cùng đó, lần cuối cùng bà gặp Lula…” Strike cố tìm cách trở lại chuyện chính, nhưng phu nhân Bristow đã ngắt lời hẳn.
“Sau khi nó ra về, tôi rất buồn”, bà ta nói. “Buồn quá đỗi. Mỗi khi nhắc chuyện Charlie tôi đều cảm thấy như thế. Con bé thấy tôi đang rất buồn, nhưng vẫn đi gặp bạn. Lúc đó tôi phải uống thuốc, rồi tôi thiếp đi. Không, tôi không hề gặp Tony; cũng không hề gặp ai khác. Tony nói cậu ấy có ghé qua, nhưng tôi không nhớ gì nữa, cho đến khi John đánh thức tôi dậy để ăn tối. John rất giận. Nó còn rầy tôi nữa”.
“Tại sao vậy?”
“Nó nói tôi uống nhiều thuốc quá”, phu nhân Bristow trả lời, bối rối như một bé gái. “Tôi biết nó chỉ muốn tốt cho tôi, tội nghiệp John, nhưng nó không nhận ra rằng… nó không thể… Đời tôi đã quá nhiều đau đớn. Đêm đó nó ngồi với tôi rất lâu. Chúng tôi nói về Charlie. Nói đến tận sáng sớm. Và trong khi chúng tôi nói chuyện”, bà ta hạ giọng, thì thào, “ngay đêm đó, Lula ngã xuống… từ ban công.
“John phải làm cái việc là báo tin cho tôi biết, ngay sáng hôm sau. Cảnh sát đến trước nhà khi trời vừa sáng. Sau đó John vào phòng ngủ để nói với tôi và…”
Bà ta nghẹn ngào, khẽ lắc đầu chậm chạp, dường như không còn sinh khí.
“Vì vậy mà ung thư tái phát, tôi biết mà. Người ta chỉ chịu được chừng đó đau đớn”.
Giọng bà ta càng lúc càng nhịu. Hắn tự hỏi không biết bà ta uống bao nhiêu Valium rồi. Hai mắt phu nhân Bristow nặng trĩu, khép lại.
“Yvette, tôi dùng nhà vệ sinh của bà được không?” hắn hỏi.
Bà ta cho phép bằng cái gật đầu thiêm thiếp.
Strike đứng dậy, nhanh nhẹn và nhẹ nhàng di chuyển thân hình bệ vệ. Hắn đi thẳng vào tủ quần áo siêu lớn.
Những cánh cửa gỗ gụ trong tủ chạm đến trần nhà. Hắn mở một cánh ra, thấy những giá treo đầy nhóc các loại áo đầm và áo khoác, bên trên có kệ đựng túi xách và mũ. Mùi âm ẩm của giầy cũ và vải vóc khiến hắn cảm giác như đang đứng trong cửa hàng từ thiện bán đồ cũ, mặc dù đám đồ đạc ở đây hẳn cực kỳ đắt đỏ. Hắn khẽ mở hết cánh cửa này đến cánh cửa khác, đến cánh thứ tư, hắn thấy mấy cái túi xách còn mới nguyên, đủ màu sắc, tất cả được nhồi nhét trên kệ.
Hắn lấy xuống chiếc túi màu xanh, mới cứng, sáng bóng. Chiếc túi có logo GS và lớp vải lót bên trong bằng lụa có dây kéo. Hắn cho tay vào bên trong chiếc túi, miết ngón tay khắp các góc rồi khéo léo đặt vào chỗ cũ.
Tiếp đến hắn chọn chiếc túi màu trắng có lớp lót in hoa văn cách điệu kiểu châu Phi. Hắn lại miết ngón tay trong túi. Rồi hắn mở khoá kéo, tháo lớp vải lót.
Y như Ciara đã mô tả, lớp vài lót rời ra thành một chiếc khăn quàng cổ có viền là dây khoá kéo, để lộ phần da nham nhám màu trắng bên trong túi. Vẫn không thấy gì cả, cho tới khi hắn nhìn thật kỹ. Một đường màu xanh nhạt lộ ra dọc theo tấm bìa cứng bọc vải hình chữ nhật ở đáy túi. Hắn nhấc tấm bìa lên. Bên dưới là một tờ giấy màu xanh nhạt đã được gấp lại. Chữ viết trên tờ giấy khá cẩu thả.
Strike nhanh tay nhét lớp vải lót trở lại túi rồi đặt vào chỗ cũ. Hắn rút từ trong túi áo ra một cái bao ni lông, bỏ tờ giấy xanh vẫn chưa kịp đọc vào đó, rồi đóng cánh cửa lại và tiếp tục mở các cánh khác. Đằng sau cánh cửa gần cuối là một cái két sắt có khoá mã số.
Strike lấy ra thêm một bao ni lông nữa, lồng tay vào và bắt đầu bấm mã số. Nhưng trước khi hắn kịp thử thì bên ngoài có tiếng động. Hắn vội vàng nhét bao ni lông vào trong túi áo, đóng cửa tủ không một tiếng động và quay trở lại phòng ngủ. Cô y tá Macmillan đang cúi xuống bên phu nhân Bristow. Khi nghe tiếng bước chân hắn cô ta ngẩng lên nhìn quanh.
“Tôi đi nhầm”, Strike nói. “Tôi cứ tưởng là nhà vệ sinh”.
Rồi hắn đi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại. Trước khi bấm xả bồn cầu và vặn vòi nước để cô y tá có thể nghe được, hắn đọc bản di chúc cuối cùng của Lula Landry, viết tháu trên tờ giấy lấy từ thư phòng của phu nhân Bristow. Người làm chứng là Rochelle Onifade.
Khi hắn trở ra, Yvette Bristow vẫn nằm đó, mắt nhắm nghiền.
“Bà ấy thiếp đi rồi”, cô y tá dịu dàng nói. “Bà ấy dạo này hay ngủ như vậy lắm”.
“Vâng”, Strike nói, hai tai nóng bừng. “Khi phu nhân tỉnh dậy, phiền cô nhắn lại là tôi xin phép ra về. Tôi phải đi đây”.
Hai người cùng đi ra, dọc theo hành lang ấm cúng.
“Phu nhân Bristow trông rất yếu”, Strike bình luận.
“Ồ vâng, đúng vậy”, cô y tá đáp lời. “Bà ấy có thể đi bất cứ lúc nào. Bà ấy yếu lắm rồi”.
“Tôi nghĩ hình như tôi để quên…” Strike băng quơ nói rồi rẽ trái vào căn phòng khách sơn vàng lúc hắn mới đến. Hắn cúi người trên chiếc sofa, che tầm nhìn của cô y tá và cẩn thận đặt ống nghe điện thoại ngay ngắn trở lại lên giá đỡ.
“À đây rồi”, hắn nói, giả vờ nắm lấy một vật rất nhỏ trong bàn tay rồi bỏ vào túi. “Cảm ơn cô đã mời cà phê”.
Tay cầm nắm cửa, hắn quay lại hỏi cô y tá.
“Phu nhân vẫn lạm dụng Valium như xưa, nhỉ?”
Không hề nghi ngờ gì cả, cô y tá mỉm cười độ lượng.
“Vâng, thì vậy, nhưng bây giờ cũng không thể hại gì nữa. Mà nói thật”, cô ta tiếp, “phải tay tôi, tôi mắng cho mấy tay bác sĩ đó một trận. Bà ấy có tới ba bác sĩ chuyên kê đơn cho bà mua Valium từ bao năm nay, nhìn trên nhãn dán hộp thì biết”.
“Thật chẳng ra gì”, Strike nói. “Một lần nữa cảm ơn cô. Tạm biệt”.
Hắn gần như chạy xuống cầu thang, điện thoại đã cầm sẵn trong tay. Hắn phấn chấn đến nỗi không nhìn lối đi, hụt chân trên cầu thang. Chiếc chân giả bị lệch về một bên, hắn rống lên đau đớn. Đầu gối trật ra khiến hắn ngã rầm xuống sáu bậc thang, nằm nguyên một đống. Khớp gối và mỏm chân cụt của hắn đau đớn kinh hoàng như lúc vừa mới bị cưa, lớp da non còn đang kéo lại.
“Mẹ kiếp! Đau quá!”
“Anh không sao chứ?”, cô y tá Macmillan gọi hắn từ trên lan can, từ dưới nhìn lên gương mặt của cô ta lộn ngược trông rất buồn cười.
“Tôi ổn… Không sao cả!” hắn hét ngược trở lại. “Trượt chân thôi! Đừng lo! Chó chết, khốn nạn, mẹ kiếp”, hắn rên rỉ, thở hồng hộc rồi vịn tay vào trụ cầu thang gần nhất để đứng dậy, rón rén không dám đứng thẳng trên chiếc chân giả đã bị lệch.
Hắn đi cà nhắc xuống phần cầu thang còn lại, cố dựa vào lan can; vừa đi vừa nhảy lò cò qua sảnh đón khách rồi bám vào cánh cửa dày để lết xuống bậc tam cấp trước toà nhà.
Đám trẻ con học thể dục đang chuẩn bị về lại trường để kịp bữa trưa, đi thành hàng rồng rắn xanh xanh ở phía xa. Strike đứng dựa lưng vào bức tường gạch ấm áp, vừa chửi thề liên tục, vừa tự hỏi rằng không biết chân cẳng mình đã hư hại đến đâu. Hắn thấy đau đớn kinh khủng, cảm giác như lớp da mỏm chân đang sưng tấy bị rách ra, rát buốt trong lớp lót bảo vệ. Viễn cảnh đi bộ về trạm tàu điện ngầm trở nên vô cùng thê thảm.
Hắn ngồi ở bậc tam cấp và gọi taxi. Trong khi chờ xe đến hắn gọi cho Robin, rồi Wardle, rồi văn phòng công ty luật Landry, May, Patterson.
Chiếc xe taxi đen đỗ xịch ở góc đường. Lần đầu tiên hắn nhận ra xe taxi ở London trông giống hết như những cỗ xe tang nhỏ. Hắn gượng đứng dậy, lê lết xuống vỉa hè, mỏm chân đau buốt.
Phần Năm
Felix qui potuit rerum cognoscere causas
Người đời ai dễ gặp may
Ngọn ngành nguyên cớ tỏ hay tận tường.
- Virgil, Georgics, Quyển 2
1
“Tôi cứ nghĩ”, Eric Wardle chậm rãi nói, nhìn xuống tờ di chúc đựng trong bao ni lông, “hẳn anh muốn đưa cái này cho thân chủ xem trước”.
“Thì vậy, nhưng ổng đang ở Rye”, Strike nói, “mà vụ này thì rất khẩn. Tôi đã nói rồi, tôi đang cố ngăn ngừa hai vụ án mạng nữa. Hiện giờ chúng ta đang đối mặt với một kẻ điên loạn, Wardle à”.
Mồ hôi hắn rịn ra vì đau đớn. Hắn ngồi bên cạnh cửa sổ nắng rọi của quán Feathers vừa khẩn thiết kêu gọi tay cảnh sát vào cuộc vừa lo lắng không biết đầu gối có bị trật khớp không và khúc xương chày ngắn ngủn còn lại liệu có bị nứt thêm không sau cú ngã cầu thang vừa rồi. Lúc còn ở trong xe hắn không muốn giở chân ra xem. Chiếc taxi chở hắn đến vẫn còn đang đứng đợi ngay bên mép đường. Đồng hồ tính tiền đang dần dần ngấu nghiến khoản ứng trước mà Bristow đã trả. Có thể hắn sẽ không được nhận thêm khoản nào nữa vì lệnh bắt hung thủ có thể được phát ra ngay hôm nay, nếu Wardle chịu đứng dậy ra tay.
“Đồng ý là cái này có thể cho thấy động cơ…”
“Có thể?” Strike lặp lại. “Có thể?” Mười triệu bảng mà chỉ có thể là động cơ hả? Nói nghe hay quá…”
“…nhưng tôi cần có chứng cứ rõ ràng tại toà, mà anh lại không mang tới”.
“Tôi vừa nói chứng cứ ở đâu rồi đó! Từ đầu đến giờ tôi đã sai chưa? Tôi đã nói là có tờ di chúc, rồi đây”, Strike giật mép cái túi nhựa, “Cái quỷ gì đây? Anh còn chờ gì nữa mà còn chưa xin lệnh soát?”
Wardle đưa tay lên vuốt ve gương mặt điển trai, như thể đang bị sâu răng, rồi cau mày nhìn tờ di chúc.
“Trời đất”, Strike nói, “bao nhiêu lần nữa đây? Tansy Bestigui lúc đó ở ngoài ban công, bà ta nghe tiếng Landry nói “Đã xong hết rồi…”
“Anh liều quá đó bồ tèo”, Wardle nói. “Luật sư bên bị sẽ chụp ngay vụ anh dám nói dối với nghi can. Một khi Bestigui biết anh bịa vụ tấm ảnh, lão ta sẽ phủ nhận tất cả”.
“Cứ để lão phủ nhận. Tansy sẽ nói thật. Bà ta muốn nói lắm rồi. Nhưng nếu anh gan sứa tới mức không chịu làm gì cả, Wardle à”, Strike nói, mồ hôi lạnh chảy dọc sống lưng còn khúc chân phải thì đau như thiêu như đốt, “và nếu thêm một người thân nữa của Landry bị giết chết, tôi sẽ đi thẳng tới chỗ bọn báo chí to mồm đó. Tôi sẽ nói rằng tôi đã cung cấp cho anh đủ mọi thông tin anh tìm được, rằng anh đã có mọi cơ hội để bắt tên giết người mà vẫn không chịu bắt. Lúc đó tôi sẽ bán độc quyền câu chuyện cho chúng, rồi bù vào tiền công điều tra, anh cứ nhắn lại với Carver như vậy.
“Đây”, hắn nói, đẩy một mẩu giấy vừa xé về phía Wardle, trên mẩu giấy có vài mật mã sáu số hắn vừa ghi ra. “Cứ thử mấy số này trước. Giờ thì lo đi xin lệnh soát nhà đi”.
Hắn đẩy tờ di chúc về phía Wardle, trượt xuống khỏi chiếc ghế cao. Mấy phút đi bộ từ quán rượu ra taxi dài dằng dặc. Hắn cứ tì người lên chân phải là vết thương nhức buốt.
~*~
Từ một giờ chiếu, cứ mười phút Robin lại gọi cho Strike, nhưng hắn vẫn không bốc máy. Cô gọi lại lần nữa khi hắn đang chật vật leo lên cầu thang, bám tay vào tay vịn, nặng nhọc nhấc người lên. Cô nghe tiếng chuông điện thoại vọng lên từ cầu thang, bỏ máy xuống và chạy ngay ra.
“Anh đây rồi! Tôi gọi cho anh mãi, có nhiều… Có chuyện gì vậy, anh không sao chứ?”
“Tôi ổn mà,” hắn nói dối.
“Không, anh đang… Chuyện gì vậy?”
Cô chạy xuống cầu thang đỡ hắn. Mặt hắn trắng bệch, mồ hôi rịn ra, Robin thấy như hắn sắp nôn.
“Anh uống nữa hả?”
“Không, uống iếc gì!” Hắn gắt. “Tôi vừa… xin lỗi cô, Robin. Tôi hơi đau. Cần phải ngồi xuống một lát”.
“Mà có chuyện gì? Để tôi…”
“Không sao. Không sao cả. Tôi tự đi được”.
Hắn chậm rãi nhấc người lên bậc thang rồi lê lết về phía chiếc ghế sofa cũ. Khi hắn ngồi phịch xuống, Robin nghe tiếng khung ghế kêu cái rắc. Cô nhủ thầm, Phải mua một cái mới, ngay sau đó lại nghĩ tiếp Nhưng mình sắp đi khỏi đây rồi.
“Có chuyện gì vậy?” cô hỏi.
“Tôi bị ngã cầu thang,” Strike đáp, thở hổn hển một lúc, vẫn còn chưa cởi áo khoác. “Như thằng đần.”
“Cầu thang nào? Có chuyện gì vậy?”
Mặc dù đang rất đau, nhìn vẻ mặt Robin nửa sợ hãi, nửa hồi hộp, hắn không nhịn được cười.
“Tôi không đánh đấm gì cả, Robin à. Tôi chỉ bị trượt chân ngã thôi”.
“Ồ, hiểu rồi. Anh trông hơi… hơi tái. Anh nghĩ có gì nghiêm trọng không? Để tôi gọi taxi… có khi anh phải đi bác sĩ?”
“Không cần đâu. Còn thuốc giảm đau hôm trước không?”
Cô mang ra cho hắn nước lọc và paracetamol. Strike uống thuốc, rồi duỗi chân ra, nhăn mặt. hắn hỏi Robin:
“Sáng giờ có chuyện gì không? Graham Hardacre có gởi tấm ảnh nào không?”
“Có”, Robin trả lời, vội chạy về phía màn hình máy tính. “Đây này”.
Cô kéo chuột ra, nhấp một cái. Bức ảnh Trung uý Jonah Agyeman phóng lớn trên màn hình.
Cả hai im lặng ngắm gương mặt của người thanh niên đẹp trai không thể chối cãi, mặc dù được di truyền hai cái tai to quá khổ từ người cha. Quân phục màu đỏ, đen và ánh vàng rất hợp với anh ta. Nụ cười hơi lệch một bên, xương gò má cao, cằm bạnh và nước da đen hơi ánh đỏ au như màu trà mới pha. Cũng như Lula, anh ta có một vẻ quyến rũ tự nhiên, một điều gì đó không gọi thành tên, nhưng khiến người ta không thể rời mắt.
“Anh ta giống Lula thật,” Robin thì thầm.
“Ừ, giống thật. Còn gì nữa không?”
Robin tập trung trở lại.
“Trời đất, còn nữa… John Bristow gọi cách đây nửa tiếng, nói là không cách gì liên lạc được với anh, còn Tony Landry gọi tổng cộng ba lần.”
“Tôi cũng đoán vậy. Ông ta nói gì?”
“Ổng rất là… lần thứ nhất ổng đòi nói chuyện với anh, rồi khi tôi nói là anh không có ở đây thì dập máy ngay, tôi còn không kịp đưa số di động. Lần thứ hai thì nói là anh phải gọi ngay cho ổng, nhưng dập máy trước khi tôi kịp nói anh vẫn chưa về. Nhưng lần thứ ba thì… ổng rất giận dữ. Chửi bới om sòm.”
“Ở đó mà chửi với bới,” Strike nói, nhăn nhó.
“Thực ra thì ổng không có chửi bới gì tôi, toàn là chửi anh thôi.”
“Ổng nói gì?”
“Tôi cũng chẳng hiểu ổng nói gì, ổng gọi John Bristow là ‘cái thằng đần’ rồi tự nhiên oang oang gì đó về chuyện Alison bỏ việc, hình như nghĩ là có anh nhúng vô, vì sau đó ổng dọa sẽ kiện anh tội phỉ báng, rồi lại tiếp tục chửi bới loạn cả lên.”
“Alison bỏ việc?”
“Đúng vậy.”
“Ổng có nói Alison đi đâu… mà không, đương nhiên là ổng không biết, làm sao mà biết được?” Dường như Strike đang tự nói với mình, thay vì đáp lời Robin.
Hắn nhìn xuống cổ tay. Chiếc đồng hồ rẻ tiền hình như đã va vào một chỗ nào đó khi hắn ngã cầu thang, kim dừng lại ở một giờ kém mười lăm.
“Mấy giờ rồi?”
“Năm giờ kém mười.”
“Trễ vậy sao?”
“Ừ. Anh cần gì nữa không? Tôi có thể ở lại thêm một lúc nữa.”
“Không, tôi muốn cô đi về.”
Giọng hắn nghe kỳ khôi đến nỗi thay vì đi lấy áo khoác và túi xách, Robin vẫn đứng lì tại chỗ.
“Anh nghĩ sẽ có chuyện gì hả?”
Strike vẫn loay hoay với chỗ gắn chân giả, ngay dưới đầu gối.
“Không có gì cả. Gần đây cô làm quá giờ nhiều rồi. Hẳn Matthew sẽ rất vui nếu hôm nay cô về sớm.”
Hắn không thể chỉnh lại chân giả mà không kéo ống quần lên.
“Thôi mà Robin, đi về đi,” hắn nói, ngước nhìn cô thư ký.
Robin chần chừ một lúc nữa rồi đi lấy áo khoác và túi xách.
“Cảm ơn cô,” hắn nói. “Hẹn mai gặp lại.”
Robin đã đi khỏi. Strike đợi nghe tiếng giày Robin gõ lên cầu thang sắt rồi mới kéo ống quần lên, nhưng hắn chẳng nghe gì cả. Cửa kính mở ra, Robin quay trở lại.
“Anh đang chờ một người nào đó,” Robin lên tiếng, nắm chặt mép cửa. “Phải vậy không?”
“Cũng có thể,” Strike trả lời, “nhưng không có gì đâu.”
Nhìn vẻ căng thẳng lo lắng trên gương mặt cô thư ký, hắn cố mỉm cười.
“Đừng lo gì cho tôi cả.” Sắc mặt Robin vẫn chưa giãn ra. Hắn nói tiếp. “Hồi còn tại ngũ tôi có chơi đấm bốc đó, cô biết không.”
Robin thoáng cười.
“Đúng rồi, anh có kể chuyện đó.”
“Thật sao?”
“Kể đi kể lại nữa là khác. Đêm đó… anh nhớ mà.”
“À, ra vậy. Nhưng mà tôi có chơi đấm bốc thật.”
“Thực ra anh chờ ai vậy?”
“Matthew sẽ không cảm ơn tôi đâu nếu tôi nói cho cô biết. Về nhà đi Robin. Tạm biệt cô, mai gặp lại nhé.”
Lần này, mặc dù vẫn còn miễn cưỡng, Robin ra về thật. Hắn đợi nghe tiếng cánh cửa mở ra phố Denmark đóng sầm lại rồi mới kéo ống quần lên, tháo chân giả ra và kiểm tra phần đầu gối bị sưng phồng, rồi cả mỏm chân cụt trầy trụa tấy đỏ. Không biết cái chân bị hành tội tới cỡ nào, nhưng tối nay hắn không còn thời gian để đi bác sĩ.
Hắn hơi tiếc. Giá mà lúc nãy hắn nghĩ ra chuyện nhờ Robin đi mua ít thức ăn trước khi cô về. Strike chật vật nhảy lò cò, bám vào bàn, nóc kệ đựng hồ sơ rồi tay vịn ghế sofa. Loay hoay một lúc hắn cũng pha được trà. Hắn ngồi xuống ghế của Robin, ăn hết nửa gói bánh qui và ngắm gương mặt của Jonah Agyeman. Mấy viên paracetamol dường như vẫn chưa ngấm gì cả.
Sau khi ăn sạch sẽ gói bánh, Strike mở điện thoại ra kiểm tra. Có rất nhiều cuộc gọi nhỡ từ Robin và hai cuộc từ John Bristow.
Trong số ba người mà Strike dự đoán sẽ mò tới văn phòng tối nay, hắn muốn Bristow là người đầu tiên xuất hiện. Nếu cảnh sát muốn bằng chứng rõ ràng thì một mình thân chủ của hắn cũng có thể cung cấp được (mặc dù có lẽ ông ta vẫn chưa nhận ra điều đó). Nếu Tony Landry hoặc Alison Creswell xuất hiện. Mình sẽ phải… Strike thoáng phì cười một mình, vì hắn vừa nghĩ trong đầu câu “vững chân mà tùy cơ ứng biến”. Chân với chả cẳng!
Nhưng đã sáu giờ, rồi sáu giờ rưỡi. Vẫn không có ai bấm chuông. Strike xoa kem vào mỏm chân cụt, rồi nghiến răng gắn chân giả vào, vẫn vô cùng nhức nhối. Hắn lê lết vào văn phòng bên trong, miệng rên hừ hừ vì đau, ngồi phịch xuống ghế. Strike bỏ cuộc, không chờ đợi gì nữa. Hắn tháo chân giả ra, úp mặt xuống bàn, không thiết làm gì hơn là chợp mắt một lúc.
2
Có tiếng bước chân trên cầu thang. Strike ngồi bật dậy, không biết vừa ngủ năm phút hay năm mươi phút. Rồi có tiếng đập rầm rầm vào cửa kính.
“Vào đi, cửa mở!” hắn ngồi tại chỗ hét lên, tranh thủ cúi xem ống quần đã thả xuống chưa. Chiếc chân giả vẫn chưa được gắn lại.
Strike thấy nhẹ cả người khi John Bristow bước vào, mắt liên tục hấp háy đằng sau cặp kính dày, trông rất kích động.
“Chào anh. Anh ngồi xuống đi.”
Nhưng Bristow bước về phía hắn, mặt đỏ rần rần, giận dữ hệt như lúc hắn từ chối không nhận điều tra vụ án. Thay vì ngồi xuống, ông ta đứng đó, với tay chụp lấy lưng ghế.
“Tôi đã nói với anh rồi,” ông ta nói, mặt thoắt đỏ thoắt tái, chỉ ngón tay xương xẩu vào mặt hắn. “Tôi đã nói rõ ràng là tôi không muốn anh gặp mẹ tôi mà không có mặt tôi.”
“Tôi biết là anh đã nói vậy nhưng…”
“Mẹ tôi giờ bấn loạn không thể tưởng. Tôi không biết anh đã nói gì với mẹ tôi, nhưng cả buổi chiều hôm nay tôi cứ phải nghe mẹ tôi khóc lóc rền rĩ trên điện thoại!”
“Tôi rất tiếc; vậy mà tôi thấy phu nhân không phiền gì khi tôi…”
“Mẹ tôi yếu lắm rồi!” Bristow hét lên, hàm răng thỏ lấp ló. “Ai cho anh đi đi gặp mẹ tôi mà không có tôi? Ai cho anh làm chuyện đó?”
“John à, như tôi đã nói hôm đám tang Rochelle, tôi nghĩ chúng ta đang phải đối mặt với một tên giết người hàng loạt,” Strike đáp. “Tình hình vô cùng nguy hiểm, tôi muốn chuyện này phải chấm dứt.”
“Anh muốn nó chấm dứt à? Thế anh nghĩ tôi muốn gì?” Bristow la hét, giọng ông ta khàn khàn, the thé. “Anh có biết là anh vừa làm gì không? Mẹ tôi thì bấn loạn, còn bạn gái tôi thì biến mất, Tony đang đổ hết cho anh đó! Anh đã làm gì với Alison? Cô ấy ở đâu rồi?”
“Tôi không biết. Anh thử gọi điện cho cổ chưa?”
“Alison không bốc máy. Chuyện quái gì thế này? Ngày hôm nay tôi chạy đến bở cả hơi tai mà công cốc cả, rồi tôi về lại văn phòng…”
“Chạy bở hơi tai mà công cốc?” Strike lặp lại, kín đáo nhấc đầu gối, đặt ngay lên chân giả.
Bristow ngồi vào ghế đối diện, thở hồng hộc, nheo mắt nhìn Strike đang ngồi trong ánh nắng chiều gay gắt rọi qua cửa sổ sau lưng tay thám tử.
“Có ai đó” ông ta giận dữ nói, “gọi cho thư ký của tôi ngay sáng nay, giả vờ là một khách hàng rất quan trọng của công ty ở Rye, đòi họp khẩn cấp. Tôi cất công đi đến đó, chỉ để nghe người ta nói rằng ông ấy đang ở nước ngoài, mà cũng chẳng có ai ở đó gọi tôi cả. Anh làm ơn,” ông ta nói thêm, đưa tay che mắt, “kéo cái rèm cửa xuống? Chói quá tôi chẳng thấy gì cả.”
Strike giật sợi dây, tấm rèm lạt xạt rơi xuống. Căn phòng mát hẳn, mờ tối, chỉ còn mấy vạt nắng qua khe rèm.
“Nghe lạ thật,” Strike nói. “Cứ như thể có người muốn dụ anh đi khỏi thành phố vậy.”
Bristow không đáp lại. Ông ta nhìn hắn chằm chằm, thở phập phồng.
“Đủ rồi,” Bristow đột ngột lên tiếng. “Tôi muốn chấm dứt cuộc điều tra ở đây. Anh cứ giữ hết phần tôi đã trả. Tôi phải lo cho mẹ tôi trước.”
Strike rút điện thoại ra khỏi túi quần, bấm vài nút rồi đặt lên đùi.
“Anh không muốn biết hôm nay tôi tìm thấy gì trong tủ quần áo của mẹ anh hả?”
“Anh tìm… anh dám lục lọi tủ của mẹ tôi?”
“Đúng vậy. Tôi muốn xem mấy cái túi xách tay được gởi cho Lula, ngay hôm cô ấy chết.”
Bristow bắt đầu lắp bắp:
“Anh… anh…”
“Mấy cái túi đó có lớp vải lót ở trong, có thể tháo rời được. Kỳ khôi thật, đúng không? Trong cái túi màu trắng, ngay dưới lớp vải lót là một tờ di chúc viết tay của Lula, viết trên giấy màu xanh lấy từ thư phòng nhà mẹ anh. Rochelle Onifade ký tên làm chứng. Tôi đã nộp cho cảnh sát rồi.”
Bristow há hốc miệng. Trong vòng vài giây dường như ông ta cứng họng, không nói được. Cuối cùng, ông ta thì thào:
“Nhưng… di chúc viết gì vậy?”
“Rằng cô ấy để lại mọi thứ, tất cả tài sản, cho anh trai, Trung úy Jonah Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia.”
“Jonah… ai kia?”
“Anh ra xem máy tính ở bên ngoài. Có hình trên đó.”
Bristow đứng dậy, đi như mộng du ra phòng ngoài. Strike thấy màn hình máy tính sáng lên khi Bristow kéo chuột. Gương mặt điển trai của Agyeman hiện lên, nhếch mép cười trong bộ quân phục tinh tươm.
“Ôi trời đất ơi,” Bristow thốt lên.
Ông ta quay lại chỗ Strike, ngồi xuống ghế, miệng vẫn còn há hốc.
“Tôi… tôi không thể tin nổi.”
“Đó cũng chính là người bị camera an ninh quay lại,” Strike nói, “khi đang bỏ chạy từ hiện trường trong đêm Lula chết. Khi đó anh ta đang nghỉ phép. Anh ta ở cùng bà mẹ góa bụa dưới Clerkenwell. Vì vậy mà hai mươi phút sau anh ta phải ba chân bốn cẳng chạy về phía phố Theobalds để về nhà.”
Bristow há hốc, nấc một tiếng.
“Vậy mà họ nói là tôi bị hoang tưởng,” ông ta gần như hét lên. “Nhưng tôi chẳng hề hoang tưởng chút nào!”
“Không, anh không hề hoang tưởng,” Strike nói. “Không hoang tưởng. Mà là điên loạn vô đối.”
m thanh của London vọng vào qua khung cửa sổ phủ rèm. Thành phố dường không lúc nào ngơi nghỉ, luôn có những tiếng ầm ầm, la lối, cả tiếng máy lẫn tiếng người. Trong phòng lúc này không có tiếng động nào trừ hơi thở gấp gáp của Bristow.
“Xin lỗi?” ông ta lên tiếng, lịch sự đến lố bịch. “Anh vừa nói gì đó?”
Strike mỉm cười.
“Tôi nói là anh điên loạn vô đối. Anh giết em gái mà không hề bị phát hiện, rồi lại đi nhờ tôi điều tra cái chết của cô ấy.”
“Anh đừng… đừng có đùa chuyện này.”
“Tôi nói rất nghiêm túc. Ngay từ ban đầu tôi đã thấy anh chính là người hưởng lợi nhiều nhất từ cái chết của Lula. Mười triệu bảng, sau khi mẹ anh cũng lên đường. Không hề nhỏ, đúng không? Nhất là khi anh chẳng có gì hơn là tiền lương hiện tại, mặc dù anh cứ ra rả về mớ thừa kế của ông già. Cổ phiếu của Albris dạo này rẻ hơn vé số, phải vậy không?”
Bristow tiếp tục há hốc thêm mấy giây nữa, rồi ngồi thẳng dậy, liếc về chiếc giường xếp trong góc phòng.
“Một người nghèo mạt rệp, phải ăn nhờ ở đậu ở ngay chỗ làm mà dám nói vậy, tôi thấy thật nực cười.” Giọng của Bristow bình thản, nhạo báng nhưng hơi thở lại gấp gáp lạ thường.
“Tôi biết anh có nhiều tiền hơn tôi,” Strike đáp. “Nhưng, như anh đã nhận xét hoàn toàn đúng, thực ra ai mà chẳng có nhiều tiền hơn tôi. Thế mà, tôi có thể tự nói rằng tôi chưa bao giờ thụt két thân chủ nào cả. Anh chôm của Conway Oates được bao nhiêu thì Tony mới phát hiện ra?”
“Ồ, bây giờ tôi còn thêm tội tham ô nữa à?” Bristow đáp trả, bật ra một tiếng cười giả tạo.
“Đúng thế,” Strike nói. “Nhưng chuyện đó chẳng liên quan gì tới tôi. Tôi không quan tâm chuyện anh giết Lula vì anh muốn có tiền bù vào chỗ đã ăn cắp của Conway Oates, hay vì anh muốn có mấy triệu bảng của cô ấy, hay vì anh căm ghét Lula. Nhưng chắc bồi thẩm đoàn sẽ muốn biết. Mấy người đó lúc nào cũng quan tâm tới động cơ phạm tôi.”
Hai đầu gối Bristow lại giật lia lịa.
“Anh mất trí rồi,” ông ta nói, cố cười thành tiếng. “Anh tìm ra được một tờ di chúc, theo đó Lula không để lại gì cho tôi, mà cho cái người kia.” Ông ta chỉ tay về phía phòng ngoài, nơi có hình ở Jonah. “Anh vừa nói đó là người đi về phía căn hộ của Lula đúng cái đêm con bé ngã khỏi ban công, rồi mười phút sau bỏ chạy, hình ảnh bị ghi lại hết trên đoặn băng. Vậy mà anh dám buộc tội tôi. Thật lố bịch.”
“John, ngay từ trước khi tìm đến thuê tôi điều tra, anh đã biết người trong đoạn băng là Jonah. Rochelle đã nói với anh. Cô ta có mặt ở Vashti lúc Lula gọi cho Jonah, hẹn gặp ngay đêm đó. Rồi sau đó chính cô ta làm chứng tờ di chúc. Rochelle đã tìm gặp anh, kể lại mọi thứ để tống tiền. Cô ta muốn có tiền để mua nhà và mấy thứ quần áo đắt đỏ. Đổi lại cô ta sẽ ngậm miệng về chuyện thực ra anh không phải là người thừa kế của Lula.
“Rochelle không hề biết anh giết Lula. Cô ta tưởng chính Jonah đẩy Lula qua cửa sổ. Cô ta rất hận vì phải làm chứng một tờ di chúc không hề có phần mình, rồi sau đó bị Lula bỏ rơi ngay trong cửa hàng. Vậy nên miễn có tiền thì cô ta cũng chẳng thèm quan tâm chuyện thủ phạm vẫn còn nhơn nhơn đâu đó.
“Toàn là bịa đặt. Anh điên rồi.”
“Anh đã tìm mọi cách gây khó để tôi không tìm ra Rochelle,” Strike tiếp tục nói, như thể không nghe thấy Bristow vừa nói gì. “Anh giả vờ là không biết tên cô ta, không biết cô ta sống ở đâu. Anh làm ra vẻ hoài nghi khi tôi nói rằng Rochelle có thể giúp được quá trình điều tra. Chưa hết, anh còn xóa sạch hình trên máy tính của Lula, để tôi không biết Rochelle trông như thế nào. Đành rằng, Rochelle có thể chỉ ngay đến người mà anh muốn gán tội, nhưng mặt khác, cô ta cũng biết có một tờ di chúc không hề có tên anh. Mục tiêu hàng đầu của anh là giữ im lặng về tờ di chúc đó, cho đến khi anh tìm ra và thủ tiêu nó hoàn toàn. Thật là trớ trêu, vì trong suốt thời gian đó, tờ di chúc vẫn nằm trong tủ áo ở nhà mẹ anh.
“Nhưng ngay cả khi anh đốt tờ di chúc thì sao? Anh vẫn không biết liệu Jonah có hay chính anh ta mới là người thừa kế của Lula. Rồi có thêm một nhân chứng từng thấy tờ di chúc mà anh vẫn chưa biết: Bryony Radford, chuyên viên trang điểm của Lula.”
Bristow liếm môi. Strike thấy tay luật sư bắt đầu sợ hãi.
“Bryony không muốn thừa nhận chuyện cô ta lục lọi đồ đạc của Lula. Nhưng cô ta đã nhìn thấy tờ di chúc ở nhà Lula, trước khi Lula kịp giấu đi. Phải tội Bryony bị chứng loạn chữ, nên đọc “Jonah” thành “John”. Cô ta khớp ngay chuyện đó với chuyện Ciara nói Lula sẽ để lại hết cho anh trai, rồi tự thấy khỏi cần khai đã đọc trộm được gì vì đằng nào anh cũng được thừa kế. Anh đúng là được quỷ thần phù hộ, John à.
“Nhưng tôi vẫn hiểu được, với một người bệnh hoạn như anh, giải pháp tốt nhất vẫn là gán tội cho Jonah. Nếu anh ấy bị án chung thân thì chuyện di chúc có xuất hiện hay không cũng không thành vấn đề, lúc đó thì nếu Jonah hay bất kỳ ai khác biết đến tờ di chúc cũng không thay đổi được gì. Đằng nào tiền cũng nằm trong túi anh rồi.”
“Thật nực cười,” Bristow nói, hổn hển. “Anh nên từ bỏ nghề thám tử, chuyển qua viết tiểu thuyết đi Strike. Anh chẳng có lấy một chút bằng chứng nào cả…”
“Tôi có đấy.” Strike ngắt lời ông ta. Bristow im lặng ngay lập tức, gương mặt xanh xao của ông ta hiện ra trong bóng tối. “Đoạn băng hình.”
“Đoạn băng
Trước mặt Strike là con phố Franklin Row xinh đẹp với những dãy nhà gạch đỏ, hàng cây tiêu huyền và một bãi cỏ rộng lớn có hàng rào bao quanh. Một đám học sinh tiểu học đang chơi thể thao trên bãi cỏ, mặc áo thun Aertex và quần short màu xanh sẫm, xung quanh có các thầy cô mặc đồ thể thao đứng trông chừng. Tiếng cười đùa của bọn trẻ làm ngắt quãng sự yên lặng tĩnh tại ở khu phố vốn dường như chỉ có tiếng chim hót. Strike sải bước trên vỉa hè, hai tay đút túi quần. Đường phố không một bóng xe chạy qua.
Phía trên bốn bậc cấp bằng đá trắng là một cánh cửa lắp kính. Kế đó là bảng chuông cửa bằng nhựa Bakelite kiểu cũ xưa gắn trên tường. Strike kiểm tra lại có đúng là tên của phu nhân Yvette Bristow nằm bên cạnh dòng chữ Căn hộ E hay không rồi quay xuống vỉa hè, đứng đợi trong ánh nắng ấm áp dìu dịu, thỉnh thoảng nhìn về hai phía đầu đường.
Mười giờ rưỡi. John Bristow vẫn chưa đến. Khu phố không một bóng người, trừ khoảng hai mươi đứa trẻ con bên kia hàng rào bãi cỏ. Chúng đang chơi đến trò chạy qua những vòng tròn và cột mốc đủ màu.
Mười giờ bốn mươi lăm phút, điện thoại của Strike rung lên trong túi. Robin nhắn tin:
Alison vừa gọi để báo rằng JB bận không tới được. JB không muốn anh nói chuyện với bà mẹ mà không có mặt ông ấy.
Ngay lập tức Strike nhắn tin của Bristow:
Anh còn bận bao lâu nữa? Vẫn gặp hôm nay được chứ?
Hắn chưa kịp gởi tin nhắn thì điện thoại đổ chuông.
“A lô?” Strike nói.
“Oggy?” Giọng lành lạnh của Graham Hardacre vang lên, từ tận nước Đức. “Tao có thông tin về Agyeman rồi.”
“Mày thiêng quá xá.” Strike rút cuốn sổ ra. “Nói đi.”
“Anh chàng này là Trung úy Jonah Francis Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia. Hai mươi mốt tuổi, chưa kết hôn, đợt làm nhiệm vụ gần đây nhất bắt đầu từ ngày Mười Một tháng Giêng, kết thúc vào tháng Sáu tới. Người thân gần nhất là mẹ. Không anh chị em, không con cái.”
Strike hí hoáy viết hết vào sổ, điện thoại kẹp giữa cằm và bả vai.
“Tao nợ mày vụ này rồi, Hardy,” hắn vừa nói vừa cất cuốn sổ. “Không có hình ảnh gì hả?”
“Để đó tao email cho một cái.”
Strike đọc cho Hardacre địa chỉ email của văn phòng. Sau vài màn hỏi thăm thông thường về cuộc sống và chúc tụng lẫn nhau, hắn dập máy.
Mười một giờ kém năm. Strike vẫn đứng đợi giữa khu phố hiền hoà, xanh tươi, điện thoại cầm trong tay. Đám trẻ con vẫn mải chơi với mấy cái vòng và túi hạt xốp. Một chiếc máy bay màu bạc bé xíu vạch một đường trắng dày trên nền trời xanh nhàn nhạt. Cuối cùng, điện thoại phát ra tín hiệu báo tin nhắn, nghe rất rõ trên con phố vắng lặng. Bristow trả lời:
Hôm nay không được rồi. Tôi phải đi Rye có việc. Hay ngày mai vậy?
Strike thở dài.
“Xin lỗi nhé John,” hắn lẩm bẩm rồi leo lên bậc tam cấp và bấm chuông nhà phu nhân Bristow.
Sảnh đón khách yên tĩnh, rộng rãi và sáng sủa, nhưng vẫn có vẻ gì đó ảm đạm của những nơi công cộng, mặc dù có đặt thêm bình hoa trông như cái xô cắm đầy hoa khô, thêm thảm lót màu xanh mờ và tường sơn vàng nhạt, chắc chủ nhân cố ý chọn toàn những thứ nhẹ nhàng dễ chịu như vậy. Giống với toà nhà chung cư Kentigern Gardens, ở đây cũng có thang máy, nhưng cửa bằng gỗ. Strike quyết định đi cầu thang bộ. Toà nhà trông hơi cũ kỹ nhưng vẫn lặng lẽ toát lên vẻ giàu có.
Cô y tá Macmillan[1] người Caribe ra mở cửa, mỉm cười thân thiện. Cô cũng chính là người bấm nút mở cửa vào sảnh ở tầng dưới cho Strike sau khi hắn bấm chuông.
[1. Một tổ chức chuyên chăm sóc người bệnh ung thư ở Anh quốc.]
“Tôi cứ tưởng là anh Bristow,” cô ta nhanh nhẹn nói.
“Không, tôi là Cormoran Strike. John vẫn đang trên đường đi.”
Cô y tá cho hắn vào. Hành lang dẫn vào phòng khách nhà phu nhân Bristow ấm cúng dễ chịu. Giấy dán tường màu đỏ phai, trên tường treo nhiều tranh màu nước lồng khung mạ vàng cũ xưa. Giá để dù đi mưa đựng đầy các loại gậy chống. Mấy chiếc áo khoác được treo lên một hàng móc áo ngay ngắn. Strike liếc qua phải, thoáng thấy thư phòng ở cuối hành lang, bên trong có một chiếc bàn gỗ nặng nề và chiếc ghế xoay, lưng ghế quay ra phía cửa.
“Phiền anh đợi trong phòng khách. Tôi đi xem phu nhân đã sẵn sàng gặp anh chưa nhé.”
“Vâng, được.”
Hắn bước qua cánh cửa cô y tá vừa chỉ, vào một phòng khách trang nhã với tường sơn màu hoa anh thảo, đầy kệ sách và khung ảnh. Một chiếc điện thoại quay số kiểu cổ đặt trên chiếc bàn con, cạnh đó là ghế sofa bọc vải hoa. Strike đợi cô y tá đi ra hẳn, rồi nhấc ống nghe điện thoại lên, khéo léo gác kênh máy, nhìn lướt qua khó nhận ra.
Gần cửa sổ lớn là chiếc bàn mặt tủ kiểu cọ, trên bàn có một tấm ảnh lớn lồng khung bạc, chụp đám cưới của Ngài Alec Bristow và phu nhân. Chú rể trông già hơn nhiều so với cô dâu. Ngài Alec phốp pháp, râu ria, đang mỉm cười rạng rỡ bên cô dâu mảnh khảnh, tóc vàng, xinh đẹp kiểu nhàn nhạt. Giả vờ đang chiêm ngưỡng bức ảnh, Strike đứng quay lưng về phía cửa và nhanh tay mở ngăn kéo nhỏ ngay dưới mặt chiếc bàn gỗ xoan đào tinh tế. Bên trong là giấy viết thư màu xanh nhạt và bì thư cùng màu. Hắn đóng ngăn kéo lại ngay.
“Anh Strike? Anh có thể vào gặp phu nhân được rồi.”
Hai người trở ra hành lang có giấy dán tường đỏ rồi đi một đoạn ngắn đến một phòng ngủ rộng lớn với hai màu chủ đạo trắng và xanh trứng sáo. Mọi thứ trong phòng toát lên vẻ thanh lịch, trang nhã. Bên trái là hai cánh cửa đang khép hờ, một mở vào buồng tắm, một mở vào tủ áo quần siêu lớn. Bàn ghế trong phòng tinh tế, mang hơi hướm phong cách Pháp. Bình truyền nước gắn trên giá đứng bằng thép, bộ vệ sinh sạch sẽ sáng bóng đặt trên tủ ngăn kéo cùng với vô số thuốc men. Những món đạo cụ của bệnh tật lạc lõng trong căn phòng thanh nhã như những kẻ trà trộn không mời.
Người đàn bà đau yếu mặc áo khoác len dày màu trắng ngà, nằm lọt thỏm trên chiếc giường gỗ chạm trổ, đỡ lưng bằng những chiếc gối màu trắng. Vẻ đẹp thanh xuân của phu nhân Bristow đã hoàn toàn biến mất. Dưới làn da mỏng manh, trong suốt, và đã bắt đầu bong vảy, những đốt xương lộ rõ, gầy guộc và góc cạnh. Đôi mắt của phu nhân trũng sâu, mờ đục. Mái tóc bạc trắng lơ thơ như tóc trẻ con, lộ cả lớp da đầu hồng nhạt. Hai cánh tay xương xẩu đặt hờ trên lớp chăn, trên tay gắn kim truyền dịch. Cái chết đã hiện diện trong căn phòng, chừng như đang lịch sự và kiên nhẫn đứng chờ ngay sau lớp màn cửa.
Mùi hoa chanh thoang thoảng trong không khí, nhưng vẫn không át được mùi thuốc sát trùng và bệnh tật, khiến Strike nhớ đến mấy tháng dai dẳng nằm viện. Cửa sổ lớn thứ hai đã được nâng lên khoảng vài tấc, hứng lấy chút không khí ấm áp trong lành và tiếng trẻ con chơi đùa từ xa vọng vào, nhìn ra những cành cao nhất trên hàng cây tiêu huyền xanh mát trong nắng.
“Anh là thám tử à?”
Giọng của phu nhân Bristow mỏng manh, khàn và hơi nhịu. Trước đó Strike vẫn còn băn khoăn không biết liệu Bristw đã nói thật với mẹ ông ta về hắn chưa. Hắn mừng là phu nhân đã biết trước.
“Vâng, tôi là Cormoran Strike.”
“John đâu rồi?”
“Anh ấy bận việc ở văn phòng.”
“Lại bận nữa à,” bà ta lẩm bẩm, rồi nói tiếp, “Tony bắt John làm việc cực khổ quá. Không công bằng chút nào.” Bà ta cố nheo mắt nhìn hắn, rồi khẽ đưa ngón tay lên chỉ một chiếc ghế nhỏ. “Ngồi xuống đi.”
Hai mống mắt đã bạc màu của phu nhân Bristow có những đường trắng đục viền quanh. Khi ngồi xuống Strike để ý trên bàn con cạnh giường có thêm hai khung ảnh bạc nữa. Một luồng điện chạy qua người Strike khi hắn nhìn vào đôi mắt của Charlie Bristow trong ảnh. Gương mặt tròn trịa, đuôi tóc hơi dài, Charlie dừng lại mãi ở tuổi lên mười trong chiếc áo sơ mi đồng phục có cổ áo chìa ra và nút thắt cà vạt to tướng. Trông Charlie y hệt như lúc vẫy tay tạm biệt Cormoran Strike, cậu bạn thân nhất, ríu rít hẹn gặp nhau sau kỳ nghỉ Phục Sinh.
Bên cạnh ảnh của Charlie là một tấm ảnh nhỏ hơn, chụp một cô bé xinh lạ thường, tóc đen dài xoăn từng lọn, đôi mắt to màu nâu, mặc đồng phục màu xanh sẫm. Lula Landry trong ảnh chắc chỉ độ sáu tuổi.
“Mary,” phu nhân Bristow gọi khẽ, cô y tá chạy ngay đến. “Cô có thể lấy cho anh Strike đây ít cà phê? Hay anh dùng trà nhỉ?” bà ta quay sang hỏi hắn. Trong giây lát, Strike như quay trở về khoảnh khắc cách đây hai thập kỷ rưỡi, trong khu vườn rực nắng ở nhà Charlie với người mẹ tóc vàng duyên dáng tay cầm bình nước chanh mát lạnh.
“Cho tôi một tách cà phê vậy, cảm ơn cô nhiều.”
“Xin anh bỏ quá cho vì tôi không tự pha được,” phu nhân Bristow nói, sau khi cô y tác đã đi ra ngoài, bước chân vội vã, “nhưng anh thấy đó, giờ tôi phải nương nhờ lòng tốt của kẻ khác. Như Blanche Dubois[2] tội nghiệp.”
[2. Nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng A streetcar named desire của Tennessee Williams, từng được dịch ra tiếng Việt với tựa Chuyến tàu mang tên dục vọng (NXB Trẻ, 2011) - ND]
Bà nhắm mắt lại trong giây lát, như để tập trung cảm nhận sự đau đớn bên trong cơ thể. Hắn không biết phu nhân Bristow đã uống bao nhiêu thuốc và còn tỉnh táo tới đâu. Đằng sau phong thái nền nã đó, Strike vẫn thấy vương vấn chút chua chát trong từng lời nói, tựa như mùi hoa chanh không thể át hết mùi bệnh tật trong phòng. Hắn thấy ngạc nhiên, chẳng phải Bristow gần như lúc nào cũng túc trực cạnh bên để tận tình chăm sóc bà mẹ đó sao?
“Tại sao John không tới?” phu nhân Bristow lại hỏi, mắt vẫn nhắm.
“Anh ấy bận việc ở văn phòng,” Strike lặp lại.
“À, đúng rồi. Anh có nói.”
“Thưa phu nhân, tôi muốn hỏi bà một vài câu. Tôi xin bà lượng thứ nếu câu hỏi quá riêng tư, hoặc làm bà phải phiền lòng.”
“Nếu anh đã gặp những chuyện mà tôi phải trải qua,” bà ta lặng lẽ nói, “thì chẳng còn gì có thể gây đau đớn được nữa. Cứ gọi tôi là Yvette.”
“Cảm ơn phu nhân. Bà không phiền nếu tôi ghi chép lại chứ?”
“Không, không sao cả,” bà ta trả lời, nhìn hắn lấy cây viết và cuốn sổ ra, vẻ hơi tò mò.
“Nếu bà không phiền, tôi muốn bắt đầu từ việc Lula đã đến với gia đình như thế nào. Khi nhận nuôi bà có biết gì về gốc gác của cô ấy không?”
Phu nhân Bristow giờ đây như hiện thân của sự bất lực và thụ động, hai cánh tay vẫn hờ hững đặt trên lớp chăn.
“Không,” bà ta trả lời. “Tôi chẳng biết gì cả. Chắc Alec biết, nhưng nếu có đi nữa thì ông ấy cũng không bao giờ kể với tôi.”
“Tại sao bà nghĩ Alec biết gì đó?”
“Alec luôn tìm hiểu tường tận mọi thứ,” bà ta trả lời, dịu dàng mỉm cười hoài niệm. “Ông ấy là người làm ăn giỏi, anh biết đó.”
“Nhưng ông ấy chưa bao giờ nói gì với bà về gia đình đầu tiên của Lula?”
“Ôi không, ông ấy không nói những chuyện đó đâu.” Có vẻ như phu nhân Bristow thấy câu hỏi thật kỳ lạ. “Tôi muốn con bé chỉ là của tôi, của riêng tôi mà thôi, anh hiểu không. Alec nếu có biết gì thì vẫn muốn che chở cho tôi. Tôi không thể chịu được cái ý nghĩ rằng ai đó sẽ tìm đến và đòi lại nó. Tôi đã mất Charlie; tôi rất muốn có một đứa con gái; ý nghĩ sẽ mất nó thật…”
Cô y tá quay trở lại cầm theo một chiếc khay với hai cái tách và một đĩa bánh qui sô cô la.
“Một cà phê,” cô ta vui vẻ nói, đặt cái tách bên cạnh Strike trên chiếc bàn con gần hắn, và “một trà hoa cúc.”
Rồi cô ta lại vội vã bước ra. Phu nhân Bristow khép mắt lại. Strike uống một ngụm cà phê đen, rồi hỏi tiếp:
“Năm ngoái Lula bắt đầu đi tìm bố mẹ ruột, có phải vậy không thưa bà?”
“Đúng thế,” phu nhân Bristow trả lời, mắt vẫn nhắm. “Lúc đó tôi vừa phát hiện ung thư.”
Cả hai im lặng. Strike khẽ đặt tách cà phê xuống. Tiếng trẻ con hò hét từ xa vọng vào qua ô cửa sổ đang mở.
“John và Tony rất giận nó,” phu nhân Bristow nói tiếp. “Cả hai đều thấy nó không nên đi bắt đầu đi tìm mẹ đẻ trong khi tôi ốm đau như vậy. Khi phát hiện thì khối u đã tiến triển. Tôi phải làm hoá trị ngay. John rất ngoan; nó lái xe chở tôi đi về bệnh viện, đến ở cùng tôi những ngày tệ hại nhất. Đến Tony cũng hay ghé qua. Vậy mà Lula dường như chỉ biết có…” Bà ta thở dài, mở đôi mắt mờ, nhìn mặt Strike. “Tony luôn nói con bé được chiều quá hoá hư. Lỗi tại tôi cả. Tôi từng mất Charlie, anh thấy đó, tôi yêu con bé bao nhiêu cũng không đủ.”
“Bà có biết được Lula đã tìm ra những gì về gia đình ruột thịt của cô ấy không?”
“Không, tôi không biết gì cả. Tôi nghĩ nó cũng biết chuyện đó làm tôi rất phiền. Nó không kể gì nhiều. Tôi biết nó đã tìm ra mẹ ruột, đương nhiên rồi, vì báo chí ồn ào kinh khủng sau đó. Bà ta đúng như những điều Tony đoán. Bà ta còn không muốn sinh ra Lula. Một người đàn bà chẳng ra gì, chẳng ra gì cả.” phu nhân Bristow thì thầm. “Nhưng Lula cứ đi gặp bà ta mãi. Trong lúc tôi vẫn còn hoá trị. Tôi bị rụng hết tóc…”
Giọng bà ta yếu dần đi. Strike thấy mình thật thô lỗ (mà có lẽ bà ta cũng thấy vậy) khi vẫn phải tiếp tục hỏi:
“Còn người cha ruột thì sao? Cô ấy có bao giờ kể gì về ông ta không?”
“Không,” phu nhân Bristow đáp, giọng yếu ớt. “Tôi không hỏi. Tôi có cảm giác nó không thiết tha gì nữa sau khi tìm ra bà mẹ khủng khiếp đó. Tôi không muốn nói chuyện đó với nó, không muốn chút nào cả. Quá đau lòng. Tôi nghĩ nó cũng biết vậy.”
“Cô ấy không nói gì về người cha ruột khi gặp bà lần cuối sau?” Strike vẫn hỏi tiếp.
“Ôi không có,” bà ta trả lời, giọng nhẹ nhàng. “Không nói gì. Nó cũng chẳng ở lâu, anh biết đó. Tôi còn nhớ vừa vào đến nơi nó đã nói là không ở được lâu. Nó phải đi gặp Ciara Porter bạn nó.”
Strike nhận ra chút tủi thân phảng phất trong giọng nói của bà ta, tựa như mùi đau ốm lâu ngày vương vấn trong phòng: có chút gì ẩm mốc, chết chóc. Phu nhân Bristow làm hắn nhớ đến Rochelle, mặc dù hai người nhìn bên ngoài thật như một trời một vực. Cả hai đều có cái hờn tủi của những người nghĩ mình bị người khác quay lưng, bỏ rơi.
“Bà có nhớ là hôm đó bà và Lula nói những chuyện gì không?”
“Anh biết đó, tôi uống rất nhiều thuốc giảm đau. Tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Tôi không nhớ hết được.”
“Nhưng bà nhớ Lula có ghé vào thăm?” Strike hỏi.
“Có chứ,” bà ta nói. “Nó đánh thức tôi dậy vì trước đó tôi vẫn còn ngủ.”
“Bà có nhớ hai người nói chuyện gì không?”
“Chuyện ca phẫu thuật, đương nhiên rồi,” bà ta nói, thoáng sự khó chịu. “Sau đó có nói một chút về anh của nó.”
“Anh của cô ấy…?”
“Charlie,” phu nhân Bristow trả lời, giọng buồn bã. “Tôi kể lại ngày Charlie chết. Trước đó tôi chưa bao giờ nói chuyện đó với Lula cả. Ngày tồi tệ nhất, kinh khủng nhất trong đời tôi.”
Strike có thể hình dung cảnh phu nhân Bristow vừa mệt mỏi kiệt sức nhưng cũng không kém phần ai oán, cố giữ cô con gái đang miễn cưỡng ngồi lại bằng cách nói về sự đau đớn hành xác, rồi về đứa con trai đã chết.
“Làm sao tôi biết được đó lại là lần cuối cùng tôi thấy con bé?” bà ta nói, thở nặng nhọc. “Khi đó tôi không biết sẽ lại mất thêm một đứa con nữa.”
Đôi mắt phu nhân Bristow đỏ ngàu, ngấn nước. Bà ta khẽ chớp mắt, hai giọt nước mắt tròn mẩy lăn dài trên gò má hốc hác.
“Phiền anh mở ngăn kéo,” phu nhân Bristow thì thào, chỉ ngón tay gầy guộc về chiếc bàn con cạnh giường, “lấy cho tôi mấy viên thuốc?”
Strike mở ngăn kéo bàn. Bên trong có nhiều hộp trắng, đủ loại thuốc men được dán nhãn khác nhau.
“Thuốc nào…”
“Loại nào cũng được. Như nhau cả,” bà ta nói.
Hắn lấy ra một chiếc hộp trắng có dán nhãn ghi chú rõ ràng là Valium. Chỗ thuốc trong hộp đủ cho bà ta uống quá liều mười lần.
“Anh cho tôi vài viên được không?” bà ta nói. “Tôi sẽ uống với trà, nếu đã nguội bớt.”
Hắn đưa mấy viên thuốc và tách trà cho phu nhân Bristow. Đôi bàn tay bà ta run rẩy, hắn phải đưa tay đỡ lấy cái đĩa tách. Hắn tự dưng (thật vô duyên) thấy mình như một vị linh mục đang cử hành thánh lễ.
“Cảm ơn anh,” bà ta thì thào, ngả người lên gối khi hắn đặt tách trà xuống bàn, rồi lại não nùng nhìn hắn. “Hình như John có nói với tôi là anh biết Charlie?”
“Vâng, đúng thế.” Strike đáp. “Tôi không bao giờ quên được anh ấy cả.”
“Đương nhiên rồi. Nó là đứa trẻ đáng yêu nhất. Ai cũng nói thế. Đứa trẻ xinh xắn, dễ thương nhất mà tôi từng biết. Không ngày nào mà tôi không nhớ nó cả.”
Bên ngoài cửa sổ, đám trẻ con vẫn đang hò hét, hàng cây tiêu huyền lao xao. Strike nghĩ đến một sáng mùa đông vài tháng trước. Khi đó hẳn hàng cây đã rụng lá, chỉ còn trơ trụi cành khô, còn Lula đang ngồi ngay chỗ hắn đây, đôi mắt xinh đẹp dán vào tấm hình của Charlie quá cố, trong khi bà mẹ mê man kể lại một câu chuyện khủng khiếp.
“Trước đó tôi chưa bao giờ kể chuyện Charlie cho Lula cả. Tôi còn nhớ, hôm đó Charlie và John đạp xe ra ngoài chơi. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng John gào thét, và tiếng Tony la hét, rồi la hét…”
Strike vẫn chưa đặt bút viết. Hắn mải quan sát gương mặt người đàn bà hấp hối đang kể chuyện.
“Alec không để tôi nhìn thấy cảnh đó, không cho tôi tới gần mỏ đá. Khi ông ấy kể lại, tôi ngất xỉu. Tôi tưởng tôi chết mất thôi. Tôi muốn chết. Tôi không hiểu tại sao Chúa có thể để chuyện đó xảy ra được.
“Nhưng sau đó tôi nghĩ rằng có lẽ tôi đáng chịu tất cả,” phu nhân Bristow mơ hồ nói, mắt dán lên trần nhà. “Tôi luôn tự hỏi phải chăng mình đang bị trừng phạt. Vì tôi yêu thương cả ba quá mức. Tôi nuông chiều chúng. Tôi không biết nói không Charlie, Alec rồi cả Lula. Tôi nghĩ ắt hẳn đó phải là sự trừng phạt bởi vì nếu không thì quá độc ác, phải vậy không? Chúa khiến tôi phải chịu đau đớn đến ba lần.”
Strike không biết nói sao. Dường như bà ta muốn tìm kiếm chút thương hại, một sự thương hại vượt ra ngoài khả năng của hắn. Phu nhân Bristow nằm đó, quấn trong lớp áo choàng vô hình của một vị thánh tử vì đạo, mang thêm sự bất lực và thụ động như những món đồ trang sức. Nhưng khi nhìn bà ta, Strike vẫn thấy không quý mến nổi.
“Tôi rất muốn có Lula,” phu nhân Bristow nói, “nhưng tôi không nghĩ nó… Nó là một đứa bé đáng yêu. Rất xinh đẹp. Vì nó tôi có thể làm tất cả. Nhưng nó không yêu tôi như Charlie và John yêu tôi. Có lẽ đã quá trễ. Có lẽ vì chúng tôi nhận nuôi nó quá trễ.
“Khi nó mới về John ghen tị lắm. Thằng bé rất đau khổ sau khi Charlie… nhưng rồi hai đứa trở nên rất thân thiết. Thân lắm.”
Một cái nhướng mày khiến lớp da mỏng như giấy trên trán bà ta nhăn lại.
“Vậy nên Tony đã nói sai.”
“Ông ấy nói sai chuyện gì?” Strike khẽ hỏi.
Ngón tay phu nhân Bristow co lại trên tấm chăn. Bà ta nuốt nước bọt.
“Tony nghĩ chúng tôi không nên nhận nuôi Lula.”
“Tại sao không?” Strike hỏi.
“Tony không thích đứa nào trong đám con tôi cả” Yvette Bristow trả lời. “Em trai tôi là người rất nghiệt ngã. Rất lạnh lùng. Cậu ấy nói những lời thật khủng khiếp sau khi Charlie chết. Alec xông vào đánh cậu ấy. Những chuyện Tony nói không hề đúng sự thật. Không đúng tí nào cả.”
Đôi mắt mờ đục của bà ta nhìn mặt Strike, hắn thoáng nhận ra người đàn bà của ngày trước, khi hãy còn nhan sắc: một chút quyến luyến, một chút trẻ con, xinh đẹp, thích phụ thuộc vào người khác. Một người đàn bà cực kỳ nữ tính, được nâng niu, bảo vệ trong vòng tay Ngài Alec; mọi ước ao, mọi ý thích tình cờ đều được thoả mãn.
“Tony nói gì vậy?”
“Những điều khủng khiếp về John và Charlie. Rất kinh khủng. Tôi không…” bà ta nói, yếu ớt, “… muốn lặp lại. Rồi khi nghe rằng chúng tôi sắp nhận nuôi một bé gái, cậu ấy gọi ngay cho Alec để ngăn cản. Alec giận lắm," bà ta thì thào. “Sau đó ông ấy cấm cửa Tony”.
“Hôm đó bà có kể hết chuyện này cho Lula không?” Strike hỏi. “Về Tony, về những điều ông ấy nói sau khi Charlie chết, rồi cả khi bà sắp nhận nuôi cô ấy?”
Câu hỏi đó với phu nhân Bristow dường như một lời quở trách. Bà ta khống chế:
“Tôi không nhớ chính xác đã nói gì với nó. Khi đó tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Nhiều thuốc men quá nên tôi hơi buồn ngủ. Tôi không nhớ rõ lắm…”
Và rồi, phu nhân Bristow bất ngờ đổi chủ đề:
“Anh chàng đó khiến tôi nhớ đến Charlie. Bạn trai của Lula ấy. Một cậu rất đẹp trai. Tên gì nhỉ?”
“Evan Duffield?”
“Đúng vậy. Anh ta có đến thăm tôi. Cũng mới đây thôi. Tôi không biết chính xác… tôi không còn nhớ ngày tháng nữa. Nhiều thuốc men quá. Nhưng anh ta có đến thăm tôi. Thật là tử tế. Anh ta muốn nói chuyện về Lula”.
Strike nhớ Bristow từng nói mẹ anh ta không biết Duffield là ai. Hắn tự hỏi phải chăng phu nhân Bristow đã vờ vĩnh với ông con trai, kiểu như cố tỏ ra đãng trí để được Bristow chú ý chăm sóc hơn.
“Charlie mà còn sống hẳn cũng sẽ đẹp trai như thế. Hẳn nó phải thành ca sĩ, hay diễn viên. Nó rất thích trình diễn, anh có nhớ không? Tôi thấy thương Evan quá. Anh ta ngồi đây khóc với tôi. Anh ta nói cứ tưởng Lula có người khác”.
“Người khác là ai?”
“Tay ca sĩ ”, phu nhân Bristow nói mơ hồ. “Tay ca sĩ viết bài hát về Lula. Khi còn trẻ và đẹp như vậy người ta dễ cư xử tàn nhẫn. Tôi thấy tội Evan. Anh ta nói rằng anh ta rất ân hận. Tôi nói anh ta không có việc gì phải ân hận cả”.
“Tại sao anh ta ân hận?”
“Vì đã không theo nó vào nhà. Vì đã không có ở đó, để ngăn nó lại”.
“Nếu bà có thể nhớ lại thêm một chút, ngay hôm trước khi Lula mất…?”
Bà ta tỏ vẻ hơi trách móc.
“Tôi e là tôi không nhớ gì nữa. Tôi đã kể với anh tất cả những gì tôi còn nhớ. Lúc đó tôi vừa ra viện. Tôi không tỉnh táo. Nhiều thuốc giảm đau quá”.
“Tôi hiểu. Tôi chỉ muốn biết hôm đó Tony có ghé thăm bà không?”
Im lặng một lúc. Gương mặt yếu ớt của phu nhân Bristow đanh lại.
“Không, tôi không nhớ là Tony ghé qua”, cuối cùng bà ta lên tiếng. “Tôi biết cậu ấy nói là có ghé qua thăm, nhưng tôi không nhớ. Có lẽ khi đó tôi đang ngủ”.
“Ông ấy nói lúc đó Lula cũng đang ở đây”, Strike nói.
Phu nhân Bristow khẽ nhún đôi vai gầy gò yếu ớt.
“Có lẽ vậy”, bà ta nói tiếp, “nhưng tôi không nhớ”. Rồi bà ta nói to hơn một chút. “Cậu ấy đã dễ chịu hơn với tôi, vì biết tôi gần đi rồi. Cậu ấy hay ghé thăm lắm. Đương nhiên là lúc nào cũng nói xấu John. Xưa nay cậu ấy vẫn thế. Nhưng John rất hiếu thảo với tôi. Nó đã đỡ đần tôi rất nhiều khi ốm đau…làm cả những việc mà đáng ra con trai không phải làm. Những việc đó nếu Lula làm thì hợp lý hơn… nhưng con bé được chiều quá. Tôi yêu nó lắm, nhưng nhiều khi nó khá ích kỷ. Rất ích kỷ”.
“Vậy vào cái ngày cuối cùng đó, lần cuối cùng bà gặp Lula…” Strike cố tìm cách trở lại chuyện chính, nhưng phu nhân Bristow đã ngắt lời hẳn.
“Sau khi nó ra về, tôi rất buồn”, bà ta nói. “Buồn quá đỗi. Mỗi khi nhắc chuyện Charlie tôi đều cảm thấy như thế. Con bé thấy tôi đang rất buồn, nhưng vẫn đi gặp bạn. Lúc đó tôi phải uống thuốc, rồi tôi thiếp đi. Không, tôi không hề gặp Tony; cũng không hề gặp ai khác. Tony nói cậu ấy có ghé qua, nhưng tôi không nhớ gì nữa, cho đến khi John đánh thức tôi dậy để ăn tối. John rất giận. Nó còn rầy tôi nữa”.
“Tại sao vậy?”
“Nó nói tôi uống nhiều thuốc quá”, phu nhân Bristow trả lời, bối rối như một bé gái. “Tôi biết nó chỉ muốn tốt cho tôi, tội nghiệp John, nhưng nó không nhận ra rằng… nó không thể… Đời tôi đã quá nhiều đau đớn. Đêm đó nó ngồi với tôi rất lâu. Chúng tôi nói về Charlie. Nói đến tận sáng sớm. Và trong khi chúng tôi nói chuyện”, bà ta hạ giọng, thì thào, “ngay đêm đó, Lula ngã xuống… từ ban công.
“John phải làm cái việc là báo tin cho tôi biết, ngay sáng hôm sau. Cảnh sát đến trước nhà khi trời vừa sáng. Sau đó John vào phòng ngủ để nói với tôi và…”
Bà ta nghẹn ngào, khẽ lắc đầu chậm chạp, dường như không còn sinh khí.
“Vì vậy mà ung thư tái phát, tôi biết mà. Người ta chỉ chịu được chừng đó đau đớn”.
Giọng bà ta càng lúc càng nhịu. Hắn tự hỏi không biết bà ta uống bao nhiêu Valium rồi. Hai mắt phu nhân Bristow nặng trĩu, khép lại.
“Yvette, tôi dùng nhà vệ sinh của bà được không?” hắn hỏi.
Bà ta cho phép bằng cái gật đầu thiêm thiếp.
Strike đứng dậy, nhanh nhẹn và nhẹ nhàng di chuyển thân hình bệ vệ. Hắn đi thẳng vào tủ quần áo siêu lớn.
Những cánh cửa gỗ gụ trong tủ chạm đến trần nhà. Hắn mở một cánh ra, thấy những giá treo đầy nhóc các loại áo đầm và áo khoác, bên trên có kệ đựng túi xách và mũ. Mùi âm ẩm của giầy cũ và vải vóc khiến hắn cảm giác như đang đứng trong cửa hàng từ thiện bán đồ cũ, mặc dù đám đồ đạc ở đây hẳn cực kỳ đắt đỏ. Hắn khẽ mở hết cánh cửa này đến cánh cửa khác, đến cánh thứ tư, hắn thấy mấy cái túi xách còn mới nguyên, đủ màu sắc, tất cả được nhồi nhét trên kệ.
Hắn lấy xuống chiếc túi màu xanh, mới cứng, sáng bóng. Chiếc túi có logo GS và lớp vải lót bên trong bằng lụa có dây kéo. Hắn cho tay vào bên trong chiếc túi, miết ngón tay khắp các góc rồi khéo léo đặt vào chỗ cũ.
Tiếp đến hắn chọn chiếc túi màu trắng có lớp lót in hoa văn cách điệu kiểu châu Phi. Hắn lại miết ngón tay trong túi. Rồi hắn mở khoá kéo, tháo lớp vải lót.
Y như Ciara đã mô tả, lớp vài lót rời ra thành một chiếc khăn quàng cổ có viền là dây khoá kéo, để lộ phần da nham nhám màu trắng bên trong túi. Vẫn không thấy gì cả, cho tới khi hắn nhìn thật kỹ. Một đường màu xanh nhạt lộ ra dọc theo tấm bìa cứng bọc vải hình chữ nhật ở đáy túi. Hắn nhấc tấm bìa lên. Bên dưới là một tờ giấy màu xanh nhạt đã được gấp lại. Chữ viết trên tờ giấy khá cẩu thả.
Strike nhanh tay nhét lớp vải lót trở lại túi rồi đặt vào chỗ cũ. Hắn rút từ trong túi áo ra một cái bao ni lông, bỏ tờ giấy xanh vẫn chưa kịp đọc vào đó, rồi đóng cánh cửa lại và tiếp tục mở các cánh khác. Đằng sau cánh cửa gần cuối là một cái két sắt có khoá mã số.
Strike lấy ra thêm một bao ni lông nữa, lồng tay vào và bắt đầu bấm mã số. Nhưng trước khi hắn kịp thử thì bên ngoài có tiếng động. Hắn vội vàng nhét bao ni lông vào trong túi áo, đóng cửa tủ không một tiếng động và quay trở lại phòng ngủ. Cô y tá Macmillan đang cúi xuống bên phu nhân Bristow. Khi nghe tiếng bước chân hắn cô ta ngẩng lên nhìn quanh.
“Tôi đi nhầm”, Strike nói. “Tôi cứ tưởng là nhà vệ sinh”.
Rồi hắn đi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại. Trước khi bấm xả bồn cầu và vặn vòi nước để cô y tá có thể nghe được, hắn đọc bản di chúc cuối cùng của Lula Landry, viết tháu trên tờ giấy lấy từ thư phòng của phu nhân Bristow. Người làm chứng là Rochelle Onifade.
Khi hắn trở ra, Yvette Bristow vẫn nằm đó, mắt nhắm nghiền.
“Bà ấy thiếp đi rồi”, cô y tá dịu dàng nói. “Bà ấy dạo này hay ngủ như vậy lắm”.
“Vâng”, Strike nói, hai tai nóng bừng. “Khi phu nhân tỉnh dậy, phiền cô nhắn lại là tôi xin phép ra về. Tôi phải đi đây”.
Hai người cùng đi ra, dọc theo hành lang ấm cúng.
“Phu nhân Bristow trông rất yếu”, Strike bình luận.
“Ồ vâng, đúng vậy”, cô y tá đáp lời. “Bà ấy có thể đi bất cứ lúc nào. Bà ấy yếu lắm rồi”.
“Tôi nghĩ hình như tôi để quên…” Strike băng quơ nói rồi rẽ trái vào căn phòng khách sơn vàng lúc hắn mới đến. Hắn cúi người trên chiếc sofa, che tầm nhìn của cô y tá và cẩn thận đặt ống nghe điện thoại ngay ngắn trở lại lên giá đỡ.
“À đây rồi”, hắn nói, giả vờ nắm lấy một vật rất nhỏ trong bàn tay rồi bỏ vào túi. “Cảm ơn cô đã mời cà phê”.
Tay cầm nắm cửa, hắn quay lại hỏi cô y tá.
“Phu nhân vẫn lạm dụng Valium như xưa, nhỉ?”
Không hề nghi ngờ gì cả, cô y tá mỉm cười độ lượng.
“Vâng, thì vậy, nhưng bây giờ cũng không thể hại gì nữa. Mà nói thật”, cô ta tiếp, “phải tay tôi, tôi mắng cho mấy tay bác sĩ đó một trận. Bà ấy có tới ba bác sĩ chuyên kê đơn cho bà mua Valium từ bao năm nay, nhìn trên nhãn dán hộp thì biết”.
“Thật chẳng ra gì”, Strike nói. “Một lần nữa cảm ơn cô. Tạm biệt”.
Hắn gần như chạy xuống cầu thang, điện thoại đã cầm sẵn trong tay. Hắn phấn chấn đến nỗi không nhìn lối đi, hụt chân trên cầu thang. Chiếc chân giả bị lệch về một bên, hắn rống lên đau đớn. Đầu gối trật ra khiến hắn ngã rầm xuống sáu bậc thang, nằm nguyên một đống. Khớp gối và mỏm chân cụt của hắn đau đớn kinh hoàng như lúc vừa mới bị cưa, lớp da non còn đang kéo lại.
“Mẹ kiếp! Đau quá!”
“Anh không sao chứ?”, cô y tá Macmillan gọi hắn từ trên lan can, từ dưới nhìn lên gương mặt của cô ta lộn ngược trông rất buồn cười.
“Tôi ổn… Không sao cả!” hắn hét ngược trở lại. “Trượt chân thôi! Đừng lo! Chó chết, khốn nạn, mẹ kiếp”, hắn rên rỉ, thở hồng hộc rồi vịn tay vào trụ cầu thang gần nhất để đứng dậy, rón rén không dám đứng thẳng trên chiếc chân giả đã bị lệch.
Hắn đi cà nhắc xuống phần cầu thang còn lại, cố dựa vào lan can; vừa đi vừa nhảy lò cò qua sảnh đón khách rồi bám vào cánh cửa dày để lết xuống bậc tam cấp trước toà nhà.
Đám trẻ con học thể dục đang chuẩn bị về lại trường để kịp bữa trưa, đi thành hàng rồng rắn xanh xanh ở phía xa. Strike đứng dựa lưng vào bức tường gạch ấm áp, vừa chửi thề liên tục, vừa tự hỏi rằng không biết chân cẳng mình đã hư hại đến đâu. Hắn thấy đau đớn kinh khủng, cảm giác như lớp da mỏm chân đang sưng tấy bị rách ra, rát buốt trong lớp lót bảo vệ. Viễn cảnh đi bộ về trạm tàu điện ngầm trở nên vô cùng thê thảm.
Hắn ngồi ở bậc tam cấp và gọi taxi. Trong khi chờ xe đến hắn gọi cho Robin, rồi Wardle, rồi văn phòng công ty luật Landry, May, Patterson.
Chiếc xe taxi đen đỗ xịch ở góc đường. Lần đầu tiên hắn nhận ra xe taxi ở London trông giống hết như những cỗ xe tang nhỏ. Hắn gượng đứng dậy, lê lết xuống vỉa hè, mỏm chân đau buốt.
Phần Năm
Felix qui potuit rerum cognoscere causas
Người đời ai dễ gặp may
Ngọn ngành nguyên cớ tỏ hay tận tường.
- Virgil, Georgics, Quyển 2
1
“Tôi cứ nghĩ”, Eric Wardle chậm rãi nói, nhìn xuống tờ di chúc đựng trong bao ni lông, “hẳn anh muốn đưa cái này cho thân chủ xem trước”.
“Thì vậy, nhưng ổng đang ở Rye”, Strike nói, “mà vụ này thì rất khẩn. Tôi đã nói rồi, tôi đang cố ngăn ngừa hai vụ án mạng nữa. Hiện giờ chúng ta đang đối mặt với một kẻ điên loạn, Wardle à”.
Mồ hôi hắn rịn ra vì đau đớn. Hắn ngồi bên cạnh cửa sổ nắng rọi của quán Feathers vừa khẩn thiết kêu gọi tay cảnh sát vào cuộc vừa lo lắng không biết đầu gối có bị trật khớp không và khúc xương chày ngắn ngủn còn lại liệu có bị nứt thêm không sau cú ngã cầu thang vừa rồi. Lúc còn ở trong xe hắn không muốn giở chân ra xem. Chiếc taxi chở hắn đến vẫn còn đang đứng đợi ngay bên mép đường. Đồng hồ tính tiền đang dần dần ngấu nghiến khoản ứng trước mà Bristow đã trả. Có thể hắn sẽ không được nhận thêm khoản nào nữa vì lệnh bắt hung thủ có thể được phát ra ngay hôm nay, nếu Wardle chịu đứng dậy ra tay.
“Đồng ý là cái này có thể cho thấy động cơ…”
“Có thể?” Strike lặp lại. “Có thể?” Mười triệu bảng mà chỉ có thể là động cơ hả? Nói nghe hay quá…”
“…nhưng tôi cần có chứng cứ rõ ràng tại toà, mà anh lại không mang tới”.
“Tôi vừa nói chứng cứ ở đâu rồi đó! Từ đầu đến giờ tôi đã sai chưa? Tôi đã nói là có tờ di chúc, rồi đây”, Strike giật mép cái túi nhựa, “Cái quỷ gì đây? Anh còn chờ gì nữa mà còn chưa xin lệnh soát?”
Wardle đưa tay lên vuốt ve gương mặt điển trai, như thể đang bị sâu răng, rồi cau mày nhìn tờ di chúc.
“Trời đất”, Strike nói, “bao nhiêu lần nữa đây? Tansy Bestigui lúc đó ở ngoài ban công, bà ta nghe tiếng Landry nói “Đã xong hết rồi…”
“Anh liều quá đó bồ tèo”, Wardle nói. “Luật sư bên bị sẽ chụp ngay vụ anh dám nói dối với nghi can. Một khi Bestigui biết anh bịa vụ tấm ảnh, lão ta sẽ phủ nhận tất cả”.
“Cứ để lão phủ nhận. Tansy sẽ nói thật. Bà ta muốn nói lắm rồi. Nhưng nếu anh gan sứa tới mức không chịu làm gì cả, Wardle à”, Strike nói, mồ hôi lạnh chảy dọc sống lưng còn khúc chân phải thì đau như thiêu như đốt, “và nếu thêm một người thân nữa của Landry bị giết chết, tôi sẽ đi thẳng tới chỗ bọn báo chí to mồm đó. Tôi sẽ nói rằng tôi đã cung cấp cho anh đủ mọi thông tin anh tìm được, rằng anh đã có mọi cơ hội để bắt tên giết người mà vẫn không chịu bắt. Lúc đó tôi sẽ bán độc quyền câu chuyện cho chúng, rồi bù vào tiền công điều tra, anh cứ nhắn lại với Carver như vậy.
“Đây”, hắn nói, đẩy một mẩu giấy vừa xé về phía Wardle, trên mẩu giấy có vài mật mã sáu số hắn vừa ghi ra. “Cứ thử mấy số này trước. Giờ thì lo đi xin lệnh soát nhà đi”.
Hắn đẩy tờ di chúc về phía Wardle, trượt xuống khỏi chiếc ghế cao. Mấy phút đi bộ từ quán rượu ra taxi dài dằng dặc. Hắn cứ tì người lên chân phải là vết thương nhức buốt.
~*~
Từ một giờ chiếu, cứ mười phút Robin lại gọi cho Strike, nhưng hắn vẫn không bốc máy. Cô gọi lại lần nữa khi hắn đang chật vật leo lên cầu thang, bám tay vào tay vịn, nặng nhọc nhấc người lên. Cô nghe tiếng chuông điện thoại vọng lên từ cầu thang, bỏ máy xuống và chạy ngay ra.
“Anh đây rồi! Tôi gọi cho anh mãi, có nhiều… Có chuyện gì vậy, anh không sao chứ?”
“Tôi ổn mà,” hắn nói dối.
“Không, anh đang… Chuyện gì vậy?”
Cô chạy xuống cầu thang đỡ hắn. Mặt hắn trắng bệch, mồ hôi rịn ra, Robin thấy như hắn sắp nôn.
“Anh uống nữa hả?”
“Không, uống iếc gì!” Hắn gắt. “Tôi vừa… xin lỗi cô, Robin. Tôi hơi đau. Cần phải ngồi xuống một lát”.
“Mà có chuyện gì? Để tôi…”
“Không sao. Không sao cả. Tôi tự đi được”.
Hắn chậm rãi nhấc người lên bậc thang rồi lê lết về phía chiếc ghế sofa cũ. Khi hắn ngồi phịch xuống, Robin nghe tiếng khung ghế kêu cái rắc. Cô nhủ thầm, Phải mua một cái mới, ngay sau đó lại nghĩ tiếp Nhưng mình sắp đi khỏi đây rồi.
“Có chuyện gì vậy?” cô hỏi.
“Tôi bị ngã cầu thang,” Strike đáp, thở hổn hển một lúc, vẫn còn chưa cởi áo khoác. “Như thằng đần.”
“Cầu thang nào? Có chuyện gì vậy?”
Mặc dù đang rất đau, nhìn vẻ mặt Robin nửa sợ hãi, nửa hồi hộp, hắn không nhịn được cười.
“Tôi không đánh đấm gì cả, Robin à. Tôi chỉ bị trượt chân ngã thôi”.
“Ồ, hiểu rồi. Anh trông hơi… hơi tái. Anh nghĩ có gì nghiêm trọng không? Để tôi gọi taxi… có khi anh phải đi bác sĩ?”
“Không cần đâu. Còn thuốc giảm đau hôm trước không?”
Cô mang ra cho hắn nước lọc và paracetamol. Strike uống thuốc, rồi duỗi chân ra, nhăn mặt. hắn hỏi Robin:
“Sáng giờ có chuyện gì không? Graham Hardacre có gởi tấm ảnh nào không?”
“Có”, Robin trả lời, vội chạy về phía màn hình máy tính. “Đây này”.
Cô kéo chuột ra, nhấp một cái. Bức ảnh Trung uý Jonah Agyeman phóng lớn trên màn hình.
Cả hai im lặng ngắm gương mặt của người thanh niên đẹp trai không thể chối cãi, mặc dù được di truyền hai cái tai to quá khổ từ người cha. Quân phục màu đỏ, đen và ánh vàng rất hợp với anh ta. Nụ cười hơi lệch một bên, xương gò má cao, cằm bạnh và nước da đen hơi ánh đỏ au như màu trà mới pha. Cũng như Lula, anh ta có một vẻ quyến rũ tự nhiên, một điều gì đó không gọi thành tên, nhưng khiến người ta không thể rời mắt.
“Anh ta giống Lula thật,” Robin thì thầm.
“Ừ, giống thật. Còn gì nữa không?”
Robin tập trung trở lại.
“Trời đất, còn nữa… John Bristow gọi cách đây nửa tiếng, nói là không cách gì liên lạc được với anh, còn Tony Landry gọi tổng cộng ba lần.”
“Tôi cũng đoán vậy. Ông ta nói gì?”
“Ổng rất là… lần thứ nhất ổng đòi nói chuyện với anh, rồi khi tôi nói là anh không có ở đây thì dập máy ngay, tôi còn không kịp đưa số di động. Lần thứ hai thì nói là anh phải gọi ngay cho ổng, nhưng dập máy trước khi tôi kịp nói anh vẫn chưa về. Nhưng lần thứ ba thì… ổng rất giận dữ. Chửi bới om sòm.”
“Ở đó mà chửi với bới,” Strike nói, nhăn nhó.
“Thực ra thì ổng không có chửi bới gì tôi, toàn là chửi anh thôi.”
“Ổng nói gì?”
“Tôi cũng chẳng hiểu ổng nói gì, ổng gọi John Bristow là ‘cái thằng đần’ rồi tự nhiên oang oang gì đó về chuyện Alison bỏ việc, hình như nghĩ là có anh nhúng vô, vì sau đó ổng dọa sẽ kiện anh tội phỉ báng, rồi lại tiếp tục chửi bới loạn cả lên.”
“Alison bỏ việc?”
“Đúng vậy.”
“Ổng có nói Alison đi đâu… mà không, đương nhiên là ổng không biết, làm sao mà biết được?” Dường như Strike đang tự nói với mình, thay vì đáp lời Robin.
Hắn nhìn xuống cổ tay. Chiếc đồng hồ rẻ tiền hình như đã va vào một chỗ nào đó khi hắn ngã cầu thang, kim dừng lại ở một giờ kém mười lăm.
“Mấy giờ rồi?”
“Năm giờ kém mười.”
“Trễ vậy sao?”
“Ừ. Anh cần gì nữa không? Tôi có thể ở lại thêm một lúc nữa.”
“Không, tôi muốn cô đi về.”
Giọng hắn nghe kỳ khôi đến nỗi thay vì đi lấy áo khoác và túi xách, Robin vẫn đứng lì tại chỗ.
“Anh nghĩ sẽ có chuyện gì hả?”
Strike vẫn loay hoay với chỗ gắn chân giả, ngay dưới đầu gối.
“Không có gì cả. Gần đây cô làm quá giờ nhiều rồi. Hẳn Matthew sẽ rất vui nếu hôm nay cô về sớm.”
Hắn không thể chỉnh lại chân giả mà không kéo ống quần lên.
“Thôi mà Robin, đi về đi,” hắn nói, ngước nhìn cô thư ký.
Robin chần chừ một lúc nữa rồi đi lấy áo khoác và túi xách.
“Cảm ơn cô,” hắn nói. “Hẹn mai gặp lại.”
Robin đã đi khỏi. Strike đợi nghe tiếng giày Robin gõ lên cầu thang sắt rồi mới kéo ống quần lên, nhưng hắn chẳng nghe gì cả. Cửa kính mở ra, Robin quay trở lại.
“Anh đang chờ một người nào đó,” Robin lên tiếng, nắm chặt mép cửa. “Phải vậy không?”
“Cũng có thể,” Strike trả lời, “nhưng không có gì đâu.”
Nhìn vẻ căng thẳng lo lắng trên gương mặt cô thư ký, hắn cố mỉm cười.
“Đừng lo gì cho tôi cả.” Sắc mặt Robin vẫn chưa giãn ra. Hắn nói tiếp. “Hồi còn tại ngũ tôi có chơi đấm bốc đó, cô biết không.”
Robin thoáng cười.
“Đúng rồi, anh có kể chuyện đó.”
“Thật sao?”
“Kể đi kể lại nữa là khác. Đêm đó… anh nhớ mà.”
“À, ra vậy. Nhưng mà tôi có chơi đấm bốc thật.”
“Thực ra anh chờ ai vậy?”
“Matthew sẽ không cảm ơn tôi đâu nếu tôi nói cho cô biết. Về nhà đi Robin. Tạm biệt cô, mai gặp lại nhé.”
Lần này, mặc dù vẫn còn miễn cưỡng, Robin ra về thật. Hắn đợi nghe tiếng cánh cửa mở ra phố Denmark đóng sầm lại rồi mới kéo ống quần lên, tháo chân giả ra và kiểm tra phần đầu gối bị sưng phồng, rồi cả mỏm chân cụt trầy trụa tấy đỏ. Không biết cái chân bị hành tội tới cỡ nào, nhưng tối nay hắn không còn thời gian để đi bác sĩ.
Hắn hơi tiếc. Giá mà lúc nãy hắn nghĩ ra chuyện nhờ Robin đi mua ít thức ăn trước khi cô về. Strike chật vật nhảy lò cò, bám vào bàn, nóc kệ đựng hồ sơ rồi tay vịn ghế sofa. Loay hoay một lúc hắn cũng pha được trà. Hắn ngồi xuống ghế của Robin, ăn hết nửa gói bánh qui và ngắm gương mặt của Jonah Agyeman. Mấy viên paracetamol dường như vẫn chưa ngấm gì cả.
Sau khi ăn sạch sẽ gói bánh, Strike mở điện thoại ra kiểm tra. Có rất nhiều cuộc gọi nhỡ từ Robin và hai cuộc từ John Bristow.
Trong số ba người mà Strike dự đoán sẽ mò tới văn phòng tối nay, hắn muốn Bristow là người đầu tiên xuất hiện. Nếu cảnh sát muốn bằng chứng rõ ràng thì một mình thân chủ của hắn cũng có thể cung cấp được (mặc dù có lẽ ông ta vẫn chưa nhận ra điều đó). Nếu Tony Landry hoặc Alison Creswell xuất hiện. Mình sẽ phải… Strike thoáng phì cười một mình, vì hắn vừa nghĩ trong đầu câu “vững chân mà tùy cơ ứng biến”. Chân với chả cẳng!
Nhưng đã sáu giờ, rồi sáu giờ rưỡi. Vẫn không có ai bấm chuông. Strike xoa kem vào mỏm chân cụt, rồi nghiến răng gắn chân giả vào, vẫn vô cùng nhức nhối. Hắn lê lết vào văn phòng bên trong, miệng rên hừ hừ vì đau, ngồi phịch xuống ghế. Strike bỏ cuộc, không chờ đợi gì nữa. Hắn tháo chân giả ra, úp mặt xuống bàn, không thiết làm gì hơn là chợp mắt một lúc.
2
Có tiếng bước chân trên cầu thang. Strike ngồi bật dậy, không biết vừa ngủ năm phút hay năm mươi phút. Rồi có tiếng đập rầm rầm vào cửa kính.
“Vào đi, cửa mở!” hắn ngồi tại chỗ hét lên, tranh thủ cúi xem ống quần đã thả xuống chưa. Chiếc chân giả vẫn chưa được gắn lại.
Strike thấy nhẹ cả người khi John Bristow bước vào, mắt liên tục hấp háy đằng sau cặp kính dày, trông rất kích động.
“Chào anh. Anh ngồi xuống đi.”
Nhưng Bristow bước về phía hắn, mặt đỏ rần rần, giận dữ hệt như lúc hắn từ chối không nhận điều tra vụ án. Thay vì ngồi xuống, ông ta đứng đó, với tay chụp lấy lưng ghế.
“Tôi đã nói với anh rồi,” ông ta nói, mặt thoắt đỏ thoắt tái, chỉ ngón tay xương xẩu vào mặt hắn. “Tôi đã nói rõ ràng là tôi không muốn anh gặp mẹ tôi mà không có mặt tôi.”
“Tôi biết là anh đã nói vậy nhưng…”
“Mẹ tôi giờ bấn loạn không thể tưởng. Tôi không biết anh đã nói gì với mẹ tôi, nhưng cả buổi chiều hôm nay tôi cứ phải nghe mẹ tôi khóc lóc rền rĩ trên điện thoại!”
“Tôi rất tiếc; vậy mà tôi thấy phu nhân không phiền gì khi tôi…”
“Mẹ tôi yếu lắm rồi!” Bristow hét lên, hàm răng thỏ lấp ló. “Ai cho anh đi đi gặp mẹ tôi mà không có tôi? Ai cho anh làm chuyện đó?”
“John à, như tôi đã nói hôm đám tang Rochelle, tôi nghĩ chúng ta đang phải đối mặt với một tên giết người hàng loạt,” Strike đáp. “Tình hình vô cùng nguy hiểm, tôi muốn chuyện này phải chấm dứt.”
“Anh muốn nó chấm dứt à? Thế anh nghĩ tôi muốn gì?” Bristow la hét, giọng ông ta khàn khàn, the thé. “Anh có biết là anh vừa làm gì không? Mẹ tôi thì bấn loạn, còn bạn gái tôi thì biến mất, Tony đang đổ hết cho anh đó! Anh đã làm gì với Alison? Cô ấy ở đâu rồi?”
“Tôi không biết. Anh thử gọi điện cho cổ chưa?”
“Alison không bốc máy. Chuyện quái gì thế này? Ngày hôm nay tôi chạy đến bở cả hơi tai mà công cốc cả, rồi tôi về lại văn phòng…”
“Chạy bở hơi tai mà công cốc?” Strike lặp lại, kín đáo nhấc đầu gối, đặt ngay lên chân giả.
Bristow ngồi vào ghế đối diện, thở hồng hộc, nheo mắt nhìn Strike đang ngồi trong ánh nắng chiều gay gắt rọi qua cửa sổ sau lưng tay thám tử.
“Có ai đó” ông ta giận dữ nói, “gọi cho thư ký của tôi ngay sáng nay, giả vờ là một khách hàng rất quan trọng của công ty ở Rye, đòi họp khẩn cấp. Tôi cất công đi đến đó, chỉ để nghe người ta nói rằng ông ấy đang ở nước ngoài, mà cũng chẳng có ai ở đó gọi tôi cả. Anh làm ơn,” ông ta nói thêm, đưa tay che mắt, “kéo cái rèm cửa xuống? Chói quá tôi chẳng thấy gì cả.”
Strike giật sợi dây, tấm rèm lạt xạt rơi xuống. Căn phòng mát hẳn, mờ tối, chỉ còn mấy vạt nắng qua khe rèm.
“Nghe lạ thật,” Strike nói. “Cứ như thể có người muốn dụ anh đi khỏi thành phố vậy.”
Bristow không đáp lại. Ông ta nhìn hắn chằm chằm, thở phập phồng.
“Đủ rồi,” Bristow đột ngột lên tiếng. “Tôi muốn chấm dứt cuộc điều tra ở đây. Anh cứ giữ hết phần tôi đã trả. Tôi phải lo cho mẹ tôi trước.”
Strike rút điện thoại ra khỏi túi quần, bấm vài nút rồi đặt lên đùi.
“Anh không muốn biết hôm nay tôi tìm thấy gì trong tủ quần áo của mẹ anh hả?”
“Anh tìm… anh dám lục lọi tủ của mẹ tôi?”
“Đúng vậy. Tôi muốn xem mấy cái túi xách tay được gởi cho Lula, ngay hôm cô ấy chết.”
Bristow bắt đầu lắp bắp:
“Anh… anh…”
“Mấy cái túi đó có lớp vải lót ở trong, có thể tháo rời được. Kỳ khôi thật, đúng không? Trong cái túi màu trắng, ngay dưới lớp vải lót là một tờ di chúc viết tay của Lula, viết trên giấy màu xanh lấy từ thư phòng nhà mẹ anh. Rochelle Onifade ký tên làm chứng. Tôi đã nộp cho cảnh sát rồi.”
Bristow há hốc miệng. Trong vòng vài giây dường như ông ta cứng họng, không nói được. Cuối cùng, ông ta thì thào:
“Nhưng… di chúc viết gì vậy?”
“Rằng cô ấy để lại mọi thứ, tất cả tài sản, cho anh trai, Trung úy Jonah Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia.”
“Jonah… ai kia?”
“Anh ra xem máy tính ở bên ngoài. Có hình trên đó.”
Bristow đứng dậy, đi như mộng du ra phòng ngoài. Strike thấy màn hình máy tính sáng lên khi Bristow kéo chuột. Gương mặt điển trai của Agyeman hiện lên, nhếch mép cười trong bộ quân phục tinh tươm.
“Ôi trời đất ơi,” Bristow thốt lên.
Ông ta quay lại chỗ Strike, ngồi xuống ghế, miệng vẫn còn há hốc.
“Tôi… tôi không thể tin nổi.”
“Đó cũng chính là người bị camera an ninh quay lại,” Strike nói, “khi đang bỏ chạy từ hiện trường trong đêm Lula chết. Khi đó anh ta đang nghỉ phép. Anh ta ở cùng bà mẹ góa bụa dưới Clerkenwell. Vì vậy mà hai mươi phút sau anh ta phải ba chân bốn cẳng chạy về phía phố Theobalds để về nhà.”
Bristow há hốc, nấc một tiếng.
“Vậy mà họ nói là tôi bị hoang tưởng,” ông ta gần như hét lên. “Nhưng tôi chẳng hề hoang tưởng chút nào!”
“Không, anh không hề hoang tưởng,” Strike nói. “Không hoang tưởng. Mà là điên loạn vô đối.”
m thanh của London vọng vào qua khung cửa sổ phủ rèm. Thành phố dường không lúc nào ngơi nghỉ, luôn có những tiếng ầm ầm, la lối, cả tiếng máy lẫn tiếng người. Trong phòng lúc này không có tiếng động nào trừ hơi thở gấp gáp của Bristow.
“Xin lỗi?” ông ta lên tiếng, lịch sự đến lố bịch. “Anh vừa nói gì đó?”
Strike mỉm cười.
“Tôi nói là anh điên loạn vô đối. Anh giết em gái mà không hề bị phát hiện, rồi lại đi nhờ tôi điều tra cái chết của cô ấy.”
“Anh đừng… đừng có đùa chuyện này.”
“Tôi nói rất nghiêm túc. Ngay từ ban đầu tôi đã thấy anh chính là người hưởng lợi nhiều nhất từ cái chết của Lula. Mười triệu bảng, sau khi mẹ anh cũng lên đường. Không hề nhỏ, đúng không? Nhất là khi anh chẳng có gì hơn là tiền lương hiện tại, mặc dù anh cứ ra rả về mớ thừa kế của ông già. Cổ phiếu của Albris dạo này rẻ hơn vé số, phải vậy không?”
Bristow tiếp tục há hốc thêm mấy giây nữa, rồi ngồi thẳng dậy, liếc về chiếc giường xếp trong góc phòng.
“Một người nghèo mạt rệp, phải ăn nhờ ở đậu ở ngay chỗ làm mà dám nói vậy, tôi thấy thật nực cười.” Giọng của Bristow bình thản, nhạo báng nhưng hơi thở lại gấp gáp lạ thường.
“Tôi biết anh có nhiều tiền hơn tôi,” Strike đáp. “Nhưng, như anh đã nhận xét hoàn toàn đúng, thực ra ai mà chẳng có nhiều tiền hơn tôi. Thế mà, tôi có thể tự nói rằng tôi chưa bao giờ thụt két thân chủ nào cả. Anh chôm của Conway Oates được bao nhiêu thì Tony mới phát hiện ra?”
“Ồ, bây giờ tôi còn thêm tội tham ô nữa à?” Bristow đáp trả, bật ra một tiếng cười giả tạo.
“Đúng thế,” Strike nói. “Nhưng chuyện đó chẳng liên quan gì tới tôi. Tôi không quan tâm chuyện anh giết Lula vì anh muốn có tiền bù vào chỗ đã ăn cắp của Conway Oates, hay vì anh muốn có mấy triệu bảng của cô ấy, hay vì anh căm ghét Lula. Nhưng chắc bồi thẩm đoàn sẽ muốn biết. Mấy người đó lúc nào cũng quan tâm tới động cơ phạm tôi.”
Hai đầu gối Bristow lại giật lia lịa.
“Anh mất trí rồi,” ông ta nói, cố cười thành tiếng. “Anh tìm ra được một tờ di chúc, theo đó Lula không để lại gì cho tôi, mà cho cái người kia.” Ông ta chỉ tay về phía phòng ngoài, nơi có hình ở Jonah. “Anh vừa nói đó là người đi về phía căn hộ của Lula đúng cái đêm con bé ngã khỏi ban công, rồi mười phút sau bỏ chạy, hình ảnh bị ghi lại hết trên đoặn băng. Vậy mà anh dám buộc tội tôi. Thật lố bịch.”
“John, ngay từ trước khi tìm đến thuê tôi điều tra, anh đã biết người trong đoạn băng là Jonah. Rochelle đã nói với anh. Cô ta có mặt ở Vashti lúc Lula gọi cho Jonah, hẹn gặp ngay đêm đó. Rồi sau đó chính cô ta làm chứng tờ di chúc. Rochelle đã tìm gặp anh, kể lại mọi thứ để tống tiền. Cô ta muốn có tiền để mua nhà và mấy thứ quần áo đắt đỏ. Đổi lại cô ta sẽ ngậm miệng về chuyện thực ra anh không phải là người thừa kế của Lula.
“Rochelle không hề biết anh giết Lula. Cô ta tưởng chính Jonah đẩy Lula qua cửa sổ. Cô ta rất hận vì phải làm chứng một tờ di chúc không hề có phần mình, rồi sau đó bị Lula bỏ rơi ngay trong cửa hàng. Vậy nên miễn có tiền thì cô ta cũng chẳng thèm quan tâm chuyện thủ phạm vẫn còn nhơn nhơn đâu đó.
“Toàn là bịa đặt. Anh điên rồi.”
“Anh đã tìm mọi cách gây khó để tôi không tìm ra Rochelle,” Strike tiếp tục nói, như thể không nghe thấy Bristow vừa nói gì. “Anh giả vờ là không biết tên cô ta, không biết cô ta sống ở đâu. Anh làm ra vẻ hoài nghi khi tôi nói rằng Rochelle có thể giúp được quá trình điều tra. Chưa hết, anh còn xóa sạch hình trên máy tính của Lula, để tôi không biết Rochelle trông như thế nào. Đành rằng, Rochelle có thể chỉ ngay đến người mà anh muốn gán tội, nhưng mặt khác, cô ta cũng biết có một tờ di chúc không hề có tên anh. Mục tiêu hàng đầu của anh là giữ im lặng về tờ di chúc đó, cho đến khi anh tìm ra và thủ tiêu nó hoàn toàn. Thật là trớ trêu, vì trong suốt thời gian đó, tờ di chúc vẫn nằm trong tủ áo ở nhà mẹ anh.
“Nhưng ngay cả khi anh đốt tờ di chúc thì sao? Anh vẫn không biết liệu Jonah có hay chính anh ta mới là người thừa kế của Lula. Rồi có thêm một nhân chứng từng thấy tờ di chúc mà anh vẫn chưa biết: Bryony Radford, chuyên viên trang điểm của Lula.”
Bristow liếm môi. Strike thấy tay luật sư bắt đầu sợ hãi.
“Bryony không muốn thừa nhận chuyện cô ta lục lọi đồ đạc của Lula. Nhưng cô ta đã nhìn thấy tờ di chúc ở nhà Lula, trước khi Lula kịp giấu đi. Phải tội Bryony bị chứng loạn chữ, nên đọc “Jonah” thành “John”. Cô ta khớp ngay chuyện đó với chuyện Ciara nói Lula sẽ để lại hết cho anh trai, rồi tự thấy khỏi cần khai đã đọc trộm được gì vì đằng nào anh cũng được thừa kế. Anh đúng là được quỷ thần phù hộ, John à.
“Nhưng tôi vẫn hiểu được, với một người bệnh hoạn như anh, giải pháp tốt nhất vẫn là gán tội cho Jonah. Nếu anh ấy bị án chung thân thì chuyện di chúc có xuất hiện hay không cũng không thành vấn đề, lúc đó thì nếu Jonah hay bất kỳ ai khác biết đến tờ di chúc cũng không thay đổi được gì. Đằng nào tiền cũng nằm trong túi anh rồi.”
“Thật nực cười,” Bristow nói, hổn hển. “Anh nên từ bỏ nghề thám tử, chuyển qua viết tiểu thuyết đi Strike. Anh chẳng có lấy một chút bằng chứng nào cả…”
“Tôi có đấy.” Strike ngắt lời ông ta. Bristow im lặng ngay lập tức, gương mặt xanh xao của ông ta hiện ra trong bóng tối. “Đoạn băng hình.”
“Đoạn băng
Tác giả :
Robert Galbraith