Cô Phương Bất Tự Thưởng
Quyển 2 - Chương 61
Trong ánh bình minh chiếu rọi, Phi Chiếu Hành dẫn theo đội quân khải hoàn trên con đường rộng lớn. Xa xa, cổng thành của thành đô Quy Lạc đã hiện ra trước mắt.
Tàn quân thảm bại của Quy Lạc đã bị tiêu diệt gọn ghẽ. Phi Chiếu Hành mang theo hai cái hộp, một đựng thủ cấp của Nhạc Địch và một của Nhạc Chấn.
Đôi phu tử này từng là chủ nhân của Phi Chiếu Hành. Hắn từng đi theo họ, sống chết vì họ, đổ máu và mồ hôi vì họ, để cuối cùng nhận lấy kết cục “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn”.
Không cam lòng! Thật sự không cam lòng!
Nỗi lòng đó khiến Phi Chiếu Hành không hề do dự mà lựa chọn phản bội. Chính sự phản bội ấy đã làm nên thành công ngày hôm nay.
Ù… Ù…
Tiếng tù và trầm thấp mà ngân nga chào đón họ trở về.
Cổng thành đã mở. Phi Chiếu Hành cưỡi trên lưng ngựa cao lớn nhất, đi giữa tiếng tù và vang vọng, mang theo niềm vui khoan khoái tiến về nơi đã từng là thành đô Quy Lạc.
Giờ Quy Lạc không còn nữa, Hà Túc đã chết, vương tộc Quy Lạc đã bị diệt vong.
Dân chúng quỳ hai bên đường nghênh đón, rõ ràng những con dân mất nước này đã bị binh sĩ đuổi ra khỏi nhà, khiếp sợ quỳ mọp ở đây, hàng vạn ánh mắt kinh ngạc, khiếp sợ hoặc bi phẫn đan xen, tập trung về phía Phi Chiếu Hành.
Những ánh mắt chẳng mấy thiện cảm đó không hề làm giảm bớt niềm vui và sự đắc ý của Phi Chiếu Hành.
Hắn không cần để ý đến dân chúng thấp kém đang quỳ mọp dưới kia. Họ chưa từng biết đến bạc nhược và bất tài của Hà Túc. Họ không biết rằng, bậc vương giả phải quyết đoán, độc ác và vô tình.
Ai có thể so được với Hà Hiệp? Một tiểu Kính An vương hùng tâm tráng chí, dũng mãnh thiện chiến, kiếm pháp cũng như ánh mắt vô cùng lạnh lẽo.
Ngoài cuộc tỉnh táo, trong cuộc u mê.
Phi Chiếu Hành còn hiểu rõ hơn Hà Hiệp, rằng Diệu Thiên công chúa là một cửa ải của Hà Hiệp.
Khi Diệu Thiên công chúa trút hơi thở cuối cùng ở vương cung Vân Thường, khắp thiên hạ đã không còn điều gì có thể trói buộc, ngăn cản Hà Hiệp.
Vân Thường quốc tang lại khiến Phi Chiếu Hành cảm thấy lòng hăng hái. Đời người là một canh bạc, muốn thắng vẻ vang phải có nhãn quan. Phi Chiếu Hành từng theo lầm Nhạc Chấn, nhưng lần này cũng coi như đã đặt đúng cửa.
Đi theo Hà Hiệp, hắn có cơ hội ngàn năm khó kiếm.
Qua cổng thành, càng tiến vào trong, đường xá càng vắng vẻ. Thỉnh thoảng, Phi Chiếu Hành chỉ thấy những ánh đao lạnh lẽo của binh sĩ Vân Thường, và cả những khuôn mặt bất an của muôn dân.
Trên đường lớn, một thị vệ tâm phúc của Hà Hiệp xuất hiện, ngăn bước Phi Chiếu Hành ý chí đang hăng hái thẳng tiến đến vương cung: “Tiểu Kính An vương không ở trong vương cung, mời Phi tướng quân qua vương phủ Kính An”.
Phi Chiếu Hành gật đầu, thúc ngựa quay đi. Vương phủ Kính An vốn là nhà của Hà Hiệp, Hà Hiệp ở đó hoàn toàn thấu tình đạt lý.
Phi Chiếu Hành xuống ngựa trước cổng vương phủ Kính An. Đập vào mắt hắn là một phủ đệ giờ chỉ còn là phế tích. Sững sờ một lúc, hắn mới theo thị vệ, bước qua bục cổng cao.
Rêu xanh phủ kín vương phủ, cỏ mọc đầy sân.
Phía bên kia, trụ đá cháy nham nhở, Hà Hiệp một mình một bóng đứng giữa hoang vu.
Bóng dáng đó đã có được cả một dải núi sông rộng lớn, từ nay ngàn thu muôn thuở, hậu thế sẽ truyền tụng cái tên của người này.
Phi Chiếu Hành không dám sơ ý, bước đến gần đó, đứng lại, rồi mới cung kính nói: “Bẩm tiểu Kính An vương, mạt tướng đã đem theo thủ cấp của Nhạc Địch và Nhạc Chấn về đây”.
Hà Hiệp sớm đã biết Phi Chiếu Hành đến, bèn quay lại, cười nói: “Vất vả rồi, ngươi làm rất tốt. Ta đã chuẩn bị sẵn phần thưởng cho ngươi. Đến đây, đọc đi”.
Một thị vệ bước đến, giở cuộn gấm trong tay, lần lượt đọc hết, quả nhiên đồ ban thưởng không ít. Phi Chiếu Hành trước đây theo Nhạc Chấn, cũng thường xuyên ra vào vương cung Quy Lạc, nghe thấy trong danh sách ban thưởng của Hà Hiệp có vài món được Quy Lạc vương coi như báu vật vô giá.
Hà Hiệp ngồi xuống, vẻ lãnh đạm, hình như đang cười, nhưng ánh mắt chẳng hề tươi tỉnh, khiến người ngoài nhìn mà không hiểu.
Phi Chiếu Hành đợi thị vệ đọc xong, hành lễ tạ ơn: “Nhờ phúc của tiểu Kính An vương, mạt tướng mới được đánh một trận vẻ vang như vậy, mạt tướng sao dám nhận nhiều tặng phẩm thế này”. Nói xong hắn lại thận trọng hỏi, “Thủ cấp của Nhạc Địch và Nhạc Chấn, tiểu Kính An vương vẫn chưa nhìn qua, có…”.
“Không cần”, Hà Hiệp lắc đầu, “Ta còn không tin ngươi sao?”.
Hai thị nữ xinh đẹp dâng trà lên Hà Hiệp và Phi Chiếu Hành. Phi Chiếu Hành tạ ơn Hà Hiệp, hai tay nhận lấy chén trà. Chén trà trong suốt mỏng tang, nhìn qua đã biết là đồ quý hiếm, nhưng hoàn toàn không ăn nhập với nơi phủ trạch tiêu điều này.
Hình như biết rõ Phi Chiếu Hành đang nghĩ gì, Hà Hiệp nhấp một ngụm trà, nói: “Ta đã từng cho treo lụa đỏ gấm xanh nơi này, rồi sắp xếp những đồ gia dụng tinh xảo, nhưng vẫn không thêm được chút ít sinh khí. Ta cũng sai người sửa chữa những bức tường đổ nát ấy, nhưng vừa bắt đầu, ta lại hạ lệnh dừng ngay. Ngươi biết tại sao không?”.
Phi Chiếu Hành đặt chén trà xuống, ngồi ngay ngắn lại, rồi thận trọng đáp: “Vương phủ Kính An ngày trước chính là vương phủ Kính An ngày trước, cho dù tu sửa thế nào cũng không thể quay trở lại”.
Đôi môi mỏng của Hà Hiệp khẽ động, hình như đang mỉm cười, nhưng chỉ thoáng qua: “Đúng thế, nếu đã mất đi, sẽ không bao giờ quay lại được. Tại sao vào thời khắc phải chọn lựa lấy hay bỏ, con người ta không thể nhìn thấu điều này? Ta thực sự rất hối hận”. Giữa hai hàng lông mày của Hà Hiệp ẩn chứa nỗi bi thương không hề che giấu.
Không ngờ Hà Hiệp lại nói với mình những lời gan ruột này, Phi Chiếu Hành vừa vui lại vừa sợ, ngôn ngữ cử chỉ càng thêm thận trọng.
Trong mắt Phi Chiếu Hành, Hà Hiệp là bậc kiêu hùng vô song thiên hạ. Hà Hiệp trí dũng hơn người, dã tâm hừng hực, ngôn ngữ cử chỉ thận trọng, luôn giấu kín nỗi lòng, kỵ nhất để người khác nhìn thấu tâm tư.
Phi Chiếu Hành cúi xuống bê chén trà lên, nhấp một ngụm, vờ cho trơn họng.
“Ta đã giết cả nhà Hà Túc”, Hà Hiệp nói xong lại hỏi, “Ngươi có nghe lời đồn bên ngoài không?”.
Phi Chiếu Hành gật đầu: “Có nghe qua”.
“Ngươi thấy thế nào?”.
“Vương tộc mất nước, chẳng qua chỉ là thân con sâu con kiến. Tiểu Kính An vương đã có được cả thiên hạ, giết mấy con sâu con kiến cũng có gì là không được?”.
“Ta không muốn giấu ngươi”, Hà Hiệp nhìn Phi Chiếu Hành, mỉm cười, “Lời đồn ngoài kia cũng chẳng sai, Hà Túc không hề có ý định cùng Vương hậu mưu hại ta, là ta vô cớ giết cả ba người họ”.
Phi Chiếu Hành sững người, đang không biết đáp thế nào, Hà Hiệp đã chuyển sang chuyện khác: “Thương Lộc tướng quân tử trận, cánh quân Vĩnh Xương hiện do ai tiếp quản?”.
Phi Chiếu Hành đáp: “Trên chiến trường mất chủ tướng, phải lập tức quyết đoán, nên mạt tướng đang tạm thời tiếp quản”.
Hà Hiệp chậm rãi nói: “Đông Chước cũng trưởng thành rồi, cần có cơ hội để luyện tập. Hiện giờ Vân Thường đã ổn định, ta muốn điều Đông Chước ra sa trường để rèn luyện bản lĩnh, hãy giao cánh quân Vĩnh Xương cho Đông Chước quản lý. Sau khi trở về, ngươi hãy bàn giao mọi việc”.
Phi Chiếu Hành nhận lệnh.
Không biết tại sao, hôm nay có quá nhiều cảm xúc, Hà Hiệp thở dài, đứng dậy nói với Phi Chiếu Hành: “Đi, ngươi cùng ta đi một vòng xem sao”.
Phi Chiếu Hành theo Hà Hiệp, chậm rãi đi một vòng quanh vương phủ Kính An.
Đình viện đã hoàn toàn hoang phế, mặt hồ đầy bèo, thỉnh thoảng có đám bọt khí trôi qua trôi lại. Nhưng dưới mặt nước không phải đàn cá chép lộng lẫy sắc màu tung tăng bơi lội, mà là những con cá đen sì, chẳng biết chúng đã vào đây bằng cách nào.
Côn trùng rả rích kêu trong đám cỏ.
Hai người một đi trước một theo sau, bước thấp bước cao trên những đám cỏ. Một lúc lâu, Hà Hiệp bất chợt lên tiếng: “Mọi chuyện xảy đến thật nhanh, cả Quy Lạc cũng không còn nữa”, ngôn ngữ chất chứa bao cảm khái.
Phi Chiếu Hành thầm ngạc nhiên, Hà Hiệp đã có được thiên hạ, sao vẫn rầu rĩ? Phi Chiếu Hành vừa nghĩ vừa liếc trộm bóng lưng thẳng và căng như dây đàn của Hà Hiệp.
Cũng có thể vì giờ không còn đại quân nào đủ sức chống chọi với Hà Hiệp, nên lần này gặp lại, Phi Chiếu Hành cảm thấy Hà Hiệp đã xa cách hơn trước rất nhiều, khắp người bắt đầu tỏa ra sự uy nghiêm của bậc chí cao vô thượng.
“Đại quân Quy Lạc đã bị tiêu diệt, tứ quốc đã thống nhất, ta định ra chiếu thư, lấy danh nghĩa của tiểu Kính An vương thành lập tân quốc, lấy quốc hiệu Kính An”.
Chần chừ một lát, Phi Chiếu Hành thử khuyên nhủ: “Lập tân quốc tất nhiên quan trọng, nhưng việc Trấn Bắc vương vẫn chưa giải quyết xong, liệu có nên…”.
“Không cần lo lắng. Dù Sở Bắc Tiệp có bản lĩnh đến mức nào, cũng không thể một mình chống lại mấy chục vạn quân của ta. Tướng không có quân thì có gì đáng sợ?”, Hà Hiệp cười gằn, “Đợi sau khi ta đăng cơ, hắn sẽ không còn là Trấn Bắc vương của Đông Lâm nữa, mà là nghịch tặc của Kính An quốc, giết hắn hoàn toàn là lẽ tất nhiên. Có được một đối thủ thế này cũng chẳng dễ dàng gì, đợi có thời gian, ta sẽ từ từ đối phó với hắn”.
Nghe ý Hà Hiệp, tứ quốc đã thống nhất, giờ không còn đối thủ xứng tầm, nên Hà Hiệp không muốn dồn Sở Bắc Tiệp vào chỗ chết ngay lập tức, mà muốn chơi trò mèo vờn chuột dần dần ép Sở Bắc Tiệp tới đường cùng.
Cũng không thể nói Hà Hiệp tự kiêu tự đại, khắp tứ quốc, những đại quân có thể đối kháng với hắn đã dần bị tiêu diệt. Một mình Sở Bắc Tiệp liệu có được bản lĩnh gì để khiêu chiến với đại quân Vân Thường? Nếu Sở Bắc Tiệp dám công khai chiêu mộ phản quân, ngay lập tức đại quân Vân Thường sẽ kéo đến vây bắt, thế quân đông gấp mười lần, chắc chắn Sở Bắc Tiệp sẽ chết tại trận.
Tuy cảm thấy không ổn, nhưng từng từ của Hà Hiệp đều vô cùng chắc chắn, không thể thay đổi, Phi Chiếu Hành đành im miệng, gật đầu.
Hà Hiệp bất chợt dừng lời: “Có việc này phải giao cho ngươi đi làm”.
“Vâng”.
“Ta muốn ngươi đi thu thập châu báu các nước, đặc biệt là trân châu đá quý hảo hạng và một đội thợ giỏi chuyên khảm nạm đá quý cũng như chế tác đồ trang sức”.
Phi Chiếu Hành hiểu ngay lập tức: “Tiểu Kính An vương muốn chế tạo vương miện?”.
Hà Hiệp lắc đầu, giơ hai ngón tay lên: “Hai chiếc, một mũ vua, một mũ hậu. Cả hai đều phải tinh xảo đẹp mắt không gì sánh kịp, không được để xảy ra bất cứ sai sót nào”.
Phi Chiếu Hành nhận lệnh, nghe Hà Hiệp dặn dò thêm vài câu rồi cáo từ ra khỏi vương phủ Kính An.
Trở về phủ đệ mình vừa được sắp xếp, Phi Chiếu Hành nghĩ đi nghĩ lại, vẫn cảm thấy có chỗ không ổn, bèn gọi một tâm phúc ở Quy Lạc đến, hỏi: “Sau khi trở về Quy Lạc, tiểu Kính An vương có để mắt đến nữ nhân nào không?”.
Tâm phúc kia suy nghĩ kỹ càng, rồi lắc đầu đáp: “Thuộc hạ không nghe nói tiểu Kính An vương gần gũi nữ sắc. Sau khi trở về thành đô Quy Lạc, tiểu Kính An vương chỉ ở trong vương phủ Kính An xử lý sự vụ. Cũng đúng thôi, vương phủ Kính An giờ chẳng còn ai, tiểu Kính An vương quay về đất cũ, khó tránh khỏi lòng thương nhớ chuyện xưa”.
Phi Chiếu Hành nghe xong, cảm thấy có điều gì đó đang nghẹn trong cổ họng, nhưng không thể nói thành lời, chỉ thấy mình đã bỏ sót một số chuyện. Đang suy nghĩ, bỗng một thuộc hạ vào báo, đồ ban thưởng của Hà Hiệp đã được đưa đến.
Phi Chiếu Hành đích thân ra nhận, mở một hộp ra xem, đều là những đồ quý hiếm. Hà Hiệp không tiếc ngàn vàng ban thưởng, xem ra sau này không phải là một đại vương keo kiệt. Phi Chiếu Hành mừng thầm trong lòng, thưởng cho thị vệ đưa tới không ít tiền vàng.
Trưởng thị vệ của Hà Hiệp cũng đích thân đến, sau khi cung kính cười với Phi Chiếu Hành, lại nói: “Huynh đệ ta phụng lệnh đến đây còn có một việc, đó là Đông Chước tướng quân sẽ cai quản cánh quân Vĩnh Xương, mời Phi tướng quân lấy soái ấn bàn giao rõ ràng”.
Phi Chiếu Hành đã sớm biết việc này, nên vui vẻ đóng ấn lên công văn vừa đưa tới, cũng coi như đã bàn giao xong đạo quân Vĩnh Xương, rồi mới tiễn đám thị vệ vừa được ban thưởng không ít tiền vàng ra về.
Vì trong lòng đang vui, nên dù cả chặng đường trở về thành đô mệt mỏi, Phi Chiếu Hành vẫn chưa buồn ngủ, liền gọi mấy tướng lĩnh dưới trướng đến uống rượu chúc mừng.
“Cạn! Chén này chúc cho Phò mã của chúng ta sớm lên ngai vàng! Chén này chúc cho tướng quân của chúng ta thăng tiến vùn vụt, tiền đồ rộng mở…”.
Một phó tướng vội vã hạ giọng: “Đừng nhắc đến hai tiếng ‘Phò mã’ nữa, bên trên đã hạ lệnh, từ nay nhất loạt gọi là ‘tiểu Kính An vương’. Trương tướng quân, ông phải cẩn thận đó, đừng phạm húy”.
“Ồ, ta vốn là kẻ lỗ mãng chỉ quen giết chóc trên sa trường, đâu biết thế nào là phạm húy. Cạn!”
Vị phó tướng lại định khuyên nhủ, Trương tướng quân đã vội xua tay, vẻ mặt bất đắc dĩ: “Biết rồi, biết rồi, chẳng mấy chốc sẽ không gọi là ‘tiểu Kính An vương’ nữa đâu, mà gọi là ‘Hoàng thượng’. Nghe nói đám quan văn đã tự xưng ‘vi thần’ rồi”.
Đều là những tướng lĩnh cầm quân ra trận, kỳ thật trong quân nghiêm ngặt, cấm uống rượu, mồm miệng đã nhạt thếch, nay đến lúc cao hứng, chẳng mấy chốc họ đã uống hết sạch mấy bình rượu, cuối cùng, đến cả Phi Chiếu Hành cũng mơ mơ màng màng được dìu về giường.
Đúng lúc đang ngủ say, không hiểu tại sao Phi Chiếu Hành bỗng cảm thấy toàn thân lạnh toát, giật mình tỉnh giấc.
Phi Chiếu Hành ngồi bật dậy, trợn trừng mắt, tim đập tình thịch, cảm giác bất an trào lên.
Nhất định là có chỗ nào không ổn.
Phi Chiếu Hành vốn rất để ý đến dự cảm của mình.
Khi Nhạc Chấn chuẩn bị giết người diệt khẩu, Phi Chiếu Hành cũng vì cảm thấy bất an mà trở nên cảnh giác, nửa đêm chạy ra khỏi thành, thoát được kiếp nạn. Lúc này, cảm giác lo sợ khiến hắn trở nên thận trọng. Hắn suy nghĩ một lượt tất cả đoạn đối thoại với Hà Hiệp hôm nay, nhưng vẫn không tìm ra điều gì khác lạ.
Những việc Hà Hiệp cần Phi Chiếu Hành làm, hắn đều đã làm hết, không những tiêu diệt đại quân Đông Lâm, tiêu diệt Nhạc Địch và Nhạc Chấn, mà còn trừ khử cả Thương Lộc, chẳng lẽ còn điều gì sơ hở?
Nếu nói bản thân có chút tham lam tiền tài, cũng có thể Hà Hiệp đã biết việc này, nhưng không thể chỉ vì chút chuyện cỏn con đó mà phải đối phó với mình.
Rốt cuộc là không đúng ở điểm nào?
Không lẽ lại là “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn”? Sau phút kinh hãi, Phi Chiếu Hành liên tục lắc đầu.
Không, không thể, Hà Hiệp không phải là Nhạc Địch, cũng chẳng phải Nhạc Chấn. Hà Hiệp là tiểu Kính An vương có tài thao lược, có tấm lòng rộng lượng. Đã đánh trận xong, sắp lập nên tân quốc, Hà Hiệp uy nghi lẫm liệt trở thành chủ nhân thiên hạ cũng là thuận theo lẽ trời, chỉ cần vinh hoa phú quý vẫn có phần Phi Chiếu Hành là được.
Phi Chiếu Hành khổ tâm suy nghĩ, nhưng vẫn không thể tìm ra nguyên nhân, cuối cùng lại mơ màng ngủ tiếp.
Song, từ đó trở đi, Phi Chiếu Hành cũng thận trọng hơn.
Binh quý thần tốc, Sở Bắc Tiệp dẫn theo binh mã tiến thẳng đến thành Thả Nhu. Lúc đầu Sở Bắc Tiệp còn lo Sính Đình không chịu nổi đường xa mệt nhọc, nhưng nàng đã thường xuyên viễn chinh theo quân, nên Sở Bắc Tiệp cũng không còn lo lắng nữa, mà một lòng gấp rút lên đường.
Một ngàn tinh binh đến biên cương bắt đầu xé nhỏ thành những tiểu đội, tiến vào vùng bụng Vân Thường, rồi lặng lẽ tập hợp bên ngoài thành Thả Nhu. Đây đều là những binh sĩ tinh nhuệ còn trụ lại sau các trận đại chiến, người nào cũng tinh nhanh, không ai gặp bất trắc, không một tin tức nào lọt ra ngoài.
Quân Vân Thường vẫn không biết Trấn Bắc vương đã gần trong gang tấc. Dân chúng trong thành Thả Nhu càng không cảm nhận được kiếp nạn này.
Phiên Lộc cũng chẳng hề biết mình đã trở thành mồi săn của Trấn Bắc vương.
Vị thủ thành Thả Nhu này còn đang đau đầu vì sự việc khác hoàn toàn không liên quan gì đến Trấn Bắc vương.
“Bọn họ cố tình ép chết ta! Được thôi, đến đi, lão tử ở trong quân bao nhiêu năm, cũng chưa bao giờ phải chịu uất ức như thế này!” Phiên Lộc vò nát tờ công văn vừa đưa đến, vứt xuống đất. Xung quanh đều nghe thấy tiếng gầm quát của Thủ thành đại nhân.
“Ta làm sao biết được hai đại nhân đó chạy đi đâu? Bao nhiêu người tận mắt thấy họ đi khỏi thành Thả Nhu, họ lại thích đi thị sát khắp nơi, chưa biết chừng đã thị sát đến tận biên cương rồi. Người không thấy đâu, sao lại hạ lệnh cho lão tử điều tra? Lão tử đi đâu mà điều tra chứ? Mẹ kiếp!”
Sai dịch phụ trách truyền tin đã ôm đầu chuồn ra ngoài từ lâu, chỉ còn lại sư gia Đỗ Kinh đang cau mày nhìn Phiên Lộc giờ như con hổ bị đá đít, đi đi lại lại trong phòng.
Nộ khí của Thủ thành đại nhân hôm nay thật không nhỏ.
“Đại nhân hãy bớt cơn thịnh nộ, tuy công văn này thật vô lý, nhưng là ý quan trên, chúng ta không thể mặc kệ, việc này…”
“Ta biết là không thể mặc kệ”, Phiên Lộc gầm gừ một hồi, nộ khí cũng đã giảm bớt phần nào, cảm giác nhẹ nhàng hơn, khuôn mặt nở nụ cười, ngón chân đùa với tờ công văn trên đất, rồi bỗng đá vèo nó vào góc tường.
Phiên Lộc chậm rãi ngồi xuống ghế, còn gác cả chân lên bàn. “Điều tra thì điều tra. Sư gia, hãy dán cáo thị khắp thành Thả Nhu cho ta, vẽ hai con… À, vẽ hai vị đại nhân, nhớ là phải vẽ giống một chút, sau đó viết là…”, Phiên Lộc ngậm cán bút, giọng không còn rõ ràng, “Có hai vị quan mất tích, Thủ thành đại nhân phụng mệnh tìm kiếm. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Tìm được người, thưởng một trăm lạng bạc, tìm được xác, thưởng hai trăm lạng bạc. Cứ thế đi”.
Nghe giọng điệu ấy, biết rõ trong lòng Phiên Lộc đang âu sầu vì hai vị đại nhân kia, nhưng Đỗ Kinh không thể biết có phải Thủ thành đại nhân đang đùa hay không, chỉ biết dở khóc dở cười thưa: “Đại nhân, một, hai trăm lạng bạc, e là hơi ít, theo tiểu nhân, vẫn nên tăng thêm một chút. Vả lại, câu nếu tìm thấy xác, tốt nhất đừng cho vào…”.
“Được rồi, Sư gia cứ làm đi”, Phiên Lộc xua tay, ngáp dài, “Ta đã xử lý xong công vụ ngày hôm nay, Sư gia mau đi dán cáo thị, Thủ thành đại nhân phải đi nghỉ đây”.
Phiên Lộc quay vào hậu viện, tìm thấy Túy Cúc, liền cầm tay, kéo nàng ra cổng.
Tự nhiên bị lôi đi, Túy Cúc kinh ngạc: “Lại làm sao thế hả? Bộ dạng ngươi cứ như chạy loạn ấy”.
“Thời tiết đẹp thế này, hãy cùng thủ thành lão gia ra ngoài giải khuây”.
Túy Cúc nghe thế thì đứng sững lại, rút tay về: “Thả tay ra, ta còn chưa kịp tưới nước cho thảo dược. Vì việc giải khuây của ngươi mà để thảo dược phải chết khô sao?”.
Phiên Lộc túm chặt cổ tay Túy Cúc, không chịu buông ra, quay lại nhìn nàng: “Hôm nay quan trên gửi công văn đến nói, hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh đã mất tích, hạ lệnh cho ta điều tra. Này, rốt cuộc ngươi có đi cùng ta không?”.
Túy Cúc thất kinh, vội nhìn xung quanh.
Bồ Quang, Bồ Thịnh đã chết thế nào, hai người rõ hơn ai hết.
Sau khi lên nắm quyền, Hà Hiệp đã ra các chính sách vô cùng tàn khốc, khiến lòng người Vân Thường trên dưới bàng hoàng. Nếu việc này bị điều tra ra, kết cục sẽ thế nào? Có lẽ nàng và Phiên Lộc phải tìm một nơi để bàn bạc thật kỹ. Nàng đang nghĩ hay Phiên Lộc đưa mình ra ngoài tránh tai mắt để bàn bạc việc này, thì cả người bị Phiên Lộc lôi ra ngoài cổng phủ.
Thả Nhu tuy chỉ là một thành nhỏ nhưng đường phố rất nhộn nhịp. Phiên Lộc mặc thường phục ra khỏi cổng, Túy Cúc trước nay vẫn không thích ăn mặc diêm dúa, nên cũng chẳng ai để ý đến họ.
“Kẹo hồ lô không?”
“Tào phớ không?”
Đi trên phố, chỉ cần thấy thứ gì vừa mắt là Phiên Lộc liền móc tiền mua ngay rồi đưa cho Túy Cúc. Lúc đầu, Túy Cúc lắc đầu không lấy, Phiên Lộc tiện tay cho mấy đứa bé bên đường. Cuối cùng, Túy Cúc hết cách, đành phải nhận của Phiên Lộc một con tò he.
Đi hết cả một buổi chiều, Phiên Lộc chỉ toàn nói đến những chuyện chẳng liên quan, không hề nhắc đến việc của Bồ Quang, Bồ Thịnh.
Túy Cúc không thể chờ thêm, bèn hỏi: “Này, vậy phải làm thế nào?”.
“Cái gì làm thế nào?”
“Chúng ta làm thế nào? Có phải đi khỏi thành Thả Nhu không?”
Phiên Lộc quay lại nhìn nàng, hỏi: “Ngươi tưởng chúng ta đi chạy nạn thật à?”.
Nhìn thần thái của Phiên Lộc không giống như đang đùa, nhưng lời hắn trước nay vẫn chẳng thể tin tưởng hoàn toàn, Túy Cúc cố hạ thấp giọng, hỏi: “Vậy tại sao ngươi lại dẫn ta ra ngoài? Quan trên giao cho ngươi điều tra mà? Nhỡ chăng bị phát hiện, người có một trăm cái đầu thì cũng không đủ”.
“Đã nói dẫn người ra ngoài giải khuây cùng ta, ngươi lại có tật giật mình, cố tình nghĩ sang chuyện khác”. Phiên Lộc hất hàm về phía cổng thành, “Lão gia ta đã bắt đầu điều tra rồi, có thấy cáo thị dán trên cổng thành đằng kia không?”
Nói đến chuyện chính, Túy Cúc còn hăng hái hơn Phiên Lộc. Vừa nhìn thấy cáo thị, Túy Cúc chẳng kịp nói gì, vội kéo tay Phiên Lộc tới xem.
Trước nay đều là Phiên Lộc cầm tay Túy Cúc, đây là lần đầu tiên Túy Cúc chủ động cầm tay hắn.
Được bàn tay mềm mại như không xương cầm vào, Phiên Lộc bỗng thấy tim đập thình thịch, quay sang ngó Túy Cúc, nhưng nàng hoàn toàn chẳng hề để ý đến thần sắc Phiên Lộc.
Đỗ Kinh làm việc không chút chậm trễ, quả nhiên cáo thị đã được dán ngay cổng thành. Bao nhiêu cái đầu xúm đen lại xem cáo thị, nhưng trăm dân cũng biết rõ tiếng xấu của Bồ Quang, Bồ Thịnh, nên vẻ mặt ai nấy bình tĩnh như vừa nghe một câu chuyện phiếm. Túy Cúc chen vào đám người đọc hết cáo thị, tạm thời chỉ là điều tra hướng đi của hai vị đại nhân kia, trong lòng nàng cũng thở phào nhẹ nhõm, hạ giọng: “Là ngươi bảo Sư gia viết à?”.
Phiên Lộc hừ một tiếng, chửi đổng: “Mẹ kiếp, Đỗ Kinh dám sửa cáo thị của ta. Sư gia thật chẳng phải thứ gì tử tế”.
Túy Cúc ngạc nhiên: “Đỗ Kinh đã sửa cái gì?”.
“Vốn viết là có hai con lợn mất tích, sao giờ lại đổi thành hai vị quan mất tích?”
Túy Cúc cười khúc khích, rồi cố nhịn cười trừng mắt nhìn Phiên Lộc: “May ngươi còn được là thủ thành lão gia, cả ngày không đàng hoàng, chỉ nghĩ cách chọc người khác”.
Phiên Lộc vốn chẳng chịu thua ai bao giờ, lần này lại chỉ hừ một tiếng, nói với Túy Cúc: “Cáo thị cũng đọc xong rồi, chúng ta đi thôi”.
Hai người dắt tay nhau quay về, bỗng Phiên Lộc hạ giọng hỏi: “Người có sợ nhìn thấy người chết không?”.
Túy Cúc cau mày: “Ngươi lại muốn giết người?”.
Túy Cúc chỉ tiện miệng hỏi thế, ai ngờ Phiên Lộc lập tức trả lời: “Chính thế”.
Túy Cúc run bắn, nắm chặt bàn tay Phiên Lộc.
Giọng Phiên Lộc nhỏ hơn lúc nãy, chỉ thì thầm vào tai nàng: “Có một tên xấu xí cứ theo chúng ta nãy giờ. Ngươi đừng sợ, ta dẫn hắn vào ngõ tối, rồi bắn cho hắn mấy tên như bắn con thỏ trên núi”.
Vòng qua mấy ngã rẽ, tiếng huyên náo cũng bớt dần, hai người bước trong ngõ nhỏ, càng đi ngõ càng hẹp. Hai bên, tường đất kẹp chặt con đường nhỏ, chật đến nỗi ánh mặt trời cũng không sao chiếu vào được.
Càng đi sâu, ngõ càng tối.
Vốn là tay ngang ngược, từ khi trở thành thủ thành, cả ngày chúi mũi vào đống công văn, Phiên Lộc chỉ mong có ai đến là bia đỡ tên cho dứt cơn phiền. Cảm giác của một người từng làm mật thám cực kỳ nhạy bén, biết rõ chỉ có một người đang bám theo mình nên hắn yên tâm rẽ vào con ngõ cụt. Đến trước bức tường đất cuối cùng trong ngõ, Phiên Lộc quay lại, một tay nắm tay Túy Cúc, một tay lấy chiếc nỏ đã căng sẵn tên, rồi hỏi Túy Cúc: “Ngươi muốn ta bắn vào cổ hay tim hắn?”.
Túy Cúc thấy mũi tên sáng loáng thì càng sợ: “Ngươi đừng hỏi ta”, hai tay nàng nắm chặt tay Phiên Lộc.
Trong lòng càng vui, Phiên Lộc khẽ nhếch môi cười gằn: “Vị huynh đệ đi theo hãy bước ra ngoài, chúng ta nói chuyện”.
Phía góc tường thoáng có bóng người, chẳng mấy chốc, một người chầm chậm bước ra, mỉm cười: “Gặp được cô nương thật mừng quá. Cô nương cũng chẳng chịu gửi thư báo với chúng ta một tiếng, cô nương không biết chúng ta đã lo lắng thế nào đâu?”, rõ ràng người này đang nói chuyện với Túy Cúc.
Túy Cúc mở choàng mắt, giọng thất thanh: “Mạc Nhiên!”.
Mạc Nhiên gật đầu, rồi quay sang Phiên Lộc, nói từng tiếng rõ ràng: “Thủ thành đại nhân, đại nhân cũng thật may mắn đấy. Nếu không phải Túy Cúc cô nương đi bên cạnh, đại nhân đã đầu lìa khỏi cổ từ lâu rồi”.
Phiên Lộc cười ha ha, quay sang nói với Túy Cúc: “Ta rất thích cái cổ, một tên bắn đi, hắn sẽ im miệng ngay lập tức”. Hắn đang định bắn tên, bỗng toàn thân cứng đờ.
Một lưỡi đao sắc lạnh giơ ra từ phía sau, chuẩn xác kề vào cổ Phiên Lộc, giọng nam thấp trầm vang lên: “Ta cũng thích cái cổ”.
Phiên Lộc vốn vô cùng tự tin về cảm giác nhạy bén của mình, trước nay chưa từng có người nào có thể lặng lẽ tiến đến sau lưng như thế, trong lòng hắn vô cùng kinh ngạc. Phiên Lộc có sở trường về việc thăm dò địch, nghe khí thế ung dung nói cười của nam nhân sau lưng, biết gặp phải cao thủ, hắn thức thời buông chiếc nỏ trong tay, cố cười nói: “Vòng qua vòng lại, hóa ra chính ta lại là con thỏ xúi quẩy”.
Túy Cúc quay đầu nhìn lại, càng thêm kinh ngạc, bịt miệng kêu lên: “Trời ơi, là Vương gia…”.
Sở Bắc Tiệp đứng sau Túy Cúc, ngó nàng một cái: “Ngươi đã làm Sính Đình đau lòng lâu quá rồi”.
“Bạch cô nương?” Túy Cúc quá kích động, đưa hai tay ôm lấy ngực mình, cảm thấy trước mắt như có từng vòng lửa sáng lóa, nước mắt chỉ chực trào ra. Nàng hít mấy hơi thật dài, ngập ngừng hỏi: “Bạch cô nương… vẫn sống sao? Tốt quá rồi… tốt quá rồi… thế hài nhi? Hài nhi…”.
“Lát nữa hãy hàn huyên. Ngươi nhìn xem, cổ ta vẫn đang có thứ gì này”, Phiên Lộc ngắt lời Túy Cúc.
Túy Cúc đang xúc động, vừa gạt lệ, vừa trừng mắt nhìn Phiên Lộc: “Đến lúc này mà ngươi còn dám lớn tiếng với ta sao? Ngươi có biết sau lưng mình là ai không? Chỉ động tay một chút là đầu ngươi sẽ lìa khỏi cổ”.
Nghe hai người nói chuyện, Phiên Lộc đã đoán ra sau lưng mình chính là Trấn Bắc vương.
Đương nhiên Phiên Lộc có thể coi thường những đối thủ khác, nhưng gặp phải tình thế này, khi kiếm của Trấn Bắc vương đang kề cổ, có lợi hại gấp mười lần hắn cũng không thể thoát. Phiên Lộc vốn nghĩ thoáng hơn người khác, dứt khoát nghe theo số mệnh, nên không còn sợ nữa, cợt nhả hỏi: “Ngươi nỡ lòng nào?”.
Trước mặt Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên, Túy Cúc bị Phiên Lộc hỏi như thế thì vô cùng lúng túng, mặt đỏ bừng: “Ngươi… ngươi luôn bắt nạt ta, ta sẽ nhờ Vương gia giết ngươi để báo thù!”.
Phiên Lộc đang định nói gì, đã thấy lưỡi đao thoáng qua cổ, đau nhói.
“A!” Túy Cúc nhìn thấy vết máu trên cổ Phiên Lộc, sợ đến hồn bay phách lạc, kêu lên kinh hãi: “Vương gia, Vương gia, Túy Cúc chỉ nói đùa thôi, Vương gia đừng có…”.
Mạc Nhiên thấy hai người họ như thế, cũng đoán được vài phần, bèn nhìn Sở Bắc Tiệp dò hỏi. Thấy Sở Bắc Tiệp lặng lẽ gật đầu, Mạc Nhiên nghiêm giọng: “Hàn huyên tâm sự, đầu mày cuối mắt hãy để sau. Thủ thành đại nhân, hôm nay chúng ta đến đây muốn bàn với người chút chuyện”.
Phiên Lộc nhạy cảm hơn người, Trấn Bắc vương đột nhiên xuất hiện ở tòa thành Thả Nhu nhỏ bé này, còn có thể vì việc gì? Hắn liền đáp: “Các ngươi nhắm đến tòa thành bé tẹo này của ta, chẳng qua là vì số quân lương qua đây. Thực không muốn giấu, Hà Hiệp vì việc của Quý Thường Thanh mà không coi ta là con người, ngay đến con mèo, con chó còn dám đến đây giày vò lão tử, lão tử này chịu uất ức đã quá đủ rồi. Chỉ một câu thôi, muốn ta giao cả tòa thành này cho Trấn Bắc vương cũng được, nhưng ta có một điều kiện”.
Sở Bắc Tiệp thấy Phiên Lộc chỉ một câu đã bóc trần ý định đến đây của mình thì không khỏi kinh ngạc, nghĩ bụng: Một nhân tài hiếm có như thế, sao phải uất ức làm chức thủ thành ở cái thành bé cỏn con này? Thấy Phiên Lộc nói vòng vo, cuối cùng đưa ra điều kiện, Sở Bắc Tiệp đã đoán được bảy, tám phần, lưỡi đao kề trên cổ hắn cũng lỏng hơn, rồi đưa mắt ra hiệu cho Mạc Nhiên.
Mạc Nhiên hỏi: “Điều kiện gì?”.
Phiên Lộc suy nghĩ giây lát, bỗng lại thay đổi: “Sai rồi, Thả Nhu dù gì cũng là một tòa thành trì, đổi lấy một điều kiện thật không đáng giá, ta có hai điều kiện”.
Lần đầu tiên thấy có người trong lúc sống chết mà vẫn lôi thôi như thế, Mạc Nhiên cũng ngẩn người.
Biết bản tính Phiên Lộc, Túy Cúc ngẩng lên thấy máu trên cổ hắn vẫn đang chảy thì càng lo lắng, bụng mắng thầm Phiên Lộc lúc này rồi mà còn chọc giận Sở Bắc Tiệp, vội nói: “Ngươi bớt nói đi vài câu được không?”. Chẳng biết tại sao, bàn tay Túy Cúc cứ run rẩy, nghĩ rằng vì Bạch Sính Đình, chắc Vương gia cũng phải nể mặt mình vài phần, nên nhìn Sở Bắc Tiệp với ánh mắt khẩn cầu: “Vương gia, tính hắn như thế, Vương gia đừng trách”.
Phiên Lộc thấy Túy Cúc như thế, trong lòng ngọt hơn ăn mật, bất chấp tính mạng còn đang trong cơn nguy hiểm, bật cười.
Túy Cúc vừa lo vừa giận, véo tay hắn một cái.
Sở Bắc Tiệp lạnh lùng nhìn hành động giữa hai người họ, suy nghĩ một lúc, hạ giọng hỏi: “Ngươi cứ nói hết cả hai điều kiện đi”.
Sớm biết Sở Bắc Tiệp sẽ đồng ý, Phiên Lộc cười nói: “Thứ nhất, ta muốn có Túy Cúc”.
Túy Cúc kêu lên một tiếng, mặt đỏ đến tận mang tai, đứng đó không được, trốn đi cũng cẳng xong, cúi gằm mặt không dám nhìn ai, hạ giọng mắng mỏ: “Ta đâu phải món đồ, sao người lại ra điều kiện với Vương gia?”.
Phiên Lộc đáp: “Ta đang nói chuyện với Trấn Bắc vương, liên quan gì tới ngươi?”. Túy Cúc nghe mà tức đến sắp ngất đi.
Sở Bắc Tiệp gật đầu, nói: “Điều kiện này, bản vương chấp nhận”.
Phiên Lộc hỏi: “Nàng ấy không phải món đồ, Trấn Bắc vương có thể khiến nàng ấy đồng ý theo ta ư?”.
“Việc này dễ thôi”, Sở Bắc Tiệp chậm rãi, “Ta kề đao sắc vào ngón tay ngươi, sau đó hỏi Túy Cúc có đồng ý không. Túy Cúc nói một câu không đồng ý, ta sẽ chặt một ngón tay ngươi. Đảm bảo chưa chặt hết mười ngón, Túy Cúc sẽ đồng ý ngay”.
Phiên Lộc sững sờ, lẩm bẩm: “Cách này quá tuyệt tình”.
Ba nam nhân yên lặng, bất giác cùng bật cười. Sở Bắc Tiệp nhân cớ này bỏ cây đao ra khỏi cổ Phiên Lộc.
Thấy họ cười, mặt Túy Cúc càng đỏ bừng, cắn răng nói: “Nam nhân thật chẳng có ai tốt đẹp, đều cùng một giuộc”. Nói xong nàng hằn học nhìn Phiên Lộc: “Dù người bị chặt hết mười ngón chân, mười ngón tay, ta cũng mặc kệ. Ta đâu phải nô tỳ bán thân cho Vương gia, các người chẳng ai quản được ta!”.
Sở Bắc Tiệp lạnh lùng: “Thử là biết ngay”.
Túy Cúc thầm kinh hãi. Nàng biết Sở Bắc Tiệp trước nay nói một là một, hai là hai, hơn nữa, nghe ý Mạc Nhiên, Sở Bắc Tiệp vốn định giết quan thủ thành của thành Thả Nhu.
Túy Cúc đã từng nghe những người quyền quý nói chuyện cười đùa về việc sinh sát thưởng phạt, lo mình sẽ hại Phiên Lộc nên chẳng còn vẻ quật cường, im lặng không nói gì thêm.
Mạc Nhiên hỏi: “Điều kiện thứ hai là gì?”.
Phiên Lộc cười đáp: “Còn chưa nghĩ ra. Sau này nói có được không?”.
Sở Bắc Tiệp thấy Phiên Lộc nhanh nhạy hơn người, tính tình hào phóng thì đã có cảm tình, cộng thêm tâm ý của người này với Túy Cúc nên cũng vô tư thoải mái, mỉm cười nói: “Được rồi”.
Phiên Lộc hỏi: “Trấn Bắc vương mang theo bao nhiêu người vào đây?”.
“Chỉ có hai chúng ta”.
“Chỉ có hai người thật sao?”
Phiên Lộc thầm kinh hãi: Lá gan của Trấn Bắc vương cũng thật lớn. Với lai lịch của Trấn Bắc vương, nếu bị phát hiện, chắc chắn sẽ bị quan binh toàn thành truy bắt, nếu bị bao vây, sẽ không có cơ hội sống sót.
Nhưng, Sở Bắc Tiệp chỉ nói một câu: “Hai người là đủ rồi”.
Sở Bắc Tiệp vốn chỉ định cùng Mạc Nhiên vào thành tìm hiểu tình hình, không ngờ vừa vào phủ đã gặp Thủ thành đại nhân mặc thường phục vi hành, và điều không ngờ hơn cả là người hắn dẫn theo lại chính là Túy Cúc cô nương đã khiến Sính Đình đau khổ nhớ thương bao lâu nay. Không ngờ chỉ một con ngõ cụt lại khiến chiến dịch đánh thành Thả Nhu trắc trở gập ghềnh bỗng trở nên dễ dàng.
Cả ba đều là bậc trí dũng, họ lập tức quyết định tối nay sẽ gặp nhau tại phủ đệ của quan thủ thành.
Khi Sở Bắc Tiệp chuẩn bị cáo từ, Phiên Lộc bỗng hỏi: “Trấn Bắc vương không sợ ta hối hận ư?”.
Mạc Nhiên nhìn Túy Cúc, trả lời: “Có Túy Cúc làm con tin, sợ gì Thủ thành đại nhân hối hận”.
Sắc mặt chợt đổi, Phiên Lộc trầm giọng: “Các người đừng hòng đưa Túy Cúc đi”. Suy nghĩ giây lát, Phiên Lộc nở nụ cười uy hiếp, “Chỉ cần không thấy Túy Cúc, ta sẽ lập tức báo lên trên tố cáo các ngươi. Chi bằng, hãy giết ta luôn ở đây”.
Sở Bắc Tiệp thấy Phiên Lộc lo lắng cho Túy Cúc như thế thì cảm thấy hứng thú, hạ giọng: “Chúng ta không đưa Túy Cúc đi. Ngươi dẫn Túy Cúc đi làm con tin, ta đưa sư phụ của Túy Cúc đến làm con tin, cả hai bên đều yên tâm”.
Bất chợt bên ngoài có tiếng người đến, Sở Bắc Tiệp cảnh giác ra hiệu với Mạc Nhiên. Thời gian cấp bách, hai người gật đầu với Phiên Lộc rồi không nói gì thêm, tức tốc rời khỏi.
Phiên Lộc đứng nguyên chỗ cũ, nhìn họ đi thật xa.
Trấn Bắc vương quả nhiên danh bất hư truyền, những cái khác chưa cần nói, chỉ riêng công phu ẩn nấp ám sát kẻ địch đã rất ít người địch nổi rồi. Có thể qua lại với Sở Bắc Tiệp, trừ phi phải có hộ vệ nghiêm ngặt giống như một bậc quân vương, nếu không ai cũng phải phấp phỏng lo âu. Đang mải nghĩ, Phiên Lộc bỗng thấy có người nắm chặt tay mình, lắc mạnh.
Phiên Lộc quay lại nhìn, Túy Cúc vẻ mặt hưng phấn, hai mắt trợn tròn: “Người có nghe thấy không, là sư phụ! Sư phụ đã đến đây… Ta không nghe nhầm chứ? Ta không nghe nhầm, có đúng không?”. Nàng hít thật sâu, ôm lấy trái tim đang loạn nhịp, than thở: “Ông Trời ơi, tất cả tin tốt đều đến trong ngày hôm nay, ra ngoài giải khuây thật quá đúng! Bạch cô nương chưa chết, Vương gia đã đến đây, sư phụ cũng đến nữa…”. Nói tới đây, Túy Cúc lại ôm mặt khóc.
Phiên Lộc vốn đã chán ngán, nhưng thấy Túy Cúc khóc, hắn lại phải dỗ dành: “Lúc vui thì nên cười, sao lại khóc? Trời tối rồi, chúng ta về thôi”.
Túy Cúc vẫn khóc, lắc đầu nói: “Một lúc xảy ra quá nhiều chuyện, trong lòng ta đang rất loạn, chân cũng không đứng vững. Ngươi cứ mặc kệ ta”.
Phiên Lộc cười nịnh: “Vì ngươi mà ta phải bán cả cái thành Thả Nhu này, trong lòng ta càng loạn. Có điều, từ giờ trở đi, ngươi đã là người của ta, ta chịu thiệt một chút cũng được. ta sẽ bế ngươi về phủ”.
Thấy Phiên Lộc nói thế, Túy Cúc lo lắng nhìn hắn, khẽ hỏi: “Ngươi vì ta mà liên kết với kẻ thù của Vân Thường, chắc trong lòng rất khó chịu, đúng không?”.
Phiên Lộc hừ một tiếng: “Vương tộc Vân Thường đã chẳng còn nữa, sau này chắc chắn Hà Hiệp sẽ lập nên tân quốc. Ta làm thế này, không ai có thể nói là ta bán nước. Có bán, chẳng qua cũng chỉ bán Hà Hiệp mà thôi. Có gì mà khó chịu?”.
Lần do thám đầu tiên đến thành Thả Nhu đã thu được không ít, trong lòng Sở Bắc Tiệp không khỏi vui mừng. Quay về đến trại tạm bên ngoài thành, Sở Bắc Tiệp dặn dò Mạc Nhiên: “Việc hôm nay, ngươi đừng vội nói với người khác, ta muốn cho Sính Đình một niềm vui bất ngờ”.
Mạc Nhiên đáp: “Hoắc thần y chắc cũng vui lắm”.
“Tất nhiên rồi”.
Hai người bàn bạc xong, cùng bước vào trướng. Mọi người đều đang đợi tin của họ. Sính Đình lo lắng Sở Bắc Tiệp đi mãi không về, giờ thấy bóng dáng chàng, mới thầm thở phào nhẹ nhõm, đứng dậy đón hỏi: “Tình hình trong thành Thả Nhu thế nào? Ở đây thiếp đã bàn bạc với mọi người, chọn ra vài kế sách, nhưng mỗi kế đều có chút sơ hở. Muốn chiếm được thành Thả Nhu mà không làm kinh động đến quân Vân Thường, thật không dễ chút nào”. Nói xong, Sính Đình đưa cuộn kế sách vừa viết ra cho Sở Bắc Tiệp.
Sở Bắc Tiệp chỉ nhìn qua rồi đặt xuống, vẻ mặt tươi cười: “Bản vương đã nghĩ ra một cách tốt nhất”.
Sở Bắc Tiệp là chủ soái, giọng nói lúc này lại chắc chắn như thế, đây hẳn phải là một kế hay. Mọi người mừng rỡ, nhao nhao hỏi: “Vương gia đã có cách gì?”.
“Mấy người chúng ta quang minh chính đại vào thành, bái kiến Thủ thành đại nhân theo thông lệ, rồi tất cả ngồi xuống bình tâm bàn bạc điều kiện, khuyên hắn giúp chúng ta đối phó với Hà Hiệp”.
Ban đầu mọi người còn chăm chú lắng nghe, nhưng thấy Sở Bắc Tiệp nói mấy câu nhẹ nhàng như thế thì ai nấy xìu xuống, cười như mếu: “Vương gia đang đùa rồi”.
Hiểu rằng Sở Bắc Tiệp không bao giờ mang việc quân đại sự ra đùa, suy nghĩ giây lát, Sính Đình hỏi Sở Bắc Tiệp: “Hôm nay Vương gia đã vào phủ thành Thả Nhu rồi sao? Vị Thủ thành đó là người do Hà Hiệp hay Quý Thường Thanh đề bạt?”.
Chỉ một câu hỏi đã vào thẳng vấn đề, Mạc Nhiên đứng một bên, trong lòng thầm kêu lợi hại.
Nếu không phải vì Phiên Lộc thuộc phe cánh của Quý Thường Thanh, bị bè lũ Hà Hiệp chèn ép ngang ngược, thì dù là Túy Cúc ở đó, Phiên Lộc cũng không vừa gặp đã chịu dâng cả thành Thả Nhu cho Sở Bắc Tiệp.
Thấy đôi mắt đen của Sính Đình nhìn mình, Sở Bắc Tiệp cầm lòng không đặng mà nắm lấy bàn tay nàng, khẽ nói: “Lại để Sính Đình đoán trúng rồi, bản vương thật muốn nhường vị trí chủ soái này cho nàng. Ngoài việc này còn có nguyên nhân khác, nàng thử đoán xem”.
Thấy hai người vô cùng thân mật, mọi người đều im ắng mỉm cười nhìn họ.
Sính Đình hạ giọng đáp: “Nếu đoán thêm một chút nữa, thì có lẽ là Vương gia đã ra tay để Thủ thành đó nếm thử vài phần lợi hại”.
Mạc Nhiên cảm thán: “Không hổ là Bạch cô nương, điều này mà cô nương cũng đoán được ra. Công phu mai phục ám sát của Vương gia khiến cả đại tướng quân địch cũng phải giật mình khiếp đảm”.
Sở Bắc Tiệp mỉm cười: “Vẫn phải đoán thêm chút nữa”.
Sính Đình cau mày suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng lắc đầu: “Đoán nữa thì chịu thôi, Sính Đình đâu có phải thần tiên”.
“Ta cho nàng một gợi ý, đêm nay ta sẽ dẫn theo Hoắc thần y cùng vào thành”.
“Ồ, chắc là người mà Thủ thành Thả Nhu coi trọng đang mắc bệnh nặng?”
Nếu không phải Thủ thành bị phe phái của Hà Hiệp chèn ép, lại bị Sở Bắc Tiệp ra tay uy hiếp, cộng thêm việc cấp thiết phải cứu chữa cho người thân của mình, thì thật không còn khả năng nào có thể khiến hắn bắt tay với địch.
Sở Bắc Tiệp nói: “Ai chẳng có người mà bản thân coi trọng. Nhưng dẫu sao thì chúng ta cũng đã nắm chắc phần thắng trong tay, lần này ngay cả bản vương cũng không thể không cảm thán ý trời tác thành. Tối nay đi cùng chúng ta, nàng sẽ biết ngay thôi”.
Gần tối, Sở Bắc Tiệp dẫn theo Sính Đình, cho mới Hoắc thần y, rồi chọn ra mấy thuộc hạ tinh nhuệ, mọi người đều đổi y phục, nhân lúc cổng thành chưa đóng mà ung dung đi vào thành Thả Nhu.
Nhân lúc Sính Đình không để ý, Mạc Nhiên khẽ hỏi Sở Bắc Tiệp: “Thuộc hạ nghĩ đi nghĩ lại, vẫn thấy có chút mạo hiểm, nhỡ chăng Thủ thành đó hối hận, bán đứng Vương gia thì làm thế nào? Bọn thuộc hạ đi theo Vương gia thì không sợ gì, chỉ lo Bạch cô nương và Hoắc thần y…”.
Sở Bắc Tiệp bình tĩnh đáp: “Ngươi vẫn chưa gặp được nữ tử thân yêu của lòng mình, đợi đến khi gặp được, ngươi sẽ hiểu tại sao người đó quyết định không hối hận. Sao, ngươi không tin vào nhãn quan của bản vương?”. Làm chủ soái quan trọng nhất là việc nhìn người, Sở Bắc Tiệp trước nay nhìn người chưa bao giờ có sai sót. Nghe chủ soái nói vậy, Mạc Nhiên cũng hoàn toàn yên tâm.
Một đoàn người đến bên ngoài phủ thủ thành, báo với sai dịch là bằng hữu lâu ngày không gặp của Thủ thành đại nhân từ phương xa đến nhờ vả. Sai dịch được Phiên Lộc dặn dò từ trước, biết rằng mấy hôm nay sẽ có đám người này đến Thả Nhu, bèn lập tức chạy vào phủ thông báo.
Chẳng mấy chốc, Phiên Lộc đích thân ra đón, vừa gặp Sở Bắc Tiệp đã chắp tay nói: “Đã lâu không gặp, lão huynh sức khỏe thế nào?”. Ngôn ngữ, cử chỉ vô cùng ấm áp, hắn dắt Sở Bắc Tiệp vào trong.
Mấy tinh binh đi theo Sở Bắc Tiệp đều không biết vị Thủ thành đại nhân này có âm mưu gì, trước lúc xuất phát ai nấy đều chắc mẩm, đến phủ quân địch, chắc chắn sẽ chín phần chết một phần sống, giờ thấy bộ dạng của viên quan thủ thành, họ mới thầm yên tâm, nhưng vẫn không dám lơ là, tay nắm chắc chuôi kiếm, bước chân theo sát, hộ vệ sau lưng Sở Bắc Tiệp.
Chỉ Sính Đình luôn tin Sở Bắc Tiệp không hành sự lỗ mãng, chàng làm vậy tất đã có phần chắc chắn, nên gót sen nhẹ bước, theo phu quân vào phủ thủ thành.
Phiên Lộc dẫn mọi người vào trong, sau khi đuổi hết những người không liên quan, hắn mới buông tay Sở Bắc Tiệp ra. Mạc Nhiên ở bên cạnh giới thiệu, chỉ vào Sính Đình, nói: “Vị này chính là Bạch cô nương”.
Sính Đình chưa từng gặp Phiên Lộc, đâu biết nam nhân này có dây mơ rễ má đến việc nàng giả chết, nên chỉ coi như người mới quen, lễ độ gật đầu.
Phiên Lộc biết, nếu không phải vì nữ nhân ấy, đời này Phiên Lộc sẽ chẳng được gặp Túy Cúc. Nghĩ đến Túy Cúc, trong lòng hắn lại mênh mang nổi sóng mà mỉm cười cổ quái với Sính Đình.
Mạc Nhiên lại chỉ vào Hoắc Vũ Nam, nói: “Vị này chính là Hoắc thần y”.
Lời vừa nói ra, vẻ mặt Phiên Lộc đã trở nên vô cùng nghiêm túc, quỳ sụp cả hai gối xuống.
Hoắc Vũ Nam thất kinh, biết người này rất quan trọng với Sở Bắc Tiệp nên vội đỡ dậy: “Không dám, không dám, Thủ thành đại nhân có ai bị bệnh, xin hãy dẫn kẻ già này tới xem. Ta tuy bất tài, nhưng y thuật cũng tạm được”.
Phiên Lộc vẫn quỳ nguyên tại chỗ: “Không có ai bị bệnh, nhưng con muốn cầu xin một việc. Con tên là Phiên Lộc, ngoại hình anh tuấn, thân thể cường tráng, một tay nỏ xuất sắc, toàn tâm toàn ý với người khác, thông minh lanh lợi, học thứ gì cũng nhanh hơn người…”.
Phiên Lộc nói một tràng như pháo nổ. Ngoài Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên, tất cả mọi người đều cảm thấy đầu quay vòng vòng. Sau khi kể hết những sở trường có và không có, Phiên Lộc lại hỏi Hoắc Vũ Nam: “Hoắc thần y thấy thế nào, Hoắc thần y có vừa lòng với kẻ hậu sinh này không?”.
Hoắc Vũ Nam bị Phiên Lộc xoay đến chóng mặt, cứ ngỡ Phiên Lộc muốn làm môn đệ học y thuật, nhưng đời này ông chỉ có mỗi một đồ nhi là Túy Cúc, không có ý định nhận thêm ai. Biết người đó rất quan trọng trong kế hoạch lần này của Sở Bắc Tiệp, tuyệt đối không được đắc tội, nên Hoắc Vũ Nam đành nói một cách không rõ ràng: “Thủ thành đại nhân tuấn kiệt như thế, thật khiến người ta hâm mộ”.
Vừa nghe lời này, Phiên Lộc nói luôn: “Vậy xin Hoắc thần y nhận của con ba lạy”.
“Không… không được”.
Hoắc Vũ Nam chưa nói xong, Phiên Lộc đã dập đầu ba cái, sau đó đứng thẳng lên, vẻ mặt không còn nghiêm túc như lúc trước, cười ha ha nói: “Việc này không thể chậm trễ, Hoắc thần y đã nhận của con ba lạy, sau này con xin được gọi Hoắc thần y là nhạc phụ”.
Lời này vừa nói ra, không những Hoắc thần y, mà cả Sính Đình cũng sững sờ.
Mọi người nhìn nhau, Phiên Lộc thì hớn hở như vừa thắng được một trận lớn, ngó xuống dưới lầu gọi thật to: “Thê tử! Thê tử của Phiên Lộc mau ra đây bái kiến sư phụ của nàng, cũng là nhạc phụ của ta”.
Phiên Lộc lừa Túy Cúc vào gian nhà nhỏ, hứa đi hứa lại khi nào Sở Bắc Tiệp xuất hiện sẽ báo ngay với nàng. Ai ngờ sau khi họ đến, Phiên Lộc không hề thông báo với Túy Cúc, mà dùng mê hồn trận bắt Hoắc Vũ Nam nhận mình là “tế tử” ngay tại chỗ.
Túy Cúc vẫn đang trong phòng mình thấp thỏm không yên chờ sư phụ và Bạch Sính Đình đến, bỗng nghe Phiên Lộc gọi trên lầu, liền vội vàng đứng dậy, chạy như bay lên đó. Vừa bước vào cửa, nàng đã thấy toàn những gương mặt quen thuộc. Nàng nghẹn ngào gọi Sính Đình một tiếng: “Bạch cô nương…”, rồi nhìn sang sư phụ đã gầy hơn nhiều đang đứng trước mặt mình, tuy trong lòng đã có sự chuẩn bị, nhưng nàng vẫn không khỏi sững sờ.
Bỗng chốc, cả căn phòng yên lặng như tờ.
Đờ đẫn đứng đó hồi lâu, hai vai bỗng run rẩy, Túy Cúc òa khóc: “Sư phụ! Sư phụ!”.
Hoắc Vũ Nam cũng mở mắt trừng trừng.
Khi Túy Cúc xuất hiện, dường như Hoắc thần y đã không còn nghe thấy gì nữa, cứ ngỡ mình đang đi trên mây, niềm vui từ trên trời rơi xuống đã cuốn sạch mọi ưu phiền chất chứa trong lòng.
Túy Cúc, chính là tiểu nha đầu Túy Cúc…
Hình dáng ấy, khuôn mặt ấy, đôi mắt đen ấy… đều là của Túy Cúc.
Đôi mắt già nua chưa mất đi vẻ thông tuệ bỗng chốc trở nên mù mịt, môi ông run rẩy, nhưng không nói nổi một lời.
Cảm giác ấm áp dâng trào, có người ôm chặt lấy ông, tiếng khóc vang lên bên tai, âm thanh quen thuộc đến nỗi khiến ông cũng muốn khóc òa.
“Sư phụ… sư phụ… đồ nhi đã gặp được sư phụ rồi…”
Hoắc Vũ Nam cúi xuống, đôi mắt già nua nhìn đồ nhi thân yêu đang ngổn ngang trăm mối gục đầu khóc trong lòng mình. Ông cũng không biết làm gì hơn, chỉ vỗ nhẹ vào lưng Túy Cúc như trước kia, cũng chẳng hỏi gì, mả lẩm bẩm: “Hài nhi của ta, hài nhi của ta…”.
Sính Đình nín thở theo dõi cảnh ấy, cho đến khi cảm thấy tim mình vui đến phát đau, bên cạnh bỗng có người kéo tay áo mình, nàng mới quay qua, đôi mắt lấp lánh nước, Sở Bắc Tiệp cười nói: “Nàng hãy khóc trong lòng ta”.
Sính Đình gục đầu vào lòng chàng, bật khóc.
Hai cô nương khóc nức nở, khiến Hoắc thần y mắt cũng đỏ hoe.
Mạc Nhiên đứng bên cạnh mỉm cười. Cuối cùng mọi người cũng hiểu nguyên do tại sao Sở Bắc Tiệp lại nói đã nắm chắc phần thắng.
Phiên Lộc lặng lẽ đứng bên cạnh, thấy Túy Cúc vẫn khóc mãi không thôi thì quay qua trêu nàng: “Đừng khóc nữa. Sư phụ nàng đã đồng ý nhận ta làm tế tử, ta đã dập đầu ba cái rồi. Này, nàng cũng dập đầu ba cái đi”.
Túy Cúc lau hàng lệ trên mặt, trừng mắt: “Ai cần ngươi dập đầu!”. Vừa rồi vì khóc nhiều, nên mắt nàng mọng đỏ, giọng nói cũng khản đặc, hỏi lại Phiên Lộc: “Sư phụ của ta, sao ngươi lại gọi là nhạc phụ?”.
Phiên Lộc trước nay vẫn nhất nhất nghe theo Túy Cúc, nên vui vẻ đáp: “Được rồi, thế thì ta cũng gọi là sư phụ”.
Hoắc Vũ Nam gặp lại đồ nhi, khó khăn lắm mới cầm được nước mắt. Thấy đồ nhi và Phiên Lộc cãi qua cãi lại rất thân thiết, rồi nhìn hai gò má Túy Cúc đang ửng đỏ, ông bỗng chốc hiểu ra, niềm vui tăng lên vài phần, sống mũi cay cay, vội cười ha ha nói: “Gọi ‘nhạc phụ’ cũng được, chỉ cần người đối tốt với đồ nhi của ta, cũng không cần dập đầu, ‘nhạc phụ’ hay ‘sư phụ’ tùy ngươi gọi”.
Túy Cúc xấu hổ: “Sư phụ!”.
Túy Cúc không cất lời thì thôi, vừa kêu một tiếng, mọi người đều cười ầm lên.
Sính Đình lau nước mắt, ngẩng lên định nói gì. Sở Bắc Tiệp sợ nàng trách mình giấu chuyện gặp Túy Cúc, vội nói: “Việc chính quan trọng, hãy để lúc khác hàn huyên”.
Mọi người đều biết tình thế khẩn cấp, ai nấy lập tức tập trung tinh thần. Phiên Lộc mang ra một cái bàn, trải trên đó cuộn sách, không còn vẻ cợt nhả ban nãy: “Đây là bản đồ xung quanh thành Thả Nhu, năm đường màu đỏ bên trên chính là năm đường vận chuyển quân lương qua Thả Nhu. Tất cả bọn hõ đều nghỉ chân ở Thả Nhu”.
Bản đồ này do Phiên Lộc tự vẽ, rõ ràng hơn những bản đồ khác rất nhiều. Sở Bắc Tiệp xem xong, nhìn Phiên Lộc, gật đầu tán thưởng.
Túy Cúc không hiểu việc hành quân đánh trận. Nàng khóc với sư phụ một hồi, lại nhớ đến Sính Đình, bèn quay sang nói với sư phụ: “Sư phụ, chúng ta sang bên kia, Túy Cúc bóp lưng cho sư phụ được không?”. Nói xong, nàng quay sang mỉm cười với Sính Đình, ánh mắt không nói hết niềm vui. Túy Cúc đi đến nói với Sính Đình: “Bạch cô nương, chúng ta sang bên kia đi”.
Sính Đình cũng chỉ mong được cùng Túy Cúc dốc hết nỗi sầu ly biệt, hai người liền cùng Hoắc Vũ Nam sang phòng bên cạnh. Ba người ngồi bên nhau, Túy Cúc rót cho mỗi người một chén trà, sau đó vừa chậm rãi bóp lưng cho sư phụ, vừa kể lại những chuyện xảy ra sau khi tạm biệt Sính Đình. Vì sợ sư phụ và Sính Đình tức giận với Phiên Lộc nên Túy Cúc cố tình giấu gần hết chuyện xấu xa Phiên Lộc từng làm.
Hoắc Vũ Nam nghe xong, cười nói: “Lúc nào con cũng nói hắn xấu xa, thực ra người ta cũng có làm việc gì xấu đâu”.
Sính Đình thì hỏi: “Ngươi có tình ý với hắn không?”.
Hai má đỏ ửng, Túy Cúc cau mày giận dỗi: “Ai thèm để ý tới hắn chứ!”.
Chỉ cần nhìn qua, trong mắt Hoắc Vũ Nam và Sính Đình đã hiểu rõ: Túy Cúc thực sự có tình cảm với Phiên Lộc.
Khi ba người học nói chuyện, câu chuyện của những nam nhân phòng bên cũng vô cùng rầm rộ.
Sở Bắc Tiệp nói với Phiên Lộc dự định ban đầu của họ, Phiên Lộc cười nói: “Việc này Vương gia tìm đúng người rồi, vốn ở trong quân bao năm, ta hiểu rõ chuyện nội bộ. Những tướng lĩnh nào của Vân Thường có thể lung lạc, những tướng sĩ nào lập trường kiên định, ta đều nắm chắc trong lòng bàn tay”.
Sở Bắc Tiệp quá mừng, quyết đoán ngay: “Thế này là tốt nhất, làm phiền Phiên thủ thành lập tức đưa ra danh sách, chúng ta sẽ lần lượt cân nhắc”.
Ở phòng bên, Sính Đình cũng kể lại với Túy Cúc những chuyện xảy ra sau đó, nghĩ đến việc cả hai đều tưởng người kia đã chết, ngày đêm đau đớn khôn nguôi, không biết đã phải rơi bao nhiêu nước mắt, hai nàng lại sụt sịt, chỉ khi nói đến Trường Tiếu hoạt bát nghịch ngợm, mới ngăn được dòng nước mắt.
Trò chuyện xong, Sính Đình quay lại gian phòng bên cạnh, vừa vào cửa đã hỏi: “Đã bàn bạc xong chưa?”.
Sở Bắc Tiệp quay lại cười đáp: “Trời ban tướng tài cho ta. Ha ha, việc quân lương có chút biến động, phải nhờ Bạch quân sư giúp cho mới được”. Nói xong, chàng chắp tay hành lễ với Sính Đình.
Biết Sở Bắc Tiệp đang đùa mình, Sính Đình quay đi, nói: “Sính Đình không trúng kế của Vương gia đâu, nhận một lễ này, chắc Vương gia lại có việc muốn làm khó thiếp. Việc quân lương, rốt cuộc đã thay đổi như thế nào?”.
Nàng nhìn quanh một vòng, thấy mọi người đều có vẻ bí mật xen lẫn hưng phấn, chắc chắn Sở Bắc Tiệp đã nghĩ ra diệu kế gì.
Sở Bắc Tiệp nhìn nàng cười, một lúc sau mới nói: “Chúng ta không bỏ độc mà là bỏ thuốc”.
Sính Đình nghe xong, cau mày suy nghĩ, chỉ một lát sau hai hàng mày thanh
Tàn quân thảm bại của Quy Lạc đã bị tiêu diệt gọn ghẽ. Phi Chiếu Hành mang theo hai cái hộp, một đựng thủ cấp của Nhạc Địch và một của Nhạc Chấn.
Đôi phu tử này từng là chủ nhân của Phi Chiếu Hành. Hắn từng đi theo họ, sống chết vì họ, đổ máu và mồ hôi vì họ, để cuối cùng nhận lấy kết cục “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn”.
Không cam lòng! Thật sự không cam lòng!
Nỗi lòng đó khiến Phi Chiếu Hành không hề do dự mà lựa chọn phản bội. Chính sự phản bội ấy đã làm nên thành công ngày hôm nay.
Ù… Ù…
Tiếng tù và trầm thấp mà ngân nga chào đón họ trở về.
Cổng thành đã mở. Phi Chiếu Hành cưỡi trên lưng ngựa cao lớn nhất, đi giữa tiếng tù và vang vọng, mang theo niềm vui khoan khoái tiến về nơi đã từng là thành đô Quy Lạc.
Giờ Quy Lạc không còn nữa, Hà Túc đã chết, vương tộc Quy Lạc đã bị diệt vong.
Dân chúng quỳ hai bên đường nghênh đón, rõ ràng những con dân mất nước này đã bị binh sĩ đuổi ra khỏi nhà, khiếp sợ quỳ mọp ở đây, hàng vạn ánh mắt kinh ngạc, khiếp sợ hoặc bi phẫn đan xen, tập trung về phía Phi Chiếu Hành.
Những ánh mắt chẳng mấy thiện cảm đó không hề làm giảm bớt niềm vui và sự đắc ý của Phi Chiếu Hành.
Hắn không cần để ý đến dân chúng thấp kém đang quỳ mọp dưới kia. Họ chưa từng biết đến bạc nhược và bất tài của Hà Túc. Họ không biết rằng, bậc vương giả phải quyết đoán, độc ác và vô tình.
Ai có thể so được với Hà Hiệp? Một tiểu Kính An vương hùng tâm tráng chí, dũng mãnh thiện chiến, kiếm pháp cũng như ánh mắt vô cùng lạnh lẽo.
Ngoài cuộc tỉnh táo, trong cuộc u mê.
Phi Chiếu Hành còn hiểu rõ hơn Hà Hiệp, rằng Diệu Thiên công chúa là một cửa ải của Hà Hiệp.
Khi Diệu Thiên công chúa trút hơi thở cuối cùng ở vương cung Vân Thường, khắp thiên hạ đã không còn điều gì có thể trói buộc, ngăn cản Hà Hiệp.
Vân Thường quốc tang lại khiến Phi Chiếu Hành cảm thấy lòng hăng hái. Đời người là một canh bạc, muốn thắng vẻ vang phải có nhãn quan. Phi Chiếu Hành từng theo lầm Nhạc Chấn, nhưng lần này cũng coi như đã đặt đúng cửa.
Đi theo Hà Hiệp, hắn có cơ hội ngàn năm khó kiếm.
Qua cổng thành, càng tiến vào trong, đường xá càng vắng vẻ. Thỉnh thoảng, Phi Chiếu Hành chỉ thấy những ánh đao lạnh lẽo của binh sĩ Vân Thường, và cả những khuôn mặt bất an của muôn dân.
Trên đường lớn, một thị vệ tâm phúc của Hà Hiệp xuất hiện, ngăn bước Phi Chiếu Hành ý chí đang hăng hái thẳng tiến đến vương cung: “Tiểu Kính An vương không ở trong vương cung, mời Phi tướng quân qua vương phủ Kính An”.
Phi Chiếu Hành gật đầu, thúc ngựa quay đi. Vương phủ Kính An vốn là nhà của Hà Hiệp, Hà Hiệp ở đó hoàn toàn thấu tình đạt lý.
Phi Chiếu Hành xuống ngựa trước cổng vương phủ Kính An. Đập vào mắt hắn là một phủ đệ giờ chỉ còn là phế tích. Sững sờ một lúc, hắn mới theo thị vệ, bước qua bục cổng cao.
Rêu xanh phủ kín vương phủ, cỏ mọc đầy sân.
Phía bên kia, trụ đá cháy nham nhở, Hà Hiệp một mình một bóng đứng giữa hoang vu.
Bóng dáng đó đã có được cả một dải núi sông rộng lớn, từ nay ngàn thu muôn thuở, hậu thế sẽ truyền tụng cái tên của người này.
Phi Chiếu Hành không dám sơ ý, bước đến gần đó, đứng lại, rồi mới cung kính nói: “Bẩm tiểu Kính An vương, mạt tướng đã đem theo thủ cấp của Nhạc Địch và Nhạc Chấn về đây”.
Hà Hiệp sớm đã biết Phi Chiếu Hành đến, bèn quay lại, cười nói: “Vất vả rồi, ngươi làm rất tốt. Ta đã chuẩn bị sẵn phần thưởng cho ngươi. Đến đây, đọc đi”.
Một thị vệ bước đến, giở cuộn gấm trong tay, lần lượt đọc hết, quả nhiên đồ ban thưởng không ít. Phi Chiếu Hành trước đây theo Nhạc Chấn, cũng thường xuyên ra vào vương cung Quy Lạc, nghe thấy trong danh sách ban thưởng của Hà Hiệp có vài món được Quy Lạc vương coi như báu vật vô giá.
Hà Hiệp ngồi xuống, vẻ lãnh đạm, hình như đang cười, nhưng ánh mắt chẳng hề tươi tỉnh, khiến người ngoài nhìn mà không hiểu.
Phi Chiếu Hành đợi thị vệ đọc xong, hành lễ tạ ơn: “Nhờ phúc của tiểu Kính An vương, mạt tướng mới được đánh một trận vẻ vang như vậy, mạt tướng sao dám nhận nhiều tặng phẩm thế này”. Nói xong hắn lại thận trọng hỏi, “Thủ cấp của Nhạc Địch và Nhạc Chấn, tiểu Kính An vương vẫn chưa nhìn qua, có…”.
“Không cần”, Hà Hiệp lắc đầu, “Ta còn không tin ngươi sao?”.
Hai thị nữ xinh đẹp dâng trà lên Hà Hiệp và Phi Chiếu Hành. Phi Chiếu Hành tạ ơn Hà Hiệp, hai tay nhận lấy chén trà. Chén trà trong suốt mỏng tang, nhìn qua đã biết là đồ quý hiếm, nhưng hoàn toàn không ăn nhập với nơi phủ trạch tiêu điều này.
Hình như biết rõ Phi Chiếu Hành đang nghĩ gì, Hà Hiệp nhấp một ngụm trà, nói: “Ta đã từng cho treo lụa đỏ gấm xanh nơi này, rồi sắp xếp những đồ gia dụng tinh xảo, nhưng vẫn không thêm được chút ít sinh khí. Ta cũng sai người sửa chữa những bức tường đổ nát ấy, nhưng vừa bắt đầu, ta lại hạ lệnh dừng ngay. Ngươi biết tại sao không?”.
Phi Chiếu Hành đặt chén trà xuống, ngồi ngay ngắn lại, rồi thận trọng đáp: “Vương phủ Kính An ngày trước chính là vương phủ Kính An ngày trước, cho dù tu sửa thế nào cũng không thể quay trở lại”.
Đôi môi mỏng của Hà Hiệp khẽ động, hình như đang mỉm cười, nhưng chỉ thoáng qua: “Đúng thế, nếu đã mất đi, sẽ không bao giờ quay lại được. Tại sao vào thời khắc phải chọn lựa lấy hay bỏ, con người ta không thể nhìn thấu điều này? Ta thực sự rất hối hận”. Giữa hai hàng lông mày của Hà Hiệp ẩn chứa nỗi bi thương không hề che giấu.
Không ngờ Hà Hiệp lại nói với mình những lời gan ruột này, Phi Chiếu Hành vừa vui lại vừa sợ, ngôn ngữ cử chỉ càng thêm thận trọng.
Trong mắt Phi Chiếu Hành, Hà Hiệp là bậc kiêu hùng vô song thiên hạ. Hà Hiệp trí dũng hơn người, dã tâm hừng hực, ngôn ngữ cử chỉ thận trọng, luôn giấu kín nỗi lòng, kỵ nhất để người khác nhìn thấu tâm tư.
Phi Chiếu Hành cúi xuống bê chén trà lên, nhấp một ngụm, vờ cho trơn họng.
“Ta đã giết cả nhà Hà Túc”, Hà Hiệp nói xong lại hỏi, “Ngươi có nghe lời đồn bên ngoài không?”.
Phi Chiếu Hành gật đầu: “Có nghe qua”.
“Ngươi thấy thế nào?”.
“Vương tộc mất nước, chẳng qua chỉ là thân con sâu con kiến. Tiểu Kính An vương đã có được cả thiên hạ, giết mấy con sâu con kiến cũng có gì là không được?”.
“Ta không muốn giấu ngươi”, Hà Hiệp nhìn Phi Chiếu Hành, mỉm cười, “Lời đồn ngoài kia cũng chẳng sai, Hà Túc không hề có ý định cùng Vương hậu mưu hại ta, là ta vô cớ giết cả ba người họ”.
Phi Chiếu Hành sững người, đang không biết đáp thế nào, Hà Hiệp đã chuyển sang chuyện khác: “Thương Lộc tướng quân tử trận, cánh quân Vĩnh Xương hiện do ai tiếp quản?”.
Phi Chiếu Hành đáp: “Trên chiến trường mất chủ tướng, phải lập tức quyết đoán, nên mạt tướng đang tạm thời tiếp quản”.
Hà Hiệp chậm rãi nói: “Đông Chước cũng trưởng thành rồi, cần có cơ hội để luyện tập. Hiện giờ Vân Thường đã ổn định, ta muốn điều Đông Chước ra sa trường để rèn luyện bản lĩnh, hãy giao cánh quân Vĩnh Xương cho Đông Chước quản lý. Sau khi trở về, ngươi hãy bàn giao mọi việc”.
Phi Chiếu Hành nhận lệnh.
Không biết tại sao, hôm nay có quá nhiều cảm xúc, Hà Hiệp thở dài, đứng dậy nói với Phi Chiếu Hành: “Đi, ngươi cùng ta đi một vòng xem sao”.
Phi Chiếu Hành theo Hà Hiệp, chậm rãi đi một vòng quanh vương phủ Kính An.
Đình viện đã hoàn toàn hoang phế, mặt hồ đầy bèo, thỉnh thoảng có đám bọt khí trôi qua trôi lại. Nhưng dưới mặt nước không phải đàn cá chép lộng lẫy sắc màu tung tăng bơi lội, mà là những con cá đen sì, chẳng biết chúng đã vào đây bằng cách nào.
Côn trùng rả rích kêu trong đám cỏ.
Hai người một đi trước một theo sau, bước thấp bước cao trên những đám cỏ. Một lúc lâu, Hà Hiệp bất chợt lên tiếng: “Mọi chuyện xảy đến thật nhanh, cả Quy Lạc cũng không còn nữa”, ngôn ngữ chất chứa bao cảm khái.
Phi Chiếu Hành thầm ngạc nhiên, Hà Hiệp đã có được thiên hạ, sao vẫn rầu rĩ? Phi Chiếu Hành vừa nghĩ vừa liếc trộm bóng lưng thẳng và căng như dây đàn của Hà Hiệp.
Cũng có thể vì giờ không còn đại quân nào đủ sức chống chọi với Hà Hiệp, nên lần này gặp lại, Phi Chiếu Hành cảm thấy Hà Hiệp đã xa cách hơn trước rất nhiều, khắp người bắt đầu tỏa ra sự uy nghiêm của bậc chí cao vô thượng.
“Đại quân Quy Lạc đã bị tiêu diệt, tứ quốc đã thống nhất, ta định ra chiếu thư, lấy danh nghĩa của tiểu Kính An vương thành lập tân quốc, lấy quốc hiệu Kính An”.
Chần chừ một lát, Phi Chiếu Hành thử khuyên nhủ: “Lập tân quốc tất nhiên quan trọng, nhưng việc Trấn Bắc vương vẫn chưa giải quyết xong, liệu có nên…”.
“Không cần lo lắng. Dù Sở Bắc Tiệp có bản lĩnh đến mức nào, cũng không thể một mình chống lại mấy chục vạn quân của ta. Tướng không có quân thì có gì đáng sợ?”, Hà Hiệp cười gằn, “Đợi sau khi ta đăng cơ, hắn sẽ không còn là Trấn Bắc vương của Đông Lâm nữa, mà là nghịch tặc của Kính An quốc, giết hắn hoàn toàn là lẽ tất nhiên. Có được một đối thủ thế này cũng chẳng dễ dàng gì, đợi có thời gian, ta sẽ từ từ đối phó với hắn”.
Nghe ý Hà Hiệp, tứ quốc đã thống nhất, giờ không còn đối thủ xứng tầm, nên Hà Hiệp không muốn dồn Sở Bắc Tiệp vào chỗ chết ngay lập tức, mà muốn chơi trò mèo vờn chuột dần dần ép Sở Bắc Tiệp tới đường cùng.
Cũng không thể nói Hà Hiệp tự kiêu tự đại, khắp tứ quốc, những đại quân có thể đối kháng với hắn đã dần bị tiêu diệt. Một mình Sở Bắc Tiệp liệu có được bản lĩnh gì để khiêu chiến với đại quân Vân Thường? Nếu Sở Bắc Tiệp dám công khai chiêu mộ phản quân, ngay lập tức đại quân Vân Thường sẽ kéo đến vây bắt, thế quân đông gấp mười lần, chắc chắn Sở Bắc Tiệp sẽ chết tại trận.
Tuy cảm thấy không ổn, nhưng từng từ của Hà Hiệp đều vô cùng chắc chắn, không thể thay đổi, Phi Chiếu Hành đành im miệng, gật đầu.
Hà Hiệp bất chợt dừng lời: “Có việc này phải giao cho ngươi đi làm”.
“Vâng”.
“Ta muốn ngươi đi thu thập châu báu các nước, đặc biệt là trân châu đá quý hảo hạng và một đội thợ giỏi chuyên khảm nạm đá quý cũng như chế tác đồ trang sức”.
Phi Chiếu Hành hiểu ngay lập tức: “Tiểu Kính An vương muốn chế tạo vương miện?”.
Hà Hiệp lắc đầu, giơ hai ngón tay lên: “Hai chiếc, một mũ vua, một mũ hậu. Cả hai đều phải tinh xảo đẹp mắt không gì sánh kịp, không được để xảy ra bất cứ sai sót nào”.
Phi Chiếu Hành nhận lệnh, nghe Hà Hiệp dặn dò thêm vài câu rồi cáo từ ra khỏi vương phủ Kính An.
Trở về phủ đệ mình vừa được sắp xếp, Phi Chiếu Hành nghĩ đi nghĩ lại, vẫn cảm thấy có chỗ không ổn, bèn gọi một tâm phúc ở Quy Lạc đến, hỏi: “Sau khi trở về Quy Lạc, tiểu Kính An vương có để mắt đến nữ nhân nào không?”.
Tâm phúc kia suy nghĩ kỹ càng, rồi lắc đầu đáp: “Thuộc hạ không nghe nói tiểu Kính An vương gần gũi nữ sắc. Sau khi trở về thành đô Quy Lạc, tiểu Kính An vương chỉ ở trong vương phủ Kính An xử lý sự vụ. Cũng đúng thôi, vương phủ Kính An giờ chẳng còn ai, tiểu Kính An vương quay về đất cũ, khó tránh khỏi lòng thương nhớ chuyện xưa”.
Phi Chiếu Hành nghe xong, cảm thấy có điều gì đó đang nghẹn trong cổ họng, nhưng không thể nói thành lời, chỉ thấy mình đã bỏ sót một số chuyện. Đang suy nghĩ, bỗng một thuộc hạ vào báo, đồ ban thưởng của Hà Hiệp đã được đưa đến.
Phi Chiếu Hành đích thân ra nhận, mở một hộp ra xem, đều là những đồ quý hiếm. Hà Hiệp không tiếc ngàn vàng ban thưởng, xem ra sau này không phải là một đại vương keo kiệt. Phi Chiếu Hành mừng thầm trong lòng, thưởng cho thị vệ đưa tới không ít tiền vàng.
Trưởng thị vệ của Hà Hiệp cũng đích thân đến, sau khi cung kính cười với Phi Chiếu Hành, lại nói: “Huynh đệ ta phụng lệnh đến đây còn có một việc, đó là Đông Chước tướng quân sẽ cai quản cánh quân Vĩnh Xương, mời Phi tướng quân lấy soái ấn bàn giao rõ ràng”.
Phi Chiếu Hành đã sớm biết việc này, nên vui vẻ đóng ấn lên công văn vừa đưa tới, cũng coi như đã bàn giao xong đạo quân Vĩnh Xương, rồi mới tiễn đám thị vệ vừa được ban thưởng không ít tiền vàng ra về.
Vì trong lòng đang vui, nên dù cả chặng đường trở về thành đô mệt mỏi, Phi Chiếu Hành vẫn chưa buồn ngủ, liền gọi mấy tướng lĩnh dưới trướng đến uống rượu chúc mừng.
“Cạn! Chén này chúc cho Phò mã của chúng ta sớm lên ngai vàng! Chén này chúc cho tướng quân của chúng ta thăng tiến vùn vụt, tiền đồ rộng mở…”.
Một phó tướng vội vã hạ giọng: “Đừng nhắc đến hai tiếng ‘Phò mã’ nữa, bên trên đã hạ lệnh, từ nay nhất loạt gọi là ‘tiểu Kính An vương’. Trương tướng quân, ông phải cẩn thận đó, đừng phạm húy”.
“Ồ, ta vốn là kẻ lỗ mãng chỉ quen giết chóc trên sa trường, đâu biết thế nào là phạm húy. Cạn!”
Vị phó tướng lại định khuyên nhủ, Trương tướng quân đã vội xua tay, vẻ mặt bất đắc dĩ: “Biết rồi, biết rồi, chẳng mấy chốc sẽ không gọi là ‘tiểu Kính An vương’ nữa đâu, mà gọi là ‘Hoàng thượng’. Nghe nói đám quan văn đã tự xưng ‘vi thần’ rồi”.
Đều là những tướng lĩnh cầm quân ra trận, kỳ thật trong quân nghiêm ngặt, cấm uống rượu, mồm miệng đã nhạt thếch, nay đến lúc cao hứng, chẳng mấy chốc họ đã uống hết sạch mấy bình rượu, cuối cùng, đến cả Phi Chiếu Hành cũng mơ mơ màng màng được dìu về giường.
Đúng lúc đang ngủ say, không hiểu tại sao Phi Chiếu Hành bỗng cảm thấy toàn thân lạnh toát, giật mình tỉnh giấc.
Phi Chiếu Hành ngồi bật dậy, trợn trừng mắt, tim đập tình thịch, cảm giác bất an trào lên.
Nhất định là có chỗ nào không ổn.
Phi Chiếu Hành vốn rất để ý đến dự cảm của mình.
Khi Nhạc Chấn chuẩn bị giết người diệt khẩu, Phi Chiếu Hành cũng vì cảm thấy bất an mà trở nên cảnh giác, nửa đêm chạy ra khỏi thành, thoát được kiếp nạn. Lúc này, cảm giác lo sợ khiến hắn trở nên thận trọng. Hắn suy nghĩ một lượt tất cả đoạn đối thoại với Hà Hiệp hôm nay, nhưng vẫn không tìm ra điều gì khác lạ.
Những việc Hà Hiệp cần Phi Chiếu Hành làm, hắn đều đã làm hết, không những tiêu diệt đại quân Đông Lâm, tiêu diệt Nhạc Địch và Nhạc Chấn, mà còn trừ khử cả Thương Lộc, chẳng lẽ còn điều gì sơ hở?
Nếu nói bản thân có chút tham lam tiền tài, cũng có thể Hà Hiệp đã biết việc này, nhưng không thể chỉ vì chút chuyện cỏn con đó mà phải đối phó với mình.
Rốt cuộc là không đúng ở điểm nào?
Không lẽ lại là “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn”? Sau phút kinh hãi, Phi Chiếu Hành liên tục lắc đầu.
Không, không thể, Hà Hiệp không phải là Nhạc Địch, cũng chẳng phải Nhạc Chấn. Hà Hiệp là tiểu Kính An vương có tài thao lược, có tấm lòng rộng lượng. Đã đánh trận xong, sắp lập nên tân quốc, Hà Hiệp uy nghi lẫm liệt trở thành chủ nhân thiên hạ cũng là thuận theo lẽ trời, chỉ cần vinh hoa phú quý vẫn có phần Phi Chiếu Hành là được.
Phi Chiếu Hành khổ tâm suy nghĩ, nhưng vẫn không thể tìm ra nguyên nhân, cuối cùng lại mơ màng ngủ tiếp.
Song, từ đó trở đi, Phi Chiếu Hành cũng thận trọng hơn.
Binh quý thần tốc, Sở Bắc Tiệp dẫn theo binh mã tiến thẳng đến thành Thả Nhu. Lúc đầu Sở Bắc Tiệp còn lo Sính Đình không chịu nổi đường xa mệt nhọc, nhưng nàng đã thường xuyên viễn chinh theo quân, nên Sở Bắc Tiệp cũng không còn lo lắng nữa, mà một lòng gấp rút lên đường.
Một ngàn tinh binh đến biên cương bắt đầu xé nhỏ thành những tiểu đội, tiến vào vùng bụng Vân Thường, rồi lặng lẽ tập hợp bên ngoài thành Thả Nhu. Đây đều là những binh sĩ tinh nhuệ còn trụ lại sau các trận đại chiến, người nào cũng tinh nhanh, không ai gặp bất trắc, không một tin tức nào lọt ra ngoài.
Quân Vân Thường vẫn không biết Trấn Bắc vương đã gần trong gang tấc. Dân chúng trong thành Thả Nhu càng không cảm nhận được kiếp nạn này.
Phiên Lộc cũng chẳng hề biết mình đã trở thành mồi săn của Trấn Bắc vương.
Vị thủ thành Thả Nhu này còn đang đau đầu vì sự việc khác hoàn toàn không liên quan gì đến Trấn Bắc vương.
“Bọn họ cố tình ép chết ta! Được thôi, đến đi, lão tử ở trong quân bao nhiêu năm, cũng chưa bao giờ phải chịu uất ức như thế này!” Phiên Lộc vò nát tờ công văn vừa đưa đến, vứt xuống đất. Xung quanh đều nghe thấy tiếng gầm quát của Thủ thành đại nhân.
“Ta làm sao biết được hai đại nhân đó chạy đi đâu? Bao nhiêu người tận mắt thấy họ đi khỏi thành Thả Nhu, họ lại thích đi thị sát khắp nơi, chưa biết chừng đã thị sát đến tận biên cương rồi. Người không thấy đâu, sao lại hạ lệnh cho lão tử điều tra? Lão tử đi đâu mà điều tra chứ? Mẹ kiếp!”
Sai dịch phụ trách truyền tin đã ôm đầu chuồn ra ngoài từ lâu, chỉ còn lại sư gia Đỗ Kinh đang cau mày nhìn Phiên Lộc giờ như con hổ bị đá đít, đi đi lại lại trong phòng.
Nộ khí của Thủ thành đại nhân hôm nay thật không nhỏ.
“Đại nhân hãy bớt cơn thịnh nộ, tuy công văn này thật vô lý, nhưng là ý quan trên, chúng ta không thể mặc kệ, việc này…”
“Ta biết là không thể mặc kệ”, Phiên Lộc gầm gừ một hồi, nộ khí cũng đã giảm bớt phần nào, cảm giác nhẹ nhàng hơn, khuôn mặt nở nụ cười, ngón chân đùa với tờ công văn trên đất, rồi bỗng đá vèo nó vào góc tường.
Phiên Lộc chậm rãi ngồi xuống ghế, còn gác cả chân lên bàn. “Điều tra thì điều tra. Sư gia, hãy dán cáo thị khắp thành Thả Nhu cho ta, vẽ hai con… À, vẽ hai vị đại nhân, nhớ là phải vẽ giống một chút, sau đó viết là…”, Phiên Lộc ngậm cán bút, giọng không còn rõ ràng, “Có hai vị quan mất tích, Thủ thành đại nhân phụng mệnh tìm kiếm. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Tìm được người, thưởng một trăm lạng bạc, tìm được xác, thưởng hai trăm lạng bạc. Cứ thế đi”.
Nghe giọng điệu ấy, biết rõ trong lòng Phiên Lộc đang âu sầu vì hai vị đại nhân kia, nhưng Đỗ Kinh không thể biết có phải Thủ thành đại nhân đang đùa hay không, chỉ biết dở khóc dở cười thưa: “Đại nhân, một, hai trăm lạng bạc, e là hơi ít, theo tiểu nhân, vẫn nên tăng thêm một chút. Vả lại, câu nếu tìm thấy xác, tốt nhất đừng cho vào…”.
“Được rồi, Sư gia cứ làm đi”, Phiên Lộc xua tay, ngáp dài, “Ta đã xử lý xong công vụ ngày hôm nay, Sư gia mau đi dán cáo thị, Thủ thành đại nhân phải đi nghỉ đây”.
Phiên Lộc quay vào hậu viện, tìm thấy Túy Cúc, liền cầm tay, kéo nàng ra cổng.
Tự nhiên bị lôi đi, Túy Cúc kinh ngạc: “Lại làm sao thế hả? Bộ dạng ngươi cứ như chạy loạn ấy”.
“Thời tiết đẹp thế này, hãy cùng thủ thành lão gia ra ngoài giải khuây”.
Túy Cúc nghe thế thì đứng sững lại, rút tay về: “Thả tay ra, ta còn chưa kịp tưới nước cho thảo dược. Vì việc giải khuây của ngươi mà để thảo dược phải chết khô sao?”.
Phiên Lộc túm chặt cổ tay Túy Cúc, không chịu buông ra, quay lại nhìn nàng: “Hôm nay quan trên gửi công văn đến nói, hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh đã mất tích, hạ lệnh cho ta điều tra. Này, rốt cuộc ngươi có đi cùng ta không?”.
Túy Cúc thất kinh, vội nhìn xung quanh.
Bồ Quang, Bồ Thịnh đã chết thế nào, hai người rõ hơn ai hết.
Sau khi lên nắm quyền, Hà Hiệp đã ra các chính sách vô cùng tàn khốc, khiến lòng người Vân Thường trên dưới bàng hoàng. Nếu việc này bị điều tra ra, kết cục sẽ thế nào? Có lẽ nàng và Phiên Lộc phải tìm một nơi để bàn bạc thật kỹ. Nàng đang nghĩ hay Phiên Lộc đưa mình ra ngoài tránh tai mắt để bàn bạc việc này, thì cả người bị Phiên Lộc lôi ra ngoài cổng phủ.
Thả Nhu tuy chỉ là một thành nhỏ nhưng đường phố rất nhộn nhịp. Phiên Lộc mặc thường phục ra khỏi cổng, Túy Cúc trước nay vẫn không thích ăn mặc diêm dúa, nên cũng chẳng ai để ý đến họ.
“Kẹo hồ lô không?”
“Tào phớ không?”
Đi trên phố, chỉ cần thấy thứ gì vừa mắt là Phiên Lộc liền móc tiền mua ngay rồi đưa cho Túy Cúc. Lúc đầu, Túy Cúc lắc đầu không lấy, Phiên Lộc tiện tay cho mấy đứa bé bên đường. Cuối cùng, Túy Cúc hết cách, đành phải nhận của Phiên Lộc một con tò he.
Đi hết cả một buổi chiều, Phiên Lộc chỉ toàn nói đến những chuyện chẳng liên quan, không hề nhắc đến việc của Bồ Quang, Bồ Thịnh.
Túy Cúc không thể chờ thêm, bèn hỏi: “Này, vậy phải làm thế nào?”.
“Cái gì làm thế nào?”
“Chúng ta làm thế nào? Có phải đi khỏi thành Thả Nhu không?”
Phiên Lộc quay lại nhìn nàng, hỏi: “Ngươi tưởng chúng ta đi chạy nạn thật à?”.
Nhìn thần thái của Phiên Lộc không giống như đang đùa, nhưng lời hắn trước nay vẫn chẳng thể tin tưởng hoàn toàn, Túy Cúc cố hạ thấp giọng, hỏi: “Vậy tại sao ngươi lại dẫn ta ra ngoài? Quan trên giao cho ngươi điều tra mà? Nhỡ chăng bị phát hiện, người có một trăm cái đầu thì cũng không đủ”.
“Đã nói dẫn người ra ngoài giải khuây cùng ta, ngươi lại có tật giật mình, cố tình nghĩ sang chuyện khác”. Phiên Lộc hất hàm về phía cổng thành, “Lão gia ta đã bắt đầu điều tra rồi, có thấy cáo thị dán trên cổng thành đằng kia không?”
Nói đến chuyện chính, Túy Cúc còn hăng hái hơn Phiên Lộc. Vừa nhìn thấy cáo thị, Túy Cúc chẳng kịp nói gì, vội kéo tay Phiên Lộc tới xem.
Trước nay đều là Phiên Lộc cầm tay Túy Cúc, đây là lần đầu tiên Túy Cúc chủ động cầm tay hắn.
Được bàn tay mềm mại như không xương cầm vào, Phiên Lộc bỗng thấy tim đập thình thịch, quay sang ngó Túy Cúc, nhưng nàng hoàn toàn chẳng hề để ý đến thần sắc Phiên Lộc.
Đỗ Kinh làm việc không chút chậm trễ, quả nhiên cáo thị đã được dán ngay cổng thành. Bao nhiêu cái đầu xúm đen lại xem cáo thị, nhưng trăm dân cũng biết rõ tiếng xấu của Bồ Quang, Bồ Thịnh, nên vẻ mặt ai nấy bình tĩnh như vừa nghe một câu chuyện phiếm. Túy Cúc chen vào đám người đọc hết cáo thị, tạm thời chỉ là điều tra hướng đi của hai vị đại nhân kia, trong lòng nàng cũng thở phào nhẹ nhõm, hạ giọng: “Là ngươi bảo Sư gia viết à?”.
Phiên Lộc hừ một tiếng, chửi đổng: “Mẹ kiếp, Đỗ Kinh dám sửa cáo thị của ta. Sư gia thật chẳng phải thứ gì tử tế”.
Túy Cúc ngạc nhiên: “Đỗ Kinh đã sửa cái gì?”.
“Vốn viết là có hai con lợn mất tích, sao giờ lại đổi thành hai vị quan mất tích?”
Túy Cúc cười khúc khích, rồi cố nhịn cười trừng mắt nhìn Phiên Lộc: “May ngươi còn được là thủ thành lão gia, cả ngày không đàng hoàng, chỉ nghĩ cách chọc người khác”.
Phiên Lộc vốn chẳng chịu thua ai bao giờ, lần này lại chỉ hừ một tiếng, nói với Túy Cúc: “Cáo thị cũng đọc xong rồi, chúng ta đi thôi”.
Hai người dắt tay nhau quay về, bỗng Phiên Lộc hạ giọng hỏi: “Người có sợ nhìn thấy người chết không?”.
Túy Cúc cau mày: “Ngươi lại muốn giết người?”.
Túy Cúc chỉ tiện miệng hỏi thế, ai ngờ Phiên Lộc lập tức trả lời: “Chính thế”.
Túy Cúc run bắn, nắm chặt bàn tay Phiên Lộc.
Giọng Phiên Lộc nhỏ hơn lúc nãy, chỉ thì thầm vào tai nàng: “Có một tên xấu xí cứ theo chúng ta nãy giờ. Ngươi đừng sợ, ta dẫn hắn vào ngõ tối, rồi bắn cho hắn mấy tên như bắn con thỏ trên núi”.
Vòng qua mấy ngã rẽ, tiếng huyên náo cũng bớt dần, hai người bước trong ngõ nhỏ, càng đi ngõ càng hẹp. Hai bên, tường đất kẹp chặt con đường nhỏ, chật đến nỗi ánh mặt trời cũng không sao chiếu vào được.
Càng đi sâu, ngõ càng tối.
Vốn là tay ngang ngược, từ khi trở thành thủ thành, cả ngày chúi mũi vào đống công văn, Phiên Lộc chỉ mong có ai đến là bia đỡ tên cho dứt cơn phiền. Cảm giác của một người từng làm mật thám cực kỳ nhạy bén, biết rõ chỉ có một người đang bám theo mình nên hắn yên tâm rẽ vào con ngõ cụt. Đến trước bức tường đất cuối cùng trong ngõ, Phiên Lộc quay lại, một tay nắm tay Túy Cúc, một tay lấy chiếc nỏ đã căng sẵn tên, rồi hỏi Túy Cúc: “Ngươi muốn ta bắn vào cổ hay tim hắn?”.
Túy Cúc thấy mũi tên sáng loáng thì càng sợ: “Ngươi đừng hỏi ta”, hai tay nàng nắm chặt tay Phiên Lộc.
Trong lòng càng vui, Phiên Lộc khẽ nhếch môi cười gằn: “Vị huynh đệ đi theo hãy bước ra ngoài, chúng ta nói chuyện”.
Phía góc tường thoáng có bóng người, chẳng mấy chốc, một người chầm chậm bước ra, mỉm cười: “Gặp được cô nương thật mừng quá. Cô nương cũng chẳng chịu gửi thư báo với chúng ta một tiếng, cô nương không biết chúng ta đã lo lắng thế nào đâu?”, rõ ràng người này đang nói chuyện với Túy Cúc.
Túy Cúc mở choàng mắt, giọng thất thanh: “Mạc Nhiên!”.
Mạc Nhiên gật đầu, rồi quay sang Phiên Lộc, nói từng tiếng rõ ràng: “Thủ thành đại nhân, đại nhân cũng thật may mắn đấy. Nếu không phải Túy Cúc cô nương đi bên cạnh, đại nhân đã đầu lìa khỏi cổ từ lâu rồi”.
Phiên Lộc cười ha ha, quay sang nói với Túy Cúc: “Ta rất thích cái cổ, một tên bắn đi, hắn sẽ im miệng ngay lập tức”. Hắn đang định bắn tên, bỗng toàn thân cứng đờ.
Một lưỡi đao sắc lạnh giơ ra từ phía sau, chuẩn xác kề vào cổ Phiên Lộc, giọng nam thấp trầm vang lên: “Ta cũng thích cái cổ”.
Phiên Lộc vốn vô cùng tự tin về cảm giác nhạy bén của mình, trước nay chưa từng có người nào có thể lặng lẽ tiến đến sau lưng như thế, trong lòng hắn vô cùng kinh ngạc. Phiên Lộc có sở trường về việc thăm dò địch, nghe khí thế ung dung nói cười của nam nhân sau lưng, biết gặp phải cao thủ, hắn thức thời buông chiếc nỏ trong tay, cố cười nói: “Vòng qua vòng lại, hóa ra chính ta lại là con thỏ xúi quẩy”.
Túy Cúc quay đầu nhìn lại, càng thêm kinh ngạc, bịt miệng kêu lên: “Trời ơi, là Vương gia…”.
Sở Bắc Tiệp đứng sau Túy Cúc, ngó nàng một cái: “Ngươi đã làm Sính Đình đau lòng lâu quá rồi”.
“Bạch cô nương?” Túy Cúc quá kích động, đưa hai tay ôm lấy ngực mình, cảm thấy trước mắt như có từng vòng lửa sáng lóa, nước mắt chỉ chực trào ra. Nàng hít mấy hơi thật dài, ngập ngừng hỏi: “Bạch cô nương… vẫn sống sao? Tốt quá rồi… tốt quá rồi… thế hài nhi? Hài nhi…”.
“Lát nữa hãy hàn huyên. Ngươi nhìn xem, cổ ta vẫn đang có thứ gì này”, Phiên Lộc ngắt lời Túy Cúc.
Túy Cúc đang xúc động, vừa gạt lệ, vừa trừng mắt nhìn Phiên Lộc: “Đến lúc này mà ngươi còn dám lớn tiếng với ta sao? Ngươi có biết sau lưng mình là ai không? Chỉ động tay một chút là đầu ngươi sẽ lìa khỏi cổ”.
Nghe hai người nói chuyện, Phiên Lộc đã đoán ra sau lưng mình chính là Trấn Bắc vương.
Đương nhiên Phiên Lộc có thể coi thường những đối thủ khác, nhưng gặp phải tình thế này, khi kiếm của Trấn Bắc vương đang kề cổ, có lợi hại gấp mười lần hắn cũng không thể thoát. Phiên Lộc vốn nghĩ thoáng hơn người khác, dứt khoát nghe theo số mệnh, nên không còn sợ nữa, cợt nhả hỏi: “Ngươi nỡ lòng nào?”.
Trước mặt Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên, Túy Cúc bị Phiên Lộc hỏi như thế thì vô cùng lúng túng, mặt đỏ bừng: “Ngươi… ngươi luôn bắt nạt ta, ta sẽ nhờ Vương gia giết ngươi để báo thù!”.
Phiên Lộc đang định nói gì, đã thấy lưỡi đao thoáng qua cổ, đau nhói.
“A!” Túy Cúc nhìn thấy vết máu trên cổ Phiên Lộc, sợ đến hồn bay phách lạc, kêu lên kinh hãi: “Vương gia, Vương gia, Túy Cúc chỉ nói đùa thôi, Vương gia đừng có…”.
Mạc Nhiên thấy hai người họ như thế, cũng đoán được vài phần, bèn nhìn Sở Bắc Tiệp dò hỏi. Thấy Sở Bắc Tiệp lặng lẽ gật đầu, Mạc Nhiên nghiêm giọng: “Hàn huyên tâm sự, đầu mày cuối mắt hãy để sau. Thủ thành đại nhân, hôm nay chúng ta đến đây muốn bàn với người chút chuyện”.
Phiên Lộc nhạy cảm hơn người, Trấn Bắc vương đột nhiên xuất hiện ở tòa thành Thả Nhu nhỏ bé này, còn có thể vì việc gì? Hắn liền đáp: “Các ngươi nhắm đến tòa thành bé tẹo này của ta, chẳng qua là vì số quân lương qua đây. Thực không muốn giấu, Hà Hiệp vì việc của Quý Thường Thanh mà không coi ta là con người, ngay đến con mèo, con chó còn dám đến đây giày vò lão tử, lão tử này chịu uất ức đã quá đủ rồi. Chỉ một câu thôi, muốn ta giao cả tòa thành này cho Trấn Bắc vương cũng được, nhưng ta có một điều kiện”.
Sở Bắc Tiệp thấy Phiên Lộc chỉ một câu đã bóc trần ý định đến đây của mình thì không khỏi kinh ngạc, nghĩ bụng: Một nhân tài hiếm có như thế, sao phải uất ức làm chức thủ thành ở cái thành bé cỏn con này? Thấy Phiên Lộc nói vòng vo, cuối cùng đưa ra điều kiện, Sở Bắc Tiệp đã đoán được bảy, tám phần, lưỡi đao kề trên cổ hắn cũng lỏng hơn, rồi đưa mắt ra hiệu cho Mạc Nhiên.
Mạc Nhiên hỏi: “Điều kiện gì?”.
Phiên Lộc suy nghĩ giây lát, bỗng lại thay đổi: “Sai rồi, Thả Nhu dù gì cũng là một tòa thành trì, đổi lấy một điều kiện thật không đáng giá, ta có hai điều kiện”.
Lần đầu tiên thấy có người trong lúc sống chết mà vẫn lôi thôi như thế, Mạc Nhiên cũng ngẩn người.
Biết bản tính Phiên Lộc, Túy Cúc ngẩng lên thấy máu trên cổ hắn vẫn đang chảy thì càng lo lắng, bụng mắng thầm Phiên Lộc lúc này rồi mà còn chọc giận Sở Bắc Tiệp, vội nói: “Ngươi bớt nói đi vài câu được không?”. Chẳng biết tại sao, bàn tay Túy Cúc cứ run rẩy, nghĩ rằng vì Bạch Sính Đình, chắc Vương gia cũng phải nể mặt mình vài phần, nên nhìn Sở Bắc Tiệp với ánh mắt khẩn cầu: “Vương gia, tính hắn như thế, Vương gia đừng trách”.
Phiên Lộc thấy Túy Cúc như thế, trong lòng ngọt hơn ăn mật, bất chấp tính mạng còn đang trong cơn nguy hiểm, bật cười.
Túy Cúc vừa lo vừa giận, véo tay hắn một cái.
Sở Bắc Tiệp lạnh lùng nhìn hành động giữa hai người họ, suy nghĩ một lúc, hạ giọng hỏi: “Ngươi cứ nói hết cả hai điều kiện đi”.
Sớm biết Sở Bắc Tiệp sẽ đồng ý, Phiên Lộc cười nói: “Thứ nhất, ta muốn có Túy Cúc”.
Túy Cúc kêu lên một tiếng, mặt đỏ đến tận mang tai, đứng đó không được, trốn đi cũng cẳng xong, cúi gằm mặt không dám nhìn ai, hạ giọng mắng mỏ: “Ta đâu phải món đồ, sao người lại ra điều kiện với Vương gia?”.
Phiên Lộc đáp: “Ta đang nói chuyện với Trấn Bắc vương, liên quan gì tới ngươi?”. Túy Cúc nghe mà tức đến sắp ngất đi.
Sở Bắc Tiệp gật đầu, nói: “Điều kiện này, bản vương chấp nhận”.
Phiên Lộc hỏi: “Nàng ấy không phải món đồ, Trấn Bắc vương có thể khiến nàng ấy đồng ý theo ta ư?”.
“Việc này dễ thôi”, Sở Bắc Tiệp chậm rãi, “Ta kề đao sắc vào ngón tay ngươi, sau đó hỏi Túy Cúc có đồng ý không. Túy Cúc nói một câu không đồng ý, ta sẽ chặt một ngón tay ngươi. Đảm bảo chưa chặt hết mười ngón, Túy Cúc sẽ đồng ý ngay”.
Phiên Lộc sững sờ, lẩm bẩm: “Cách này quá tuyệt tình”.
Ba nam nhân yên lặng, bất giác cùng bật cười. Sở Bắc Tiệp nhân cớ này bỏ cây đao ra khỏi cổ Phiên Lộc.
Thấy họ cười, mặt Túy Cúc càng đỏ bừng, cắn răng nói: “Nam nhân thật chẳng có ai tốt đẹp, đều cùng một giuộc”. Nói xong nàng hằn học nhìn Phiên Lộc: “Dù người bị chặt hết mười ngón chân, mười ngón tay, ta cũng mặc kệ. Ta đâu phải nô tỳ bán thân cho Vương gia, các người chẳng ai quản được ta!”.
Sở Bắc Tiệp lạnh lùng: “Thử là biết ngay”.
Túy Cúc thầm kinh hãi. Nàng biết Sở Bắc Tiệp trước nay nói một là một, hai là hai, hơn nữa, nghe ý Mạc Nhiên, Sở Bắc Tiệp vốn định giết quan thủ thành của thành Thả Nhu.
Túy Cúc đã từng nghe những người quyền quý nói chuyện cười đùa về việc sinh sát thưởng phạt, lo mình sẽ hại Phiên Lộc nên chẳng còn vẻ quật cường, im lặng không nói gì thêm.
Mạc Nhiên hỏi: “Điều kiện thứ hai là gì?”.
Phiên Lộc cười đáp: “Còn chưa nghĩ ra. Sau này nói có được không?”.
Sở Bắc Tiệp thấy Phiên Lộc nhanh nhạy hơn người, tính tình hào phóng thì đã có cảm tình, cộng thêm tâm ý của người này với Túy Cúc nên cũng vô tư thoải mái, mỉm cười nói: “Được rồi”.
Phiên Lộc hỏi: “Trấn Bắc vương mang theo bao nhiêu người vào đây?”.
“Chỉ có hai chúng ta”.
“Chỉ có hai người thật sao?”
Phiên Lộc thầm kinh hãi: Lá gan của Trấn Bắc vương cũng thật lớn. Với lai lịch của Trấn Bắc vương, nếu bị phát hiện, chắc chắn sẽ bị quan binh toàn thành truy bắt, nếu bị bao vây, sẽ không có cơ hội sống sót.
Nhưng, Sở Bắc Tiệp chỉ nói một câu: “Hai người là đủ rồi”.
Sở Bắc Tiệp vốn chỉ định cùng Mạc Nhiên vào thành tìm hiểu tình hình, không ngờ vừa vào phủ đã gặp Thủ thành đại nhân mặc thường phục vi hành, và điều không ngờ hơn cả là người hắn dẫn theo lại chính là Túy Cúc cô nương đã khiến Sính Đình đau khổ nhớ thương bao lâu nay. Không ngờ chỉ một con ngõ cụt lại khiến chiến dịch đánh thành Thả Nhu trắc trở gập ghềnh bỗng trở nên dễ dàng.
Cả ba đều là bậc trí dũng, họ lập tức quyết định tối nay sẽ gặp nhau tại phủ đệ của quan thủ thành.
Khi Sở Bắc Tiệp chuẩn bị cáo từ, Phiên Lộc bỗng hỏi: “Trấn Bắc vương không sợ ta hối hận ư?”.
Mạc Nhiên nhìn Túy Cúc, trả lời: “Có Túy Cúc làm con tin, sợ gì Thủ thành đại nhân hối hận”.
Sắc mặt chợt đổi, Phiên Lộc trầm giọng: “Các người đừng hòng đưa Túy Cúc đi”. Suy nghĩ giây lát, Phiên Lộc nở nụ cười uy hiếp, “Chỉ cần không thấy Túy Cúc, ta sẽ lập tức báo lên trên tố cáo các ngươi. Chi bằng, hãy giết ta luôn ở đây”.
Sở Bắc Tiệp thấy Phiên Lộc lo lắng cho Túy Cúc như thế thì cảm thấy hứng thú, hạ giọng: “Chúng ta không đưa Túy Cúc đi. Ngươi dẫn Túy Cúc đi làm con tin, ta đưa sư phụ của Túy Cúc đến làm con tin, cả hai bên đều yên tâm”.
Bất chợt bên ngoài có tiếng người đến, Sở Bắc Tiệp cảnh giác ra hiệu với Mạc Nhiên. Thời gian cấp bách, hai người gật đầu với Phiên Lộc rồi không nói gì thêm, tức tốc rời khỏi.
Phiên Lộc đứng nguyên chỗ cũ, nhìn họ đi thật xa.
Trấn Bắc vương quả nhiên danh bất hư truyền, những cái khác chưa cần nói, chỉ riêng công phu ẩn nấp ám sát kẻ địch đã rất ít người địch nổi rồi. Có thể qua lại với Sở Bắc Tiệp, trừ phi phải có hộ vệ nghiêm ngặt giống như một bậc quân vương, nếu không ai cũng phải phấp phỏng lo âu. Đang mải nghĩ, Phiên Lộc bỗng thấy có người nắm chặt tay mình, lắc mạnh.
Phiên Lộc quay lại nhìn, Túy Cúc vẻ mặt hưng phấn, hai mắt trợn tròn: “Người có nghe thấy không, là sư phụ! Sư phụ đã đến đây… Ta không nghe nhầm chứ? Ta không nghe nhầm, có đúng không?”. Nàng hít thật sâu, ôm lấy trái tim đang loạn nhịp, than thở: “Ông Trời ơi, tất cả tin tốt đều đến trong ngày hôm nay, ra ngoài giải khuây thật quá đúng! Bạch cô nương chưa chết, Vương gia đã đến đây, sư phụ cũng đến nữa…”. Nói tới đây, Túy Cúc lại ôm mặt khóc.
Phiên Lộc vốn đã chán ngán, nhưng thấy Túy Cúc khóc, hắn lại phải dỗ dành: “Lúc vui thì nên cười, sao lại khóc? Trời tối rồi, chúng ta về thôi”.
Túy Cúc vẫn khóc, lắc đầu nói: “Một lúc xảy ra quá nhiều chuyện, trong lòng ta đang rất loạn, chân cũng không đứng vững. Ngươi cứ mặc kệ ta”.
Phiên Lộc cười nịnh: “Vì ngươi mà ta phải bán cả cái thành Thả Nhu này, trong lòng ta càng loạn. Có điều, từ giờ trở đi, ngươi đã là người của ta, ta chịu thiệt một chút cũng được. ta sẽ bế ngươi về phủ”.
Thấy Phiên Lộc nói thế, Túy Cúc lo lắng nhìn hắn, khẽ hỏi: “Ngươi vì ta mà liên kết với kẻ thù của Vân Thường, chắc trong lòng rất khó chịu, đúng không?”.
Phiên Lộc hừ một tiếng: “Vương tộc Vân Thường đã chẳng còn nữa, sau này chắc chắn Hà Hiệp sẽ lập nên tân quốc. Ta làm thế này, không ai có thể nói là ta bán nước. Có bán, chẳng qua cũng chỉ bán Hà Hiệp mà thôi. Có gì mà khó chịu?”.
Lần do thám đầu tiên đến thành Thả Nhu đã thu được không ít, trong lòng Sở Bắc Tiệp không khỏi vui mừng. Quay về đến trại tạm bên ngoài thành, Sở Bắc Tiệp dặn dò Mạc Nhiên: “Việc hôm nay, ngươi đừng vội nói với người khác, ta muốn cho Sính Đình một niềm vui bất ngờ”.
Mạc Nhiên đáp: “Hoắc thần y chắc cũng vui lắm”.
“Tất nhiên rồi”.
Hai người bàn bạc xong, cùng bước vào trướng. Mọi người đều đang đợi tin của họ. Sính Đình lo lắng Sở Bắc Tiệp đi mãi không về, giờ thấy bóng dáng chàng, mới thầm thở phào nhẹ nhõm, đứng dậy đón hỏi: “Tình hình trong thành Thả Nhu thế nào? Ở đây thiếp đã bàn bạc với mọi người, chọn ra vài kế sách, nhưng mỗi kế đều có chút sơ hở. Muốn chiếm được thành Thả Nhu mà không làm kinh động đến quân Vân Thường, thật không dễ chút nào”. Nói xong, Sính Đình đưa cuộn kế sách vừa viết ra cho Sở Bắc Tiệp.
Sở Bắc Tiệp chỉ nhìn qua rồi đặt xuống, vẻ mặt tươi cười: “Bản vương đã nghĩ ra một cách tốt nhất”.
Sở Bắc Tiệp là chủ soái, giọng nói lúc này lại chắc chắn như thế, đây hẳn phải là một kế hay. Mọi người mừng rỡ, nhao nhao hỏi: “Vương gia đã có cách gì?”.
“Mấy người chúng ta quang minh chính đại vào thành, bái kiến Thủ thành đại nhân theo thông lệ, rồi tất cả ngồi xuống bình tâm bàn bạc điều kiện, khuyên hắn giúp chúng ta đối phó với Hà Hiệp”.
Ban đầu mọi người còn chăm chú lắng nghe, nhưng thấy Sở Bắc Tiệp nói mấy câu nhẹ nhàng như thế thì ai nấy xìu xuống, cười như mếu: “Vương gia đang đùa rồi”.
Hiểu rằng Sở Bắc Tiệp không bao giờ mang việc quân đại sự ra đùa, suy nghĩ giây lát, Sính Đình hỏi Sở Bắc Tiệp: “Hôm nay Vương gia đã vào phủ thành Thả Nhu rồi sao? Vị Thủ thành đó là người do Hà Hiệp hay Quý Thường Thanh đề bạt?”.
Chỉ một câu hỏi đã vào thẳng vấn đề, Mạc Nhiên đứng một bên, trong lòng thầm kêu lợi hại.
Nếu không phải vì Phiên Lộc thuộc phe cánh của Quý Thường Thanh, bị bè lũ Hà Hiệp chèn ép ngang ngược, thì dù là Túy Cúc ở đó, Phiên Lộc cũng không vừa gặp đã chịu dâng cả thành Thả Nhu cho Sở Bắc Tiệp.
Thấy đôi mắt đen của Sính Đình nhìn mình, Sở Bắc Tiệp cầm lòng không đặng mà nắm lấy bàn tay nàng, khẽ nói: “Lại để Sính Đình đoán trúng rồi, bản vương thật muốn nhường vị trí chủ soái này cho nàng. Ngoài việc này còn có nguyên nhân khác, nàng thử đoán xem”.
Thấy hai người vô cùng thân mật, mọi người đều im ắng mỉm cười nhìn họ.
Sính Đình hạ giọng đáp: “Nếu đoán thêm một chút nữa, thì có lẽ là Vương gia đã ra tay để Thủ thành đó nếm thử vài phần lợi hại”.
Mạc Nhiên cảm thán: “Không hổ là Bạch cô nương, điều này mà cô nương cũng đoán được ra. Công phu mai phục ám sát của Vương gia khiến cả đại tướng quân địch cũng phải giật mình khiếp đảm”.
Sở Bắc Tiệp mỉm cười: “Vẫn phải đoán thêm chút nữa”.
Sính Đình cau mày suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng lắc đầu: “Đoán nữa thì chịu thôi, Sính Đình đâu có phải thần tiên”.
“Ta cho nàng một gợi ý, đêm nay ta sẽ dẫn theo Hoắc thần y cùng vào thành”.
“Ồ, chắc là người mà Thủ thành Thả Nhu coi trọng đang mắc bệnh nặng?”
Nếu không phải Thủ thành bị phe phái của Hà Hiệp chèn ép, lại bị Sở Bắc Tiệp ra tay uy hiếp, cộng thêm việc cấp thiết phải cứu chữa cho người thân của mình, thì thật không còn khả năng nào có thể khiến hắn bắt tay với địch.
Sở Bắc Tiệp nói: “Ai chẳng có người mà bản thân coi trọng. Nhưng dẫu sao thì chúng ta cũng đã nắm chắc phần thắng trong tay, lần này ngay cả bản vương cũng không thể không cảm thán ý trời tác thành. Tối nay đi cùng chúng ta, nàng sẽ biết ngay thôi”.
Gần tối, Sở Bắc Tiệp dẫn theo Sính Đình, cho mới Hoắc thần y, rồi chọn ra mấy thuộc hạ tinh nhuệ, mọi người đều đổi y phục, nhân lúc cổng thành chưa đóng mà ung dung đi vào thành Thả Nhu.
Nhân lúc Sính Đình không để ý, Mạc Nhiên khẽ hỏi Sở Bắc Tiệp: “Thuộc hạ nghĩ đi nghĩ lại, vẫn thấy có chút mạo hiểm, nhỡ chăng Thủ thành đó hối hận, bán đứng Vương gia thì làm thế nào? Bọn thuộc hạ đi theo Vương gia thì không sợ gì, chỉ lo Bạch cô nương và Hoắc thần y…”.
Sở Bắc Tiệp bình tĩnh đáp: “Ngươi vẫn chưa gặp được nữ tử thân yêu của lòng mình, đợi đến khi gặp được, ngươi sẽ hiểu tại sao người đó quyết định không hối hận. Sao, ngươi không tin vào nhãn quan của bản vương?”. Làm chủ soái quan trọng nhất là việc nhìn người, Sở Bắc Tiệp trước nay nhìn người chưa bao giờ có sai sót. Nghe chủ soái nói vậy, Mạc Nhiên cũng hoàn toàn yên tâm.
Một đoàn người đến bên ngoài phủ thủ thành, báo với sai dịch là bằng hữu lâu ngày không gặp của Thủ thành đại nhân từ phương xa đến nhờ vả. Sai dịch được Phiên Lộc dặn dò từ trước, biết rằng mấy hôm nay sẽ có đám người này đến Thả Nhu, bèn lập tức chạy vào phủ thông báo.
Chẳng mấy chốc, Phiên Lộc đích thân ra đón, vừa gặp Sở Bắc Tiệp đã chắp tay nói: “Đã lâu không gặp, lão huynh sức khỏe thế nào?”. Ngôn ngữ, cử chỉ vô cùng ấm áp, hắn dắt Sở Bắc Tiệp vào trong.
Mấy tinh binh đi theo Sở Bắc Tiệp đều không biết vị Thủ thành đại nhân này có âm mưu gì, trước lúc xuất phát ai nấy đều chắc mẩm, đến phủ quân địch, chắc chắn sẽ chín phần chết một phần sống, giờ thấy bộ dạng của viên quan thủ thành, họ mới thầm yên tâm, nhưng vẫn không dám lơ là, tay nắm chắc chuôi kiếm, bước chân theo sát, hộ vệ sau lưng Sở Bắc Tiệp.
Chỉ Sính Đình luôn tin Sở Bắc Tiệp không hành sự lỗ mãng, chàng làm vậy tất đã có phần chắc chắn, nên gót sen nhẹ bước, theo phu quân vào phủ thủ thành.
Phiên Lộc dẫn mọi người vào trong, sau khi đuổi hết những người không liên quan, hắn mới buông tay Sở Bắc Tiệp ra. Mạc Nhiên ở bên cạnh giới thiệu, chỉ vào Sính Đình, nói: “Vị này chính là Bạch cô nương”.
Sính Đình chưa từng gặp Phiên Lộc, đâu biết nam nhân này có dây mơ rễ má đến việc nàng giả chết, nên chỉ coi như người mới quen, lễ độ gật đầu.
Phiên Lộc biết, nếu không phải vì nữ nhân ấy, đời này Phiên Lộc sẽ chẳng được gặp Túy Cúc. Nghĩ đến Túy Cúc, trong lòng hắn lại mênh mang nổi sóng mà mỉm cười cổ quái với Sính Đình.
Mạc Nhiên lại chỉ vào Hoắc Vũ Nam, nói: “Vị này chính là Hoắc thần y”.
Lời vừa nói ra, vẻ mặt Phiên Lộc đã trở nên vô cùng nghiêm túc, quỳ sụp cả hai gối xuống.
Hoắc Vũ Nam thất kinh, biết người này rất quan trọng với Sở Bắc Tiệp nên vội đỡ dậy: “Không dám, không dám, Thủ thành đại nhân có ai bị bệnh, xin hãy dẫn kẻ già này tới xem. Ta tuy bất tài, nhưng y thuật cũng tạm được”.
Phiên Lộc vẫn quỳ nguyên tại chỗ: “Không có ai bị bệnh, nhưng con muốn cầu xin một việc. Con tên là Phiên Lộc, ngoại hình anh tuấn, thân thể cường tráng, một tay nỏ xuất sắc, toàn tâm toàn ý với người khác, thông minh lanh lợi, học thứ gì cũng nhanh hơn người…”.
Phiên Lộc nói một tràng như pháo nổ. Ngoài Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên, tất cả mọi người đều cảm thấy đầu quay vòng vòng. Sau khi kể hết những sở trường có và không có, Phiên Lộc lại hỏi Hoắc Vũ Nam: “Hoắc thần y thấy thế nào, Hoắc thần y có vừa lòng với kẻ hậu sinh này không?”.
Hoắc Vũ Nam bị Phiên Lộc xoay đến chóng mặt, cứ ngỡ Phiên Lộc muốn làm môn đệ học y thuật, nhưng đời này ông chỉ có mỗi một đồ nhi là Túy Cúc, không có ý định nhận thêm ai. Biết người đó rất quan trọng trong kế hoạch lần này của Sở Bắc Tiệp, tuyệt đối không được đắc tội, nên Hoắc Vũ Nam đành nói một cách không rõ ràng: “Thủ thành đại nhân tuấn kiệt như thế, thật khiến người ta hâm mộ”.
Vừa nghe lời này, Phiên Lộc nói luôn: “Vậy xin Hoắc thần y nhận của con ba lạy”.
“Không… không được”.
Hoắc Vũ Nam chưa nói xong, Phiên Lộc đã dập đầu ba cái, sau đó đứng thẳng lên, vẻ mặt không còn nghiêm túc như lúc trước, cười ha ha nói: “Việc này không thể chậm trễ, Hoắc thần y đã nhận của con ba lạy, sau này con xin được gọi Hoắc thần y là nhạc phụ”.
Lời này vừa nói ra, không những Hoắc thần y, mà cả Sính Đình cũng sững sờ.
Mọi người nhìn nhau, Phiên Lộc thì hớn hở như vừa thắng được một trận lớn, ngó xuống dưới lầu gọi thật to: “Thê tử! Thê tử của Phiên Lộc mau ra đây bái kiến sư phụ của nàng, cũng là nhạc phụ của ta”.
Phiên Lộc lừa Túy Cúc vào gian nhà nhỏ, hứa đi hứa lại khi nào Sở Bắc Tiệp xuất hiện sẽ báo ngay với nàng. Ai ngờ sau khi họ đến, Phiên Lộc không hề thông báo với Túy Cúc, mà dùng mê hồn trận bắt Hoắc Vũ Nam nhận mình là “tế tử” ngay tại chỗ.
Túy Cúc vẫn đang trong phòng mình thấp thỏm không yên chờ sư phụ và Bạch Sính Đình đến, bỗng nghe Phiên Lộc gọi trên lầu, liền vội vàng đứng dậy, chạy như bay lên đó. Vừa bước vào cửa, nàng đã thấy toàn những gương mặt quen thuộc. Nàng nghẹn ngào gọi Sính Đình một tiếng: “Bạch cô nương…”, rồi nhìn sang sư phụ đã gầy hơn nhiều đang đứng trước mặt mình, tuy trong lòng đã có sự chuẩn bị, nhưng nàng vẫn không khỏi sững sờ.
Bỗng chốc, cả căn phòng yên lặng như tờ.
Đờ đẫn đứng đó hồi lâu, hai vai bỗng run rẩy, Túy Cúc òa khóc: “Sư phụ! Sư phụ!”.
Hoắc Vũ Nam cũng mở mắt trừng trừng.
Khi Túy Cúc xuất hiện, dường như Hoắc thần y đã không còn nghe thấy gì nữa, cứ ngỡ mình đang đi trên mây, niềm vui từ trên trời rơi xuống đã cuốn sạch mọi ưu phiền chất chứa trong lòng.
Túy Cúc, chính là tiểu nha đầu Túy Cúc…
Hình dáng ấy, khuôn mặt ấy, đôi mắt đen ấy… đều là của Túy Cúc.
Đôi mắt già nua chưa mất đi vẻ thông tuệ bỗng chốc trở nên mù mịt, môi ông run rẩy, nhưng không nói nổi một lời.
Cảm giác ấm áp dâng trào, có người ôm chặt lấy ông, tiếng khóc vang lên bên tai, âm thanh quen thuộc đến nỗi khiến ông cũng muốn khóc òa.
“Sư phụ… sư phụ… đồ nhi đã gặp được sư phụ rồi…”
Hoắc Vũ Nam cúi xuống, đôi mắt già nua nhìn đồ nhi thân yêu đang ngổn ngang trăm mối gục đầu khóc trong lòng mình. Ông cũng không biết làm gì hơn, chỉ vỗ nhẹ vào lưng Túy Cúc như trước kia, cũng chẳng hỏi gì, mả lẩm bẩm: “Hài nhi của ta, hài nhi của ta…”.
Sính Đình nín thở theo dõi cảnh ấy, cho đến khi cảm thấy tim mình vui đến phát đau, bên cạnh bỗng có người kéo tay áo mình, nàng mới quay qua, đôi mắt lấp lánh nước, Sở Bắc Tiệp cười nói: “Nàng hãy khóc trong lòng ta”.
Sính Đình gục đầu vào lòng chàng, bật khóc.
Hai cô nương khóc nức nở, khiến Hoắc thần y mắt cũng đỏ hoe.
Mạc Nhiên đứng bên cạnh mỉm cười. Cuối cùng mọi người cũng hiểu nguyên do tại sao Sở Bắc Tiệp lại nói đã nắm chắc phần thắng.
Phiên Lộc lặng lẽ đứng bên cạnh, thấy Túy Cúc vẫn khóc mãi không thôi thì quay qua trêu nàng: “Đừng khóc nữa. Sư phụ nàng đã đồng ý nhận ta làm tế tử, ta đã dập đầu ba cái rồi. Này, nàng cũng dập đầu ba cái đi”.
Túy Cúc lau hàng lệ trên mặt, trừng mắt: “Ai cần ngươi dập đầu!”. Vừa rồi vì khóc nhiều, nên mắt nàng mọng đỏ, giọng nói cũng khản đặc, hỏi lại Phiên Lộc: “Sư phụ của ta, sao ngươi lại gọi là nhạc phụ?”.
Phiên Lộc trước nay vẫn nhất nhất nghe theo Túy Cúc, nên vui vẻ đáp: “Được rồi, thế thì ta cũng gọi là sư phụ”.
Hoắc Vũ Nam gặp lại đồ nhi, khó khăn lắm mới cầm được nước mắt. Thấy đồ nhi và Phiên Lộc cãi qua cãi lại rất thân thiết, rồi nhìn hai gò má Túy Cúc đang ửng đỏ, ông bỗng chốc hiểu ra, niềm vui tăng lên vài phần, sống mũi cay cay, vội cười ha ha nói: “Gọi ‘nhạc phụ’ cũng được, chỉ cần người đối tốt với đồ nhi của ta, cũng không cần dập đầu, ‘nhạc phụ’ hay ‘sư phụ’ tùy ngươi gọi”.
Túy Cúc xấu hổ: “Sư phụ!”.
Túy Cúc không cất lời thì thôi, vừa kêu một tiếng, mọi người đều cười ầm lên.
Sính Đình lau nước mắt, ngẩng lên định nói gì. Sở Bắc Tiệp sợ nàng trách mình giấu chuyện gặp Túy Cúc, vội nói: “Việc chính quan trọng, hãy để lúc khác hàn huyên”.
Mọi người đều biết tình thế khẩn cấp, ai nấy lập tức tập trung tinh thần. Phiên Lộc mang ra một cái bàn, trải trên đó cuộn sách, không còn vẻ cợt nhả ban nãy: “Đây là bản đồ xung quanh thành Thả Nhu, năm đường màu đỏ bên trên chính là năm đường vận chuyển quân lương qua Thả Nhu. Tất cả bọn hõ đều nghỉ chân ở Thả Nhu”.
Bản đồ này do Phiên Lộc tự vẽ, rõ ràng hơn những bản đồ khác rất nhiều. Sở Bắc Tiệp xem xong, nhìn Phiên Lộc, gật đầu tán thưởng.
Túy Cúc không hiểu việc hành quân đánh trận. Nàng khóc với sư phụ một hồi, lại nhớ đến Sính Đình, bèn quay sang nói với sư phụ: “Sư phụ, chúng ta sang bên kia, Túy Cúc bóp lưng cho sư phụ được không?”. Nói xong, nàng quay sang mỉm cười với Sính Đình, ánh mắt không nói hết niềm vui. Túy Cúc đi đến nói với Sính Đình: “Bạch cô nương, chúng ta sang bên kia đi”.
Sính Đình cũng chỉ mong được cùng Túy Cúc dốc hết nỗi sầu ly biệt, hai người liền cùng Hoắc Vũ Nam sang phòng bên cạnh. Ba người ngồi bên nhau, Túy Cúc rót cho mỗi người một chén trà, sau đó vừa chậm rãi bóp lưng cho sư phụ, vừa kể lại những chuyện xảy ra sau khi tạm biệt Sính Đình. Vì sợ sư phụ và Sính Đình tức giận với Phiên Lộc nên Túy Cúc cố tình giấu gần hết chuyện xấu xa Phiên Lộc từng làm.
Hoắc Vũ Nam nghe xong, cười nói: “Lúc nào con cũng nói hắn xấu xa, thực ra người ta cũng có làm việc gì xấu đâu”.
Sính Đình thì hỏi: “Ngươi có tình ý với hắn không?”.
Hai má đỏ ửng, Túy Cúc cau mày giận dỗi: “Ai thèm để ý tới hắn chứ!”.
Chỉ cần nhìn qua, trong mắt Hoắc Vũ Nam và Sính Đình đã hiểu rõ: Túy Cúc thực sự có tình cảm với Phiên Lộc.
Khi ba người học nói chuyện, câu chuyện của những nam nhân phòng bên cũng vô cùng rầm rộ.
Sở Bắc Tiệp nói với Phiên Lộc dự định ban đầu của họ, Phiên Lộc cười nói: “Việc này Vương gia tìm đúng người rồi, vốn ở trong quân bao năm, ta hiểu rõ chuyện nội bộ. Những tướng lĩnh nào của Vân Thường có thể lung lạc, những tướng sĩ nào lập trường kiên định, ta đều nắm chắc trong lòng bàn tay”.
Sở Bắc Tiệp quá mừng, quyết đoán ngay: “Thế này là tốt nhất, làm phiền Phiên thủ thành lập tức đưa ra danh sách, chúng ta sẽ lần lượt cân nhắc”.
Ở phòng bên, Sính Đình cũng kể lại với Túy Cúc những chuyện xảy ra sau đó, nghĩ đến việc cả hai đều tưởng người kia đã chết, ngày đêm đau đớn khôn nguôi, không biết đã phải rơi bao nhiêu nước mắt, hai nàng lại sụt sịt, chỉ khi nói đến Trường Tiếu hoạt bát nghịch ngợm, mới ngăn được dòng nước mắt.
Trò chuyện xong, Sính Đình quay lại gian phòng bên cạnh, vừa vào cửa đã hỏi: “Đã bàn bạc xong chưa?”.
Sở Bắc Tiệp quay lại cười đáp: “Trời ban tướng tài cho ta. Ha ha, việc quân lương có chút biến động, phải nhờ Bạch quân sư giúp cho mới được”. Nói xong, chàng chắp tay hành lễ với Sính Đình.
Biết Sở Bắc Tiệp đang đùa mình, Sính Đình quay đi, nói: “Sính Đình không trúng kế của Vương gia đâu, nhận một lễ này, chắc Vương gia lại có việc muốn làm khó thiếp. Việc quân lương, rốt cuộc đã thay đổi như thế nào?”.
Nàng nhìn quanh một vòng, thấy mọi người đều có vẻ bí mật xen lẫn hưng phấn, chắc chắn Sở Bắc Tiệp đã nghĩ ra diệu kế gì.
Sở Bắc Tiệp nhìn nàng cười, một lúc sau mới nói: “Chúng ta không bỏ độc mà là bỏ thuốc”.
Sính Đình nghe xong, cau mày suy nghĩ, chỉ một lát sau hai hàng mày thanh
Tác giả :
Phong Lộng