Cô Phương Bất Tự Thưởng
Quyển 2 - Chương 57
Sự kết hợp hoàn hảo giữa Trấn Bắc vương và Bạch Sính Đình khiến chí khí quân sĩ ngày càng tăng, sau hội nghị quân sự, trong lòng các tướng sĩ đã có mục tiêu rõ ràng, bước chân ra khỏi trướng soái cũng nhẹ hơn vài phần.
Nhưng, họ cũng hiểu rằng, chiến lược của Trấn Bắc vương và Bạch cô nương mạnh dạn song vô cùng nguy hiểm, là nước cờ không được phép sai lầm.
Sau khi hội nghị kết thúc, Sở Bắc Tiệp kéo ngay Sính Đình đang đi theo các tướng lĩnh ra khỏi trướng: “Bạch đại quân sư lúc nãy thần uy là thế, sao không ở lại bên cạnh chủ soái mà đi đâu?”.
Sính Đình quay đầu, cười đáp: “Vương gia đừng quên đã đánh cuộc với Sính Đình. Sính Đình thắng rồi, trong mười ngày Vương gia không được chạm vào tay Sính Đình”.
Ánh mắt bỗng lóe sáng, Sở Bắc Tiệp không hề do dự mà rút thanh Thần uy bảo kiếm ra, đưa đến trước mặt Sính Đình: “Nàng chém bản vương mười kiếm, thay cho hẹn ước mười ngày”.
Nhìn thấy thanh kiếm sáng loáng, Sính Đình vội tra kiếm vào vỏ, cau mày đáp: “Chiêu khổ nhục kế của Vương gia không được lòng người. Là Vương gia chọc giận Sính Đình trước, hơn nữa Vương gia đã chuẩn bị cả bản đồ thành Thả Nhu, còn rắp tâm cố ý thử người ta. Nếu lúc nãy không nghĩ ra kế sách, chẳng phải Vương gia làm Sính Đình hổ thẹn sao?”.
Sở Bắc Tiệp hạ giọng: “Không phải là khổ nhục kế. Nàng ở ngay trước mắt ta, mà mười ngày không được chạm vào tay nàng, như thế còn khó chịu hơn nhận mười kiếm. Không gì sánh bằng nỗi khổ nhớ nhung. Bản vương bỏ cái khó chọn cái dễ cũng là lẽ thường”. Khuôn mặt anh tuấn hoàn toàn nghiêm túc.
Sính Đình nghe mà không nói được câu nào, bèn cúi xuống, hồi lâu giọng nói mới như gió thoảng qua tai: “Dù có bỏ qua cái hẹn mười ngày đó, Vương gia cũng không thể lúc nào cũng nắm tay Sính Đình như thế”. Nghĩ lại, vẻ mặt Sính Đình vô cùng ấm ức: “Vương gia ép người quá đáng, bắt Sính Đình bỏ điều khoản đã định, không được, thù này Sính Đình nhất định phải báo”. Sóng mắt nàng mênh mang, vừa ngọt ngào, vừa ai oán.
Nhìn dáng vẻ hoạt bát, dịu dàng của nàng, Sở Bắc Tiệp cười nói: “Nói cho bản vương biết nàng định đi đâu?”.
Nghe hỏi đến, sắc mặt Sính Đình trở nên u ám, khẽ đáp: “Sính Đình phải tự đi gặp Hoắc thần y. Túy Cúc…”. Sính Đình buồn bã thở dài, tròng mắt đỏ hoe.
Sở Bắc Tiệp cũng cảm thấy lòng mình thắt lại.
Sau khi hai người gặp lại nhau, Sính Đình tránh không nhắc đến những gì nàng đã trải qua, dù thỉnh thoảng có nhắc đến, cũng chỉ là thoáng qua.
Sở Bắc Tiệp hiểu rõ rằng, những trắc trở Sính Đình đã trải qua đã tạo thành vết thương đến giờ vẫn chưa kín miệng trong lòng nàng. Cái chết của Túy Cúc càng khiến Sính Đình đau khổ thêm.
Sơn mạch Tùng Sâm quanh năm tuyết phủ đó rốt cuộc đã che giấu câu chuyện bi thảm đến mức nào?
Hài tử của họ cũng bị chôn vùi nơi mênh mang tuyết trắng ấy sao?
Đến tận lúc này, Sở Bắc Tiệp vẫn không dám hỏi Sính Đình việc hài tử đáng thương của họ đã mất như thế nào. Đối với Sính Đình, đó nhất định là nỗi đau khó có thể chịu đựng nổi.
“Ta đi cùng nàng”, Sở Bắc Tiệp nắm chặt bàn tay Sính Đình.
Sính Đình chậm rãi lắc đầu: “Vương gia thứ lỗi, Sính Đình muốn tự mình đối diện với sư phụ của Túy Cúc”.
“Sính Đình…”
“Nếu sau này Sính Đình cần đến…”, Sính Đình ngẩng đầu, hai hàng mi dày run rẩy nhìn Sở Bắc Tiệp, “Liệu Vương gia có chắc sẽ ở cạnh Sính Đình?”.
Trái tim chìm đắm trong ánh mắt đáng thương của Sính Đình, Sở Bắc Tiệp hứa ngay lập tức: “Chắc chắn”.
Nghe thấy thế, Sính Đình cười tươi tắn, khẽ rút bàn tay ra khỏi lòng bàn tay Sở Bắc Tiệp, quay người bước đi.
Sở Bắc Tiệp đứng nhìn theo Sính Đình ra khỏi cửa trướng, bỗng thấy buồn như vừa đánh mất điều gì. Một lúc sau, cảm giác có người đang nhìn mình, Sở Bắc Tiệp mới khôi phục sự nhạy bén, quay đầu cười sảng khoái, dang tay, lên tiếng: “Vương tẩu muốn cười thì cứ cười đi. Người ta nói rằng, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, Sở Bắc Tiệp gặp được Bạch Sính Đình cũng coi như hoàn toàn không có cách nào”.
Các tướng lĩnh đã đi cả, Đông Lâm vương hậu ngồi dựa trên ghế, mỉm cười: “Trấn Bắc vương khiêm tốn quá rồi, chiêu khổ nhục kế lúc nãy thật vô cùng rành mạch, sao có thể gọi là không có cách nào? Anh hùng khó qua ải mỹ nhân. Tất cả nam nhân khi gặp được nữ nhân trong lòng mình, đều giống như Trấn Bắc vương”. Vứt bỏ mọi đau buồn ra ngoài cửa trướng, những suy nghĩ của Vương hậu cuốn bay theo gió vượt xa vạn dặm, trở về nơi vương cung Đông Lâm hào hoa quyền quý.
Nghĩ lại trước kia, cung vàng điện ngọc trùng trùng, rượu ngon đàn hay, uyên ương quấn quýt.
Ở bên Đại vương bao nhiêu năm, đến lúc biệt ly, Vương hậu mới thực sự hiểu ra.
Vương hậu không còn là vương hậu của Đông Lâm, mà là thê tử của nam nhân ấy.
Quá khứ bị che phủ trong vinh quang của vương tộc Đông Lâm, giờ mất đi mới biết những điều thực sự đáng hồi tưởng, đáng cảm thán nhất chính là tấm chân tình giữa họ.
Không liên quan đến Đông Lâm, không liên quan đến vương tộc, không liên quan đến đại vương và vương hậu.
Chỉ có phu và thê, chàng và thiếp.
Vì những lễ nghi rườm rà, đã bao lần muốn nắm tay, muốn tựa vào lòng phu quân, nhưng nghĩ đến thân phận mẫu nghi một nước của mình, Vương hậu lại cố nén chút tình ý trong lòng.
“Vương tẩu?”
“Hả?”, Vương hậu bỗng sực tỉnh, gọi, “Trấn Bắc vương, hãy đến cạnh ai gia”.
Sở Bắc Tiệp bước lên phía trước, ngồi đối diện với Vương hậu.
“Có phải Trấn Bắc vương cũng dự định thu nạp binh mã Đông Lâm vào Đình quân?”, Vương hậu hỏi.
Sở Bắc Tiệp vốn cũng định nói rõ việc này với Vương hậu, nên gật đầu, thẳng thắn đáp: “Đúng vậy”.
“Đình quân…” Vương hậu nghiền ngẫm hai từ ấy, cười cay đắng, “Hôm đó Đại vương nói, Trấn Bắc vương bản tính chân thành thẳng thắn, không thích hợp sinh ra trong vương tộc vô tình, đó cũng là điều Đại vương lo nhất cho vương đệ của mình. Nhưng hiện giờ, ai gia không biết nên lo lắng hay cảm thấy may mắn vì điều này. Nếu không vì Trấn Bắc vương yêu sâu sắc Bạch Sính Đình thì sao có được một Đình quân dũng mãnh đối kháng với Hà Hiệp?”. Vương hậu lại hỏi, “Ai gia muốn biết chính xác, Đình quân thu nạp binh mã Đông Lâm rồi, sau này Đình quân đại thắng, Trấn Bắc vương nắm giữ đại quyền, vậy vận mệnh của Đông Lâm sẽ thế nào? Vương tộc Đông Lâm sẽ ra sao?”.
Im lặng hồi lâu, Sở Bắc Tiệp cương nghị đáp: “Chẳng giấu vương tẩu, bản vương sẽ xây dựng tân quốc, lập ra quốc hiệu”.
“Thế còn Đông Lâm?”
“Đông Lâm đã là quá khứ, bản vương xuất chinh không phải vì mở rộng lãnh thổ Đông Lâm, mà bởi muốn đem lại cho Sính Đình một thiên hạ yên vui thái bình. Nếu bình định được đại loạn mà vẫn lấy tên Đông Lâm, thì đâu khác gì Đông Lâm chinh phạt ba nước còn lại, cũng đâu khác gì Hà Hiệp? Tướng sĩ của ba nước còn lại, dân chúng của ba nước còn lại sẽ canh cánh trong lòng, lúc nào cũng muốn phản kháng, thiên hạ sao có thể thực sự yên bình?”, ánh mắt vô cùng kiên nghị, Sở Bắc Tiệp trầm giọng nói, “Đây là lời hứa của bản vương với Sính Đình, không thể thay đổi”.
Ánh mắt Đông Lâm vương hậu bỗng trở nên sắc sảo, nhìn thẳng về phía Sở Bắc Tiệp.
Sở Bắc Tiệp không tránh mà nhìn thẳng lại: “Nếu Vương hậu tức giận, xin hãy trách phạt Bắc Tiệp, nhưng Bắc Tiệp đã quyết việc này”.
Đông Lâm vương hậu nhìn chăm chăm về phía Sở Bắc Tiệp hồi lâu, ánh mắt mất đi vẻ sắc sảo, bất lực thở dài: “Gốc của quốc gia chính là con người, đúng không?”.
“Vương tẩu?”, Sở Bắc Tiệp kinh ngạc.
“Chẳng bức tường nào ngăn nổi gió, đoạn đối thoại giữa Công chúa Diệu Thiên và Trấn Bắc vương trước trận đại chiến Đông Lâm – Vân Thường đã truyền đến tai rất nhiều người.” Đông Lâm vương hậu cười chua xót, vẻ mặt đượm hồi ức, “Sau khi vương cung bị thiêu cháy, ai gia thường nghĩ, cảnh tượng lúc Đông Lâm lập quốc sẽ như thế nào? Chắc cũng là hàng vạn tướng sĩ, lê dân trăm họ trên dưới một lòng, đồng tâm nhất trí, không tiếc đổ máu để bản thân và thê nhi, già trẻ nam nữ được sống những ngày hạnh phúc, yên bình?”.
Tại sao mấy trăm năm sau, quốc gia in hằn trong tim lại quên mất con người?
Hàng ngàn hàng vạn dân, hàng ngàn hàng vạn cuộc sinh ly tử biệt, yêu hận giằng co.
Ánh mắt buồn bã của Đông Lâm vương hậu nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, thở dài, hạ quyết tâm: “Quốc gia quan trọng, lẽ nào lê dân trăm họ lại không đáng quý? Không có dân chúng an cư lạc nghiệp, Đông Lâm cũng chỉ tồn lại trên danh nghĩa. Trấn Bắc vương cứ yên tâm mà làm những điều mình muốn”.
Không ngờ Vương hậu lại quyết đoán như vậy, Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, quỳ một gối, nói từng tiếng: “Ơn này của vương tẩu, Sở Bắc Tiệp xin ghi lòng tạc dạ”.
Chàng thật chẳng dám tin lại có thể dễ dàng vượt qua cửa ải khó khăn này như thế.
“Đi đi. Bình định thiên hạ, kết thúc thời thế sinh linh lầm than, trả cho muôn dân những ngày yên ổn.” Vương hậu khẽ nhướng môi, nở nụ cười mơ màng, “Vương tộc cũng được, thường dân cũng chẳng sao, hãy để tất cả mọi người ghi nhớ rằng, đã có may mắn làm người thì phải biết sinh mệnh của mình đáng quý biết chừng nào, phải biết bản thân không phải là con kiến để người ta chà đạp”.
Trấn Bắc vương sẽ xây dựng một đế quốc hùng mạnh.
Đế quốc ấy không phải vì binh cường đất rộng, mà bởi mỗi con người trong quốc gia ấy đã dần biết tôn trọng, không khinh bạc bản thân mình.
Không coi mình là con rối, là công cụ.
Họ sẽ không bị bắt đi chiến trường.
Khi đại chiến ập đến, họ sẽ được lựa chọn, có nên chiến đấu bảo vệ tương lai của mình không, cũng giống như hôm nay họ tham gia vào Đình quân.
Giả dụ, máu của họ đã nhuộm đỏ sa trường, mảnh đất chìm trong nhiệt huyết ấy sẽ bừng lên sức sống mới, mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
“Bạch Sính Đình…” Đông Lâm vương hậu ngửa mặt lên trời thở dài, “Khá khen cho một Bạch Sính Đình”.
Quy Lạc, trời chiều hoang vắng.
Nơi thâm cung lạnh lẽo không còn mùi hương yêu thích.
Ổ khóa im lìm bấy lâu bỗng có tiếng động khẽ, Quy Lạc vương hậu đã trút bỏ xiêm y lộng lẫy đờ đẫn ngẩng đầu, nhìn hình bóng uy nghiêm quen thuộc ngoài cánh cửa.
Quy Lạc vương Hà Túc bước qua cửa phòng, nói: “Sau trận chiến với Phi Chiếu Hành, đại ca Nhạc Chấn của nàng sợ đại quân Vân Thường tiếp tục tấn công, nên đã dẫn theo tàn binh trốn khỏi thành đô”.
Hà Túc ngữ khí bình tĩnh, không hề nóng giận.
Bị giam lỏng bao ngày, đây là lần đầu tiên nghe thấy tin tức của huynh trưởng, sau một hồi im lặng, Quy Lạc vương hậu lạnh lùng cất tiếng: “Đại vương đến để ban cho thần thiếp cái chết sao?”.
Hà Túc không lên tiếng, chậm rãi bước đến bên thê tử, giống như thuở còn mặn nồng, lấy ngón tay nâng cằm Vương hậu lên.
“Chẳng lẽ Vương hậu không muốn gặp mặt Thiệu nhi?”, Hà Túc chợt hỏi.
Vương hậu sững người, vẻ không dám tin, nhìn về phía Hà Túc: “Đại vương… chịu cho thần thiếp gặp Thiệu nhi?”. Dù sao nhi tử cũng là cốt nhục của mẫu thân, giọng Vương hậu có phần run rẩy.
“Tại sao lại không?”, Hà Túc thở dài, hỏi lại.
Quy Lạc vương hậu biết tội tất phải chết, cùng lắm là chọn một dải lụa trắng, hoặc chén rượu độc, nên đã sớm có sự chuẩn bị. Không ngờ Hà Túc lại đích thân đến đây, ngôn từ cử chỉ khác hẳn tưởng tượng của Vương hậu. Vốn tình nghĩa phu thê bao năm, lại nghe Hà Túc nhắc đến nhi tử, Vương hậu cũng mềm lòng đi vài phần, thần thái không còn lạnh lùng kiêu ngạo, mà cúi đầu, buồn bã đáp: “Thần thiếp cố tình tiết lộ việc quân mai phục; phụ thân lộng quyền; đại ca chống lại vương lệnh, tự điều quân chống lại Đại vương. Cả Nhạc gia đều phạm phải… tội chết”.
“Vương hậu cũng biết tội của mình?” Hà Túc nghĩ đến hiện trạng loạn lạc của Quy Lạc thì lạnh lùng hừ một tiếng, thấy Vương hậu cúi đầu không đáp, lại chậm rãi thở dài, nói, “Vương hậu đứng dậy đi. Quả nhân miễn tội cho nàng, lệnh cho nàng quay lại chính cung, làm chủ nhân của hậu cung”.
“Sao?”, Vương hậu kinh ngạc ngẩng đầu.
Nhạc Chấn dẫn binh đối đầu với quân thành đô, tội ngang tạo phản, đây là điều cấm kỵ nhất trong vương tộc, không thể được xá tội.
Nhưng, vẻ mặt Đại vương không giống đang đùa.
Lãnh cung u ám trong màn đêm, Hà Túc đứng ngay ở cửa, gần trong gang tấc, nhưng Vương hậu không thể nhìn rõ đáy mắt phu quân, thấy như thật xa cách, chỉ còn cái bóng mơ hồ nơi đó.
Vương hậu ngắm thật kỹ Hà Túc vốn đã ân đoạn nghĩa tuyệt với mình, rồi lại cúi đầu: “Đại vương cứ giết thần thiếp đi. Mười lăm tuổi, thần thiếp đã được gả vào phủ vương tử, rồi Đại vương đăng cơ, phong thần thiếp làm vương hậu, nghĩ lại lúc đó phu thê ân ái, ai ngờ lại có ngày hôm nay. Giờ ván đã đóng thuyền, mọi việc không thể cứu vãn, dù Đại vương có xá tội, thần thiếp cũng chẳng còn mặt mũi nào trở thành vương hậu. Thần thiếp chỉ hối hận, sao có thể vì nhất thời ghen tuông mà sai người bí mật báo tin cho Hà Hiệp… Chẳng qua chỉ là một Bạch Sính Đình, dù Bạch Sính Đình có vào hậu cung, chỉ cần Đại vương vui thì có chuyện gì là to tát? Vì một nữ nhân mà khiến Quy Lạc đại loạn, thần thiếp… thần thiếp thật ngu muội vô cùng…”. Nói xong, hai bờ vai Vương hậu run lên bần bật, rũ xuống đất mà khóc.
Thân phận tôn quý, lớn lên nơi thâm viện, sau này cũng chỉ ở vương cung, trong lòng Vương hậu chỉ biết đến một nam nhân duy nhất là Hà Túc. Lúc trước quen ăn ngon mặc đẹp, xung quanh kẻ hầu người hạ, lại có phụ mẫu sớm hôm kề bên, nên sau khi được sắc phong làm mẫu nghi một nước, Vương hậu mới thành ra tâm kế, mưu mô suy tính thiệt hơn.
Lúc này đây, khi đã trút bỏ xiêm y lộng lẫy, tóc buộc ngang lưng, thân ở nơi lãnh cung nhìn mây trôi lãng đãng, lòng Vương hậu lại nhớ tới những việc cỏn con ngày trước.
Nhớ thời run rẩy bước chân vào phủ vương tử, đêm động phòng hoa chúc, Vương hậu khẽ vén một góc khăn hồng, lặng lẽ liếc nhìn Hà Túc. Nhớ cảm giác hân hoan khi Hà Túc thì thầm vào tai, rằng nàng đã mang cốt nhục của ta. Nhớ cảm giác khi chuẩn bị trang điểm nơi hậu cung, rồi ung dung nhận ngọc tỷ vương hậu trước mặt mọi người.
Một đôi phu thê như thế, sao lại từng bước, từng bước bị cuốn vào quốc hận, thù nhà, đến nay ngoài những buồn thương vướng mắc, liệu còn lại điều gì?
Đang khóc đến đứt gan đứt ruột, bỗng thấy có người chạm vào vai, Vượng hậu ngẩng khuôn mặt đẫm lệ lên, nhìn Hà Túc đang đỡ mình dậy.
“Vương hậu đừng khóc nữa. Ta nói thực với Vương hậu, Nhạc Chấn dẫn quân bỏ chạy, thành đô không còn binh sĩ, nay Hà Hiệp dẫn theo đại quân Vân Thường bao vây chúng ta rồi.”
“Hả!” Vương hậu thất kinh. Bị giam lỏng nhiều ngày nay, Vương hậu không biết đến tin tức bên ngoài nên chẳng thể ngờ rằng tình hình lại tồi tệ đến mức này.
“Mạnh yếu chênh lệch, biết rõ là thua, chi bằng ta không đánh trận này. Giờ này ngày mai, quả nhân sẽ mở cổng thành, tự tay đưa thư hàng cho Hà Hiệp”, Hà Túc cười cay đắng, “Nước đã mất, tội phản quốc của Vương hậu và Quốc trượng, Quốc cữu có gì mà không thể đại xá?”.
Nghe những lời chất chứa sự bất lực và chán nản của Hà Túc, hoàn toàn khác với vẻ lạnh lùng, kiêu ngạo trước đây, trong lòng Vương hậu càng thêm đau đớn hối hận, giọng nói cũng run rẩy: “Nếu không vì lỗi của thần thiếp, Quy Lạc không xảy ra nội loạn, Đại vương có đại quân trong tay, Hà Hiệp đâu thể muốn đến là đến? Thần thiếp…”.
“Đừng nói nữa.” Hà Túc cắt ngang lời Vương hậu, trầm giọng, “Thị nữ đã mang sẵn y phục, trang sức đợi bên ngoài. Vương hậu hãy trang điểm như mọi ngày đi. Lâu lắm rồi Vương hậu không uống rượu cùng quả nhân, đêm nay phu thê ta sẽ cùng nhau thưởng rượu, đừng để người ngoài làm phiền”.
Vương hậu lặng lẽ nhìn Hà Túc, cuối cùng chậm rãi hành lễ: “Thần thiếp tuân lệnh”.
Hà Túc quay người rời đi, những thị nữ bên ngoài thấy Đại vương đi ra thì nhất tề bước vào, trên tay bê những khay vuông, đều là y phục và đồ trang sức Vương hậu quen dùng, còn đủ cả son phấn cũng như các loại hương.
“Vương hậu nương nương.” Gặp được Vương hậu, đám thị nữ nhất loạt hành lễ, nhưng khuôn mặt ai cũng u ám, xem ra, tin Đại vương ngày mai sẽ nộp thư hàng cho Hà Hiệp đã truyền khắp vương cung.
Sau khi tắm gội thay áo, Vương hậu trang điểm đẹp như thần tiên, rồi uyển chuyển di giá đến tẩm cung của Đại vương.
Quả nhiên Hà Túc đã sai người chuẩn bị rượu ngon ở đó. Qua tấm rèm châu, họ cùng nhau thưởng rượu dưới trăng.
Giờ lành cảnh đẹp, sơn hào hải vị, rượu ngon sóng sánh, nghĩ lại những ngày bị giam lỏng nơi lãnh cung không thấy mặt trời thật giống một giấc mơ, Vương hậu bất giác cảm thán đời người sao mà khó đoán.
Cả hai đều trĩu nặng tâm tư, lặng lẽ ngồi đó, uống cạn vài chén. Hà Túc chợt hỏi: “Sao Vương hậu không nói gì?”.
“Thần thiếp…” Khuôn mặt trang điểm kỹ càng của Vương hậu thoáng chút hoang mang, “Thần thiếp không biết phải nói gì”.
Hà Túc nhìn thật kỹ thê tử đang ở trước mặt, bỗng bật cười nói: “Quả nhân bỗng thấy, từ khi trở thành chủ nhân hậu cung đến nay, lúc này nàng đẹp nhất”.
Được Đại vương khen, trái tim nặng nề bỗng nhẹ bẫng, cảm giác xung quanh như bồng bềnh mây trắng, Vương hậu khẽ cúi người, đáp: “Lòng không phiền muộn mới long lanh trong vắt. Cũng có thể vì hôm nay trong lòng thần thiếp đã không còn điều gì giấu giếm Đại vương nữa”.
“Nói hay lắm”, Hà Túc nâng chén, “Vương hậu đêm nay khiến quả nhân nhớ lại ngày đầu tiên nàng bước chân vào phủ vương tử. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, hóa ra chúng ta đã là phu thê bao nhiêu năm rồi”. Giọng Hà Túc bỗng dịu dàng như bao năm trước.
Khuôn mặt Vương hậu vừa kinh ngạc vừa cảm động: “Đại vương… có còn nhớ thiếp lúc mới bước vào phủ vương tử không?”.
“Sao lại không?”
“Thật không…” Vương hậu đưa tay vuốt tóc, khẽ nói, “Chẳng giấu gì Đại vương, thần thiếp cũng nhớ”.
Phủ vương tử, phủ vương tử của Hà Túc lúc đó.
Vang giọng ca vui, tiếng đàn véo von.
Một đám danh gia vọng tộc bằng hữu của Hà Túc khi ấy thường tụ tập tán chuyện trên trời dưới đất, có luyện kiếm, có đánh đàn, hoặc luận đàm thi họa, hoặc nói chuyện chí lớn. Ai uống rượu thì uống rượu, ai nói chuyện thì nói chuyện. Dương Phượng đã là người trong phủ vương tử, cộng thêm Hà Hiệp luôn dẫn theo Sính Đình đến.
Chỉ có nhà họ Nhạc gia quy nghiêm ngặt, lại là vương tử phi tôn quý, không như những người khác, nên Vương hậu không thể vui đùa cùng bọn họ, đành ngồi trong bốn bức tường, nghe tiếng nói cười từ xa vọng lại.
Hóa ra… Đại vương vẫn nhớ tất cả những thứ đó.
Nhưng, liệu Phò mã Vân Thường Hà Hiệp đang cầm quân bao vây thành đô Quy Lạc có còn nhớ đến điều này?
Nhưng, họ cũng hiểu rằng, chiến lược của Trấn Bắc vương và Bạch cô nương mạnh dạn song vô cùng nguy hiểm, là nước cờ không được phép sai lầm.
Sau khi hội nghị kết thúc, Sở Bắc Tiệp kéo ngay Sính Đình đang đi theo các tướng lĩnh ra khỏi trướng: “Bạch đại quân sư lúc nãy thần uy là thế, sao không ở lại bên cạnh chủ soái mà đi đâu?”.
Sính Đình quay đầu, cười đáp: “Vương gia đừng quên đã đánh cuộc với Sính Đình. Sính Đình thắng rồi, trong mười ngày Vương gia không được chạm vào tay Sính Đình”.
Ánh mắt bỗng lóe sáng, Sở Bắc Tiệp không hề do dự mà rút thanh Thần uy bảo kiếm ra, đưa đến trước mặt Sính Đình: “Nàng chém bản vương mười kiếm, thay cho hẹn ước mười ngày”.
Nhìn thấy thanh kiếm sáng loáng, Sính Đình vội tra kiếm vào vỏ, cau mày đáp: “Chiêu khổ nhục kế của Vương gia không được lòng người. Là Vương gia chọc giận Sính Đình trước, hơn nữa Vương gia đã chuẩn bị cả bản đồ thành Thả Nhu, còn rắp tâm cố ý thử người ta. Nếu lúc nãy không nghĩ ra kế sách, chẳng phải Vương gia làm Sính Đình hổ thẹn sao?”.
Sở Bắc Tiệp hạ giọng: “Không phải là khổ nhục kế. Nàng ở ngay trước mắt ta, mà mười ngày không được chạm vào tay nàng, như thế còn khó chịu hơn nhận mười kiếm. Không gì sánh bằng nỗi khổ nhớ nhung. Bản vương bỏ cái khó chọn cái dễ cũng là lẽ thường”. Khuôn mặt anh tuấn hoàn toàn nghiêm túc.
Sính Đình nghe mà không nói được câu nào, bèn cúi xuống, hồi lâu giọng nói mới như gió thoảng qua tai: “Dù có bỏ qua cái hẹn mười ngày đó, Vương gia cũng không thể lúc nào cũng nắm tay Sính Đình như thế”. Nghĩ lại, vẻ mặt Sính Đình vô cùng ấm ức: “Vương gia ép người quá đáng, bắt Sính Đình bỏ điều khoản đã định, không được, thù này Sính Đình nhất định phải báo”. Sóng mắt nàng mênh mang, vừa ngọt ngào, vừa ai oán.
Nhìn dáng vẻ hoạt bát, dịu dàng của nàng, Sở Bắc Tiệp cười nói: “Nói cho bản vương biết nàng định đi đâu?”.
Nghe hỏi đến, sắc mặt Sính Đình trở nên u ám, khẽ đáp: “Sính Đình phải tự đi gặp Hoắc thần y. Túy Cúc…”. Sính Đình buồn bã thở dài, tròng mắt đỏ hoe.
Sở Bắc Tiệp cũng cảm thấy lòng mình thắt lại.
Sau khi hai người gặp lại nhau, Sính Đình tránh không nhắc đến những gì nàng đã trải qua, dù thỉnh thoảng có nhắc đến, cũng chỉ là thoáng qua.
Sở Bắc Tiệp hiểu rõ rằng, những trắc trở Sính Đình đã trải qua đã tạo thành vết thương đến giờ vẫn chưa kín miệng trong lòng nàng. Cái chết của Túy Cúc càng khiến Sính Đình đau khổ thêm.
Sơn mạch Tùng Sâm quanh năm tuyết phủ đó rốt cuộc đã che giấu câu chuyện bi thảm đến mức nào?
Hài tử của họ cũng bị chôn vùi nơi mênh mang tuyết trắng ấy sao?
Đến tận lúc này, Sở Bắc Tiệp vẫn không dám hỏi Sính Đình việc hài tử đáng thương của họ đã mất như thế nào. Đối với Sính Đình, đó nhất định là nỗi đau khó có thể chịu đựng nổi.
“Ta đi cùng nàng”, Sở Bắc Tiệp nắm chặt bàn tay Sính Đình.
Sính Đình chậm rãi lắc đầu: “Vương gia thứ lỗi, Sính Đình muốn tự mình đối diện với sư phụ của Túy Cúc”.
“Sính Đình…”
“Nếu sau này Sính Đình cần đến…”, Sính Đình ngẩng đầu, hai hàng mi dày run rẩy nhìn Sở Bắc Tiệp, “Liệu Vương gia có chắc sẽ ở cạnh Sính Đình?”.
Trái tim chìm đắm trong ánh mắt đáng thương của Sính Đình, Sở Bắc Tiệp hứa ngay lập tức: “Chắc chắn”.
Nghe thấy thế, Sính Đình cười tươi tắn, khẽ rút bàn tay ra khỏi lòng bàn tay Sở Bắc Tiệp, quay người bước đi.
Sở Bắc Tiệp đứng nhìn theo Sính Đình ra khỏi cửa trướng, bỗng thấy buồn như vừa đánh mất điều gì. Một lúc sau, cảm giác có người đang nhìn mình, Sở Bắc Tiệp mới khôi phục sự nhạy bén, quay đầu cười sảng khoái, dang tay, lên tiếng: “Vương tẩu muốn cười thì cứ cười đi. Người ta nói rằng, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, Sở Bắc Tiệp gặp được Bạch Sính Đình cũng coi như hoàn toàn không có cách nào”.
Các tướng lĩnh đã đi cả, Đông Lâm vương hậu ngồi dựa trên ghế, mỉm cười: “Trấn Bắc vương khiêm tốn quá rồi, chiêu khổ nhục kế lúc nãy thật vô cùng rành mạch, sao có thể gọi là không có cách nào? Anh hùng khó qua ải mỹ nhân. Tất cả nam nhân khi gặp được nữ nhân trong lòng mình, đều giống như Trấn Bắc vương”. Vứt bỏ mọi đau buồn ra ngoài cửa trướng, những suy nghĩ của Vương hậu cuốn bay theo gió vượt xa vạn dặm, trở về nơi vương cung Đông Lâm hào hoa quyền quý.
Nghĩ lại trước kia, cung vàng điện ngọc trùng trùng, rượu ngon đàn hay, uyên ương quấn quýt.
Ở bên Đại vương bao nhiêu năm, đến lúc biệt ly, Vương hậu mới thực sự hiểu ra.
Vương hậu không còn là vương hậu của Đông Lâm, mà là thê tử của nam nhân ấy.
Quá khứ bị che phủ trong vinh quang của vương tộc Đông Lâm, giờ mất đi mới biết những điều thực sự đáng hồi tưởng, đáng cảm thán nhất chính là tấm chân tình giữa họ.
Không liên quan đến Đông Lâm, không liên quan đến vương tộc, không liên quan đến đại vương và vương hậu.
Chỉ có phu và thê, chàng và thiếp.
Vì những lễ nghi rườm rà, đã bao lần muốn nắm tay, muốn tựa vào lòng phu quân, nhưng nghĩ đến thân phận mẫu nghi một nước của mình, Vương hậu lại cố nén chút tình ý trong lòng.
“Vương tẩu?”
“Hả?”, Vương hậu bỗng sực tỉnh, gọi, “Trấn Bắc vương, hãy đến cạnh ai gia”.
Sở Bắc Tiệp bước lên phía trước, ngồi đối diện với Vương hậu.
“Có phải Trấn Bắc vương cũng dự định thu nạp binh mã Đông Lâm vào Đình quân?”, Vương hậu hỏi.
Sở Bắc Tiệp vốn cũng định nói rõ việc này với Vương hậu, nên gật đầu, thẳng thắn đáp: “Đúng vậy”.
“Đình quân…” Vương hậu nghiền ngẫm hai từ ấy, cười cay đắng, “Hôm đó Đại vương nói, Trấn Bắc vương bản tính chân thành thẳng thắn, không thích hợp sinh ra trong vương tộc vô tình, đó cũng là điều Đại vương lo nhất cho vương đệ của mình. Nhưng hiện giờ, ai gia không biết nên lo lắng hay cảm thấy may mắn vì điều này. Nếu không vì Trấn Bắc vương yêu sâu sắc Bạch Sính Đình thì sao có được một Đình quân dũng mãnh đối kháng với Hà Hiệp?”. Vương hậu lại hỏi, “Ai gia muốn biết chính xác, Đình quân thu nạp binh mã Đông Lâm rồi, sau này Đình quân đại thắng, Trấn Bắc vương nắm giữ đại quyền, vậy vận mệnh của Đông Lâm sẽ thế nào? Vương tộc Đông Lâm sẽ ra sao?”.
Im lặng hồi lâu, Sở Bắc Tiệp cương nghị đáp: “Chẳng giấu vương tẩu, bản vương sẽ xây dựng tân quốc, lập ra quốc hiệu”.
“Thế còn Đông Lâm?”
“Đông Lâm đã là quá khứ, bản vương xuất chinh không phải vì mở rộng lãnh thổ Đông Lâm, mà bởi muốn đem lại cho Sính Đình một thiên hạ yên vui thái bình. Nếu bình định được đại loạn mà vẫn lấy tên Đông Lâm, thì đâu khác gì Đông Lâm chinh phạt ba nước còn lại, cũng đâu khác gì Hà Hiệp? Tướng sĩ của ba nước còn lại, dân chúng của ba nước còn lại sẽ canh cánh trong lòng, lúc nào cũng muốn phản kháng, thiên hạ sao có thể thực sự yên bình?”, ánh mắt vô cùng kiên nghị, Sở Bắc Tiệp trầm giọng nói, “Đây là lời hứa của bản vương với Sính Đình, không thể thay đổi”.
Ánh mắt Đông Lâm vương hậu bỗng trở nên sắc sảo, nhìn thẳng về phía Sở Bắc Tiệp.
Sở Bắc Tiệp không tránh mà nhìn thẳng lại: “Nếu Vương hậu tức giận, xin hãy trách phạt Bắc Tiệp, nhưng Bắc Tiệp đã quyết việc này”.
Đông Lâm vương hậu nhìn chăm chăm về phía Sở Bắc Tiệp hồi lâu, ánh mắt mất đi vẻ sắc sảo, bất lực thở dài: “Gốc của quốc gia chính là con người, đúng không?”.
“Vương tẩu?”, Sở Bắc Tiệp kinh ngạc.
“Chẳng bức tường nào ngăn nổi gió, đoạn đối thoại giữa Công chúa Diệu Thiên và Trấn Bắc vương trước trận đại chiến Đông Lâm – Vân Thường đã truyền đến tai rất nhiều người.” Đông Lâm vương hậu cười chua xót, vẻ mặt đượm hồi ức, “Sau khi vương cung bị thiêu cháy, ai gia thường nghĩ, cảnh tượng lúc Đông Lâm lập quốc sẽ như thế nào? Chắc cũng là hàng vạn tướng sĩ, lê dân trăm họ trên dưới một lòng, đồng tâm nhất trí, không tiếc đổ máu để bản thân và thê nhi, già trẻ nam nữ được sống những ngày hạnh phúc, yên bình?”.
Tại sao mấy trăm năm sau, quốc gia in hằn trong tim lại quên mất con người?
Hàng ngàn hàng vạn dân, hàng ngàn hàng vạn cuộc sinh ly tử biệt, yêu hận giằng co.
Ánh mắt buồn bã của Đông Lâm vương hậu nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, thở dài, hạ quyết tâm: “Quốc gia quan trọng, lẽ nào lê dân trăm họ lại không đáng quý? Không có dân chúng an cư lạc nghiệp, Đông Lâm cũng chỉ tồn lại trên danh nghĩa. Trấn Bắc vương cứ yên tâm mà làm những điều mình muốn”.
Không ngờ Vương hậu lại quyết đoán như vậy, Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, quỳ một gối, nói từng tiếng: “Ơn này của vương tẩu, Sở Bắc Tiệp xin ghi lòng tạc dạ”.
Chàng thật chẳng dám tin lại có thể dễ dàng vượt qua cửa ải khó khăn này như thế.
“Đi đi. Bình định thiên hạ, kết thúc thời thế sinh linh lầm than, trả cho muôn dân những ngày yên ổn.” Vương hậu khẽ nhướng môi, nở nụ cười mơ màng, “Vương tộc cũng được, thường dân cũng chẳng sao, hãy để tất cả mọi người ghi nhớ rằng, đã có may mắn làm người thì phải biết sinh mệnh của mình đáng quý biết chừng nào, phải biết bản thân không phải là con kiến để người ta chà đạp”.
Trấn Bắc vương sẽ xây dựng một đế quốc hùng mạnh.
Đế quốc ấy không phải vì binh cường đất rộng, mà bởi mỗi con người trong quốc gia ấy đã dần biết tôn trọng, không khinh bạc bản thân mình.
Không coi mình là con rối, là công cụ.
Họ sẽ không bị bắt đi chiến trường.
Khi đại chiến ập đến, họ sẽ được lựa chọn, có nên chiến đấu bảo vệ tương lai của mình không, cũng giống như hôm nay họ tham gia vào Đình quân.
Giả dụ, máu của họ đã nhuộm đỏ sa trường, mảnh đất chìm trong nhiệt huyết ấy sẽ bừng lên sức sống mới, mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
“Bạch Sính Đình…” Đông Lâm vương hậu ngửa mặt lên trời thở dài, “Khá khen cho một Bạch Sính Đình”.
Quy Lạc, trời chiều hoang vắng.
Nơi thâm cung lạnh lẽo không còn mùi hương yêu thích.
Ổ khóa im lìm bấy lâu bỗng có tiếng động khẽ, Quy Lạc vương hậu đã trút bỏ xiêm y lộng lẫy đờ đẫn ngẩng đầu, nhìn hình bóng uy nghiêm quen thuộc ngoài cánh cửa.
Quy Lạc vương Hà Túc bước qua cửa phòng, nói: “Sau trận chiến với Phi Chiếu Hành, đại ca Nhạc Chấn của nàng sợ đại quân Vân Thường tiếp tục tấn công, nên đã dẫn theo tàn binh trốn khỏi thành đô”.
Hà Túc ngữ khí bình tĩnh, không hề nóng giận.
Bị giam lỏng bao ngày, đây là lần đầu tiên nghe thấy tin tức của huynh trưởng, sau một hồi im lặng, Quy Lạc vương hậu lạnh lùng cất tiếng: “Đại vương đến để ban cho thần thiếp cái chết sao?”.
Hà Túc không lên tiếng, chậm rãi bước đến bên thê tử, giống như thuở còn mặn nồng, lấy ngón tay nâng cằm Vương hậu lên.
“Chẳng lẽ Vương hậu không muốn gặp mặt Thiệu nhi?”, Hà Túc chợt hỏi.
Vương hậu sững người, vẻ không dám tin, nhìn về phía Hà Túc: “Đại vương… chịu cho thần thiếp gặp Thiệu nhi?”. Dù sao nhi tử cũng là cốt nhục của mẫu thân, giọng Vương hậu có phần run rẩy.
“Tại sao lại không?”, Hà Túc thở dài, hỏi lại.
Quy Lạc vương hậu biết tội tất phải chết, cùng lắm là chọn một dải lụa trắng, hoặc chén rượu độc, nên đã sớm có sự chuẩn bị. Không ngờ Hà Túc lại đích thân đến đây, ngôn từ cử chỉ khác hẳn tưởng tượng của Vương hậu. Vốn tình nghĩa phu thê bao năm, lại nghe Hà Túc nhắc đến nhi tử, Vương hậu cũng mềm lòng đi vài phần, thần thái không còn lạnh lùng kiêu ngạo, mà cúi đầu, buồn bã đáp: “Thần thiếp cố tình tiết lộ việc quân mai phục; phụ thân lộng quyền; đại ca chống lại vương lệnh, tự điều quân chống lại Đại vương. Cả Nhạc gia đều phạm phải… tội chết”.
“Vương hậu cũng biết tội của mình?” Hà Túc nghĩ đến hiện trạng loạn lạc của Quy Lạc thì lạnh lùng hừ một tiếng, thấy Vương hậu cúi đầu không đáp, lại chậm rãi thở dài, nói, “Vương hậu đứng dậy đi. Quả nhân miễn tội cho nàng, lệnh cho nàng quay lại chính cung, làm chủ nhân của hậu cung”.
“Sao?”, Vương hậu kinh ngạc ngẩng đầu.
Nhạc Chấn dẫn binh đối đầu với quân thành đô, tội ngang tạo phản, đây là điều cấm kỵ nhất trong vương tộc, không thể được xá tội.
Nhưng, vẻ mặt Đại vương không giống đang đùa.
Lãnh cung u ám trong màn đêm, Hà Túc đứng ngay ở cửa, gần trong gang tấc, nhưng Vương hậu không thể nhìn rõ đáy mắt phu quân, thấy như thật xa cách, chỉ còn cái bóng mơ hồ nơi đó.
Vương hậu ngắm thật kỹ Hà Túc vốn đã ân đoạn nghĩa tuyệt với mình, rồi lại cúi đầu: “Đại vương cứ giết thần thiếp đi. Mười lăm tuổi, thần thiếp đã được gả vào phủ vương tử, rồi Đại vương đăng cơ, phong thần thiếp làm vương hậu, nghĩ lại lúc đó phu thê ân ái, ai ngờ lại có ngày hôm nay. Giờ ván đã đóng thuyền, mọi việc không thể cứu vãn, dù Đại vương có xá tội, thần thiếp cũng chẳng còn mặt mũi nào trở thành vương hậu. Thần thiếp chỉ hối hận, sao có thể vì nhất thời ghen tuông mà sai người bí mật báo tin cho Hà Hiệp… Chẳng qua chỉ là một Bạch Sính Đình, dù Bạch Sính Đình có vào hậu cung, chỉ cần Đại vương vui thì có chuyện gì là to tát? Vì một nữ nhân mà khiến Quy Lạc đại loạn, thần thiếp… thần thiếp thật ngu muội vô cùng…”. Nói xong, hai bờ vai Vương hậu run lên bần bật, rũ xuống đất mà khóc.
Thân phận tôn quý, lớn lên nơi thâm viện, sau này cũng chỉ ở vương cung, trong lòng Vương hậu chỉ biết đến một nam nhân duy nhất là Hà Túc. Lúc trước quen ăn ngon mặc đẹp, xung quanh kẻ hầu người hạ, lại có phụ mẫu sớm hôm kề bên, nên sau khi được sắc phong làm mẫu nghi một nước, Vương hậu mới thành ra tâm kế, mưu mô suy tính thiệt hơn.
Lúc này đây, khi đã trút bỏ xiêm y lộng lẫy, tóc buộc ngang lưng, thân ở nơi lãnh cung nhìn mây trôi lãng đãng, lòng Vương hậu lại nhớ tới những việc cỏn con ngày trước.
Nhớ thời run rẩy bước chân vào phủ vương tử, đêm động phòng hoa chúc, Vương hậu khẽ vén một góc khăn hồng, lặng lẽ liếc nhìn Hà Túc. Nhớ cảm giác hân hoan khi Hà Túc thì thầm vào tai, rằng nàng đã mang cốt nhục của ta. Nhớ cảm giác khi chuẩn bị trang điểm nơi hậu cung, rồi ung dung nhận ngọc tỷ vương hậu trước mặt mọi người.
Một đôi phu thê như thế, sao lại từng bước, từng bước bị cuốn vào quốc hận, thù nhà, đến nay ngoài những buồn thương vướng mắc, liệu còn lại điều gì?
Đang khóc đến đứt gan đứt ruột, bỗng thấy có người chạm vào vai, Vượng hậu ngẩng khuôn mặt đẫm lệ lên, nhìn Hà Túc đang đỡ mình dậy.
“Vương hậu đừng khóc nữa. Ta nói thực với Vương hậu, Nhạc Chấn dẫn quân bỏ chạy, thành đô không còn binh sĩ, nay Hà Hiệp dẫn theo đại quân Vân Thường bao vây chúng ta rồi.”
“Hả!” Vương hậu thất kinh. Bị giam lỏng nhiều ngày nay, Vương hậu không biết đến tin tức bên ngoài nên chẳng thể ngờ rằng tình hình lại tồi tệ đến mức này.
“Mạnh yếu chênh lệch, biết rõ là thua, chi bằng ta không đánh trận này. Giờ này ngày mai, quả nhân sẽ mở cổng thành, tự tay đưa thư hàng cho Hà Hiệp”, Hà Túc cười cay đắng, “Nước đã mất, tội phản quốc của Vương hậu và Quốc trượng, Quốc cữu có gì mà không thể đại xá?”.
Nghe những lời chất chứa sự bất lực và chán nản của Hà Túc, hoàn toàn khác với vẻ lạnh lùng, kiêu ngạo trước đây, trong lòng Vương hậu càng thêm đau đớn hối hận, giọng nói cũng run rẩy: “Nếu không vì lỗi của thần thiếp, Quy Lạc không xảy ra nội loạn, Đại vương có đại quân trong tay, Hà Hiệp đâu thể muốn đến là đến? Thần thiếp…”.
“Đừng nói nữa.” Hà Túc cắt ngang lời Vương hậu, trầm giọng, “Thị nữ đã mang sẵn y phục, trang sức đợi bên ngoài. Vương hậu hãy trang điểm như mọi ngày đi. Lâu lắm rồi Vương hậu không uống rượu cùng quả nhân, đêm nay phu thê ta sẽ cùng nhau thưởng rượu, đừng để người ngoài làm phiền”.
Vương hậu lặng lẽ nhìn Hà Túc, cuối cùng chậm rãi hành lễ: “Thần thiếp tuân lệnh”.
Hà Túc quay người rời đi, những thị nữ bên ngoài thấy Đại vương đi ra thì nhất tề bước vào, trên tay bê những khay vuông, đều là y phục và đồ trang sức Vương hậu quen dùng, còn đủ cả son phấn cũng như các loại hương.
“Vương hậu nương nương.” Gặp được Vương hậu, đám thị nữ nhất loạt hành lễ, nhưng khuôn mặt ai cũng u ám, xem ra, tin Đại vương ngày mai sẽ nộp thư hàng cho Hà Hiệp đã truyền khắp vương cung.
Sau khi tắm gội thay áo, Vương hậu trang điểm đẹp như thần tiên, rồi uyển chuyển di giá đến tẩm cung của Đại vương.
Quả nhiên Hà Túc đã sai người chuẩn bị rượu ngon ở đó. Qua tấm rèm châu, họ cùng nhau thưởng rượu dưới trăng.
Giờ lành cảnh đẹp, sơn hào hải vị, rượu ngon sóng sánh, nghĩ lại những ngày bị giam lỏng nơi lãnh cung không thấy mặt trời thật giống một giấc mơ, Vương hậu bất giác cảm thán đời người sao mà khó đoán.
Cả hai đều trĩu nặng tâm tư, lặng lẽ ngồi đó, uống cạn vài chén. Hà Túc chợt hỏi: “Sao Vương hậu không nói gì?”.
“Thần thiếp…” Khuôn mặt trang điểm kỹ càng của Vương hậu thoáng chút hoang mang, “Thần thiếp không biết phải nói gì”.
Hà Túc nhìn thật kỹ thê tử đang ở trước mặt, bỗng bật cười nói: “Quả nhân bỗng thấy, từ khi trở thành chủ nhân hậu cung đến nay, lúc này nàng đẹp nhất”.
Được Đại vương khen, trái tim nặng nề bỗng nhẹ bẫng, cảm giác xung quanh như bồng bềnh mây trắng, Vương hậu khẽ cúi người, đáp: “Lòng không phiền muộn mới long lanh trong vắt. Cũng có thể vì hôm nay trong lòng thần thiếp đã không còn điều gì giấu giếm Đại vương nữa”.
“Nói hay lắm”, Hà Túc nâng chén, “Vương hậu đêm nay khiến quả nhân nhớ lại ngày đầu tiên nàng bước chân vào phủ vương tử. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, hóa ra chúng ta đã là phu thê bao nhiêu năm rồi”. Giọng Hà Túc bỗng dịu dàng như bao năm trước.
Khuôn mặt Vương hậu vừa kinh ngạc vừa cảm động: “Đại vương… có còn nhớ thiếp lúc mới bước vào phủ vương tử không?”.
“Sao lại không?”
“Thật không…” Vương hậu đưa tay vuốt tóc, khẽ nói, “Chẳng giấu gì Đại vương, thần thiếp cũng nhớ”.
Phủ vương tử, phủ vương tử của Hà Túc lúc đó.
Vang giọng ca vui, tiếng đàn véo von.
Một đám danh gia vọng tộc bằng hữu của Hà Túc khi ấy thường tụ tập tán chuyện trên trời dưới đất, có luyện kiếm, có đánh đàn, hoặc luận đàm thi họa, hoặc nói chuyện chí lớn. Ai uống rượu thì uống rượu, ai nói chuyện thì nói chuyện. Dương Phượng đã là người trong phủ vương tử, cộng thêm Hà Hiệp luôn dẫn theo Sính Đình đến.
Chỉ có nhà họ Nhạc gia quy nghiêm ngặt, lại là vương tử phi tôn quý, không như những người khác, nên Vương hậu không thể vui đùa cùng bọn họ, đành ngồi trong bốn bức tường, nghe tiếng nói cười từ xa vọng lại.
Hóa ra… Đại vương vẫn nhớ tất cả những thứ đó.
Nhưng, liệu Phò mã Vân Thường Hà Hiệp đang cầm quân bao vây thành đô Quy Lạc có còn nhớ đến điều này?
Tác giả :
Phong Lộng