Cô Phương Bất Tự Thưởng
Quyển 2 - Chương 53
Rừng rậm Bách Lý.
Gian nhà gỗ giờ tràn đầy hân hoan và sức sống.
Tuy rất yên tĩnh, nhưng niềm vui trong đó thật khiến người ta không thể ngó lơ.
Hai con người hạnh phúc đang kề bên nhau trên chiếc giường gỗ, không sao đi vào giấc ngủ.
“Sao đêm nay sáng quá”. Sở Bắc Tiệp ôm lấy Sính Đình cứ ngỡ đã mất đi nay bỗng trở về.
Sính Đình bật cười.
“Có gì buồn cười thế?”
“Cuối cùng Vương gia cũng chịu lên tiếng.” Nàng cười dịu dàng, thấy Sở Bắc Tiệp nhìn mình chăm chăm thì xấu hổ hỏi: “ Vương gia nhìn gì?”.
Nhìn hồi lâu, Sở Bắc Tiệp mới cảm thán: “Sính Đình, nàng thật đẹp”.
Trong lòng vô cùng cảm động, Sính Đình khẽ nói: “Vương gia gầy đi nhiều. Đều tại Sính Đình không tốt”.
“Việc này không liên quan đến nàng, là ta cam tâm tình nguyện. Ta có tình cảm với Sính Đình, nên ta nguyện làm bất cứ việc gì cho Sính Đình, để mỗi ngày trôi qua đều là vì Sính Đình.”
Im lặng hồi lâu, Sính Đình chậm rãi nói; “Chẳng phải chàng là đại trượng phu có chí lớn ôm toàn thiên hạ sao?”.
“Có thể một lòng một dạ, không chùn bước trước khó khăn mới là chí lớn.” Sở Bắc Tiệp nhẹ nhàng vuốt mái tóc Sính Đình, khảng khái đáp, “Chí lớn của ta chính là khiến nàng trở thành nữ tử hạnh phúc nhất thế gian”.
Sính Đình ngẩng đầu, sóng mắt mênh mang, khẽ nói: “Vương gia nghĩ thế thật sao?”.
Sở Bắc Tiệp giơ hai ngón tay, vẻ mặt hoàn toàn nghiêm túc: “Sở Bắc Tiệp ta xin thề với trời, đời này kiếp này sẽ không bao giờ thay đổi những lời ta vừa nói”.
Sính Đình cảm động nhìn chàng, nước mắt rơi, nàng khẽ khép đôi mi: “Vậy… Vương gia có bằng lòng làm cho Sính Đình một việc?”.
Sở Bắc Tiệp dịu dàng, đáp: “Đừng nói là một việc, cả vạn việc cũng được. Chỉ cần là tâm nguyện của nàng, sẽ không có ai ngăn nổi Sở Bắc Tiệp làm điều đó vì nàng”.
Sính Đình ngẩng lên, nhìn chăm chăm nam nhân thân yêu trước mặt. Hàng mày khí phách vẫn đậm, sống mũi thẳng tắp, đôi môi mỏng, tất cả đều như trong giấc mơ, trong nỗi nhớ của nàng.
Hóa ra, nàng chưa từng quên, dù là điều nhỏ nhất của chàng.
Đây là nam nhân thân yêu nhất của nàng.
Trong ba kiếp, e là chỉ một kiếp mới có được tình yêu sâu đậm đến vậy.
Yêu sâu đậm, đau cũng sâu đậm, chịu bao vất vả mà vẫn như con thiêu thân lao đầu vào lửa.
Nàng với tay, lấy trong tay nải đặt đầu giường ra một vật.
“Vương gia đã từng để thanh kiếm này ở biệt viện ẩn cư, bảo đảm cho sự an nguy của Sính Đình.” Nay, liệu Vương gia có bằng lòng cầm lại thanh kiếm này dẹp yên thiên hạ, thống nhất tứ quốc, để Sính Đình được sống yên vui trong cảnh thái bình?”.
Hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, Sở Bắc Tiệp chưa từng nghe tới tin tức loạn lạc, bất giác sững người. Với tâm tính của Sính Đình, chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ, chắc chắn nàng sẽ không đưa ra lời thỉnh cầu như thế.
“Vương gia không muốn sao?”, Sính Đình hạ giọng hỏi.
Vốn cả đời binh nghiệp, thứ Sở Bắc Tiệp không sợ nhất chính là sa trường, là chém giết. Huống hồ người đưa ra thỉnh cầu lại là Sính Đình. Sau giây phút sững lại, chàng cất giọng cười sang sảng: “Để thê tử của mình được sống yên vui trong thiên hạ thái bình là việc mà tất cả nam nhi nên làm”.
Sở Bắc Tiệp ngay lập tức nhận lấy bao kiếm, cảm giác quen thuộc ùa về trong lòng bàn tay. Thần uy bảo kiếm bị bỏ lại trên linh đường hôm đó nay đã về tay chủ nhân.
Thanh bảo kiếm nặng trịch, lạnh băng… Chàng vẫn nhớ rõ từng hoa văn khắc trên cán kiếm.
Thanh bảo kiếm đã từng chỉ huy cả thiên quân vạn mã, giết sạch kẻ địch.
Kiếm rút ra khỏi vỏ, thiên hạ chấn động.
Đây là kiếm của Trấn Bắc vương.
Đôi mắt Sở Bắc Tiệp lại lấp lánh ánh sáng ngạo mạn nhìn thiên hạ.
Nữ nhân thương yêu của chàng đã trở về, kiếm của chàng đã nắm trên tay.
Hào tâm tráng khí của chàng đã thức tỉnh.
Rừng rậm Bạch Lý ban tặng cho chàng một kỳ tích, chàng phải trả lại thế gian này một kỳ tích khác.
Chàng sẽ dùng thanh bảo kiếm trong tay để chinh phục thiên hạ, vì nữ nhân tuyệt vời nhất thế gian.
Tuy vương cung Đông Lâm đã bị huỷ diệt, nhưng một ngày còn vương tộc Đông Lâm, thì quốc gia đó vẫn chưa bị diệt vong hoàn toàn.
Từ khi xảy ra chiến loạn đến nay, tuấn mã của Hà Hiệp tung vó khắp nơi, chỉ huy các chiến dịch. Hà Hiệp trước nay đối phó với kẻ địch thủ đoạn nhanh gọn, chưa từng do dự, nhưng cứ nghĩ đến việc xử lý Diệu Thiên như thế nào, lại cảm thấy chần chừ.
Những ngày trở về thành đô Vân Thường, đã mấy lần Phi Chiếu Hành nhắc đến chuyện này, Hà Hiệp đều đẩy lui: “Trước mắt không vội, đợi đến khi chúng ta đối phó xong với vương tộc Đông Lâm và Quy Lạc, rồi tính tiếp”.
Phi Chiếu Hành liên tục khuyên nhủ: “ Phò mã, việc này không lớn cũng chẳng nhỏ. Không xử lý sớm, e là sau này sẽ thành tai hoạ”.
Hà Hiệp quá hiểu điều này.
Đại quân chinh chiến dưới trướng của Hà Hiệp, ngoài số ít hàng binh mới thu phục được và tàn binh mới thu nhận, quân chủ lực đều đến từ đội quân Vân Thường. Giả dụ tin Diệu Thiên bị giam lỏng trong cung truyền ra ngoài, hoặc Diệu Thiên dẫn đầu phủ nhận quyền thống soái của Hà Hiệp, thì chắc chắn sẽ làm dao động cục diện thắng lợi hiện nay.
Chẳng lẽ phải ra tay với thê tử của mình? Hà Hiệp vô cùng buồn phiền. Thân không ở trên sa trường, không ngửi thấy mùi máu tanh và mùi khói lửa quen thuộc, suốt ngày chỉ rượu ngon đàn hay càng khiến ruột gan Hà Hiệp nóng như lửa đốt. Thấy sắc mặt đáng sợ của hắn, các đại thần trong triều đều giật mình, chẳng biết mình có vô tình đắc tội với phò mã không, họ sợ rằng nỗi bi thảm của Quý gia sẽ xảy đến với bản thân mình.
May mà chưa được mấy hôm lại có quân báo.
“Đã phát hiện thấy nơi lẩn trốn của vương tộc Đông Lâm và đã bao vây lại.”
“Được!”, Hà Hiệp cười đáp, “Vương tộc Đông Lâm thoi thóp bao nhiêu ngày nay, lần này quyết không để bọn chúng tiếp tục chạy trốn. Truyền lệnh, bao vây chặt bọn chúng, nhưng chưa vội ra tay. Bản phò mã sẽ đích thân xử lý chúng”.
Đuổi lui lính truyền tin, Hà Hiệp lập tức điểm binh xuất phát. Vốn tính tình cẩn trọng, biết rõ ở thành đô Vân Thường vẫn có những đại thần chỉ vì sợ chết, chứ không thật lòng khuất phục, cần phải lưu ý, nên Hà Hiệp đã lệnh cho Phi Chiếu Hành cùng Đông Chước ở lại trông coi thành đô.
Không ngờ, chưa được ba ngày, đoàn quân vừa ra khỏi thành đô được hơn hai trăm dặm, Phi Chiếu Hành đã phi ngựa tới, ngăn đoàn quân của Hà Hiệp.
“Phò mã ở đâu?”
Hà Hiệp dừng ngựa, quay lại nhìn, thấy Phi Chiếu Hành mặt đầy bụi đường, bên cạnh chỉ dẫn theo vài cận vệ, biết là thành đô có chuyện chẳng hay, cất giọng gọi: “ Chiếu Hành, lại đây!”.
Đuổi hết những người xung quanh, dẫn Phi Chiếu Hành ra chỗ vắng vẻ, Hà Hiệp xuống ngựa, hỏi: “Thành đô đã xảy ra chuyện gì?”.
Sự việc khẩn cấp, Phi Chiếu Hành còn không kịp lau bụi trên mặt, vội vàng lấy trong người ra một bức thư đưa cho Hà Hiệp, vẻ mặt vô cùng nặng nề.
Hà Hiệp nhận lấy bức thư, mở ra, lướt qua hai dòng, sắc mặt đã trở nên khó coi cực độ, càng đọc, hai hàng mày càng cau lại, khuôn mặt như được phủ một lớp băng, trầm trọng: “Đây là vương lệnh. Là… nét chữ của Công chúa sao?”. Ánh mắt hắn tối sầm khiến người ta khiếp sợ.
“Vâng. Nét chữ đã tìm người đối chiếu, không phải ngụy tạo, chính xác là của Công chúa.”
“Ở đâu ra?”
Phi Chiếu Hành bẩm báo: “Phát hiện thấy trên người một cung nữ lén lút ra khỏi cung”.
Hà Hiệp gầm lên: “Chẳng phải đã nghiêm cấm những cung nữ bên cạnh rời khỏi Công chúa nửa bước sao? Bao nhiêu thị vệ canh giữ, sao lại để một cung nữ lọt được ra ngoài? Còn mang theo bức thư thế này?”.
“Phò mã bớt giận”, Phi Chiếu Hành bình tĩnh đáp, “Việc này đã điều tra rõ ràng, do thị vệ đó đã nhận hối lộ. Hiện thị vệ đó đang bị nhốt, vì lo rằng còn có ẩn tình bên trong, cần tiếp tục tra hỏi”.
“Phải điều tra kỹ.” Đáy mắt Hà Hiệp như kết thành một lớp băng, sắc mặt đã khôi phục vài phần ung dung: “Đã tra khảo cung nữ đó chưa? Khai báo những gì?”.
Phi Chiếu Hành đáp: “Cung nữ nhát gan, chưa cần dùng đại hình sợ quá mà khai hết. Bức thư này do Công chúa viết rồi giao cho cung nữ Lục Y, Lục Y giao cho cung nữ đó để đưa đến Chưởng ấn[1] đại nhân, Chưởng ấn đại nhân sẽ giao cho một số quan viên khác”.
[1] Chưởng ấn là người giữ con dấu, người nắm quyền chủ sự.
“Một số quan viên?”, Hà Hiệp cười gằn, “Rốt cuộc là những kẻ nào mà lại chán sống như thế! Danh sách đâu?”.
Phi Chiếu Hành khom người, đáp: “Chắc chắn trong tay Chưởng ấn đại nhân có danh sách. Trước khi rời khỏi thành đô, thuộc hạ đã cử người bí mật bắt giữ Chưởng ấn đại nhân, hiện đang dùng cực hình tra khảo. Việc nay vô cùng quan trọng, thuộc hạ đã ra nghiêm lệnh không được để lọt tin tức ra ngoài. Đông Chước ở lại trông coi thành đô, thuộc hạ đuổi theo bẩm báo với Phò mã”.
Phi Chiếu Hành làm việc gọn ghẽ, xử lý xác đáng, rất có tài ứng biến khiến Hà Hiệp phải nhìn bằng ánh mắt tán thưởng.
Bẩm báo xong, Phi Chiếu Hành ngừng một lát, rồi hạ giọng nói tiếp: “Phò mã, xin Phò mã hãy lập tức quay về thành đô. Việc quan trọng bây giờ không phải vương thất Đông Lâm, mà là thành đô Vân Thường. Công chúa đã ra tay, ngộ nhỡ trong ngoài đều biết tin, e là sự việc sẽ khó giải quyết. Đám quan văn gan nhỏ, không đáng sợ, nhưng trên danh nghĩa Công chúa vẫn là chủ nhân của Vân Thường, ngoài Phò mã, sẽ chẳng ai dám đối phó với Công chúa”.
“Công chúa lại dám tự tay viết vương lệnh, muốn các đại thần bí mật trù tính, liên kết với nhau, truất quyền dẫn binh của ta…” Hà Hiệp nhìn vương lệnh trong tay, nộ khí trào lên, năm ngón tay co lại, vò nát vương lệnh trong đó. Nghiến chặt răng, không hề lên tiếng, hồi lâu Hà Hiệp mới lấy lại bình tĩnh, hỏi, “Công chúa đã biết việc cung nữ kia bị chặn chưa?”.
“Chắc là không biết. Cung nữ đó bị bắt ngay trên đường đi đến phủ đệ của Chưởng ấn đại nhân. Công chúa ở tận trong cung có các thị vệ trông coi cẩn mật, không ai được nói chuyện với Công chúa và các thị nữ bên cạnh.”
Hà Hiệp gật đầu: “Ta và ngươi hãy lập tức quay về thành đô. Việc này không thể kéo dài, phải giải quyết một lần cho xong”.
Phi Chiếu Hành gật đầu, đáp: “Đúng thế”.
Việc không thể chậm trễ, ra quyết định xong, Hà Hiệp lập tức lệnh một nửa quân theo về thành đô, một nửa còn lại, thì chọn ra vị tướng quân thống lĩnh tiếp tục lên đường. Hà Hiệp hạ lệnh: “Đến Đông Lâm, truyền soái lệnh của bản Phò mã, lập tức đối phó với vương thất Đông Lâm đang bị bao vây. Bắt sống vương hậu đang nắm giữ đại quyền Đông Lâm cho ta, đó là chiến lợi phẩm của bản Phò mã. Những kẻ khác không cần giữ lại.”
Sau khi bố trí thỏa đáng, Hà Hiệp cùng Phi Chiếu Hành dẫn theo binh mã quay về thành đô.
Họ đi cả chặng đường ngày đêm không nghỉ, bí mật trở về thành đô. Đến cổng thành, Phi Hành Chiếu hạ giọng, hỏi: “Phò mã, có nên tới vương cung trước không?”
Hà Hiệp lắc đầu: “Về phủ Phò mã”.
Trong phủ Phò mã, Chưởng ấn đại nhân không chịu nổi đòn tra khảo nên đã giao nộp toàn bộ danh sách các quan bí mật liên hệ được cho Hà Hiệp . Hắn quét qua một lượt bản danh sách rồi gọi một phó tướng tin cẩn vào, hạ lệnh: “Lập tức truyền quân lệnh của ta, nói rằng phát hiện trong thành đô có thích khách Quy Lạc, toàn thành giới nghiêm, bất cứ ai cũng không được tùy tiện ra phố.”
Sau khi ra thiết quân luật, Hà Hiệp nói với Đông Chước: “Phần lớn các quan văn trong danh sách đều đang ở thành đô, hãy lấy lý do giới nghiêm, cử tướng sĩ đến trông coi các phủ đệ, cẩn thận không được để lộ tin tức ra ngoài”.
Đông Chước đáp một tiếng, rồi đích thân đi dặn dò, bố trí.
“Có một việc cần Chiếu Hành lập tức đi làm”, Hà Hiệp quay sang nhìn Phi Chiếu Hành, “Các tướng lĩnh trong cung đều nhận ân huệ của ta, tin phục ta. Nếu Vân Thường có biến lớn, sẽ rất nhiều người chọn ủng hộ ta, nhưng Đại tướng quân Thương Lộc lại không nằm trong số đó. Thương Lộc đời đời nhận trọng ân của vương thất Vân Thường, ngu muội hết mức, làm người cứng nhắc, không biết ứng biến. Nếu ta chính thức lên ngôi, chắc chắn hắn sẽ là người đầu tiên trong quân phản đối”.
Nói tới đây, Phi Chiếu Hành hiểu ngay: “Phò mã cứ giao phó”.
“Nay Thương Lộc đang đóng quân tại Bắc Mạc. Ta sẽ viết một đạo quân lệnh bảo hắn trong ngày hôm nay phải lập tức xuất phát đến Quy Lạc, tìm cơ hội quyết chiến với Đại tướng Quy Lạc Nhạc Chấn. Ngươi nhận lấy quân lệnh, tự mình đi một chuyến đến Bắc Mạc tuyên lệnh. Còn nữa, ta muốn ngươi dẫn theo cánh quân Úy Bắc cùng Thương Lộc tiêu diệt đại quân của Nhạc Chấn. Trận chiến này, Thương Lộc là phó tướng, ngươi là chủ tướng. Ngươi biết nên làm thế nào rồi chứ?”
Phi Chiếu Hành là người nhanh nhạy, nghe vậy liền gật đầu: “Tướng quân trăm trận chết, tráng sĩ mười năm về. Hai quân giao chiến, khó tránh được tử thương, Thương Lộc thân là đại tướng Vân Thường, hy sinh trên sa trường cũng là hợp tình hợp lý. Phò mã cứ yên tâm”.
Hà Hiệp lấy bút viết hai vương lệnh, một cho Thương Lộc, một giao cho Phi Chiếu Hành nắm giữ đại quyền chủ tướng trận chiến với Quy Lạc này. Viết xong, Hà Hiệp đặt bút xuống, cười nhạt: “Thương Lộc phải xử lý, Nhạc Chấn cũng không thể cho qua. Lần này huy động đến hai cánh quân là thừa binh lực. ta chỉ lo tình chủ tớ giữa ngươi và Nhạc Chấn ngày trước, sợ đến lúc lâm trận ngươi lại mềm lòng”
Phi Chiếu Hành cung kính nhận lấy quân lệnh, đáp: “Chiếu Hành vì Nhạc gia vào sinh ra tử, để đổi lấy kết cục “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn[2]”, còn đâu tình chủ tớ. Nhạc Chấn tài năng tầm thường, chỉ dựa vào công lao của tổ tông mà thành đại tướng quân, thuộc hạ nhất định phải đánh cho hắn tan tác”. Nói xong, Phi Chiếu Hành cẩn thận cất hai vương lệnh vào người, rồi hạ giọng, “Phò mã, vương cung…”
[2] “Thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn” nghĩa là “thỏ chết thì chó săn bị đem nấu, chim chết thì cây cung bị cất đi”, ý chỉ kết cục nhận được là sự vong ân bội nghĩa.
Hà Hiệp cắt ngang: “Ta sẽ xử lý. Ngươi cứ đi đi”.
Hà Hiệp đuổi lui Phi Chiếu Hành, thư phòng hoa lệ bỗng trở nên yên tĩnh.
Hà Hiệp đứng đó hồi lâu, rồi lấy trong người ra bức thư do chính tay Công chúa viết. Hà Hiệp đặt bức thư đã vò nát mấy ngày trước trong lúc giận dữ lên bàn, chậm rãi vuốt thẳng ra, xem lại một lượt. Khuôn mặt tuấn tú bình tĩnh, đôi mắt sắc sảo sáng quắc, không biết ẩn chứa bao nhiêu suy nghĩ phức tạp.
Dặn dò xong, Đông Chước liền quay lại, vừa bước vào thư phòng, thấy bóng Hà Hiệp bỗng sững người, một bàn chân vẫn còn ở nguyên ngoài bậu cửa.
Hà Hiệp như đang chất chứa bao nỗi âu sầu, vóc dáng cao lớn nặng hơn núi, dù có dùng sức lực toàn thân e là Đông Chước cũng không thể dịch chuyển.
“Đông Chước à? Vào đi.”
Đông Chước đang đứng sững ngoài cửa, nghe Hà Hiệp gọi liền bước vào, chậm rãi tiến đến bên bàn, đứng cạnh thiếu gia, cúi xuống, nhìn vương lệnh do chính Công chúa Diệu Thiên viết đang đặt trên bàn. Đương nhiên là Đông Chước biết rõ trong đó viết những gì, bèn thở dài một tiếng, hạ giọng hỏi Hà Hiệp: “Thiếu gia định xử trí Công chúa thế nào?”
“Các ngươi đều hỏi ta cùng một câu hỏi khó.” Hà Hiệp cười chua chát rồi mím làn môi mỏng, khuôn mặt lạnh lẽo hơn thường ngày: “Nếu bức thư này đến được tay các quan, còn ta vẫn đang ở ngoài thành đô, một khi bọn họ khởi sự thành công, cứu được Công chúa, lòng quân Vân Thường sẽ dao động.”
“Thiếu gia…”
Hà Hiệp mặc kệ Đông Chước, tiếp tục trầm giọng: “Công chúa nắm giữ đại cục lại xuất hiện trước mặt thần dân, dù ta có bao nhiêu chiến công, đánh thắng bao nhiêu trận, đạt được bao nhiêu thắng lợi hiển hách, binh sĩ của đại quân Vân Thường cũng vẫn dần quay lưng lại với ta. Bởi đối thủ của ta là chủ nhân Vân Thường. Quân lính và chúng dân không biết lựa chọn một người có tài, mà chỉ biết đến sự trung thành ngu xuẩn, chỉ biết tận trung với vương thất”.
Từng tiếng Hà Hiệp nói ra đều như tạc bằng băng. Đông Chước nghe thấy mà rùng mình, khẽ mấp máy môi, định nói gì, nhưng bỗng thấy lưỡi như tê cứng, không nói được lời nào.
Sự thật là, giả dụ Diệu Thiên có cơ hội phế bỏ quyền lực của Hà Hiệp, Hà Hiệp sẽ thất bại thảm hại. Vương lệnh viết rõ ràng rằng: Phò mã mưu đồ thành lập tân quốc là tội danh mưu phản, sẽ bị xử cực hình.
Không khí trong thư phòng như đông kết, làn gió mát lành cũng không thể xua tan lớp băng âm u của tranh quyền đoạt thế.
“Ngươi nói xem, Công chúa có thật lòng với ta không?”, Hà Hiệp đột nhiên quay lại hỏi Đông Chước.
Đông Chước vẫn ủ ê hồi lâu, cũng miễn cưỡng khuyên nhủ: “Thiếu gia, Công chúa viết như thế cũng chỉ vì sự tồn vong của vương thất Vân Thường, vì tình thế bức bách. Trong lòng Công chúa…”
Hà Hiệp nhìn Đông Chước, bỗng nở nụ cười ôn hòa: “Trong lòng Công chúa thực ra không muốn giết ta, đúng không?”
Nhìn nụ cười của Hà Hiệp, Đông Chước bỗng cảm thấy toàn thân lạnh toát, vốn định gật đầu nói đúng, nhưng giằng co hồi lâu, cuối cùng phải thở dài một tiếng, buồn bã nói sự thật: “Thiếu gia nghĩ rất đúng, nếu Công chúa nắm được đại quyền, thì dù Công chúa không nỡ, cũng sẽ bị các đại thần gây áp lực xử thiếu gia tội chết”.
Đang rầu rĩ việc này, câu nói thật thà của Đông Chước như cái kim chọc vỡ u nhọt trong lòng Hà Hiệp. Đông Chước bất chấp hậu quả nói ra sự thật, cũng chẳng biết Hà Hiệp sẽ phản ứng thế nào, đành cụp mắt xuống, không dám nhìn thiếu gia.
Hồi lâu, Đông Chước mới nghe thấy tiếng thở dài.
Hà Hiệp nói: “Ta phải chuẩn bị một phần lễ vật, vào cung gặp Công chúa”
Bắc Mạc.
Cách thành Kham Bố về phía đông tám dặm là cổ thành Giang Linh.
Thành trì hoang phế, tường thành đã sụp đổ quá nửa.
Cát vàng phủ mặt đất.
“Thượng tướng quân, uống chút nước đi”.
Gáo nước binh sĩ dâng lên vàng và đục ngầu. Hoàn cảnh ở thành Giang Linh vô cùng khắc nghiệt. Nguồn nước, nguồn lương thực đều thiếu trầm trọng, nhưng nơi đây có địa hình hiểm trở, mật đạo trong thành lại thông đi khắp nơi, dù có bị đại quân Vân Thường chú ý tới, cũng có thể may mắn thoát chết.
Nhược Hàn nhận lấy gáo nước, uống một ngụm, rồi đưa cho các tướng sĩ bên cạnh: “Các ngươi cũng uống chút nước đi.”
Trận chiến Chu Tình, đội quân Bắc Mạc bị Hà Hiệp đánh cho tan tác. Nhược Hàn thoát chết, sau đó có mấy lần tổ chức tàn binh đứng lên phản kháng nhưng kẻ thù là danh tướng Hà Hiệp, nên lần nào cũng phải chạy trốn vào rừng.
Thực lực chênh nhau, binh lực, tướng tài của Bắc Mạc không thể so với đối phương, tính đến nay, Nhược Hàn có thể giữ được mạng sống và những tướng sĩ bên cạnh đã không phải là chuyện dễ dàng.
Tuy vậy, các tướng sĩ Bắc Mạc vẫn chưa từng có ý nghĩ đầu hàng Hà Hiệp .
Một binh lính bên cạnh ngẩng đầu nhìn mặt trời thiêu đốt, bỗng hỏi: “Thượng tướng quân đoán xem hôm nay Sâm Vinh tướng quân sẽ mang theo bao nhiêu binh mã trở về?”
“Sẽ không ít đâu”, Nhược Hàn trả lời, bất giác cũng thấy lòng mình nóng bừng.
Nhược Hàn nhớ đến vị tướng quân mà mình đi theo trước đây, thượng tướng quân thiện chiến, kiêu dũng nhất Bắc Mạc, Tắc Doãn.
Từ khi câu chuyện về Tắc Doãn thượng tướng quân công khai khiêu chiến với Hà Hiệp được truyền ra ngoài, dân chúng bí mật gia nhập nghĩa quân ngày càng đông.
Mọi người đều biết câu chuyện này là thật.
Hà Hiệp đã đổ máu, sẽ có một ngày, Hà Hiệp thất bại. Tắc Doãn thượng tướng quân đã nói như vậy.
Còn ý chí chiến đấu là còn hy vọng. Dù bị tiêu diệt cũng sẽ có những lớp người ngoan cường tiếp bước.
Thời xa xưa, vương quốc Bắc Mạc cũng được hun đúc từ những bầu nhiệt huyết.
Lần này, chắn chắc Sâm Vinh sẽ dẫn những nam nhi nhiệt huyết của Bắc Mạc về nhiều hơn.
“Thượng tướng quân, Sâm vinh tướng quân về rồi!” Lính gác thành huơ tay bẩm báo.
Nhược Hàn đứng bật dậy, nhìn ra ngoài thành, trong đám bụi cuốn xa xa quả nhiên xuất hiện mấy bóng người ngựa đang phi như bay về phía thành.
“Nhìn rõ chưa?”
“Bẩm rõ rồi, chắc chắn là tướng quân Sâm Vinh”. Lính gác tinh mắt trả lời chắc nịch, nhưng tiếp theo lại nghi ngờ, “Lạ thật, sao lần này lại ít thế?”.
Trong lòng Nhược Hàn cũng đang có câu hỏi tương tự.
Nhận được sự cổ vũ của Thượng tướng quân Tắc Doãn, số người bí mật gia nhập nghĩa quân ngày càng tăng, tại sao lần này Sâm Vinh chỉ dẫn về có mấy người? Không lẽ đã xảy ra điều gì bất trắc?
Sâm Vinh phi ngựa nhanh nhất, chẳng mấy chốc đã đến chân thành, vẫy tay với lính gác cổng thành. Lính giữ thành vội vàng để họ vào trong. Nhược Hàn bước nhanh tới hỏi luôn Sâm Vinh vừa xuống ngựa: “Thế này là thế nào? Sao chỉ có vài tân binh?”.
Sâm Vinh nhận lấy gáo nước thuộc hạ vừa đưa lên, mặc kệ màu nước đục, cúi xuống uống một ngụm to: “Rất đông tân binh, nhưng thuộc hạ tạm thời chưa đưa về”.
“Sao thế?”
“Ba quân dễ kiếm, một tướng khó cầu. Khà khà…” Trong lòng chắc chắn có chuyện vui, Sâm Vinh nét mặt vô cùng hứng khởi, miệng cười toe toét.
“Ngươi ra ngoài một chuyến, lẽ nào lại tìm được tướng tài trở về?”
“Không chỉ là tướng tài bình thường mà là thần tướng! Một danh tướng chắc chắn có thể đánh bại Hà Hiệp.”
Nhược Hàn cứ ngỡ Sâm Vinh đang một tấc đến trời, hai hàng mày càng chau.
Hà Hiệp được tôn xưng là danh tướng đương thời, thiên hạ này giờ lại có ai dám chắc chắn sẽ đánh bại được hắn?
Hiện giờ binh mệt lương thiếu, rừng núi hiểm trở, kỵ nhất chính là những việc khiến lòng quân dao động. Sâm Vinh trước nay tính tình vốn qua loa đại khái, sao hiểu được một lời của kẻ làm tướng nói ra mà không thể thực hiện sẽ chẳng khác gì giáng một đòn trí mạng vào lòng quân sĩ. Bất giác, Nhược Hàn hạ giọng: “Sâm Vinh, chớ có hồ đồ. Ngươi từng giao chiến với Hà Hiệp, chẳng lẽ không hiểu được bản lĩnh của hắn? Cái gì mà một danh tướng chắc chắn đánh bại được Hà Hiệp ? Điều này sao có thể xảy ra? Trừ phi…”. Ngay lập tức, Nhược Hàn thở dài một tiếng.
Nhược Hàn bỗng nhớ đến Sính Đình.
Nhược Hàn vẫn ghi nhớ trận chiến Kham Bố ngày trước, rõ ràng như đao khắc.
Chỉ có vẻ ung dung của Bạch cô nương khi tấu lên khúc nhạc đuổi lui vạn quân của Sở Bắc Tiệp mới có thể sánh được với thủ đoạn ma quỷ khó lường của Hà Hiệp trong đại chiến Chu Tình.
Đáng tiếc, giai nhân đã chẳng còn.
Nhược Hàn đã bao lần giả tưởng rằng, nếu Sính Đình trở thành chủ soái trong trận chiến Chu Tình, kết quả sẽ ra sao?
“Thượng tướng quân hà tất phải thở dài? Thượng tướng quân lại đây, thuộc hạ cho Thượng tướng quân xem một thứ.” Sâm Vinh cười, tiến lên phía trước một bước, tháo cái bọc trên lưng xuống rồi kéo Nhược Hàn sang một bên, vừa mở bọc vừa nhắc Nhược Hàn, “Thượng tướng quân cẩn thận, bảo vật này rất chói mắt, đừng để bị hoa mắt đấy”.
Nhược Hàn thấy Sâm Vinh hứng chí thế, trong lòng cũng thấy ngạc nhiên, bèn kiên nhẫn chờ Sâm Vinh mở bọc ấy ra, trong đó là những mảnh vải đỏ đen xanh dính đầy bụi đất, thỉnh thoảng còn có cả vết máu. Nhược Hàn nhìn kỹ, hai hàng mày bỗng cau lại, cả người như bị niệm chú, đứng ngây ra dán mắt vào bọc đồ.
Sâm Vinh đã sớm đoán được phản ứng của Nhược Hàn, vẻ mặt vô cùng hứng thú, hỏi: “Thế nào?”.
Nhược Hàn mở trừng mắt, nhìn chằm chằm bọc vải. Người khác có thể không nhận ra, nhưng Nhược Hàn vẫn nhớ như in, những mảnh vải cũ rách này chính là áo bào mà các tướng lĩnh Bắc Mạc đã dâng lên Sính Đình trong đại chiến Kham Bố năm đó, để thể hiện sự cảm tạ và trung thành của họ đối với nàng.
Những chiếc áo nhuốm máu rất có ý nghĩa với người tướng lĩnh, chỉ khi sùng kính đến mức không thể diễn tả thành lời, họ mới dâng lên áo khoác của mình. Trong đó có áo bào của Tắc Doãn thượng tướng quân, của Sâm Vinh và của cả Nhược Hàn…
Một lúc sau, Nhược Hàn mới sực tỉnh, cả người xúc động đến run rẩy.
“Đây…đây…Sâm Vinh…” Nhược Hàn túm chặt lấy Sâm Vinh, câu hỏi cũng trở nên lộn xộn, “Bạch cô nương… ý ngươi là… không lẽ Bạch cô nương chưa chết?”.
Sâm Vinh có được tin vui, định đùa Nhược Hàn, nhưng thấy Thượng tướng quân xúc động như thế nên không nhẫn tâm, liền gật đầu trả lời: “Đúng thế, Bạch cô nương chưa chết, Bạch cô nương vẫn còn sống”.
“Còn sống?!” Ánh mắt Nhược Hàn sáng lên, “Thế Bạch cô nương đâu?”. Được tấn phong là Thượng tướng quân, nên suy nghĩ có phần tỉ mỉ hơn người, Nhược Hàn nhìn ngay ra phía sau, ánh mắt hướng tới mấy người cùng về với Sâm Vinh.
Thấy Nhược Hàn nhìn về phía ấy, một dáng hình nhỏ nhắn không hề tránh đi, những ngón tay ngọc tháo vành mũ che trên đầu xuống: “Nhược Hàn tướng quân, đã lâu không gặp”.
Khỏe miệng mỉm cười, khí độ vẫn ngời ngợi.
Vẻ ung dung nhàn nhã không ai sánh kịp, ngoài Bạch Sính Đình thì còn có thể là ai?
Nhược Hàn đứng nguyên tại chỗ, chăm chú nhìn Bạch Sính Đình đến hết một tuần hương, mới chậm rãi cất bước tiến về phía ấy, vái chào, rồi đứng thẳng lên, tiếp tục nhìn chằm chằm Sính Đình như không thể tin nổi những điều đang xảy ra trước mắt, cuối cùng khẽ thở phào, cảm khái: “Đến hôm nay, Nhược Hàn mới hiểu được, thế nào là được ông Trời ban ơn”.
Sính Đình cười nói: “Thượng tướng quân đừng vội cảm tạ ông Trời. Lần này đến đây vì việc đối phó với đại quân Vân Thường của Hà Hiệp, nhưng Sính Đình muốn mượn những chiếc áo bào năm xưa để đòi nợ Thượng tướng quân”.
Nhược Hàn thấy nụ cười đã lâu không gặp của Sính Đình thì như được gặp gió xuân, niềm tin trong lòng cũng tăng lên, cười sảng khoái: “Nhược Hàn cam tâm tình nguyện dâng lên cả tính mạng của mình để trả ơn cứu mạng của tiểu thư trong trận chiến thành Kham Bố. ha ha, dù không có những áo bào này, không có mối ơn Kham Bố, chỉ cần tiểu thư đến vì việc đối phó với Hà Hiệp, chúng ta cũng có thể toàn tâm toàn ý vì tiểu thư”.
“Thế thì được…” Ánh mắt lấp lánh tinh anh, Sính Đình chậm rãi: “Sính Đình bạo gan, muốn Thượng tướng quân đồng ý một yêu cầu của mình”.
“Tiểu thư cứ nói.”
“Sính Đình dẫn theo một người, hy vọng Thượng tướng quân có thể mang toàn bộ binh mã, trung thành và nghe theo hiệu lệnh của người này. Cho dù người ấy là ai, Thượng tướng quân cũng sẽ thừa nhận là chủ soái. Thượng tướng quân có đồng ý không?”
Nhược Hàn ngạc nhiên: “Trong thiên hạ lại có ai tài năng đến thế, khiến tiểu thư cam tâm tình nguyện nhường quyền chủ soái?”.
Sính Đình mím môi, như đang suy nghĩ, một lúc sau lại nở nụ cười, khẽ than thở: “Tình thế cấp bách, muốn đạt được mục đích phải không từ bỏ thủ đoạn nào. Sính Đình vốn định dụ Thượng tướng quân đồng ý rồi mới nói… Nhưng thôi vậy, cứ để Thượng tướng quân gặp người ấy, rồi suy nghĩ xem có nên đáp ứng yêu cầu của Sính Đình không”. Ánh mắt nàng nhìn sang bên cạnh, dịu dàng gọi một tiếng: “Vương gia…”
Nghe thấy hai tiếng đó, Nhược Hàn như bị sét đánh giữa trời quang.
Không thể nào, người đó không thể nào…
Ánh mắt Thượng tướng quân từ từ nhìn qua.
Nam nhân cao lớn bên cạnh Sính Đình tháo chiếc mũ rộng vành xuống, để lộ khuôn mặt góc cạnh, mắt hổ sáng quắc. ánh nhìn vừa chạm phải Nhược Hàn, chàng liền cười nói: “Lần trước Sở Bắc Tiệp nửa đêm xông vào doanh trại Bắc Mạc, thực là vì nóng lòng muốn tìm thê tử. Đã mạo phạm, mong Thượng tướng quân lượng thứ!”.
Thân hình rắn chắc, sừng sững như núi, chính là Trấn Bắc vương đã không rõ tung tích bấy lâu nay.
Như thể sóng dữ ập tới, lớp sau mạnh hơn lớp trước, Nhược Hàn đã gặp bao bão táp, nhưng lúc này cũng phải sững sờ hồi lâu, nhìn Sở Bắc Tiệp như người gặp ma.
Hai danh tướng đương thời, ngoài Hà Hiệp, hóa ra người kia vẫn còn tồn tại.
Uy vũ vẫn đây, ánh mắt tự tin ngạo mạn nhìn thiên hạ vẫn như xưa.
“Thượng tướng quân có bằng lòng vứt bỏ thù hận cũ giữa Đông Lâm và Bắc Mạc, đi theo vương gia, chống lại Hà Hiệp ?” Giọng Sính Đình như từ một nơi xa xăm truyền đến bên tai Nhược Hàn, để lại từng hồi vang vọng.
Ánh mắt trĩu nặng suy tư của Nhược Hàn nhìn về phía Sở Bắc Tiệp. Người này từng dẫn quân xâm phạm, suýt chút nữa đã hủy hoại cả Bắc Mạc, sau đó lại mạo hiểm xông vào doanh trại Bắc Mạc, xoay cho Nhược Hàn trở tay không kịp để lừa lấy tung tích của Thượng tướng quân Tắc Doãn.
Nhưng, người ấy đích xác là vị tướng tài duy nhất trên thế gian này có thể đối chọi với Hà Hiệp .
“Thượng tướng quân?”. Không biết từ lúc nào, Sâm Vinh đã đến từ lúc nào, khẽ đẩy một cái.
Nhược Hàn sực tỉnh. thấy ánh mắt của Sính Đình và mọi người đều dồn vào mình, Nhược Hàn ngẩng đầu nhìn, các tướng sĩ trên thành lầu đang lặng lẽ nhìn xuống, quan sát Sở Bắc Tiệp danh tướng lừng lẫy.
Tất cả như đang nín thở chờ đợi câu trả lời của Nhược Hàn.
Nhược Hàn ngẩng lên, hỏi: “Các tướng sĩ đều đã thấy cả rồi. Người này là Đông Lâm Trấn Bắc vương, là Sở Bắc Tiệp suýt chút nữa đã tiêu diệt cả Bắc Mạc ta. Nay người đó đến đây, muốn chúng ta đi theo để chống lại đội quân Hà Hiệp . các ngươi nói xem, chúng ta có nên cự tuyệt không?”.
Xung quanh nhất tề yên lặng, không có cả một tiếng ho.
Nhược Hàn hỏi thêm lần nữa, bốn bề vẫn lặng ngắt.
“Được…”, Nhược Hàn nhìn quanh, “Ta hiểu rồi”.
Nhược Hàn nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, trầm giọng: “Vương tộc Bắc Mạc đã bị Hà Hiệp tiêu diệt hoàn toàn, đất đai Bắc Mạc cũng bị đại quân Vân Thường thỏa sức giày xéo. Lúc này, việc ngu xuẩn nhất là không bước qua được mối thù năm xưa giữa Bắc Mạc và Đông Lâm… Ai có thể đánh bại Hà Hiệp, giải cứu chúng dân đang sinh sống trên mảnh đất này, Nhược Hàn sẽ phong người đó làm chủ soái, nguyện đi theo chinh chiến trên sa trường”.
Sở Bắc Tiệp nở nụ cười, khuỷu tay khẽ động, một âm thanh khỏe khoắn và dứt khoát vang lên.
Dưới ánh mặt trời, hàn quang của Thần uy bảo kiếm nổi danh thiên hạ soi rọi bốn bề, Trấn Bắc vương đã rút kiếm ra khỏi bao.
“Ta sẽ đánh bại Hà Hiệp, giải cứu chúng dân đang sinh sống trên mảnh đất này. Các tướng sĩ có bằng lòng theo ta không?”
Mọi người đều nghe thấy âm thanh thấp trầm mà ẩn chứa sức mạnh của Sở Bắc Tiệp.
Bốn bề yên ắng hơn cả khi nãy.
Sự yên ắng đến ngột thở.
“Có ai bằng lòng đi theo Sở Bắc Tiệp?”, Sở Bắc Tiệp cao giọng hỏi.
Sính Đình chậm rãi ngẩng đầu, ánh mắt lướt qua từng khuôn mặt nhuốm vàng vì bụi đất.
“Ta!”, có người cất tiếng.
“Ta!”, một giọng khác vang lên.
“Ta!”, có người hét thật to.
“Ta bằng lòng!”
“Ta!”
“Ta, và cả ta nữa!”
“Ta!”
“Ta!”
…
Lời đáp to như sấm, cả cổ thành bừng lên những tiếng gầm vang nối tiếp nhau.
Đi theo Trấn Bắc vương.
Đi theo kẻ thù năm xưa của Bắc Mạc, đi theo nam nhân có thể đuổi nỗi tuyệt vọng ra khỏi mảnh đất này, đi theo danh tướng có thể đánh bại được Hà Hiệp .
Đại vương đã chết, vương cung cũng không còn, quê hương bị giày xéo, phụ mẫu thê nhi bị binh mã Vân Thường lăng nhục đủ bề.
Nhưng, họ có khao khát muốn sống tiếp, có dũng khí không chịu khuất phục, có ý chí chiến đấu không bao giờ tan rã, có bầu nhiệt huyết sẵn sàng đổ máu để bảo vệ mảnh đất quê hương, và có cả… Trấn Bắc vương.
“Trấn Bắc vương!”
“Trấn Bắc vương! Đánh bại Hà Hiệp!”
“Đánh bại Hà Hiệp! Đánh bại Hà Hiệp! Đuổi sạch quân Vân Thường…”
Cổ thành Giang Linh sục sôi.
Trên từng khuôn mặt trẻ tuổi, ngoài bụi đất, cáu bẩn, vết thương, dấu máu, còn cả nụ cười xúc động và những giọt nước mắt lăn tròn.
Đôi mắt to rộng cũng trào ra hai dòng lệ xúc động, Nhược Hàn rút kiếm, bước lên trước, hét vang: “Nhược Hàn xin thề với kiếm, từ giờ trở đi, ta không còn là thượng tướng quân Bắc Mạc nữa, ta chỉ là tướng lĩnh Nhược Hàn của Trấn Bắc vương! Mong Trấn Bắc vương cũng ghi nhớ lời thề của mình!”.
“Ta sẽ đánh bại tất cả những kẻ khiến sinh linh lầm than, bao gồm cả Hà Hiệp .” Sở Bắc Tiệp trầm giọng trả lời, ánh mắt vô cùng dịu dàng nhìn về phía Sính Đình, “Bởi ta đã hứa với nữ nhân thân yêu nhất lòng mình là sẽ mang đến cho nàng một thiên hạ thái bình”.
Sính Đình không ngờ, ngay lúc này, Sở Bắc Tiệp lại bày tỏ tình yêu trước tất cả mọi người. Tuy rằng tiếng reo hò nổi lên khắp nơi, chỉ có Nhược Hàn, Sâm Vinh và mấy người quen thuộc đứng bên nghe thấy câu nói ấy nhưng hai gò má nàng đã đỏ bừng, không biết ứng phó thế nào. Nàng cúi xuống, một lúc sau mới miễn cưỡng khôi phục lại vẻ ung dung khi trước, khẽ khàng đưa ra chủ ý: “Nay sĩ khí đang mạnh, chính là lúc cần danh chính rồi ngôn mới thuận. đây là cánh quân đầu tiên của vương gia sau khi tái xuất, liệu có nên lấy một danh hiệu chính thức? Ví như… Trấn Bắc quân”.
Lời nói của nàng còn chứa đựng cả một ý khác. Sở Bắc Tiệp lần này tập hợp tàn binh các nước để đối phó với quân Vân Thường, như vậy trong quân của Sở Bắc Tiệp ngoài binh sĩ Đông Lâm còn có cả binh sĩ những nước còn lại, nên tuyệt đối không thể dùng hai chữ “Đông Lâm”, để tránh cho tướng sĩ các nước tham chiến khác buồn phiền.
Sở Bắc Tiệp dẫn binh nhiều năm, sao không nghe ra ý của Sính Đình, nên cười gật đầu nói: “Đúng, ta nên đặt một cái tên”. Sở Bắc Tiệp khua kiếm chém ngang bầu trời, hét lên, “Các tướng sĩ hãy im lặng, nghe ta nói câu này!”.
Sở Bắc Tiệp vừa lên tiếng, xung quanh lập tức yên ắng, chờ đợi vị chủ soái vô địch này cất lời.
“Từ nay trở đi, chúng ta sẽ thành đội quân đối kháng Hà Hiệp ”, Sở Bắc Tiệp chậm rãi nói, “Đại quân này không gọi là Trấn Bắc quân, cũng không gọi là Bắc Tiệp quân, càng không phải Đông Lâm quân. Tên của đội quân này sẽ là Đình quân!”
Sính Đình khẽ kêu lên một tiếng, vẻ không thể nào tin, nhìn về phía Sở Bắc Tiệp.
“Sẽ có người hỏi, tại sao lại là Đình quân?” Sở Bắc Tiệp giơ cánh tay to khỏe ôm lấy Sính Đình nhỏ bé, kéo vào lòng mình, cất cao giọng, “Bởi vì nữ nhân thân yêu nhất của ta tên là Bạch Sính Đình . ta đã hứa với nàng, sẽ vì nàng mà dẹp yên loạn lạc, đem lại cho nàng một thiên hạ yên vui, ta khiêu chiến với Hà Hiệp vì muốn bảo vệ Sính Đình, bảo vệ điều quý giá nhất trong cuộc đời Sở Bắc Tiệp”.
“Các tướng sĩ, các vị đi theo ta không vì quyền lực, tiền tài, đất đai, không để đáp ứng dã tâm của những quý nhân muốn tranh quyền đoạt thế, cũng chẳng phải bị vương lệnh thúc ép, càng không phải vì Sở Bắc Tiệp ta”
“Rốt cuộc vì điều gì mà phải mạo hiểm theo ta?”
“Chẳng lẽ các ngươi lại không giống Sở Bắc Tiệp ta?”
“Chúng ta đổ máu để bảo vệ người thân yêu nhất, chúng ta sẵn sàng bị thương vì những người chúng ta quý trọng, chúng ta sẵn sàng hy sinh tính mạng vì tâm nguyện của mình!”.
“Hãy nói cho ta biết, các ngươi cũng giống ta!”
“Hãy nói cho ta biết, hỡi các tướng sĩ Đình quân, các ngươi sẽ không bao giờ quên người thân yêu nhất của mình, sẽ không bao giờ quên tất cả những gì các ngươi quý trọng! Sẽ không bao giờ quên tại sao mình lại chiến đấu!”
“Hãy nói cho ta biết, đội quân này tên là gì?”
Giọng nói của Sở Bắc Tiệp xuyên qua tường thành cũ kỹ, vang vọng đến tận trời cao muôn trượng.
Sau khoảng khắc tĩnh lặng, những thanh âm sôi sùng sục tràn khắp không gian.
“Đình quân!”
“Đình quân! Đình quân!”
“Đình quân!”
…
Cả thành trì Giang Linh đang gào thét, đang chấn động.
Sính Đình dựa vào lồng ngực ấm áp của Sở Bắc Tiệp, nước mắt nóng hổi trào ra.
Sâm Vinh bước tới, giọng khâm phục: “Nhất định Trấn Bắc vương là người tình lợi hại nhất thiên hạ”
“Ta không biết có phải là người tình lợi hại nhất thiên hạ hay không?”, Nhược Hàn thở dài, “Nhưng ta có thể khẳng định, Sở Bắc Tiệp tuyệt đối là vị thống soái hiểu cách động viên lòng quân nhất trong thiên hạ”.
Gian nhà gỗ giờ tràn đầy hân hoan và sức sống.
Tuy rất yên tĩnh, nhưng niềm vui trong đó thật khiến người ta không thể ngó lơ.
Hai con người hạnh phúc đang kề bên nhau trên chiếc giường gỗ, không sao đi vào giấc ngủ.
“Sao đêm nay sáng quá”. Sở Bắc Tiệp ôm lấy Sính Đình cứ ngỡ đã mất đi nay bỗng trở về.
Sính Đình bật cười.
“Có gì buồn cười thế?”
“Cuối cùng Vương gia cũng chịu lên tiếng.” Nàng cười dịu dàng, thấy Sở Bắc Tiệp nhìn mình chăm chăm thì xấu hổ hỏi: “ Vương gia nhìn gì?”.
Nhìn hồi lâu, Sở Bắc Tiệp mới cảm thán: “Sính Đình, nàng thật đẹp”.
Trong lòng vô cùng cảm động, Sính Đình khẽ nói: “Vương gia gầy đi nhiều. Đều tại Sính Đình không tốt”.
“Việc này không liên quan đến nàng, là ta cam tâm tình nguyện. Ta có tình cảm với Sính Đình, nên ta nguyện làm bất cứ việc gì cho Sính Đình, để mỗi ngày trôi qua đều là vì Sính Đình.”
Im lặng hồi lâu, Sính Đình chậm rãi nói; “Chẳng phải chàng là đại trượng phu có chí lớn ôm toàn thiên hạ sao?”.
“Có thể một lòng một dạ, không chùn bước trước khó khăn mới là chí lớn.” Sở Bắc Tiệp nhẹ nhàng vuốt mái tóc Sính Đình, khảng khái đáp, “Chí lớn của ta chính là khiến nàng trở thành nữ tử hạnh phúc nhất thế gian”.
Sính Đình ngẩng đầu, sóng mắt mênh mang, khẽ nói: “Vương gia nghĩ thế thật sao?”.
Sở Bắc Tiệp giơ hai ngón tay, vẻ mặt hoàn toàn nghiêm túc: “Sở Bắc Tiệp ta xin thề với trời, đời này kiếp này sẽ không bao giờ thay đổi những lời ta vừa nói”.
Sính Đình cảm động nhìn chàng, nước mắt rơi, nàng khẽ khép đôi mi: “Vậy… Vương gia có bằng lòng làm cho Sính Đình một việc?”.
Sở Bắc Tiệp dịu dàng, đáp: “Đừng nói là một việc, cả vạn việc cũng được. Chỉ cần là tâm nguyện của nàng, sẽ không có ai ngăn nổi Sở Bắc Tiệp làm điều đó vì nàng”.
Sính Đình ngẩng lên, nhìn chăm chăm nam nhân thân yêu trước mặt. Hàng mày khí phách vẫn đậm, sống mũi thẳng tắp, đôi môi mỏng, tất cả đều như trong giấc mơ, trong nỗi nhớ của nàng.
Hóa ra, nàng chưa từng quên, dù là điều nhỏ nhất của chàng.
Đây là nam nhân thân yêu nhất của nàng.
Trong ba kiếp, e là chỉ một kiếp mới có được tình yêu sâu đậm đến vậy.
Yêu sâu đậm, đau cũng sâu đậm, chịu bao vất vả mà vẫn như con thiêu thân lao đầu vào lửa.
Nàng với tay, lấy trong tay nải đặt đầu giường ra một vật.
“Vương gia đã từng để thanh kiếm này ở biệt viện ẩn cư, bảo đảm cho sự an nguy của Sính Đình.” Nay, liệu Vương gia có bằng lòng cầm lại thanh kiếm này dẹp yên thiên hạ, thống nhất tứ quốc, để Sính Đình được sống yên vui trong cảnh thái bình?”.
Hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, Sở Bắc Tiệp chưa từng nghe tới tin tức loạn lạc, bất giác sững người. Với tâm tính của Sính Đình, chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ, chắc chắn nàng sẽ không đưa ra lời thỉnh cầu như thế.
“Vương gia không muốn sao?”, Sính Đình hạ giọng hỏi.
Vốn cả đời binh nghiệp, thứ Sở Bắc Tiệp không sợ nhất chính là sa trường, là chém giết. Huống hồ người đưa ra thỉnh cầu lại là Sính Đình. Sau giây phút sững lại, chàng cất giọng cười sang sảng: “Để thê tử của mình được sống yên vui trong thiên hạ thái bình là việc mà tất cả nam nhi nên làm”.
Sở Bắc Tiệp ngay lập tức nhận lấy bao kiếm, cảm giác quen thuộc ùa về trong lòng bàn tay. Thần uy bảo kiếm bị bỏ lại trên linh đường hôm đó nay đã về tay chủ nhân.
Thanh bảo kiếm nặng trịch, lạnh băng… Chàng vẫn nhớ rõ từng hoa văn khắc trên cán kiếm.
Thanh bảo kiếm đã từng chỉ huy cả thiên quân vạn mã, giết sạch kẻ địch.
Kiếm rút ra khỏi vỏ, thiên hạ chấn động.
Đây là kiếm của Trấn Bắc vương.
Đôi mắt Sở Bắc Tiệp lại lấp lánh ánh sáng ngạo mạn nhìn thiên hạ.
Nữ nhân thương yêu của chàng đã trở về, kiếm của chàng đã nắm trên tay.
Hào tâm tráng khí của chàng đã thức tỉnh.
Rừng rậm Bạch Lý ban tặng cho chàng một kỳ tích, chàng phải trả lại thế gian này một kỳ tích khác.
Chàng sẽ dùng thanh bảo kiếm trong tay để chinh phục thiên hạ, vì nữ nhân tuyệt vời nhất thế gian.
Tuy vương cung Đông Lâm đã bị huỷ diệt, nhưng một ngày còn vương tộc Đông Lâm, thì quốc gia đó vẫn chưa bị diệt vong hoàn toàn.
Từ khi xảy ra chiến loạn đến nay, tuấn mã của Hà Hiệp tung vó khắp nơi, chỉ huy các chiến dịch. Hà Hiệp trước nay đối phó với kẻ địch thủ đoạn nhanh gọn, chưa từng do dự, nhưng cứ nghĩ đến việc xử lý Diệu Thiên như thế nào, lại cảm thấy chần chừ.
Những ngày trở về thành đô Vân Thường, đã mấy lần Phi Chiếu Hành nhắc đến chuyện này, Hà Hiệp đều đẩy lui: “Trước mắt không vội, đợi đến khi chúng ta đối phó xong với vương tộc Đông Lâm và Quy Lạc, rồi tính tiếp”.
Phi Chiếu Hành liên tục khuyên nhủ: “ Phò mã, việc này không lớn cũng chẳng nhỏ. Không xử lý sớm, e là sau này sẽ thành tai hoạ”.
Hà Hiệp quá hiểu điều này.
Đại quân chinh chiến dưới trướng của Hà Hiệp, ngoài số ít hàng binh mới thu phục được và tàn binh mới thu nhận, quân chủ lực đều đến từ đội quân Vân Thường. Giả dụ tin Diệu Thiên bị giam lỏng trong cung truyền ra ngoài, hoặc Diệu Thiên dẫn đầu phủ nhận quyền thống soái của Hà Hiệp, thì chắc chắn sẽ làm dao động cục diện thắng lợi hiện nay.
Chẳng lẽ phải ra tay với thê tử của mình? Hà Hiệp vô cùng buồn phiền. Thân không ở trên sa trường, không ngửi thấy mùi máu tanh và mùi khói lửa quen thuộc, suốt ngày chỉ rượu ngon đàn hay càng khiến ruột gan Hà Hiệp nóng như lửa đốt. Thấy sắc mặt đáng sợ của hắn, các đại thần trong triều đều giật mình, chẳng biết mình có vô tình đắc tội với phò mã không, họ sợ rằng nỗi bi thảm của Quý gia sẽ xảy đến với bản thân mình.
May mà chưa được mấy hôm lại có quân báo.
“Đã phát hiện thấy nơi lẩn trốn của vương tộc Đông Lâm và đã bao vây lại.”
“Được!”, Hà Hiệp cười đáp, “Vương tộc Đông Lâm thoi thóp bao nhiêu ngày nay, lần này quyết không để bọn chúng tiếp tục chạy trốn. Truyền lệnh, bao vây chặt bọn chúng, nhưng chưa vội ra tay. Bản phò mã sẽ đích thân xử lý chúng”.
Đuổi lui lính truyền tin, Hà Hiệp lập tức điểm binh xuất phát. Vốn tính tình cẩn trọng, biết rõ ở thành đô Vân Thường vẫn có những đại thần chỉ vì sợ chết, chứ không thật lòng khuất phục, cần phải lưu ý, nên Hà Hiệp đã lệnh cho Phi Chiếu Hành cùng Đông Chước ở lại trông coi thành đô.
Không ngờ, chưa được ba ngày, đoàn quân vừa ra khỏi thành đô được hơn hai trăm dặm, Phi Chiếu Hành đã phi ngựa tới, ngăn đoàn quân của Hà Hiệp.
“Phò mã ở đâu?”
Hà Hiệp dừng ngựa, quay lại nhìn, thấy Phi Chiếu Hành mặt đầy bụi đường, bên cạnh chỉ dẫn theo vài cận vệ, biết là thành đô có chuyện chẳng hay, cất giọng gọi: “ Chiếu Hành, lại đây!”.
Đuổi hết những người xung quanh, dẫn Phi Chiếu Hành ra chỗ vắng vẻ, Hà Hiệp xuống ngựa, hỏi: “Thành đô đã xảy ra chuyện gì?”.
Sự việc khẩn cấp, Phi Chiếu Hành còn không kịp lau bụi trên mặt, vội vàng lấy trong người ra một bức thư đưa cho Hà Hiệp, vẻ mặt vô cùng nặng nề.
Hà Hiệp nhận lấy bức thư, mở ra, lướt qua hai dòng, sắc mặt đã trở nên khó coi cực độ, càng đọc, hai hàng mày càng cau lại, khuôn mặt như được phủ một lớp băng, trầm trọng: “Đây là vương lệnh. Là… nét chữ của Công chúa sao?”. Ánh mắt hắn tối sầm khiến người ta khiếp sợ.
“Vâng. Nét chữ đã tìm người đối chiếu, không phải ngụy tạo, chính xác là của Công chúa.”
“Ở đâu ra?”
Phi Chiếu Hành bẩm báo: “Phát hiện thấy trên người một cung nữ lén lút ra khỏi cung”.
Hà Hiệp gầm lên: “Chẳng phải đã nghiêm cấm những cung nữ bên cạnh rời khỏi Công chúa nửa bước sao? Bao nhiêu thị vệ canh giữ, sao lại để một cung nữ lọt được ra ngoài? Còn mang theo bức thư thế này?”.
“Phò mã bớt giận”, Phi Chiếu Hành bình tĩnh đáp, “Việc này đã điều tra rõ ràng, do thị vệ đó đã nhận hối lộ. Hiện thị vệ đó đang bị nhốt, vì lo rằng còn có ẩn tình bên trong, cần tiếp tục tra hỏi”.
“Phải điều tra kỹ.” Đáy mắt Hà Hiệp như kết thành một lớp băng, sắc mặt đã khôi phục vài phần ung dung: “Đã tra khảo cung nữ đó chưa? Khai báo những gì?”.
Phi Chiếu Hành đáp: “Cung nữ nhát gan, chưa cần dùng đại hình sợ quá mà khai hết. Bức thư này do Công chúa viết rồi giao cho cung nữ Lục Y, Lục Y giao cho cung nữ đó để đưa đến Chưởng ấn[1] đại nhân, Chưởng ấn đại nhân sẽ giao cho một số quan viên khác”.
[1] Chưởng ấn là người giữ con dấu, người nắm quyền chủ sự.
“Một số quan viên?”, Hà Hiệp cười gằn, “Rốt cuộc là những kẻ nào mà lại chán sống như thế! Danh sách đâu?”.
Phi Chiếu Hành khom người, đáp: “Chắc chắn trong tay Chưởng ấn đại nhân có danh sách. Trước khi rời khỏi thành đô, thuộc hạ đã cử người bí mật bắt giữ Chưởng ấn đại nhân, hiện đang dùng cực hình tra khảo. Việc nay vô cùng quan trọng, thuộc hạ đã ra nghiêm lệnh không được để lọt tin tức ra ngoài. Đông Chước ở lại trông coi thành đô, thuộc hạ đuổi theo bẩm báo với Phò mã”.
Phi Chiếu Hành làm việc gọn ghẽ, xử lý xác đáng, rất có tài ứng biến khiến Hà Hiệp phải nhìn bằng ánh mắt tán thưởng.
Bẩm báo xong, Phi Chiếu Hành ngừng một lát, rồi hạ giọng nói tiếp: “Phò mã, xin Phò mã hãy lập tức quay về thành đô. Việc quan trọng bây giờ không phải vương thất Đông Lâm, mà là thành đô Vân Thường. Công chúa đã ra tay, ngộ nhỡ trong ngoài đều biết tin, e là sự việc sẽ khó giải quyết. Đám quan văn gan nhỏ, không đáng sợ, nhưng trên danh nghĩa Công chúa vẫn là chủ nhân của Vân Thường, ngoài Phò mã, sẽ chẳng ai dám đối phó với Công chúa”.
“Công chúa lại dám tự tay viết vương lệnh, muốn các đại thần bí mật trù tính, liên kết với nhau, truất quyền dẫn binh của ta…” Hà Hiệp nhìn vương lệnh trong tay, nộ khí trào lên, năm ngón tay co lại, vò nát vương lệnh trong đó. Nghiến chặt răng, không hề lên tiếng, hồi lâu Hà Hiệp mới lấy lại bình tĩnh, hỏi, “Công chúa đã biết việc cung nữ kia bị chặn chưa?”.
“Chắc là không biết. Cung nữ đó bị bắt ngay trên đường đi đến phủ đệ của Chưởng ấn đại nhân. Công chúa ở tận trong cung có các thị vệ trông coi cẩn mật, không ai được nói chuyện với Công chúa và các thị nữ bên cạnh.”
Hà Hiệp gật đầu: “Ta và ngươi hãy lập tức quay về thành đô. Việc này không thể kéo dài, phải giải quyết một lần cho xong”.
Phi Chiếu Hành gật đầu, đáp: “Đúng thế”.
Việc không thể chậm trễ, ra quyết định xong, Hà Hiệp lập tức lệnh một nửa quân theo về thành đô, một nửa còn lại, thì chọn ra vị tướng quân thống lĩnh tiếp tục lên đường. Hà Hiệp hạ lệnh: “Đến Đông Lâm, truyền soái lệnh của bản Phò mã, lập tức đối phó với vương thất Đông Lâm đang bị bao vây. Bắt sống vương hậu đang nắm giữ đại quyền Đông Lâm cho ta, đó là chiến lợi phẩm của bản Phò mã. Những kẻ khác không cần giữ lại.”
Sau khi bố trí thỏa đáng, Hà Hiệp cùng Phi Chiếu Hành dẫn theo binh mã quay về thành đô.
Họ đi cả chặng đường ngày đêm không nghỉ, bí mật trở về thành đô. Đến cổng thành, Phi Hành Chiếu hạ giọng, hỏi: “Phò mã, có nên tới vương cung trước không?”
Hà Hiệp lắc đầu: “Về phủ Phò mã”.
Trong phủ Phò mã, Chưởng ấn đại nhân không chịu nổi đòn tra khảo nên đã giao nộp toàn bộ danh sách các quan bí mật liên hệ được cho Hà Hiệp . Hắn quét qua một lượt bản danh sách rồi gọi một phó tướng tin cẩn vào, hạ lệnh: “Lập tức truyền quân lệnh của ta, nói rằng phát hiện trong thành đô có thích khách Quy Lạc, toàn thành giới nghiêm, bất cứ ai cũng không được tùy tiện ra phố.”
Sau khi ra thiết quân luật, Hà Hiệp nói với Đông Chước: “Phần lớn các quan văn trong danh sách đều đang ở thành đô, hãy lấy lý do giới nghiêm, cử tướng sĩ đến trông coi các phủ đệ, cẩn thận không được để lộ tin tức ra ngoài”.
Đông Chước đáp một tiếng, rồi đích thân đi dặn dò, bố trí.
“Có một việc cần Chiếu Hành lập tức đi làm”, Hà Hiệp quay sang nhìn Phi Chiếu Hành, “Các tướng lĩnh trong cung đều nhận ân huệ của ta, tin phục ta. Nếu Vân Thường có biến lớn, sẽ rất nhiều người chọn ủng hộ ta, nhưng Đại tướng quân Thương Lộc lại không nằm trong số đó. Thương Lộc đời đời nhận trọng ân của vương thất Vân Thường, ngu muội hết mức, làm người cứng nhắc, không biết ứng biến. Nếu ta chính thức lên ngôi, chắc chắn hắn sẽ là người đầu tiên trong quân phản đối”.
Nói tới đây, Phi Chiếu Hành hiểu ngay: “Phò mã cứ giao phó”.
“Nay Thương Lộc đang đóng quân tại Bắc Mạc. Ta sẽ viết một đạo quân lệnh bảo hắn trong ngày hôm nay phải lập tức xuất phát đến Quy Lạc, tìm cơ hội quyết chiến với Đại tướng Quy Lạc Nhạc Chấn. Ngươi nhận lấy quân lệnh, tự mình đi một chuyến đến Bắc Mạc tuyên lệnh. Còn nữa, ta muốn ngươi dẫn theo cánh quân Úy Bắc cùng Thương Lộc tiêu diệt đại quân của Nhạc Chấn. Trận chiến này, Thương Lộc là phó tướng, ngươi là chủ tướng. Ngươi biết nên làm thế nào rồi chứ?”
Phi Chiếu Hành là người nhanh nhạy, nghe vậy liền gật đầu: “Tướng quân trăm trận chết, tráng sĩ mười năm về. Hai quân giao chiến, khó tránh được tử thương, Thương Lộc thân là đại tướng Vân Thường, hy sinh trên sa trường cũng là hợp tình hợp lý. Phò mã cứ yên tâm”.
Hà Hiệp lấy bút viết hai vương lệnh, một cho Thương Lộc, một giao cho Phi Chiếu Hành nắm giữ đại quyền chủ tướng trận chiến với Quy Lạc này. Viết xong, Hà Hiệp đặt bút xuống, cười nhạt: “Thương Lộc phải xử lý, Nhạc Chấn cũng không thể cho qua. Lần này huy động đến hai cánh quân là thừa binh lực. ta chỉ lo tình chủ tớ giữa ngươi và Nhạc Chấn ngày trước, sợ đến lúc lâm trận ngươi lại mềm lòng”
Phi Chiếu Hành cung kính nhận lấy quân lệnh, đáp: “Chiếu Hành vì Nhạc gia vào sinh ra tử, để đổi lấy kết cục “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn[2]”, còn đâu tình chủ tớ. Nhạc Chấn tài năng tầm thường, chỉ dựa vào công lao của tổ tông mà thành đại tướng quân, thuộc hạ nhất định phải đánh cho hắn tan tác”. Nói xong, Phi Chiếu Hành cẩn thận cất hai vương lệnh vào người, rồi hạ giọng, “Phò mã, vương cung…”
[2] “Thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn” nghĩa là “thỏ chết thì chó săn bị đem nấu, chim chết thì cây cung bị cất đi”, ý chỉ kết cục nhận được là sự vong ân bội nghĩa.
Hà Hiệp cắt ngang: “Ta sẽ xử lý. Ngươi cứ đi đi”.
Hà Hiệp đuổi lui Phi Chiếu Hành, thư phòng hoa lệ bỗng trở nên yên tĩnh.
Hà Hiệp đứng đó hồi lâu, rồi lấy trong người ra bức thư do chính tay Công chúa viết. Hà Hiệp đặt bức thư đã vò nát mấy ngày trước trong lúc giận dữ lên bàn, chậm rãi vuốt thẳng ra, xem lại một lượt. Khuôn mặt tuấn tú bình tĩnh, đôi mắt sắc sảo sáng quắc, không biết ẩn chứa bao nhiêu suy nghĩ phức tạp.
Dặn dò xong, Đông Chước liền quay lại, vừa bước vào thư phòng, thấy bóng Hà Hiệp bỗng sững người, một bàn chân vẫn còn ở nguyên ngoài bậu cửa.
Hà Hiệp như đang chất chứa bao nỗi âu sầu, vóc dáng cao lớn nặng hơn núi, dù có dùng sức lực toàn thân e là Đông Chước cũng không thể dịch chuyển.
“Đông Chước à? Vào đi.”
Đông Chước đang đứng sững ngoài cửa, nghe Hà Hiệp gọi liền bước vào, chậm rãi tiến đến bên bàn, đứng cạnh thiếu gia, cúi xuống, nhìn vương lệnh do chính Công chúa Diệu Thiên viết đang đặt trên bàn. Đương nhiên là Đông Chước biết rõ trong đó viết những gì, bèn thở dài một tiếng, hạ giọng hỏi Hà Hiệp: “Thiếu gia định xử trí Công chúa thế nào?”
“Các ngươi đều hỏi ta cùng một câu hỏi khó.” Hà Hiệp cười chua chát rồi mím làn môi mỏng, khuôn mặt lạnh lẽo hơn thường ngày: “Nếu bức thư này đến được tay các quan, còn ta vẫn đang ở ngoài thành đô, một khi bọn họ khởi sự thành công, cứu được Công chúa, lòng quân Vân Thường sẽ dao động.”
“Thiếu gia…”
Hà Hiệp mặc kệ Đông Chước, tiếp tục trầm giọng: “Công chúa nắm giữ đại cục lại xuất hiện trước mặt thần dân, dù ta có bao nhiêu chiến công, đánh thắng bao nhiêu trận, đạt được bao nhiêu thắng lợi hiển hách, binh sĩ của đại quân Vân Thường cũng vẫn dần quay lưng lại với ta. Bởi đối thủ của ta là chủ nhân Vân Thường. Quân lính và chúng dân không biết lựa chọn một người có tài, mà chỉ biết đến sự trung thành ngu xuẩn, chỉ biết tận trung với vương thất”.
Từng tiếng Hà Hiệp nói ra đều như tạc bằng băng. Đông Chước nghe thấy mà rùng mình, khẽ mấp máy môi, định nói gì, nhưng bỗng thấy lưỡi như tê cứng, không nói được lời nào.
Sự thật là, giả dụ Diệu Thiên có cơ hội phế bỏ quyền lực của Hà Hiệp, Hà Hiệp sẽ thất bại thảm hại. Vương lệnh viết rõ ràng rằng: Phò mã mưu đồ thành lập tân quốc là tội danh mưu phản, sẽ bị xử cực hình.
Không khí trong thư phòng như đông kết, làn gió mát lành cũng không thể xua tan lớp băng âm u của tranh quyền đoạt thế.
“Ngươi nói xem, Công chúa có thật lòng với ta không?”, Hà Hiệp đột nhiên quay lại hỏi Đông Chước.
Đông Chước vẫn ủ ê hồi lâu, cũng miễn cưỡng khuyên nhủ: “Thiếu gia, Công chúa viết như thế cũng chỉ vì sự tồn vong của vương thất Vân Thường, vì tình thế bức bách. Trong lòng Công chúa…”
Hà Hiệp nhìn Đông Chước, bỗng nở nụ cười ôn hòa: “Trong lòng Công chúa thực ra không muốn giết ta, đúng không?”
Nhìn nụ cười của Hà Hiệp, Đông Chước bỗng cảm thấy toàn thân lạnh toát, vốn định gật đầu nói đúng, nhưng giằng co hồi lâu, cuối cùng phải thở dài một tiếng, buồn bã nói sự thật: “Thiếu gia nghĩ rất đúng, nếu Công chúa nắm được đại quyền, thì dù Công chúa không nỡ, cũng sẽ bị các đại thần gây áp lực xử thiếu gia tội chết”.
Đang rầu rĩ việc này, câu nói thật thà của Đông Chước như cái kim chọc vỡ u nhọt trong lòng Hà Hiệp. Đông Chước bất chấp hậu quả nói ra sự thật, cũng chẳng biết Hà Hiệp sẽ phản ứng thế nào, đành cụp mắt xuống, không dám nhìn thiếu gia.
Hồi lâu, Đông Chước mới nghe thấy tiếng thở dài.
Hà Hiệp nói: “Ta phải chuẩn bị một phần lễ vật, vào cung gặp Công chúa”
Bắc Mạc.
Cách thành Kham Bố về phía đông tám dặm là cổ thành Giang Linh.
Thành trì hoang phế, tường thành đã sụp đổ quá nửa.
Cát vàng phủ mặt đất.
“Thượng tướng quân, uống chút nước đi”.
Gáo nước binh sĩ dâng lên vàng và đục ngầu. Hoàn cảnh ở thành Giang Linh vô cùng khắc nghiệt. Nguồn nước, nguồn lương thực đều thiếu trầm trọng, nhưng nơi đây có địa hình hiểm trở, mật đạo trong thành lại thông đi khắp nơi, dù có bị đại quân Vân Thường chú ý tới, cũng có thể may mắn thoát chết.
Nhược Hàn nhận lấy gáo nước, uống một ngụm, rồi đưa cho các tướng sĩ bên cạnh: “Các ngươi cũng uống chút nước đi.”
Trận chiến Chu Tình, đội quân Bắc Mạc bị Hà Hiệp đánh cho tan tác. Nhược Hàn thoát chết, sau đó có mấy lần tổ chức tàn binh đứng lên phản kháng nhưng kẻ thù là danh tướng Hà Hiệp, nên lần nào cũng phải chạy trốn vào rừng.
Thực lực chênh nhau, binh lực, tướng tài của Bắc Mạc không thể so với đối phương, tính đến nay, Nhược Hàn có thể giữ được mạng sống và những tướng sĩ bên cạnh đã không phải là chuyện dễ dàng.
Tuy vậy, các tướng sĩ Bắc Mạc vẫn chưa từng có ý nghĩ đầu hàng Hà Hiệp .
Một binh lính bên cạnh ngẩng đầu nhìn mặt trời thiêu đốt, bỗng hỏi: “Thượng tướng quân đoán xem hôm nay Sâm Vinh tướng quân sẽ mang theo bao nhiêu binh mã trở về?”
“Sẽ không ít đâu”, Nhược Hàn trả lời, bất giác cũng thấy lòng mình nóng bừng.
Nhược Hàn nhớ đến vị tướng quân mà mình đi theo trước đây, thượng tướng quân thiện chiến, kiêu dũng nhất Bắc Mạc, Tắc Doãn.
Từ khi câu chuyện về Tắc Doãn thượng tướng quân công khai khiêu chiến với Hà Hiệp được truyền ra ngoài, dân chúng bí mật gia nhập nghĩa quân ngày càng đông.
Mọi người đều biết câu chuyện này là thật.
Hà Hiệp đã đổ máu, sẽ có một ngày, Hà Hiệp thất bại. Tắc Doãn thượng tướng quân đã nói như vậy.
Còn ý chí chiến đấu là còn hy vọng. Dù bị tiêu diệt cũng sẽ có những lớp người ngoan cường tiếp bước.
Thời xa xưa, vương quốc Bắc Mạc cũng được hun đúc từ những bầu nhiệt huyết.
Lần này, chắn chắc Sâm Vinh sẽ dẫn những nam nhi nhiệt huyết của Bắc Mạc về nhiều hơn.
“Thượng tướng quân, Sâm vinh tướng quân về rồi!” Lính gác thành huơ tay bẩm báo.
Nhược Hàn đứng bật dậy, nhìn ra ngoài thành, trong đám bụi cuốn xa xa quả nhiên xuất hiện mấy bóng người ngựa đang phi như bay về phía thành.
“Nhìn rõ chưa?”
“Bẩm rõ rồi, chắc chắn là tướng quân Sâm Vinh”. Lính gác tinh mắt trả lời chắc nịch, nhưng tiếp theo lại nghi ngờ, “Lạ thật, sao lần này lại ít thế?”.
Trong lòng Nhược Hàn cũng đang có câu hỏi tương tự.
Nhận được sự cổ vũ của Thượng tướng quân Tắc Doãn, số người bí mật gia nhập nghĩa quân ngày càng tăng, tại sao lần này Sâm Vinh chỉ dẫn về có mấy người? Không lẽ đã xảy ra điều gì bất trắc?
Sâm Vinh phi ngựa nhanh nhất, chẳng mấy chốc đã đến chân thành, vẫy tay với lính gác cổng thành. Lính giữ thành vội vàng để họ vào trong. Nhược Hàn bước nhanh tới hỏi luôn Sâm Vinh vừa xuống ngựa: “Thế này là thế nào? Sao chỉ có vài tân binh?”.
Sâm Vinh nhận lấy gáo nước thuộc hạ vừa đưa lên, mặc kệ màu nước đục, cúi xuống uống một ngụm to: “Rất đông tân binh, nhưng thuộc hạ tạm thời chưa đưa về”.
“Sao thế?”
“Ba quân dễ kiếm, một tướng khó cầu. Khà khà…” Trong lòng chắc chắn có chuyện vui, Sâm Vinh nét mặt vô cùng hứng khởi, miệng cười toe toét.
“Ngươi ra ngoài một chuyến, lẽ nào lại tìm được tướng tài trở về?”
“Không chỉ là tướng tài bình thường mà là thần tướng! Một danh tướng chắc chắn có thể đánh bại Hà Hiệp.”
Nhược Hàn cứ ngỡ Sâm Vinh đang một tấc đến trời, hai hàng mày càng chau.
Hà Hiệp được tôn xưng là danh tướng đương thời, thiên hạ này giờ lại có ai dám chắc chắn sẽ đánh bại được hắn?
Hiện giờ binh mệt lương thiếu, rừng núi hiểm trở, kỵ nhất chính là những việc khiến lòng quân dao động. Sâm Vinh trước nay tính tình vốn qua loa đại khái, sao hiểu được một lời của kẻ làm tướng nói ra mà không thể thực hiện sẽ chẳng khác gì giáng một đòn trí mạng vào lòng quân sĩ. Bất giác, Nhược Hàn hạ giọng: “Sâm Vinh, chớ có hồ đồ. Ngươi từng giao chiến với Hà Hiệp, chẳng lẽ không hiểu được bản lĩnh của hắn? Cái gì mà một danh tướng chắc chắn đánh bại được Hà Hiệp ? Điều này sao có thể xảy ra? Trừ phi…”. Ngay lập tức, Nhược Hàn thở dài một tiếng.
Nhược Hàn bỗng nhớ đến Sính Đình.
Nhược Hàn vẫn ghi nhớ trận chiến Kham Bố ngày trước, rõ ràng như đao khắc.
Chỉ có vẻ ung dung của Bạch cô nương khi tấu lên khúc nhạc đuổi lui vạn quân của Sở Bắc Tiệp mới có thể sánh được với thủ đoạn ma quỷ khó lường của Hà Hiệp trong đại chiến Chu Tình.
Đáng tiếc, giai nhân đã chẳng còn.
Nhược Hàn đã bao lần giả tưởng rằng, nếu Sính Đình trở thành chủ soái trong trận chiến Chu Tình, kết quả sẽ ra sao?
“Thượng tướng quân hà tất phải thở dài? Thượng tướng quân lại đây, thuộc hạ cho Thượng tướng quân xem một thứ.” Sâm Vinh cười, tiến lên phía trước một bước, tháo cái bọc trên lưng xuống rồi kéo Nhược Hàn sang một bên, vừa mở bọc vừa nhắc Nhược Hàn, “Thượng tướng quân cẩn thận, bảo vật này rất chói mắt, đừng để bị hoa mắt đấy”.
Nhược Hàn thấy Sâm Vinh hứng chí thế, trong lòng cũng thấy ngạc nhiên, bèn kiên nhẫn chờ Sâm Vinh mở bọc ấy ra, trong đó là những mảnh vải đỏ đen xanh dính đầy bụi đất, thỉnh thoảng còn có cả vết máu. Nhược Hàn nhìn kỹ, hai hàng mày bỗng cau lại, cả người như bị niệm chú, đứng ngây ra dán mắt vào bọc đồ.
Sâm Vinh đã sớm đoán được phản ứng của Nhược Hàn, vẻ mặt vô cùng hứng thú, hỏi: “Thế nào?”.
Nhược Hàn mở trừng mắt, nhìn chằm chằm bọc vải. Người khác có thể không nhận ra, nhưng Nhược Hàn vẫn nhớ như in, những mảnh vải cũ rách này chính là áo bào mà các tướng lĩnh Bắc Mạc đã dâng lên Sính Đình trong đại chiến Kham Bố năm đó, để thể hiện sự cảm tạ và trung thành của họ đối với nàng.
Những chiếc áo nhuốm máu rất có ý nghĩa với người tướng lĩnh, chỉ khi sùng kính đến mức không thể diễn tả thành lời, họ mới dâng lên áo khoác của mình. Trong đó có áo bào của Tắc Doãn thượng tướng quân, của Sâm Vinh và của cả Nhược Hàn…
Một lúc sau, Nhược Hàn mới sực tỉnh, cả người xúc động đến run rẩy.
“Đây…đây…Sâm Vinh…” Nhược Hàn túm chặt lấy Sâm Vinh, câu hỏi cũng trở nên lộn xộn, “Bạch cô nương… ý ngươi là… không lẽ Bạch cô nương chưa chết?”.
Sâm Vinh có được tin vui, định đùa Nhược Hàn, nhưng thấy Thượng tướng quân xúc động như thế nên không nhẫn tâm, liền gật đầu trả lời: “Đúng thế, Bạch cô nương chưa chết, Bạch cô nương vẫn còn sống”.
“Còn sống?!” Ánh mắt Nhược Hàn sáng lên, “Thế Bạch cô nương đâu?”. Được tấn phong là Thượng tướng quân, nên suy nghĩ có phần tỉ mỉ hơn người, Nhược Hàn nhìn ngay ra phía sau, ánh mắt hướng tới mấy người cùng về với Sâm Vinh.
Thấy Nhược Hàn nhìn về phía ấy, một dáng hình nhỏ nhắn không hề tránh đi, những ngón tay ngọc tháo vành mũ che trên đầu xuống: “Nhược Hàn tướng quân, đã lâu không gặp”.
Khỏe miệng mỉm cười, khí độ vẫn ngời ngợi.
Vẻ ung dung nhàn nhã không ai sánh kịp, ngoài Bạch Sính Đình thì còn có thể là ai?
Nhược Hàn đứng nguyên tại chỗ, chăm chú nhìn Bạch Sính Đình đến hết một tuần hương, mới chậm rãi cất bước tiến về phía ấy, vái chào, rồi đứng thẳng lên, tiếp tục nhìn chằm chằm Sính Đình như không thể tin nổi những điều đang xảy ra trước mắt, cuối cùng khẽ thở phào, cảm khái: “Đến hôm nay, Nhược Hàn mới hiểu được, thế nào là được ông Trời ban ơn”.
Sính Đình cười nói: “Thượng tướng quân đừng vội cảm tạ ông Trời. Lần này đến đây vì việc đối phó với đại quân Vân Thường của Hà Hiệp, nhưng Sính Đình muốn mượn những chiếc áo bào năm xưa để đòi nợ Thượng tướng quân”.
Nhược Hàn thấy nụ cười đã lâu không gặp của Sính Đình thì như được gặp gió xuân, niềm tin trong lòng cũng tăng lên, cười sảng khoái: “Nhược Hàn cam tâm tình nguyện dâng lên cả tính mạng của mình để trả ơn cứu mạng của tiểu thư trong trận chiến thành Kham Bố. ha ha, dù không có những áo bào này, không có mối ơn Kham Bố, chỉ cần tiểu thư đến vì việc đối phó với Hà Hiệp, chúng ta cũng có thể toàn tâm toàn ý vì tiểu thư”.
“Thế thì được…” Ánh mắt lấp lánh tinh anh, Sính Đình chậm rãi: “Sính Đình bạo gan, muốn Thượng tướng quân đồng ý một yêu cầu của mình”.
“Tiểu thư cứ nói.”
“Sính Đình dẫn theo một người, hy vọng Thượng tướng quân có thể mang toàn bộ binh mã, trung thành và nghe theo hiệu lệnh của người này. Cho dù người ấy là ai, Thượng tướng quân cũng sẽ thừa nhận là chủ soái. Thượng tướng quân có đồng ý không?”
Nhược Hàn ngạc nhiên: “Trong thiên hạ lại có ai tài năng đến thế, khiến tiểu thư cam tâm tình nguyện nhường quyền chủ soái?”.
Sính Đình mím môi, như đang suy nghĩ, một lúc sau lại nở nụ cười, khẽ than thở: “Tình thế cấp bách, muốn đạt được mục đích phải không từ bỏ thủ đoạn nào. Sính Đình vốn định dụ Thượng tướng quân đồng ý rồi mới nói… Nhưng thôi vậy, cứ để Thượng tướng quân gặp người ấy, rồi suy nghĩ xem có nên đáp ứng yêu cầu của Sính Đình không”. Ánh mắt nàng nhìn sang bên cạnh, dịu dàng gọi một tiếng: “Vương gia…”
Nghe thấy hai tiếng đó, Nhược Hàn như bị sét đánh giữa trời quang.
Không thể nào, người đó không thể nào…
Ánh mắt Thượng tướng quân từ từ nhìn qua.
Nam nhân cao lớn bên cạnh Sính Đình tháo chiếc mũ rộng vành xuống, để lộ khuôn mặt góc cạnh, mắt hổ sáng quắc. ánh nhìn vừa chạm phải Nhược Hàn, chàng liền cười nói: “Lần trước Sở Bắc Tiệp nửa đêm xông vào doanh trại Bắc Mạc, thực là vì nóng lòng muốn tìm thê tử. Đã mạo phạm, mong Thượng tướng quân lượng thứ!”.
Thân hình rắn chắc, sừng sững như núi, chính là Trấn Bắc vương đã không rõ tung tích bấy lâu nay.
Như thể sóng dữ ập tới, lớp sau mạnh hơn lớp trước, Nhược Hàn đã gặp bao bão táp, nhưng lúc này cũng phải sững sờ hồi lâu, nhìn Sở Bắc Tiệp như người gặp ma.
Hai danh tướng đương thời, ngoài Hà Hiệp, hóa ra người kia vẫn còn tồn tại.
Uy vũ vẫn đây, ánh mắt tự tin ngạo mạn nhìn thiên hạ vẫn như xưa.
“Thượng tướng quân có bằng lòng vứt bỏ thù hận cũ giữa Đông Lâm và Bắc Mạc, đi theo vương gia, chống lại Hà Hiệp ?” Giọng Sính Đình như từ một nơi xa xăm truyền đến bên tai Nhược Hàn, để lại từng hồi vang vọng.
Ánh mắt trĩu nặng suy tư của Nhược Hàn nhìn về phía Sở Bắc Tiệp. Người này từng dẫn quân xâm phạm, suýt chút nữa đã hủy hoại cả Bắc Mạc, sau đó lại mạo hiểm xông vào doanh trại Bắc Mạc, xoay cho Nhược Hàn trở tay không kịp để lừa lấy tung tích của Thượng tướng quân Tắc Doãn.
Nhưng, người ấy đích xác là vị tướng tài duy nhất trên thế gian này có thể đối chọi với Hà Hiệp .
“Thượng tướng quân?”. Không biết từ lúc nào, Sâm Vinh đã đến từ lúc nào, khẽ đẩy một cái.
Nhược Hàn sực tỉnh. thấy ánh mắt của Sính Đình và mọi người đều dồn vào mình, Nhược Hàn ngẩng đầu nhìn, các tướng sĩ trên thành lầu đang lặng lẽ nhìn xuống, quan sát Sở Bắc Tiệp danh tướng lừng lẫy.
Tất cả như đang nín thở chờ đợi câu trả lời của Nhược Hàn.
Nhược Hàn ngẩng lên, hỏi: “Các tướng sĩ đều đã thấy cả rồi. Người này là Đông Lâm Trấn Bắc vương, là Sở Bắc Tiệp suýt chút nữa đã tiêu diệt cả Bắc Mạc ta. Nay người đó đến đây, muốn chúng ta đi theo để chống lại đội quân Hà Hiệp . các ngươi nói xem, chúng ta có nên cự tuyệt không?”.
Xung quanh nhất tề yên lặng, không có cả một tiếng ho.
Nhược Hàn hỏi thêm lần nữa, bốn bề vẫn lặng ngắt.
“Được…”, Nhược Hàn nhìn quanh, “Ta hiểu rồi”.
Nhược Hàn nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, trầm giọng: “Vương tộc Bắc Mạc đã bị Hà Hiệp tiêu diệt hoàn toàn, đất đai Bắc Mạc cũng bị đại quân Vân Thường thỏa sức giày xéo. Lúc này, việc ngu xuẩn nhất là không bước qua được mối thù năm xưa giữa Bắc Mạc và Đông Lâm… Ai có thể đánh bại Hà Hiệp, giải cứu chúng dân đang sinh sống trên mảnh đất này, Nhược Hàn sẽ phong người đó làm chủ soái, nguyện đi theo chinh chiến trên sa trường”.
Sở Bắc Tiệp nở nụ cười, khuỷu tay khẽ động, một âm thanh khỏe khoắn và dứt khoát vang lên.
Dưới ánh mặt trời, hàn quang của Thần uy bảo kiếm nổi danh thiên hạ soi rọi bốn bề, Trấn Bắc vương đã rút kiếm ra khỏi bao.
“Ta sẽ đánh bại Hà Hiệp, giải cứu chúng dân đang sinh sống trên mảnh đất này. Các tướng sĩ có bằng lòng theo ta không?”
Mọi người đều nghe thấy âm thanh thấp trầm mà ẩn chứa sức mạnh của Sở Bắc Tiệp.
Bốn bề yên ắng hơn cả khi nãy.
Sự yên ắng đến ngột thở.
“Có ai bằng lòng đi theo Sở Bắc Tiệp?”, Sở Bắc Tiệp cao giọng hỏi.
Sính Đình chậm rãi ngẩng đầu, ánh mắt lướt qua từng khuôn mặt nhuốm vàng vì bụi đất.
“Ta!”, có người cất tiếng.
“Ta!”, một giọng khác vang lên.
“Ta!”, có người hét thật to.
“Ta bằng lòng!”
“Ta!”
“Ta, và cả ta nữa!”
“Ta!”
“Ta!”
…
Lời đáp to như sấm, cả cổ thành bừng lên những tiếng gầm vang nối tiếp nhau.
Đi theo Trấn Bắc vương.
Đi theo kẻ thù năm xưa của Bắc Mạc, đi theo nam nhân có thể đuổi nỗi tuyệt vọng ra khỏi mảnh đất này, đi theo danh tướng có thể đánh bại được Hà Hiệp .
Đại vương đã chết, vương cung cũng không còn, quê hương bị giày xéo, phụ mẫu thê nhi bị binh mã Vân Thường lăng nhục đủ bề.
Nhưng, họ có khao khát muốn sống tiếp, có dũng khí không chịu khuất phục, có ý chí chiến đấu không bao giờ tan rã, có bầu nhiệt huyết sẵn sàng đổ máu để bảo vệ mảnh đất quê hương, và có cả… Trấn Bắc vương.
“Trấn Bắc vương!”
“Trấn Bắc vương! Đánh bại Hà Hiệp!”
“Đánh bại Hà Hiệp! Đánh bại Hà Hiệp! Đuổi sạch quân Vân Thường…”
Cổ thành Giang Linh sục sôi.
Trên từng khuôn mặt trẻ tuổi, ngoài bụi đất, cáu bẩn, vết thương, dấu máu, còn cả nụ cười xúc động và những giọt nước mắt lăn tròn.
Đôi mắt to rộng cũng trào ra hai dòng lệ xúc động, Nhược Hàn rút kiếm, bước lên trước, hét vang: “Nhược Hàn xin thề với kiếm, từ giờ trở đi, ta không còn là thượng tướng quân Bắc Mạc nữa, ta chỉ là tướng lĩnh Nhược Hàn của Trấn Bắc vương! Mong Trấn Bắc vương cũng ghi nhớ lời thề của mình!”.
“Ta sẽ đánh bại tất cả những kẻ khiến sinh linh lầm than, bao gồm cả Hà Hiệp .” Sở Bắc Tiệp trầm giọng trả lời, ánh mắt vô cùng dịu dàng nhìn về phía Sính Đình, “Bởi ta đã hứa với nữ nhân thân yêu nhất lòng mình là sẽ mang đến cho nàng một thiên hạ thái bình”.
Sính Đình không ngờ, ngay lúc này, Sở Bắc Tiệp lại bày tỏ tình yêu trước tất cả mọi người. Tuy rằng tiếng reo hò nổi lên khắp nơi, chỉ có Nhược Hàn, Sâm Vinh và mấy người quen thuộc đứng bên nghe thấy câu nói ấy nhưng hai gò má nàng đã đỏ bừng, không biết ứng phó thế nào. Nàng cúi xuống, một lúc sau mới miễn cưỡng khôi phục lại vẻ ung dung khi trước, khẽ khàng đưa ra chủ ý: “Nay sĩ khí đang mạnh, chính là lúc cần danh chính rồi ngôn mới thuận. đây là cánh quân đầu tiên của vương gia sau khi tái xuất, liệu có nên lấy một danh hiệu chính thức? Ví như… Trấn Bắc quân”.
Lời nói của nàng còn chứa đựng cả một ý khác. Sở Bắc Tiệp lần này tập hợp tàn binh các nước để đối phó với quân Vân Thường, như vậy trong quân của Sở Bắc Tiệp ngoài binh sĩ Đông Lâm còn có cả binh sĩ những nước còn lại, nên tuyệt đối không thể dùng hai chữ “Đông Lâm”, để tránh cho tướng sĩ các nước tham chiến khác buồn phiền.
Sở Bắc Tiệp dẫn binh nhiều năm, sao không nghe ra ý của Sính Đình, nên cười gật đầu nói: “Đúng, ta nên đặt một cái tên”. Sở Bắc Tiệp khua kiếm chém ngang bầu trời, hét lên, “Các tướng sĩ hãy im lặng, nghe ta nói câu này!”.
Sở Bắc Tiệp vừa lên tiếng, xung quanh lập tức yên ắng, chờ đợi vị chủ soái vô địch này cất lời.
“Từ nay trở đi, chúng ta sẽ thành đội quân đối kháng Hà Hiệp ”, Sở Bắc Tiệp chậm rãi nói, “Đại quân này không gọi là Trấn Bắc quân, cũng không gọi là Bắc Tiệp quân, càng không phải Đông Lâm quân. Tên của đội quân này sẽ là Đình quân!”
Sính Đình khẽ kêu lên một tiếng, vẻ không thể nào tin, nhìn về phía Sở Bắc Tiệp.
“Sẽ có người hỏi, tại sao lại là Đình quân?” Sở Bắc Tiệp giơ cánh tay to khỏe ôm lấy Sính Đình nhỏ bé, kéo vào lòng mình, cất cao giọng, “Bởi vì nữ nhân thân yêu nhất của ta tên là Bạch Sính Đình . ta đã hứa với nàng, sẽ vì nàng mà dẹp yên loạn lạc, đem lại cho nàng một thiên hạ yên vui, ta khiêu chiến với Hà Hiệp vì muốn bảo vệ Sính Đình, bảo vệ điều quý giá nhất trong cuộc đời Sở Bắc Tiệp”.
“Các tướng sĩ, các vị đi theo ta không vì quyền lực, tiền tài, đất đai, không để đáp ứng dã tâm của những quý nhân muốn tranh quyền đoạt thế, cũng chẳng phải bị vương lệnh thúc ép, càng không phải vì Sở Bắc Tiệp ta”
“Rốt cuộc vì điều gì mà phải mạo hiểm theo ta?”
“Chẳng lẽ các ngươi lại không giống Sở Bắc Tiệp ta?”
“Chúng ta đổ máu để bảo vệ người thân yêu nhất, chúng ta sẵn sàng bị thương vì những người chúng ta quý trọng, chúng ta sẵn sàng hy sinh tính mạng vì tâm nguyện của mình!”.
“Hãy nói cho ta biết, các ngươi cũng giống ta!”
“Hãy nói cho ta biết, hỡi các tướng sĩ Đình quân, các ngươi sẽ không bao giờ quên người thân yêu nhất của mình, sẽ không bao giờ quên tất cả những gì các ngươi quý trọng! Sẽ không bao giờ quên tại sao mình lại chiến đấu!”
“Hãy nói cho ta biết, đội quân này tên là gì?”
Giọng nói của Sở Bắc Tiệp xuyên qua tường thành cũ kỹ, vang vọng đến tận trời cao muôn trượng.
Sau khoảng khắc tĩnh lặng, những thanh âm sôi sùng sục tràn khắp không gian.
“Đình quân!”
“Đình quân! Đình quân!”
“Đình quân!”
…
Cả thành trì Giang Linh đang gào thét, đang chấn động.
Sính Đình dựa vào lồng ngực ấm áp của Sở Bắc Tiệp, nước mắt nóng hổi trào ra.
Sâm Vinh bước tới, giọng khâm phục: “Nhất định Trấn Bắc vương là người tình lợi hại nhất thiên hạ”
“Ta không biết có phải là người tình lợi hại nhất thiên hạ hay không?”, Nhược Hàn thở dài, “Nhưng ta có thể khẳng định, Sở Bắc Tiệp tuyệt đối là vị thống soái hiểu cách động viên lòng quân nhất trong thiên hạ”.
Tác giả :
Phong Lộng