Cô Phương Bất Tự Thưởng
Quyển 1 - Chương 28
Mạc Nhiên đáp: “Tuy Hà Hiệp hứa trước mồng Sáu sẽ không xuất binh, nhưng chúng ta không thể lơ là. Ta phải bố trí lại phòng ngự của biệt viện cho hợp lý”.
Túy Cúc gật đầu, nhìn theo bóng Mạc Nhiên dần xa, bỗng nghĩ đến một việc, định gọi nhưng lại thôi.
Túy Cúc trở về phòng, Hồng Tường đang ngồi ngủ gật trên chiếc ghế nhỏ. Hồng Tường là người đơn giản, lúc trước vô cùng sợ hãi, giờ nhìn thấy Sính Đình và Mạc Nhiên bình an quay lại, cứ ngỡ nguy cơ đã qua. Nghe tiếng rèm cửa, Hồng Tường mở choàng mắt, ra hiệu im lặng.
“Xuỵt!” Ngón tay lại chỉ vào trong phòng, Hồng Tường nhắm mắt, hai tay để bên má, khẽ nghiêng đầu, làm ra tư thế một người đang ngủ.
Túy Cúc ra hiệu đã hiểu, rồi vội vàng bước về phía phòng trong, ngó đầu vào.
Sính Đình đang nằm trên giường, mắt nhắm lại, giống như đang ngủ, mái tóc xõa dài, vài lọn dịu dàng rũ xuống, người đắp chăn dày, nhưng cửa sổ vẫn mở, mặc gió lạnh ùa vào.
Túy Cúc lẩm bẩm: “Vẫn không chịu sửa thói quen xấu này”. Nói rồi, nàng nhẹ nhàng đến bên giường, khẽ khàng giơ tay ra, còn chưa chạm vào cửa sổ, bỗng nghe thấy giọng Sính Đình.
“Đừng đóng, gió thổi đầu sẽ nhẹ hơn.”
Túy Cúc vội cúi xuống, Sính Đình đã mở to đôi mắt trong, sáng lấp lánh, không chút buồn ngủ nào.
“Đóng vào thôi, nhỡ lạnh không hay đâu.” Túy Cúc kiên quyết đóng cửa, rồi quay lại ngồi bên giường, thò tay vào chăn, nắm lấy cổ tay thon nhỏ của Sính Đình, giơ hai ngón tay bắt mạch, tĩnh tâm nghe ngóng một hồi, cười bảo, “Không sao”.
Túy Cúc thu tay về, hạ giọng: “Túy Cúc đã nghe Mạc Nhiên kể. Thật chẳng biết nên nói sao”.
Sính Đình nở nụ cười dịu dàng hỏi lại: “Lẽ nào cả ngươi cũng lo Vương gia không về kịp?”.
Túy Cúc lặng lẽ nhìn Sính Đình.
Vốn theo sư phụ trị bệnh cứu người, gặp không ít quý nhân quan lại, có giao tình với những thiên kim tiểu thư danh gia vọng tộc ở Đông Lâm, cả những nương nương, phi tần ở trong cung, nhưng Túy Cúc chưa từng gặp người nào như Bạch Sính Đình. Một người thông tuệ, khoáng đạt, kiêu ngạo từ trong cốt cách. Vương phủ Kính An là nơi thế nào mà sinh ra một Hà Hiệp phong lưu lỗi lạc, vác kiếm tiêu dao, nuôi dưỡng ra một nhân vật như Bạch Sính Đình?
Thấy Túy Cúc im lặng không đáp, Sính Đình cũng lặng lẽ nhìn nàng ấy.
Hai đôi mắt sáng lặng lẽ nhìn đối phương, như đang dò tâm xét ý, lại như có điều gì suy nghĩ.
Hồng Tường bất chợt bước vào, thấy hai người ngây ra nhìn nhau, bèn ngạc nhiên: “Hóa ra cô nương vẫn chưa ngủ, hại nô tỳ không dám làm ra tiếng động, sợ cô nương giật mình. Hai người nhìn nhau gì thế, lẽ nào mặt hai người đều nở hoa?”.
Túy Cúc thu lại ánh mắt, quay sang Hồng Tường, cười mắng: “Chỉ tại ngươi ồn ào, người ta đang suy tính, lại bị ngươi quấy rối”.
Sính Đình cũng nhìn Hồng Tường, hỏi: “Ngươi vào đây làm gì?”.
“Nhìn sắc trời xem…”, Hồng Tường chỉ ra ngoài, “Lúc nãy thấy Bạch cô nương ngủ nên nô tỳ không dám hỏi. Chẳng lẽ hai người không thấy đói?”.
Túy Cúc nhìn ra ngoài: “Ừ nhỉ, chẳng trách ta lại cảm thấy đói. Lo lắng cả ngày, quên ăn uống”.
“Cơm canh đã chuẩn bị xong rồi, để nô tỳ bưng lên”, Hồng Tường đi vội ra ngoài.
Tuy lo lắng cả một ngày, nhưng tay nghề của các đại nương trong nhà bếp vẫn rất tốt.
Hộp đồ ăn nhiều tầng nhanh chóng được mang lên, vẫn hai món mặn, bốn món rau, thêm mấy đĩa đồ ăn kèm.
Vốn ăn rất ít, hôm nay lại hao tâm tổn sức, Sính Đình càng nuốt không trôi, chỉ cầm đũa cho có lệ. Túy Cúc thấy nàng sắp buông đũa, vội bảo: “Ít nhất cô nương cũng phải ăn hết chỗ cơm trong bát và thêm chút canh nóng chứ”.
Túy Cúc gắp thêm vào bát nàng ít thức ăn mặn, nhìn nàng với vẻ ép buộc.
Sính Đình không muốn ăn, nhưng nhìn ánh mắt dọa nạt của Túy Cúc, đành khẽ khàng xoa bụng, rồi cố nuốt hết phần cơm và thức ăn trong bát.
Túy Cúc cười vừa ý.
Dùng bữa xong, Túy Cúc và Hồng Tường nhanh chóng dọn chỗ thức ăn.
Túy Cúc nói: “Đưa ta”, rồi để lại Hồng Tường bầu bạn với Sính Đình. Túy Cúc vừa xách hộp cơm nặng trịch ra ngoài sân, thì gặp ngay đại nương của nhà bếp lên lấy.”
“Túy Cúc cô nương, trời lạnh, cô nương không phải mang xuống đâu, để lão nương ta lên lấy”, nhìn thấy Túy Cúc, đại nương dừng bước.
Túy Cúc đưa hộp cơm cho đại nương, rồi lấy trong tay áo ra một thứ: “Đây là thực đơn của ngày mai, cứ làm theo phương thức này, bỏ thêm vài loại dược liệu, nhớ phải chọn loại thượng hạng. Tuyệt đối không được sai liều lượng”.
Người trong Trấn Bắc vương phủ đều biết đôi ba chữ, đại nương đọc qua thực đơn dưới ánh trăng, xuýt xoa: “Túy Cúc cô nương cẩn thận quá. Cô nương vất vả rồi, một bữa cơm mà cũng tốn bao tâm sức, chẳng trách gần đây sắc mặt Bạch cô nương khá lên trông thấy, chỉ là…”. Đại nương bỗng dừng lời, khuôn mặt có chút khó xử, “Mấy hôm trước hầm táo đỏ cho Bạch cô nương đã dùng hết đương quy rồi, cánh thược dược cũng chẳng còn, chỉ còn một ít tử sâm trên núi thôi”.
Túy Cúc nói: “Việc này không thể chậm trễ, ta cũng chẳng thể nói hết mọi chuyện với đại nương. Đại nương mau đi mua những thứ ấy rồi làm theo thực đơn này”.
“Trời ơi, cô nương hồ đồ rồi, tình thế này, liệu có ai được ra khỏi biệt viện? Giờ các thị vệ trông coi cổng lớn còn nghiêm ngặt hơn cả cổng thành của thành đô.”
Lúc này Túy Cúc mới nhớ ra việc đội quân đang bao vây ngoài kia, bèn vỗ trán: “Ta thật hồ đồ. Nhắc đến mới nhớ, lương thực trong nhà bếp có thể cầm cự đến mồng Sáu không?”.
“Gạo vẫn dự trữ quanh năm, không sợ đói. Thức ăn không đủ, đằng sau có vườn rau, nuôi gà vịt, nhưng cô nương nghĩ coi, biệt viện chúng ta có bao nhiêu người, nữ nhân ăn ít, không tính. Song, đám thị vệ sức dài vai rộng thế kia, không có thức ăn sao chịu nổi? Theo lão nương, thức ăn mặn giỏi lắm chỉ đủ cho một ngày nữa.” Đại nương nhìn quanh, rồi lại gần Túy Cúc, hạ giọng. “Thịt lợn ba ngày đưa tới một lần, hai hôm trước đưa đến, ăn nốt bữa hôm nay, ngày mai là hết sạch. Cũng không có cá tươi, chỉ còn cách ăn tạm gà vịt. Sở tướng quân nói đây là việc nhỏ, không được để Bạch cô nương biết càng thêm phiền lòng. Lão nương nói với cô nương, cô nương đừng nói ra ngoài”.
Túy Cúc gật đầu, bảo: “Ta và đại nương cùng xuống bếp tìm xem còn những gì, rồi tùy tình hình mà viết một thực đơn khác. Đại nương nhớ dặn kỹ họ làm theo thực đơn của ta, dù binh sĩ hùng hậu đang bao vây ngoài kia, ta cũng chỉ lo làm sao cho sức khỏe của Bạch cô nương thật tốt”.
“Đương nhiên rồi, chỉ cần có đồ, nhà bếp sẽ làm theo thực đơn của cô nương, không sai một ly.”
Bước chân lép bép giẫm trên nền tuyết, tiến về phía nhà bếp. Trăng đã lên nhưng không sáng bằng mấy hôm trước, ánh vàng nhạt phủ khắp mặt đất màu trắng.
Vừa đến cửa nhà bếp, họ bỗng nghe có tiếng động.
“Gì thế?” Túy Cúc kinh hoàng kêu lên một tiếng, ngoài cổng lớn của biệt viện đỏ rực ánh lửa, như bao bó đuốc đang cháy sáng.
Âm thanh két két của cánh cổng lớn nặng trịch mở ra giữa đêm khuya, tuy đơn điệu nhưng ẩn chứa bao nỗi nguy hiểm.
Đại nương ngẩng đầu, nhìn lửa sáng rực trời, lắp bắp: “Ông Trời ơi, không phải họ đánh đến đây rồi chứ?”.
Túy Cúc vẫn im lặng, bạo gan vòng qua sân bếp, men theo con đường nhỏ dẫn đến cổng lớn của biệt viện. Nàng khẽ khàng tới gần, trốn sau bức tường, nhìn ra bên ngoài thấy một hàng người đang cầm những bó đuốc. Giờ này, không ai khác ngoài người của Hà Hiệp có thể đến đây.
Một lúc sau, cổng lớn từ từ khép lại, ngăn ánh lửa của những bó đuốc bên ngoài.
Thấy Mạc Nhiên dẫn theo hai thị vệ đang đẩy chiếc xe được che chắn cẩn thận ngang qua, Túy Cúc vội vã chạy ra.
“Ai?”, Mạc Nhiên hô khẽ, hai thị vệ bên cạnh lập tức rút kiếm.
“Là ta.”
Mạc Nhiên thở phào nhẹ nhõm, trách: “Đêm hôm khuya khoắt, cô nương không ở cạnh Bạch cô nương còn chạy ra đây làm gì? Chỗ này chưa đủ loạn hay sao?”.
Thấy rõ là Túy Cúc, hai thị vệ lại tra kiếm vào bao.
“Ta vốn định sang nhà bếp, nghe có tiếng động nên qua đây. Những người đó đến làm gì?”
“Tặng đồ.”
“Tặng đồ?”
“Thịt cá tươi, các loại quả khô. Ta đã kiểm nghiệm qua rồi, bên trong chỉ toàn đồ ăn, không có người hay binh khí.” Mạc Nhiên cười khổ, chỉ vào chiếc xe chất đầy đồ phía sau, “Cô nương đến đúng lúc lắm, sau khi đưa đồ vào nhà bếp, cô nương hãy dùng kim kiểm tra kỹ từng thứ một, xem có gì khác lạ không?”.
Túy Cúc nhìn qua chiếc xe chất đầy đồ, không nén được tiếng thở dài: “Hà Hiệp đích xác là nhân vật nổi danh, chắc sẽ không dùng thủ đoạn hèn hạ như vậy, nhưng, kiểm nghiệm kỹ vẫn hơn”.
Hai thị vệ giúp Túy Cúc đẩy xe vào bếp, rồi dỡ hết đồ xuống. Ngoài thịt lợn, thịt bò, cá tươi và những đồ ăn bình thường khác, còn không ít đồ quý hiếm.
Mấy món dân dã của Quy Lạc do đầu bếp chính thống Quy Lạc chế biến, cá khô hảo hạng, đặc sản dành cho bậc đế vương Bắc Mạc, và cả đĩa điểm tâm trong mềm ngoài giòn.
Các đại nương nhà bếp đứng cạnh nhìn Túy Cúc kiểm nghiệm từng món. Thấy đĩa điểm tâm vô cùng bắt mắt, bày khéo léo, ai nấy đều xuýt xoa: “Ai cũng bảo đồ điểm tâm Quy Lạc ngon nhất, chỉ nhìn đã thấy không đơn giản rồi”.
Ngoài ra còn có một hộp mạ vàng được bọc đến mấy lớp tơ lụa, đặt sâu dưới thùng xe. Túy Cúc giở từng lớp lụa ra, bên trong không phải là đồ ăn mà đựng toàn những thứ lặt vặt của nữ nhân.
Một hộp nhỏ, trong là cao dưỡng da tay loại thượng hạng. Một chiếc gương đồng có cán. Một cái lược làm bằng ngọc phỉ thúy. Dưới ba vật trên là mười mấy viên sỏi muôn vàn màu sắc dàn thành lớp mỏng. Túy Cúc không sao rời được ánh mắt, xuýt xoa thở dài.
Kiểm nghiệm xong mọi thứ, trời cũng gần sáng, Túy Cúc mệt mỏi, nói với mấy đại nương trong bếp: “Những thứ này đều là đồ thượng hạng, cứ dùng thoải mái. Hà Hiệp thật tinh tế, còn tặng cả đương quy bổ dưỡng chuyên dùng cho nữ nhân. Thực đơn vẫn giữ nguyên, làm theo cách ta đưa tối qua”.
“Nhưng vẫn không có cánh hoa thược dược.”
“Không có thì thôi, bỏ đi. Thiếu mỗi cánh thược dược cũng chẳng sao, đương quy quan trọng nhất.” Túy Cúc mệt mỏi xoa bóp hai vai, rồi ôm hộp mạ vàng quay về tiểu viện.
Hồng Tường đã ngủ dậy, đang đứng vươn vai trên sân tuyết, thấy Túy Cúc, liền hỏi: “Người đi đâu cả buổi tối thế? Trước khi ngủ, Bạch cô nương còn hỏi Túy Cúc sang nhà bếp sao mãi chưa về”.
“Bạch cô nương đâu?”
“Còn đang ngủ.” Hồng Tường hất cằm về phía cửa phòng, “Tối qua ta ngủ trong phòng cùng Bạch cô nương, thấy cô nương trằn trọc cả đêm, chắc không ngủ được. Nghe đám thị vệ nói, ngoài kia vẫn bị bao vây? Hôm qua Bạch cô nương và Sở tướng quân ra ngoài, chẳng phải họ đã lui rồi ư? Sao lại có cái hẹn mồng Sáu, nếu mồng Sáu vương gia không về thì phải làm thế nào?”.
Túy Cúc trầm giọng: “Ngươi muốn lo lắng cũng chẳng được, tốt nhất đừng hỏi”.
Cứ ngỡ đám thị vệ thường ngày vẫn hay đùa chỉ dọa mình thế thôi, lúc này mới biết nguy hiểm vẫn chưa qua, sắc mặc Hồng Tường lại trắng bệch vì sợ hãi.
Biết tình hình thực tế còn tồi tệ hơn những điều Hồng Tường nghe ngóng được, Túy Cúc cũng chẳng muốn nói nhiều, chỉ vỗ vai nha đầu ấy, rồi bước lên bậc thềm, vào trong phòng.
Đã dậy từ lâu, Sính Đình bỏ chăn qua một bên, trên người khoác chiếc áo bông màu tím nhạt. Nàng ngồi nghiêng đầu trên giường, năm ngón tay khẽ chải mái tóc dài đang rủ xuống. Thấy Túy Cúc bước vào với chiếc hộp mạ vàng, nàng ngó qua hỏi: “Gì thế?”.
Túy Cúc biết lòng Sính Đình bất an, muốn chọc cho nàng nói chuyện, bèn đặt cái hộp mạ vàng xuống đầu giường, trêu đùa: “Cô nương đoán xem. Cô nương mà đoán được thì Túy Cúc phục thật đấy”.
Sính Đình lãnh đạm nhìn cái hộp: “Là những thứ khiến người ta phiền lòng…”. Nàng thở dài, rồi mặc kệ Túy Cúc, tự mình mở hộp.
Nhìn thật kỹ ba thứ trong hộp, Sính Đình lặng lẽ cầm cái lược lên, hồn vía như đã bay đến tận đâu, giọng xa xăm: “Đây là chiếc lược ta vẫn dùng khi ở vương phủ Kính An”.
Nói rồi, nàng đặt lược xuống, chẳng động gì đến hai thứ kia, mà cầm những viên sỏi lên đếm, rồi lại nhẹ nhàng đặt về chỗ cũ, cho đến khi bàn tay trống rỗng. Sính Đình cười chua chát: “Ta mang tình nghĩa mười lăm năm ra gạt Hà Hiệp, Hà Hiệp lấy tình nghĩa mười lăm năm để dụ ta”. Nàng đóng hộp lại, xuống giường.
Sính Đình rửa mặt bằng nước nóng xong, Túy Cúc lại chải đầu cho nàng. Túy Cúc nâng mái tóc mềm mượt trong lòng bàn tay, tỉ mỉ búi kiểu mẫu đơn đoan trang, nhìn khuôn mặt Sính Đình không buồn không vui, như bị lớp sương mù bao phủ, chẳng biết trong lòng đang nghĩ gì.
“Cô nương… sao không nói gì?”
Im lặng hồi lâu, Sính Đình mới trả lời: “Ta rất mệt”.
Túy Cúc nói: “Cảm thấy mệt thì ngủ thêm một lúc, đằng nào cũng chẳng có việc gì. Túy Cúc đã bảo nhà bếp nấu món cháo đậu đỏ, khi nào cô nương dậy, họ sẽ đưa qua”.
Sính Đình lắc đầu.
Túy Cúc vừa đặt lược xuống, Sính Đình ngắm mình trong gương, rồi đứng dậy, vén rèm đi ra cửa. Túy Cúc vội vã chạy theo. Sính Đình vào phòng bên, một lúc sau bê vò hoa mai hôm qua ra.
“Để Túy Cúc bưng.”
Sính Đình nghiêng người tránh hai tay Túy Cúc, lặng lẽ bê vò mai xuống bậc thềm, ra chỗ Hồng Tường đã quét sạch tuyết hôm qua. Sau một đêm, mặt đất đã phủ thêm lớp tuyết mỏng.
Sính Đình đặt vò xuống, cầm chổi quét thêm một lần, rồi đi lấy xẻng.
Nhìn dáng điệu lặng lẽ của nàng, Túy Cúc bỗng thấy sợ mà chẳng dám lên tiếng, chỉ đứng bên cạnh, thỉnh thoảng nhắc: “Cẩn thận một chút”.
Sính Đình không dùng sức, chỉ đảo từng xẻng nhỏ. Lớp đất trên cùng rất cứng, nhưng đào qua lớp đất ấy, phần bên dưới mềm xốp, dễ đào hơn nhiều.
Lúc lâu sau, một hố nhỏ mới thành hình, trán Sính Đình lấm tấm mồ hôi, hai má đỏ hồng.
Cũng không vội, nàng đặt xẻng xuống, nghỉ một lát cho lại sức, rồi bê chiếc vò bên cạnh, đặt ngay ngắn ở chính giữa, ngắm nghĩa hồi lâu mới thấy hài lòng. Sính Đình chẳng ngại bẩn, tự tay bốc bùn, chôn vò xuống đất.
Làm xong, Sính Đình khẽ thở ra, ngẩng đầu, cười tươi tắn với Túy Cúc đang đứng bên cạnh: “Còn thiếu mỗi việc đốt lửa bên trên thôi”.
Đôi mắt nàng sáng rõ, nét cười trong đó dập dờn như sóng nước, dịu dàng vô cùng.
Chẳng hiểu tại sao, Túy Cúc bỗng thấy lòng mình chùng xuống, sống mũi cay cay, suýt chút nữa thì bật khóc, vội vàng quay đi lau mắt, lấy lại tinh thần, trả lời: “Để Túy Cúc đi lấy củi”.
Túy Cúc lấy củi khô trong bếp, rồi gọi thêm Hồng Tường, chất thành một đống trên mặt đất vừa lấp bằng, nhóm lửa. Một lúc sau, tiếng củi cháy lách tách, lửa bốc thành ngọn, bùng lên trên nền tuyết trắng. Ánh lửa ấm áp nhuộm đỏ ba khuôn mặt.
Sính Đình toát mồ hôi, tinh thần khá hơn chút ít, nàng dịu dàng nhìn ánh lửa, bỗng lên tiếng: “Đằng nào cũng nhóm lửa rồi, không thể cứ đứng thế này. Qua nhà bếp lấy thịt và muối ra đây, chúng ta nướng ăn”.
Đang vô cùng lo lắng về việc ngoài kia vẫn đang bị bao vây, cũng hiểu rõ đạo lý tự tìm niềm vui trong đau khổ, Hồng Tường nhận lời ngay: “Nô tỳ đi ngay”.
Một lúc sau, Hồng Tường khệ nệ bê cái giỏ rất nặng, đạp tuyết quay lại.
“Sườn lợn, cánh gà, đùi vịt rửa sạch, hai con cá đã bỏ ruột và đầu. Không biết cô nương thích nướng món gì, để nô tỳ đi bảo các đại nương bên nhà bếp chuẩn bị. “Hồng Tường đặt giỏ xuống, trải chiếc khăn màu xanh xuống nền tuyết, rồi đặt từng thứ ra. “Có cả muối và ngũ vị hương, các đại nương còn nói, ăn đồ nướng sẽ bị khô, nhà bếp sắp hầm xong canh, lát nữa sẽ mang sang cho chúng ta.”
Sính Đình vỗ tay reo lên: “Hồng Tường chu đáo đấy, nếu ta là tướng quân, thế nào cũng phong ngươi là quan hậu cần”. Nàng ngồi trên ghế, vai khoác thêm chiếc áo choàng dày. Sợ nàng lạnh, nên nhân lúc Hồng Tường sang nhà bếp, Túy Cúc đã về phòng mang áo ra.
Nhìn Sính Đình cười rạng rỡ, Hồng Tường cũng thấy lòng nhẹ đi vài phần, cười nói: “Không chỉ có thể. Các đại nương còn bảo, nướng thịt không thể nướng bằng tay, phải có cái gì xâu lại, nên nô tỳ đã kịp mang mấy cái que nhỏ sang đây”. Hồng Tường cúi xuống tìm, quả nhiên lôi ra mấy cái que nhỏ sạch sẽ, một đầu quấn vải.
Mọi thứ đều đầy đủ, ba người ngồi quanh đống lửa thưởng thức bữa nướng ngày đông.
Họ tay cầm que xiên thịt hoặc cá, đặt trên đống lửa, nhìn ngọn lửa đỏ từ từ nướng chín miếng thịt, cảm giác tươi ngon và thích thú, càng nướng càng thấy ham.
“Cha nô tỳ là thợ săn, hồi nhỏ, nô tỳ hay theo cha lên núi, cũng được nướng thịt kiểu này vài lần.” Rất có kinh nghiệm, Hồng Tường xoay xoay cái que trong tay, thở dài: “Sau khi vào Trấn Bắc vương phủ, nô tỳ không còn được thế này nữa”.
“Sao ngươi lại vào Trấn Bắc vương phủ? Vương gia mua ngươi à?”
Hồng Tường vội vã lắc đầu: “Trần Bắc vương phủ cần gì phải mua ai. Không lo ăn mặc, ít bị chửi mắng, chủ nhân lại là Vương gia, bao người xếp hàng chờ vào vương phủ mà không được. Nếu nô tỳ vẫn theo cha, hôm nào săn bắt được còn có chút vào bụng, hôm nào không bắt được gì chỉ có nước chịu đói, cuộc sống khổ sở hơn nhiều. Nô tỳ cũng được gọi là tốt số, nên mới được vào đây, thỉnh thoảng còn có chút gì gửi về cho cha”.
Lần đầu nghe Hồng Tường kể chuyện này, Túy Cúc hỏi: “Đến chỗ hẻo lánh thế này, ngươi không nhớ cha sao?”.
“Sao lại không? Nhưng mà, có nhớ cũng chẳng làm thế nào, cha ta không có phúc, ta vào vương phủ được ba năm, cha ta đã ốm mà qua đời. Khi rời khỏi thành đô, Vương gia quyết định cho tôi tớ hồi hương, thấy ta đáng thương chẳng có nơi nào để đi, nên đã cho ta ở lại.”
Giờ Túy Cúc mới hiểu, sao biệt viện này rất ít thị nữ trung niên, mà đa phần là các đại nương, xem ra họ đều là người già trong vương phủ, có đi cũng chẳng biết phải đi đâu.
Túy Cúc nướng đùi vịt, thịt dày, khó chín, nên đành nhẫn nại xoay đi xoay lại, ánh mắt nhìn về phía Sính Đình, nhắc nhở: “Lửa cháy hoa cả mắt, ăn đồ nướng sẽ bị nóng, không tốt cho sức khỏe”.
Đúng lúc con cá trong tay Sính Đình vừa chín tới. Vốn là người cẩn thận, tuy lần đầu tiên tự tay làm thứ này, nhưng nàng cũng nướng được vàng ruộm, thơm lừng. Nghe Túy Cúc nói thế, Sính Đình gỡ con cá khỏi que, cẩn thận đặt lên đĩa, đẩy qua: “Nếu thế ta không ăn nữa, hai người ăn đi”.
Đang muốn ăn cá nướng, thấy thế Hồng Tường reo lên, đưa cái que trong tay cho Túy Cúc: “Cầm hộ ta!”, rồi bê đĩa cá nướng thơm phức.
Thấy Sính Đình lo lắng cho hài nhi trong bụng, Túy Cúc mỉm cười khích lệ: “Cô nương không ăn thứ này vẫn có những thứ khác ngon hơn. Túy Cúc đã dặn các đại nương chuẩn bị món móng giò hầm đương quy táo đỏ rồi”.
Vừa nói xong, họ đã thấy đại nương tay xách giỏ đi vào tiểu viện. nhìn ba người đang hứng thú vui vẻ, đại nương cười nói: “Cẩn thận bị que chọc vào tay, lão nương đã mấy lần bị thế rồi”. Đại nương lấy trong giỏ ra hộp thức ăn, bưng cho mỗi người một bát canh. Phần của Túy Cúc và Hồng Tường là món canh sườn hầm măng nóng hổi, của Sính Đình là bát canh móng giò hầm đương quy táo đỏ.
Sính Đình cầm thìa, nhìn hai người kia ăn đồ nướng, khẽ mỉm cười, chậm rãi ăn hết phần trong bát của mình.
Sau nửa canh giờ ăn uống no nê, củi cũng sắp cháy hết, ba người đứng lên, lấy nước dập lửa.
Hồng Tường hỏi: “Có lấy vò ra không?”.
“Không, ủ trong đất, hương vị sẽ càng ngon, đợi khi nào Vương gia về sẽ lấy ra.”
Cứ như thế, một buổi sáng đã trôi qua, thời gian tiếp theo cũng dễ chịu hơn nhiều. Ngồi nói chuyện trong phòng với Túy Cúc, Hồng Tường thêm lúc nữa, Sính Đình mới nghỉ trưa. Nàng ngủ một giấc gần ba canh giờ, đến khi tỉnh dậy, trời đã sẩm tối.
Mơ hồ thức giấc, nàng mở cửa sổ, gió không lớn lắm, mây dày đặc, chẳng thấy rõ trăng đang trốn nơi nào.
“Túy Cúc? Túy Cúc?”, nàng vội vã gọi liền hai tiếng.
Túy Cúc từ ngoài đi vào: “Cô nương dậy rồi à?”.
“Giờ gì rồi? Trăng đã lên đến đỉnh chưa? Đã mồng Sáu chưa?”
Túy Cúc giật mình, chậm rãi bước qua, ngồi xuống bên giường, trả lời: “Bạch cô nương, trời vừa tối, hôm nay vẫn là mồng Năm”.
Nghe Túy Cúc nói vậy, khuôn mặt Sính Đình cũng bớt phần lo lắng, khẽ “ừ” một tiếng, như thể trút được gánh nặng. Nàng lại ngả người ra sau, nằm xuống.
Túy Cúc hỏi: “Nhà bếp đã mang đến tối qua, Túy Cúc thấy cô nương ngủ say nên bảo Hồng Tường đừng gọi. Cơm vẫn đang hâm nóng trên lò nhỏ phòng bên. Cô nương dậy rồi thì ăn một chút nhé”.
Hồng Tường bê cơm canh nóng hổi vào.
Sính Đình miễn cương ăn được nửa bát, cau mày: “Ta không ăn nổi nữa”, rồi buông đũa.
Thấy vẻ Sính Đình không thể nuốt nổi, biết cố khuyên cũng chẳng ích gì, Túy Cúc dịu dàng bảo: “Không ăn thì thôi vậy”.
Hồng Tường nhanh chóng thu dọn cơm canh, cùng với Túy Cúc ra khỏi phòng. Hai người dừng ở cửa, Hồng Tường hỏi: “Buổi sáng vẫn không sao, nói cười bình thường, cứ như quên hết mọi chuyện rồi. Sao ngủ một giấc dậy lại thành như thế? Xem ra quá thông minh cũng chẳng phải hay, tính tình kỳ lạ cổ quái”.
Túy Cúc vội ra hiệu ra cho Hồng Tường yên lặng, rồi hạ giọng trách mắng: “Ngươi thì hiểu cái gì? Nếu người là Bạch cô nương, e là đã phát điên từ lâu rồi”.
Hồng Tường le lưỡi, đi vào phòng bên.
Túy Cúc đứng một mình bên cửa, nhìn sắc tuyết ảm đạm trước sân. Gió lạnh ùa vào, lúc này nàng bỗng có cảm giác như Sính Đình từng nói, sảng khoái hơn nhiều.
Đâu chỉ mình Sính Đình rầu lòng, bản thân nàng cũng thấy trái tim đau như bị mèo cào.
Điều đáng hận nhất là còn cả một vực sâu nguy hiểm đang chắn trước mắt nàng.
Tứ quốc phân tranh ngày càng ác liệt, mấy năm trước đại quân Đông Lâm xâm phạm Quy Lạc, Bắc Mạc, giờ đến lượt Vân Thường và Bắc Mạc liên quân xâm chiếm Đông Lâm.
Đánh đánh giết giết, chưa từng ngơi nghỉ.
Những kẻ nắm rõ thời cuộc, kể cả đám người giàu sang phú quý ngu dốt đều có cảm giác được bữa sớm lo bữa tối.
Sư phụ Hoắc Vũ Nam của nàng xuất thân từ tầng lớp quý tộc, có quan hệ chặt chẽ với giới quý tộc Đông Lâm, nên nàng càng cảm nhận rõ vấn đề này.
Chẳng ai dám đảm bảo quốc gia mình không bị quân địch nhòm ngó bờ cõi, cửa nhà không bị thiêu thành tro tàn.
Quốc chính là gia. Có gia mới có quốc.
Ai mà không thế?
Túy Cúc lặng lẽ thở dài, cảm giác bức bối đến phát đau. Nàng cắn răng, cởi bớt vạt áo bên ngoài, để gió lạnh ùa vào người, cho đến khi dòng huyết trong ngực nguội lạnh. Khẽ rùng mình, nàng cài vạt áo, mang trà nóng sang cho Sính Đình, rồi an ủi Sính Đình ngủ tiếp.
Đêm đến, Túy Cúc vẫn ngủ trên chiếc giường khác trong phòng Sính Đình.
Bỗng thấy có tiếng động, Túy Cúc vội ngồi dậy dụi mắt. Sính Đình đã tỉnh giấc ngồi trên giường.
“Bạch cô nương, sao cô nương đã dậy?”, Túy Cúc xuống giường, đến bên Sính Đình, khẽ hỏi.
Sính Đình lặng lẽ ngồi nhìn ra cửa sổ, đáp: “Trăng lên rồi”.
Túy Cúc nhìn theo ánh mắt Sính Đình, trăng đã lên, nhưng rất mờ nhạt, ẩn giữa những tầng mây.
Quan sát kỹ, trăng đã chếch sang bên.
Đã tới mồng Sáu…
Túy Cúc thấy lòng mình chùng xuống, dịu dàng: “Còn một ngày nữa, Vương gia đang trên đường về”.
Giọng Sính Đình vô cùng bình thản: “Chắc chàng đang trên lưng ngựa, mệt mỏi vô cùng, cổ họng vừa rát vừa khát, cả người bám đầy bụi đất, trên vai bao nhiêu là tuyết”.
Giọng Sính Đình như vọng lại từ phương xa nào tới, tựa tiếng đàn cất lên nơi u cốc, khiến muôn hoa trên cây cũng phải rơi xuống. Túy Cúc chăm chú nhìn thần sắc Sính Đình, nhưng không thể đoán nổi nàng đang nghĩ gì.
Túy Cúc khẽ đắp chăn cho Sính Đình, cùng Sính Đình ngồi ngắm trăng bên cửa sổ. Hơn một canh giờ sau, Túy Cúc dịu giọng khuyên: “Ngủ đi”.
Sính Đình ngoan ngoãn nằm xuống, nhắm mắt. Túy Cúc cũng bớt lo, bước xuống, đi về phía giường của mình, như cảm thấy đôi mắt người sau lưng mở to, bất giác quay lại nhìn.
“Cô nương sao thế?”
Sính Đình nhìn Túy Cúc, bật cười: “Không sao cả”, rồi lại ngoan ngoãn nhắm mắt.
Đêm đó ở Hoa phủ, Sở Bắc Tiệp tưởng nàng là thị nữ câm của Hoa tiểu thư, thấy nàng bệnh, hình như chàng cũng nói câu “Ngủ đi” này.
Người ấy muốn gì làm nấy, chẳng để tâm đến tục lệ thế gian. Khi hai bên còn chưa quen biết, chàng đã ôm eo, bế nàng về căn phòng nhỏ, đặt nàng lên giường, còn vụng về đắp chăn cho nàng.
Câu nói cứng nhắc “Ngủ đi!” như lời của bậc tướng quân ra lệnh cho binh sĩ, nay nghĩ đến, thật khiến ngươi ta nhòa lệ.
Chàng sẽ về, nhất định sẽ về.
Mười ngón tay ngọc nắm chặt kiên cường.
Nếu tình yêu sâu đậm chỉ có bấy nhiêu, dù dịu dàng như nước, tôi luyện thành lưỡng kiếm Ly hồn và Thần uy, cũng có tác dụng gì?
Trăng đã chếch sang bên, ngày mồng Sáu đã tới.
Sở Bắc Tiệp lao đi như bay.
Gió Bắc tê buốt, thét gào bên tai.
Đã bao lần chàng phi ngựa như tên bắn trong gió, tuấn mã tung bốn vó, đường trường rong ruổi, gió thổi bạt áo chàng, bay phần phật, để dòng sông thuần phục dưới chân, để dãy núi cao ngạo phải cúi đầu.
Ngựa phi như bay, oanh liệt mà sảng khoái.
Lúc này đây, chàng không còn cảm nhận được chút gì sảng khoái.
Gió thét gào rát mặt, nhưng cảm giác đau như dao cứa ấy chẳng thể sánh được với nỗi đau trong tim chàng. Trái tim như bị lửa đốt của chàng đang treo lơ lửng giữa tầng không.
Biệt viện ẩn cư yên tĩnh cách xa tầm mắt, nhưng hương mai thoang thoảng cứ quẩn quanh trái tim nóng rẫy của chàng.
Vốn hiểu rõ tính tình vương huynh, nay thấy ca ca dốc hết tâm huyết, không từ thủ đoạn giữ mình lại thành đô, Sở Bắc Tiệp cũng đoán được cách đối phó nơi biệt viện ẩn cư sẽ kinh khủng nhường nào.
Mười ngón tay ngọc chỉ biết gảy đàn của Sính Đình sao có thể đối phó với sự khiêu chiến của Đông Lâm vương?
Liệu có phải thân hình mảnh mai ấy giờ đang đứng trước gươm đao sáng loáng?
Dáng hình yếu mềm của nàng, chàng có ôm bao nhiêu lần nữa cũng không thấy đủ…
Khuôn mặt nhỏ nhắn, thanh tú của nàng, chàng có ngắm bao nhiêu lần nữa cũng không thấy đủ…
Tiếng đàn uyển chuyển của nàng, chàng có nghe bao nhiêu lần cũng vẫn như lần đầu…
Nữ nhân khiến người ta yêu thương ấy, sao không thể giơ cao đánh khẽ mà bỏ qua cho nàng?
Nàng đã quy ẩn.
Nàng đã không màng đến chuyện thế gian.
Nàng đã phải chịu bao đau đớn, bao tổn thương, chỉ mong quên hết chuyện cũ, bằng lòng làm một nữ nhân.
Nữ nhân của Sở Bắc Tiệp.
“Sính Đình không hề tham lam, chỉ mong trước khi dẫn quân ra chiến trường, chàng trở về gặp Sính Đình. Vào sinh thần của Vương gia, Sính Đình sẽ nói với chàng một việc rất quan trọng.”
Tâm nguyện thật đơn giản biết bao!
Tâm nguyện mà một nam nhân bình thường cũng có thể đáp ứng.
Nhưng chàng không phải nam nhân bình thường. Chàng là Sở Bắc Tiệp, là Trấn Bắc vương của Đông Lâm.
Sở Bắc Tiệp vung roi, quất mạnh lên lưng ngựa, đôi mắt vằn đỏ. Gió thổi tung vạt áo, nhưng vẫn chẳng thể thổi tắt ngọn lửa đang thiêu đốt tâm can chàng.
Hai bên tuyết trộn lẫn bùn, con đường ở giữa vươn dài thẳng tắp, như không có điểm dừng.
Đường về nhà chưa bao giờ dài đến thế.
Ánh mắt Sở Bắc Tiệp nhìn thẳng về phía trước.
Ánh mắt xuyên qua thăm thẳm vạn tầng mây, Sính Đình liệu có an toàn?
Không thấy dung nhan kiều diễm của Sính Đình, lọt vào tầm mắt Sở Bắc Tiệp là lá cờ thấp thoáng đằng xa. Đội quân phía trước đang thúc ngựa tiến tới. Sở Bắc Tiệp căng hết tầm mắt nhìn lá cờ tung bay trong gió, hiện rõ chữ “Mâu” quen thuộc.
Lòng như trĩu nặng, chàng vung roi thúc tuấn mã đã mệt đến sùi bọt mép, xông đến đội quân phía trước, ghìm cương, hét lớn: “Thần Mâu ở đâu?”, giọng khản đặc đến khó nghe bởi lâu không uống nước.
Thấy Sở Bắc Tiệp, Thần Mâu vội vã xuất hiện, nhảy xuống ngựa, hành lễ: “Vương gia, Thần Mâu có mặt!”.
“Ngươi quản lý doanh trại Long Hổ, sao dám tự ý rời bỏ vị trí?”
Thần Mâu đáp: “Mạt tướng nhận được điều lệnh của Đại vương, năm ngày trước đến Lạc Minh bẩm báo với Phú Lang vương, giờ về thành đô bái kiến Đại vương”.
“Doanh trại Long Hổ giờ do ai tiếp quản?”
“Phụng vương lệnh, do thuộc hạ của Phú Lang vương là Phong Mân tạm thời tiếp quản.”
Phong Mân tướng quân đã nhận lệnh của Phú Lang vương tiếp quản doanh trại. Dù có Thần uy bảo kiếm trong tay, nhưng với thân phận hiện nay, Sính Đình không thể điều động được đại quân Long Hổ.
Đông Lâm vương đối phó với đệ đệ mình chẳng chút sơ hở.
Sở Bắc Tiệp tức giận đến đau lòng, trời đất như chao đảo.
Sính Đình không nơi cầu cứu, chỉ mình chàng là hy vọng duy nhất.
Với trí tuệ của Sính Đình và cái hẹn mồng Sáu, nhất định nàng sẽ cố nghĩ cách để trì hoãn quân địch, cho đến lúc chàng trở về biệt viện.
Đợi ta, nàng hãy đợi ta!
Hai bàn tay rộp máu, nhưng Sở Bắc Tiệp không hề đau. Chàng nắm chặt dây cương, ngồi thẳng trên lưng ngựa.
Theo Sở Bắc Tiệp chinh chiến trên sa trường nhiều năm, thấy bộ dạng Vương gia lúc này, Thần Mâu biết chàng đã cưỡi ngựa nhiều canh giờ, hai tay cung kính dâng lên túi nước của mình: “Vương gia uống ngụm nước. Vương gia đang vội ra chiến trường sao? Khẩn cấp thế này, e là binh sĩ và tuấn mã không chịu nổi”.
Sở Bắc Tiệp nhận lấy túi nước, ngửa cổ tu ừng ực hết sạch, rồi quay lại nhìn ba ngàn quân tinh nhuệ đã theo mình suốt một ngày hai đêm.
Ra khỏi thành đô, suốt chặng đường họ chỉ biết vung roi, không hề ngừng nghỉ, ai cũng sức cùng lực kiệt, bàn tay cầm dây cương rướm máu, dọc đường đã có mấy chục binh sĩ không chịu được mà ngã lăn ra đất.
Cầm quân đã nhiều năm, chưa bao giờ chàng không biết thương xót quân sĩ đến thế.
Lòng trĩu nặng, Sở Bắc Tiệp quay lại hỏi Thần Mâu: “Ngươi dẫn theo bao nhiêu quân?”.
“Không nhiều, một ngàn bảy trăm người, đều là quân tinh nhuệ trong tay mạt tướng.”
“Giao cả cho ta.” Sở Bắc Tiệp rút binh phù, giơ lên không trung, hét lớn, “Bản vương thống lĩnh binh mã toàn quốc, các tướng sĩ nghe lệnh! Ba ngàn kỵ binh tinh nhuệ của quân cấm thành nếu đã kiệt sức, hãy theo Thần Mâu trở về. Một ngàn bảy trăm người dưới quyền Thần Mâu sẽ thuộc quyền chỉ huy của bản vương, lập tức theo bản vương. Đi!”. Chàng nhảy xuống ngựa, chuyển sang tuấn mã khỏe mạnh tươi tỉnh của Thần Mâu, trầm giọng, “Cho ta mượn ngựa của ngươi”.
“Vương gia vội vã đi đâu thế?”
“Mồng Sáu, bản vương nhất định phải trở về biệt viện ẩn cư trước khi trăng lên đỉnh.”
Thần Mâu ngạc nhiên: “Giờ đã là mồng Sáu, còn mười canh giờ nữa, làm sao về kịp?”.
Như không nghe thấy gì, Sở Bắc Tiệp kéo căng dây cương, tuấn mã hí vang, lao về phía trước.
Thần Mâu không biết cụ thể đã xảy ra chuyện gì, nhưng cũng biết tình thế cấp bách. Thấy bóng Sở Bắc Tiệp thoắt cái đã mờ xa, hắn cắn răng chặn phó tướng lại.
“Ta đi theo Vương gia, ngươi dẫn đội binh lính kia về thành đô trước. Đổi ngựa cho ta.”
Thần Mâu nhanh chóng lên ngựa, rút roi, đuổi theo đoàn kỵ binh đang cuồn cuộn tiến về phía trước.
Con đường đất vàng bụi bay mù mịt.
Mồng Sáu.
Sính Đình.
Đã đến sinh thần của ta.
Không khí trầm lặng khiến người ta ngạt thở bao trùm khắp biệt viện.
Rừng núi bên ngoài vẫn chìm trong tuyết trắng, mặt trăng đã lui đi, mặt trời lấp ló những tia nắng đầu tiên sau tầng mây nhạt.
Tuyết lại bắt đầu rơi.
Muôn vàn bông tuyết nhỏ chao nghiêng trong gió.
Tiếng đàn véo von ngân nga trong mênh mang tuyết trắng, vượt qua tường cao, như vệt sáng xoẹt qua nền trời xanh thẳm.
Sính Đình gảy đàn.
Đã sang mồng Sáu, liệu cánh tay cầm kiếm của những binh sĩ đang bao vây ngoài kia có chắc thêm vài phần?
Mồng Sáu, người mang dáng hình vững chãi như bóng núi, giọng cười hào sảng vô cùng đã sinh ra vào ngày tuyết rơi.
Chàng nhận được sự sủng ái của ông Trời.
Ông Trời cho chàng thân thế hiển hách, cơ thể tráng kiện, sống mũi cao thẳng, ánh mắt đen sáng ngời, sự tự tin và uy nghiêm bẩm sinh.
Ông Trời đã tạo ra một Sở Bắc Tiệp anh hùng cái thế để nàng không sao cầm lòng mà hồn xiêu phách lạc, cung thuận phục tùng.
Mồng Sáu chính là hôm nay.
Ngón tay Sính Đình chạm lên dây đàn.
Nàng có duyên với đàn, đàn là thanh, là âm của nàng.
Mỗi khi đặt tay lên mấy dây đàn, nàng mới có thể vứt bỏ phía sau mọi lo lắng khiến nàng ngạt thở. Nhắm mắt lại, Sính Đình vô ưu vô lo chìm vào hồi ức.
Chuyện xưa lần lượt hiện ra trước mắt, nàng vẫn nhớ rõ.
Hôm đó nhìn chàng qua tấm rèm, trái tim nàng giờ vẫn loạn nhịp.
Dường như chàng đang quay lại con đường ruột dê, hình bóng Sở Bắc Tiệp ung dung trong vội vã, tiếng ngựa gõ móng tới gần, chàng túm lấy eo nàng, ôm chặt vào lòng. Lồng ngực nhiệt huyết của chàng, nhịp tim vững chãi của chàng như vẫn ngay đây.
Dường như chàng chưa từng rời đi, vẫn bưng bát canh, vụng về đút cho nàng, dỗ nàng vào giấc ngủ, cùng nàng thưởng nguyệt ngắm sao, không hề ngần ngại.
Ân ân oán oán, ngọt ngào đến thế, nhưng trái tim cũng tan thành trăm mảnh.
Chàng sao có thể không yêu nàng?
Chàng sao có thể không giữ lời hứa, quên hẹn ước với nàng?
Chàng sao có thể vì dòng máu anh hùng không ngừng chảy trong huyết quản, vì chuyện quốc gia đại sự mà nhẫn tâm bỏ mặc nàng?
Bắc Tiệp, nếu Sính Đình là người quan trọng nhất trong lòng chàng, vậy thì thiên hạ rộng lớn này, liệu điều gì ngăn nổi bước chân chàng trở về bên thiếp?
Thiếp đã chôn vò Tố hương bán vận, đợi chàng nơi đây.
Túy Cúc đứng lặng một bên, chăm chú nhìn Sính Đình đang say với cây đàn. Dáng hình gầy yếu, nhưng sống lưng thẳng tắp, như được chống đỡ bằng khung xương thép vững chãi.
Túy Cúc lắng tai nghe.
Tiếng đàn như khóc, như than, như lời kể về câu chuyện đã qua, khiến người ta đau đớn khôn cùng, dẫu chưa từng trải qua.
Chỉ là loạn thế đau thương, hà tất phải dệt nên âm sắc trong trẻo nhường ấy.
Quốc trọng, hay tình trọng?
Phải bảo vệ tình yêu hiếm có trong đời, hay nên bảo toàn tổ quốc thân yêu?
Tâm sự vẫn cất giấu tận sâu trong đáy lòng, không dám chạm tới, cây kim vẫn lơ lửng chốn không trung bấy lâu giờ đang châm thẳng vào lục phủ ngũ tạng, khiến Túy Cúc đau đến tột cùng.
Con người đâu phải cỏ cây, sao có thể vô tình?
Dây đàn mỏng manh bỗng trở thành vũ khí sắc bén cứa rách con tim, giày vò Sính Đình ướt đẫm mồ hôi, đầu ngón tay nhỏ máu.
Không sao chịu đựng thêm tiếng đàn đang thâm nhập vào mọi ngóc ngách không gian, Túy Cúc tiến lên một bước, cố nén tình cảm trào dâng, khẽ giọng: “Cô nương, dừng lại đi. Bữa trưa đã mang tới lúc lâu rồi”.
Sính Đình giữ dây đàn, tiếng đàn ngưng bặt. Nàng ngẩng lên, hai mắt long lanh nhìn Túy Cúc.
“Dù thế nào cũng phải cố ăn một chút.” Tránh ánh mắt Sính Đình, Túy Cúc đỡ nàng dậy.
Hồng Tường nhanh nhẹn dọn cơm canh.
Ánh mắt Sính Đình dừng lại, trên bàn bày đĩa đồ ăn Quy Lạc khác hẳn ngày thường. Nàng chậm rãi ngồi xuống, cầm đũa gắp một miếng, đưa lên nhìn, rồi lại đặt xuống.
“Đây là món ăn Quy Lạc do Hà Hiệp tự tay làm.” Sính Đình im lặng giây lát, rồi nói tiếp, “Có thể thấy Hà Hiệp quyết tâm đến mức nào”.
Cảm giác nguy hiểm rình rập, đè nặng trái tim.
Bỗng thấy ngộp thở vì không khí im lặng nơi đây, Hồng Tường bạo gan lên tiếng: “Tuy dẫn binh bao vây biệt viện, nhưng rõ ràng tiểu Kính An vương vẫn nhớ tới tình cảm với cô nương trước đây. Cho dù…”. Thấy Túy Cúc kéo vạt áo mình, Hồng Tường giật mình, im bặt.
Sính Đình không trách Hồng Tường, khóe môi cố nở nụ cười: “Có được mấy phần là thật sự nhớ đến tình cảm trước đây?”.
Bạch Sính Đình thuộc về bất cứ ai, Hà Hiệp đều có thể chấp nhận.
Chỉ trừ một người, Sở Bắc Tiệp.
Trong thiên hạ, khiến Hà Hiệp kiêng dè chỉ có mình Sở Bắc Tiệp.
Trong thiên hạ, khiến Hà Hiệp đố kỵ chỉ có mình Sở Bắc Tiệp.
Nơi nào cũng có thể là chiến trường, cuộc đọ sức của hai kẻ thù đâu chỉ giới hạn trên sa trường gươm đao sáng loáng?
Bên ngoài, tuyết bay lất phất, vài bông tuyết lạc vào phòng ấm áp qua kẽ hở khi rèm cửa dao động, cam tâm tình nguyện hóa thành giọt lệ mùa đông.
Mặt trời đã chếch về đông.
Mồng Sáu đã qua một nửa.
Mười hai canh giờ, chỉ còn một nửa.
Túy Cúc gật đầu, nhìn theo bóng Mạc Nhiên dần xa, bỗng nghĩ đến một việc, định gọi nhưng lại thôi.
Túy Cúc trở về phòng, Hồng Tường đang ngồi ngủ gật trên chiếc ghế nhỏ. Hồng Tường là người đơn giản, lúc trước vô cùng sợ hãi, giờ nhìn thấy Sính Đình và Mạc Nhiên bình an quay lại, cứ ngỡ nguy cơ đã qua. Nghe tiếng rèm cửa, Hồng Tường mở choàng mắt, ra hiệu im lặng.
“Xuỵt!” Ngón tay lại chỉ vào trong phòng, Hồng Tường nhắm mắt, hai tay để bên má, khẽ nghiêng đầu, làm ra tư thế một người đang ngủ.
Túy Cúc ra hiệu đã hiểu, rồi vội vàng bước về phía phòng trong, ngó đầu vào.
Sính Đình đang nằm trên giường, mắt nhắm lại, giống như đang ngủ, mái tóc xõa dài, vài lọn dịu dàng rũ xuống, người đắp chăn dày, nhưng cửa sổ vẫn mở, mặc gió lạnh ùa vào.
Túy Cúc lẩm bẩm: “Vẫn không chịu sửa thói quen xấu này”. Nói rồi, nàng nhẹ nhàng đến bên giường, khẽ khàng giơ tay ra, còn chưa chạm vào cửa sổ, bỗng nghe thấy giọng Sính Đình.
“Đừng đóng, gió thổi đầu sẽ nhẹ hơn.”
Túy Cúc vội cúi xuống, Sính Đình đã mở to đôi mắt trong, sáng lấp lánh, không chút buồn ngủ nào.
“Đóng vào thôi, nhỡ lạnh không hay đâu.” Túy Cúc kiên quyết đóng cửa, rồi quay lại ngồi bên giường, thò tay vào chăn, nắm lấy cổ tay thon nhỏ của Sính Đình, giơ hai ngón tay bắt mạch, tĩnh tâm nghe ngóng một hồi, cười bảo, “Không sao”.
Túy Cúc thu tay về, hạ giọng: “Túy Cúc đã nghe Mạc Nhiên kể. Thật chẳng biết nên nói sao”.
Sính Đình nở nụ cười dịu dàng hỏi lại: “Lẽ nào cả ngươi cũng lo Vương gia không về kịp?”.
Túy Cúc lặng lẽ nhìn Sính Đình.
Vốn theo sư phụ trị bệnh cứu người, gặp không ít quý nhân quan lại, có giao tình với những thiên kim tiểu thư danh gia vọng tộc ở Đông Lâm, cả những nương nương, phi tần ở trong cung, nhưng Túy Cúc chưa từng gặp người nào như Bạch Sính Đình. Một người thông tuệ, khoáng đạt, kiêu ngạo từ trong cốt cách. Vương phủ Kính An là nơi thế nào mà sinh ra một Hà Hiệp phong lưu lỗi lạc, vác kiếm tiêu dao, nuôi dưỡng ra một nhân vật như Bạch Sính Đình?
Thấy Túy Cúc im lặng không đáp, Sính Đình cũng lặng lẽ nhìn nàng ấy.
Hai đôi mắt sáng lặng lẽ nhìn đối phương, như đang dò tâm xét ý, lại như có điều gì suy nghĩ.
Hồng Tường bất chợt bước vào, thấy hai người ngây ra nhìn nhau, bèn ngạc nhiên: “Hóa ra cô nương vẫn chưa ngủ, hại nô tỳ không dám làm ra tiếng động, sợ cô nương giật mình. Hai người nhìn nhau gì thế, lẽ nào mặt hai người đều nở hoa?”.
Túy Cúc thu lại ánh mắt, quay sang Hồng Tường, cười mắng: “Chỉ tại ngươi ồn ào, người ta đang suy tính, lại bị ngươi quấy rối”.
Sính Đình cũng nhìn Hồng Tường, hỏi: “Ngươi vào đây làm gì?”.
“Nhìn sắc trời xem…”, Hồng Tường chỉ ra ngoài, “Lúc nãy thấy Bạch cô nương ngủ nên nô tỳ không dám hỏi. Chẳng lẽ hai người không thấy đói?”.
Túy Cúc nhìn ra ngoài: “Ừ nhỉ, chẳng trách ta lại cảm thấy đói. Lo lắng cả ngày, quên ăn uống”.
“Cơm canh đã chuẩn bị xong rồi, để nô tỳ bưng lên”, Hồng Tường đi vội ra ngoài.
Tuy lo lắng cả một ngày, nhưng tay nghề của các đại nương trong nhà bếp vẫn rất tốt.
Hộp đồ ăn nhiều tầng nhanh chóng được mang lên, vẫn hai món mặn, bốn món rau, thêm mấy đĩa đồ ăn kèm.
Vốn ăn rất ít, hôm nay lại hao tâm tổn sức, Sính Đình càng nuốt không trôi, chỉ cầm đũa cho có lệ. Túy Cúc thấy nàng sắp buông đũa, vội bảo: “Ít nhất cô nương cũng phải ăn hết chỗ cơm trong bát và thêm chút canh nóng chứ”.
Túy Cúc gắp thêm vào bát nàng ít thức ăn mặn, nhìn nàng với vẻ ép buộc.
Sính Đình không muốn ăn, nhưng nhìn ánh mắt dọa nạt của Túy Cúc, đành khẽ khàng xoa bụng, rồi cố nuốt hết phần cơm và thức ăn trong bát.
Túy Cúc cười vừa ý.
Dùng bữa xong, Túy Cúc và Hồng Tường nhanh chóng dọn chỗ thức ăn.
Túy Cúc nói: “Đưa ta”, rồi để lại Hồng Tường bầu bạn với Sính Đình. Túy Cúc vừa xách hộp cơm nặng trịch ra ngoài sân, thì gặp ngay đại nương của nhà bếp lên lấy.”
“Túy Cúc cô nương, trời lạnh, cô nương không phải mang xuống đâu, để lão nương ta lên lấy”, nhìn thấy Túy Cúc, đại nương dừng bước.
Túy Cúc đưa hộp cơm cho đại nương, rồi lấy trong tay áo ra một thứ: “Đây là thực đơn của ngày mai, cứ làm theo phương thức này, bỏ thêm vài loại dược liệu, nhớ phải chọn loại thượng hạng. Tuyệt đối không được sai liều lượng”.
Người trong Trấn Bắc vương phủ đều biết đôi ba chữ, đại nương đọc qua thực đơn dưới ánh trăng, xuýt xoa: “Túy Cúc cô nương cẩn thận quá. Cô nương vất vả rồi, một bữa cơm mà cũng tốn bao tâm sức, chẳng trách gần đây sắc mặt Bạch cô nương khá lên trông thấy, chỉ là…”. Đại nương bỗng dừng lời, khuôn mặt có chút khó xử, “Mấy hôm trước hầm táo đỏ cho Bạch cô nương đã dùng hết đương quy rồi, cánh thược dược cũng chẳng còn, chỉ còn một ít tử sâm trên núi thôi”.
Túy Cúc nói: “Việc này không thể chậm trễ, ta cũng chẳng thể nói hết mọi chuyện với đại nương. Đại nương mau đi mua những thứ ấy rồi làm theo thực đơn này”.
“Trời ơi, cô nương hồ đồ rồi, tình thế này, liệu có ai được ra khỏi biệt viện? Giờ các thị vệ trông coi cổng lớn còn nghiêm ngặt hơn cả cổng thành của thành đô.”
Lúc này Túy Cúc mới nhớ ra việc đội quân đang bao vây ngoài kia, bèn vỗ trán: “Ta thật hồ đồ. Nhắc đến mới nhớ, lương thực trong nhà bếp có thể cầm cự đến mồng Sáu không?”.
“Gạo vẫn dự trữ quanh năm, không sợ đói. Thức ăn không đủ, đằng sau có vườn rau, nuôi gà vịt, nhưng cô nương nghĩ coi, biệt viện chúng ta có bao nhiêu người, nữ nhân ăn ít, không tính. Song, đám thị vệ sức dài vai rộng thế kia, không có thức ăn sao chịu nổi? Theo lão nương, thức ăn mặn giỏi lắm chỉ đủ cho một ngày nữa.” Đại nương nhìn quanh, rồi lại gần Túy Cúc, hạ giọng. “Thịt lợn ba ngày đưa tới một lần, hai hôm trước đưa đến, ăn nốt bữa hôm nay, ngày mai là hết sạch. Cũng không có cá tươi, chỉ còn cách ăn tạm gà vịt. Sở tướng quân nói đây là việc nhỏ, không được để Bạch cô nương biết càng thêm phiền lòng. Lão nương nói với cô nương, cô nương đừng nói ra ngoài”.
Túy Cúc gật đầu, bảo: “Ta và đại nương cùng xuống bếp tìm xem còn những gì, rồi tùy tình hình mà viết một thực đơn khác. Đại nương nhớ dặn kỹ họ làm theo thực đơn của ta, dù binh sĩ hùng hậu đang bao vây ngoài kia, ta cũng chỉ lo làm sao cho sức khỏe của Bạch cô nương thật tốt”.
“Đương nhiên rồi, chỉ cần có đồ, nhà bếp sẽ làm theo thực đơn của cô nương, không sai một ly.”
Bước chân lép bép giẫm trên nền tuyết, tiến về phía nhà bếp. Trăng đã lên nhưng không sáng bằng mấy hôm trước, ánh vàng nhạt phủ khắp mặt đất màu trắng.
Vừa đến cửa nhà bếp, họ bỗng nghe có tiếng động.
“Gì thế?” Túy Cúc kinh hoàng kêu lên một tiếng, ngoài cổng lớn của biệt viện đỏ rực ánh lửa, như bao bó đuốc đang cháy sáng.
Âm thanh két két của cánh cổng lớn nặng trịch mở ra giữa đêm khuya, tuy đơn điệu nhưng ẩn chứa bao nỗi nguy hiểm.
Đại nương ngẩng đầu, nhìn lửa sáng rực trời, lắp bắp: “Ông Trời ơi, không phải họ đánh đến đây rồi chứ?”.
Túy Cúc vẫn im lặng, bạo gan vòng qua sân bếp, men theo con đường nhỏ dẫn đến cổng lớn của biệt viện. Nàng khẽ khàng tới gần, trốn sau bức tường, nhìn ra bên ngoài thấy một hàng người đang cầm những bó đuốc. Giờ này, không ai khác ngoài người của Hà Hiệp có thể đến đây.
Một lúc sau, cổng lớn từ từ khép lại, ngăn ánh lửa của những bó đuốc bên ngoài.
Thấy Mạc Nhiên dẫn theo hai thị vệ đang đẩy chiếc xe được che chắn cẩn thận ngang qua, Túy Cúc vội vã chạy ra.
“Ai?”, Mạc Nhiên hô khẽ, hai thị vệ bên cạnh lập tức rút kiếm.
“Là ta.”
Mạc Nhiên thở phào nhẹ nhõm, trách: “Đêm hôm khuya khoắt, cô nương không ở cạnh Bạch cô nương còn chạy ra đây làm gì? Chỗ này chưa đủ loạn hay sao?”.
Thấy rõ là Túy Cúc, hai thị vệ lại tra kiếm vào bao.
“Ta vốn định sang nhà bếp, nghe có tiếng động nên qua đây. Những người đó đến làm gì?”
“Tặng đồ.”
“Tặng đồ?”
“Thịt cá tươi, các loại quả khô. Ta đã kiểm nghiệm qua rồi, bên trong chỉ toàn đồ ăn, không có người hay binh khí.” Mạc Nhiên cười khổ, chỉ vào chiếc xe chất đầy đồ phía sau, “Cô nương đến đúng lúc lắm, sau khi đưa đồ vào nhà bếp, cô nương hãy dùng kim kiểm tra kỹ từng thứ một, xem có gì khác lạ không?”.
Túy Cúc nhìn qua chiếc xe chất đầy đồ, không nén được tiếng thở dài: “Hà Hiệp đích xác là nhân vật nổi danh, chắc sẽ không dùng thủ đoạn hèn hạ như vậy, nhưng, kiểm nghiệm kỹ vẫn hơn”.
Hai thị vệ giúp Túy Cúc đẩy xe vào bếp, rồi dỡ hết đồ xuống. Ngoài thịt lợn, thịt bò, cá tươi và những đồ ăn bình thường khác, còn không ít đồ quý hiếm.
Mấy món dân dã của Quy Lạc do đầu bếp chính thống Quy Lạc chế biến, cá khô hảo hạng, đặc sản dành cho bậc đế vương Bắc Mạc, và cả đĩa điểm tâm trong mềm ngoài giòn.
Các đại nương nhà bếp đứng cạnh nhìn Túy Cúc kiểm nghiệm từng món. Thấy đĩa điểm tâm vô cùng bắt mắt, bày khéo léo, ai nấy đều xuýt xoa: “Ai cũng bảo đồ điểm tâm Quy Lạc ngon nhất, chỉ nhìn đã thấy không đơn giản rồi”.
Ngoài ra còn có một hộp mạ vàng được bọc đến mấy lớp tơ lụa, đặt sâu dưới thùng xe. Túy Cúc giở từng lớp lụa ra, bên trong không phải là đồ ăn mà đựng toàn những thứ lặt vặt của nữ nhân.
Một hộp nhỏ, trong là cao dưỡng da tay loại thượng hạng. Một chiếc gương đồng có cán. Một cái lược làm bằng ngọc phỉ thúy. Dưới ba vật trên là mười mấy viên sỏi muôn vàn màu sắc dàn thành lớp mỏng. Túy Cúc không sao rời được ánh mắt, xuýt xoa thở dài.
Kiểm nghiệm xong mọi thứ, trời cũng gần sáng, Túy Cúc mệt mỏi, nói với mấy đại nương trong bếp: “Những thứ này đều là đồ thượng hạng, cứ dùng thoải mái. Hà Hiệp thật tinh tế, còn tặng cả đương quy bổ dưỡng chuyên dùng cho nữ nhân. Thực đơn vẫn giữ nguyên, làm theo cách ta đưa tối qua”.
“Nhưng vẫn không có cánh hoa thược dược.”
“Không có thì thôi, bỏ đi. Thiếu mỗi cánh thược dược cũng chẳng sao, đương quy quan trọng nhất.” Túy Cúc mệt mỏi xoa bóp hai vai, rồi ôm hộp mạ vàng quay về tiểu viện.
Hồng Tường đã ngủ dậy, đang đứng vươn vai trên sân tuyết, thấy Túy Cúc, liền hỏi: “Người đi đâu cả buổi tối thế? Trước khi ngủ, Bạch cô nương còn hỏi Túy Cúc sang nhà bếp sao mãi chưa về”.
“Bạch cô nương đâu?”
“Còn đang ngủ.” Hồng Tường hất cằm về phía cửa phòng, “Tối qua ta ngủ trong phòng cùng Bạch cô nương, thấy cô nương trằn trọc cả đêm, chắc không ngủ được. Nghe đám thị vệ nói, ngoài kia vẫn bị bao vây? Hôm qua Bạch cô nương và Sở tướng quân ra ngoài, chẳng phải họ đã lui rồi ư? Sao lại có cái hẹn mồng Sáu, nếu mồng Sáu vương gia không về thì phải làm thế nào?”.
Túy Cúc trầm giọng: “Ngươi muốn lo lắng cũng chẳng được, tốt nhất đừng hỏi”.
Cứ ngỡ đám thị vệ thường ngày vẫn hay đùa chỉ dọa mình thế thôi, lúc này mới biết nguy hiểm vẫn chưa qua, sắc mặc Hồng Tường lại trắng bệch vì sợ hãi.
Biết tình hình thực tế còn tồi tệ hơn những điều Hồng Tường nghe ngóng được, Túy Cúc cũng chẳng muốn nói nhiều, chỉ vỗ vai nha đầu ấy, rồi bước lên bậc thềm, vào trong phòng.
Đã dậy từ lâu, Sính Đình bỏ chăn qua một bên, trên người khoác chiếc áo bông màu tím nhạt. Nàng ngồi nghiêng đầu trên giường, năm ngón tay khẽ chải mái tóc dài đang rủ xuống. Thấy Túy Cúc bước vào với chiếc hộp mạ vàng, nàng ngó qua hỏi: “Gì thế?”.
Túy Cúc biết lòng Sính Đình bất an, muốn chọc cho nàng nói chuyện, bèn đặt cái hộp mạ vàng xuống đầu giường, trêu đùa: “Cô nương đoán xem. Cô nương mà đoán được thì Túy Cúc phục thật đấy”.
Sính Đình lãnh đạm nhìn cái hộp: “Là những thứ khiến người ta phiền lòng…”. Nàng thở dài, rồi mặc kệ Túy Cúc, tự mình mở hộp.
Nhìn thật kỹ ba thứ trong hộp, Sính Đình lặng lẽ cầm cái lược lên, hồn vía như đã bay đến tận đâu, giọng xa xăm: “Đây là chiếc lược ta vẫn dùng khi ở vương phủ Kính An”.
Nói rồi, nàng đặt lược xuống, chẳng động gì đến hai thứ kia, mà cầm những viên sỏi lên đếm, rồi lại nhẹ nhàng đặt về chỗ cũ, cho đến khi bàn tay trống rỗng. Sính Đình cười chua chát: “Ta mang tình nghĩa mười lăm năm ra gạt Hà Hiệp, Hà Hiệp lấy tình nghĩa mười lăm năm để dụ ta”. Nàng đóng hộp lại, xuống giường.
Sính Đình rửa mặt bằng nước nóng xong, Túy Cúc lại chải đầu cho nàng. Túy Cúc nâng mái tóc mềm mượt trong lòng bàn tay, tỉ mỉ búi kiểu mẫu đơn đoan trang, nhìn khuôn mặt Sính Đình không buồn không vui, như bị lớp sương mù bao phủ, chẳng biết trong lòng đang nghĩ gì.
“Cô nương… sao không nói gì?”
Im lặng hồi lâu, Sính Đình mới trả lời: “Ta rất mệt”.
Túy Cúc nói: “Cảm thấy mệt thì ngủ thêm một lúc, đằng nào cũng chẳng có việc gì. Túy Cúc đã bảo nhà bếp nấu món cháo đậu đỏ, khi nào cô nương dậy, họ sẽ đưa qua”.
Sính Đình lắc đầu.
Túy Cúc vừa đặt lược xuống, Sính Đình ngắm mình trong gương, rồi đứng dậy, vén rèm đi ra cửa. Túy Cúc vội vã chạy theo. Sính Đình vào phòng bên, một lúc sau bê vò hoa mai hôm qua ra.
“Để Túy Cúc bưng.”
Sính Đình nghiêng người tránh hai tay Túy Cúc, lặng lẽ bê vò mai xuống bậc thềm, ra chỗ Hồng Tường đã quét sạch tuyết hôm qua. Sau một đêm, mặt đất đã phủ thêm lớp tuyết mỏng.
Sính Đình đặt vò xuống, cầm chổi quét thêm một lần, rồi đi lấy xẻng.
Nhìn dáng điệu lặng lẽ của nàng, Túy Cúc bỗng thấy sợ mà chẳng dám lên tiếng, chỉ đứng bên cạnh, thỉnh thoảng nhắc: “Cẩn thận một chút”.
Sính Đình không dùng sức, chỉ đảo từng xẻng nhỏ. Lớp đất trên cùng rất cứng, nhưng đào qua lớp đất ấy, phần bên dưới mềm xốp, dễ đào hơn nhiều.
Lúc lâu sau, một hố nhỏ mới thành hình, trán Sính Đình lấm tấm mồ hôi, hai má đỏ hồng.
Cũng không vội, nàng đặt xẻng xuống, nghỉ một lát cho lại sức, rồi bê chiếc vò bên cạnh, đặt ngay ngắn ở chính giữa, ngắm nghĩa hồi lâu mới thấy hài lòng. Sính Đình chẳng ngại bẩn, tự tay bốc bùn, chôn vò xuống đất.
Làm xong, Sính Đình khẽ thở ra, ngẩng đầu, cười tươi tắn với Túy Cúc đang đứng bên cạnh: “Còn thiếu mỗi việc đốt lửa bên trên thôi”.
Đôi mắt nàng sáng rõ, nét cười trong đó dập dờn như sóng nước, dịu dàng vô cùng.
Chẳng hiểu tại sao, Túy Cúc bỗng thấy lòng mình chùng xuống, sống mũi cay cay, suýt chút nữa thì bật khóc, vội vàng quay đi lau mắt, lấy lại tinh thần, trả lời: “Để Túy Cúc đi lấy củi”.
Túy Cúc lấy củi khô trong bếp, rồi gọi thêm Hồng Tường, chất thành một đống trên mặt đất vừa lấp bằng, nhóm lửa. Một lúc sau, tiếng củi cháy lách tách, lửa bốc thành ngọn, bùng lên trên nền tuyết trắng. Ánh lửa ấm áp nhuộm đỏ ba khuôn mặt.
Sính Đình toát mồ hôi, tinh thần khá hơn chút ít, nàng dịu dàng nhìn ánh lửa, bỗng lên tiếng: “Đằng nào cũng nhóm lửa rồi, không thể cứ đứng thế này. Qua nhà bếp lấy thịt và muối ra đây, chúng ta nướng ăn”.
Đang vô cùng lo lắng về việc ngoài kia vẫn đang bị bao vây, cũng hiểu rõ đạo lý tự tìm niềm vui trong đau khổ, Hồng Tường nhận lời ngay: “Nô tỳ đi ngay”.
Một lúc sau, Hồng Tường khệ nệ bê cái giỏ rất nặng, đạp tuyết quay lại.
“Sườn lợn, cánh gà, đùi vịt rửa sạch, hai con cá đã bỏ ruột và đầu. Không biết cô nương thích nướng món gì, để nô tỳ đi bảo các đại nương bên nhà bếp chuẩn bị. “Hồng Tường đặt giỏ xuống, trải chiếc khăn màu xanh xuống nền tuyết, rồi đặt từng thứ ra. “Có cả muối và ngũ vị hương, các đại nương còn nói, ăn đồ nướng sẽ bị khô, nhà bếp sắp hầm xong canh, lát nữa sẽ mang sang cho chúng ta.”
Sính Đình vỗ tay reo lên: “Hồng Tường chu đáo đấy, nếu ta là tướng quân, thế nào cũng phong ngươi là quan hậu cần”. Nàng ngồi trên ghế, vai khoác thêm chiếc áo choàng dày. Sợ nàng lạnh, nên nhân lúc Hồng Tường sang nhà bếp, Túy Cúc đã về phòng mang áo ra.
Nhìn Sính Đình cười rạng rỡ, Hồng Tường cũng thấy lòng nhẹ đi vài phần, cười nói: “Không chỉ có thể. Các đại nương còn bảo, nướng thịt không thể nướng bằng tay, phải có cái gì xâu lại, nên nô tỳ đã kịp mang mấy cái que nhỏ sang đây”. Hồng Tường cúi xuống tìm, quả nhiên lôi ra mấy cái que nhỏ sạch sẽ, một đầu quấn vải.
Mọi thứ đều đầy đủ, ba người ngồi quanh đống lửa thưởng thức bữa nướng ngày đông.
Họ tay cầm que xiên thịt hoặc cá, đặt trên đống lửa, nhìn ngọn lửa đỏ từ từ nướng chín miếng thịt, cảm giác tươi ngon và thích thú, càng nướng càng thấy ham.
“Cha nô tỳ là thợ săn, hồi nhỏ, nô tỳ hay theo cha lên núi, cũng được nướng thịt kiểu này vài lần.” Rất có kinh nghiệm, Hồng Tường xoay xoay cái que trong tay, thở dài: “Sau khi vào Trấn Bắc vương phủ, nô tỳ không còn được thế này nữa”.
“Sao ngươi lại vào Trấn Bắc vương phủ? Vương gia mua ngươi à?”
Hồng Tường vội vã lắc đầu: “Trần Bắc vương phủ cần gì phải mua ai. Không lo ăn mặc, ít bị chửi mắng, chủ nhân lại là Vương gia, bao người xếp hàng chờ vào vương phủ mà không được. Nếu nô tỳ vẫn theo cha, hôm nào săn bắt được còn có chút vào bụng, hôm nào không bắt được gì chỉ có nước chịu đói, cuộc sống khổ sở hơn nhiều. Nô tỳ cũng được gọi là tốt số, nên mới được vào đây, thỉnh thoảng còn có chút gì gửi về cho cha”.
Lần đầu nghe Hồng Tường kể chuyện này, Túy Cúc hỏi: “Đến chỗ hẻo lánh thế này, ngươi không nhớ cha sao?”.
“Sao lại không? Nhưng mà, có nhớ cũng chẳng làm thế nào, cha ta không có phúc, ta vào vương phủ được ba năm, cha ta đã ốm mà qua đời. Khi rời khỏi thành đô, Vương gia quyết định cho tôi tớ hồi hương, thấy ta đáng thương chẳng có nơi nào để đi, nên đã cho ta ở lại.”
Giờ Túy Cúc mới hiểu, sao biệt viện này rất ít thị nữ trung niên, mà đa phần là các đại nương, xem ra họ đều là người già trong vương phủ, có đi cũng chẳng biết phải đi đâu.
Túy Cúc nướng đùi vịt, thịt dày, khó chín, nên đành nhẫn nại xoay đi xoay lại, ánh mắt nhìn về phía Sính Đình, nhắc nhở: “Lửa cháy hoa cả mắt, ăn đồ nướng sẽ bị nóng, không tốt cho sức khỏe”.
Đúng lúc con cá trong tay Sính Đình vừa chín tới. Vốn là người cẩn thận, tuy lần đầu tiên tự tay làm thứ này, nhưng nàng cũng nướng được vàng ruộm, thơm lừng. Nghe Túy Cúc nói thế, Sính Đình gỡ con cá khỏi que, cẩn thận đặt lên đĩa, đẩy qua: “Nếu thế ta không ăn nữa, hai người ăn đi”.
Đang muốn ăn cá nướng, thấy thế Hồng Tường reo lên, đưa cái que trong tay cho Túy Cúc: “Cầm hộ ta!”, rồi bê đĩa cá nướng thơm phức.
Thấy Sính Đình lo lắng cho hài nhi trong bụng, Túy Cúc mỉm cười khích lệ: “Cô nương không ăn thứ này vẫn có những thứ khác ngon hơn. Túy Cúc đã dặn các đại nương chuẩn bị món móng giò hầm đương quy táo đỏ rồi”.
Vừa nói xong, họ đã thấy đại nương tay xách giỏ đi vào tiểu viện. nhìn ba người đang hứng thú vui vẻ, đại nương cười nói: “Cẩn thận bị que chọc vào tay, lão nương đã mấy lần bị thế rồi”. Đại nương lấy trong giỏ ra hộp thức ăn, bưng cho mỗi người một bát canh. Phần của Túy Cúc và Hồng Tường là món canh sườn hầm măng nóng hổi, của Sính Đình là bát canh móng giò hầm đương quy táo đỏ.
Sính Đình cầm thìa, nhìn hai người kia ăn đồ nướng, khẽ mỉm cười, chậm rãi ăn hết phần trong bát của mình.
Sau nửa canh giờ ăn uống no nê, củi cũng sắp cháy hết, ba người đứng lên, lấy nước dập lửa.
Hồng Tường hỏi: “Có lấy vò ra không?”.
“Không, ủ trong đất, hương vị sẽ càng ngon, đợi khi nào Vương gia về sẽ lấy ra.”
Cứ như thế, một buổi sáng đã trôi qua, thời gian tiếp theo cũng dễ chịu hơn nhiều. Ngồi nói chuyện trong phòng với Túy Cúc, Hồng Tường thêm lúc nữa, Sính Đình mới nghỉ trưa. Nàng ngủ một giấc gần ba canh giờ, đến khi tỉnh dậy, trời đã sẩm tối.
Mơ hồ thức giấc, nàng mở cửa sổ, gió không lớn lắm, mây dày đặc, chẳng thấy rõ trăng đang trốn nơi nào.
“Túy Cúc? Túy Cúc?”, nàng vội vã gọi liền hai tiếng.
Túy Cúc từ ngoài đi vào: “Cô nương dậy rồi à?”.
“Giờ gì rồi? Trăng đã lên đến đỉnh chưa? Đã mồng Sáu chưa?”
Túy Cúc giật mình, chậm rãi bước qua, ngồi xuống bên giường, trả lời: “Bạch cô nương, trời vừa tối, hôm nay vẫn là mồng Năm”.
Nghe Túy Cúc nói vậy, khuôn mặt Sính Đình cũng bớt phần lo lắng, khẽ “ừ” một tiếng, như thể trút được gánh nặng. Nàng lại ngả người ra sau, nằm xuống.
Túy Cúc hỏi: “Nhà bếp đã mang đến tối qua, Túy Cúc thấy cô nương ngủ say nên bảo Hồng Tường đừng gọi. Cơm vẫn đang hâm nóng trên lò nhỏ phòng bên. Cô nương dậy rồi thì ăn một chút nhé”.
Hồng Tường bê cơm canh nóng hổi vào.
Sính Đình miễn cương ăn được nửa bát, cau mày: “Ta không ăn nổi nữa”, rồi buông đũa.
Thấy vẻ Sính Đình không thể nuốt nổi, biết cố khuyên cũng chẳng ích gì, Túy Cúc dịu dàng bảo: “Không ăn thì thôi vậy”.
Hồng Tường nhanh chóng thu dọn cơm canh, cùng với Túy Cúc ra khỏi phòng. Hai người dừng ở cửa, Hồng Tường hỏi: “Buổi sáng vẫn không sao, nói cười bình thường, cứ như quên hết mọi chuyện rồi. Sao ngủ một giấc dậy lại thành như thế? Xem ra quá thông minh cũng chẳng phải hay, tính tình kỳ lạ cổ quái”.
Túy Cúc vội ra hiệu ra cho Hồng Tường yên lặng, rồi hạ giọng trách mắng: “Ngươi thì hiểu cái gì? Nếu người là Bạch cô nương, e là đã phát điên từ lâu rồi”.
Hồng Tường le lưỡi, đi vào phòng bên.
Túy Cúc đứng một mình bên cửa, nhìn sắc tuyết ảm đạm trước sân. Gió lạnh ùa vào, lúc này nàng bỗng có cảm giác như Sính Đình từng nói, sảng khoái hơn nhiều.
Đâu chỉ mình Sính Đình rầu lòng, bản thân nàng cũng thấy trái tim đau như bị mèo cào.
Điều đáng hận nhất là còn cả một vực sâu nguy hiểm đang chắn trước mắt nàng.
Tứ quốc phân tranh ngày càng ác liệt, mấy năm trước đại quân Đông Lâm xâm phạm Quy Lạc, Bắc Mạc, giờ đến lượt Vân Thường và Bắc Mạc liên quân xâm chiếm Đông Lâm.
Đánh đánh giết giết, chưa từng ngơi nghỉ.
Những kẻ nắm rõ thời cuộc, kể cả đám người giàu sang phú quý ngu dốt đều có cảm giác được bữa sớm lo bữa tối.
Sư phụ Hoắc Vũ Nam của nàng xuất thân từ tầng lớp quý tộc, có quan hệ chặt chẽ với giới quý tộc Đông Lâm, nên nàng càng cảm nhận rõ vấn đề này.
Chẳng ai dám đảm bảo quốc gia mình không bị quân địch nhòm ngó bờ cõi, cửa nhà không bị thiêu thành tro tàn.
Quốc chính là gia. Có gia mới có quốc.
Ai mà không thế?
Túy Cúc lặng lẽ thở dài, cảm giác bức bối đến phát đau. Nàng cắn răng, cởi bớt vạt áo bên ngoài, để gió lạnh ùa vào người, cho đến khi dòng huyết trong ngực nguội lạnh. Khẽ rùng mình, nàng cài vạt áo, mang trà nóng sang cho Sính Đình, rồi an ủi Sính Đình ngủ tiếp.
Đêm đến, Túy Cúc vẫn ngủ trên chiếc giường khác trong phòng Sính Đình.
Bỗng thấy có tiếng động, Túy Cúc vội ngồi dậy dụi mắt. Sính Đình đã tỉnh giấc ngồi trên giường.
“Bạch cô nương, sao cô nương đã dậy?”, Túy Cúc xuống giường, đến bên Sính Đình, khẽ hỏi.
Sính Đình lặng lẽ ngồi nhìn ra cửa sổ, đáp: “Trăng lên rồi”.
Túy Cúc nhìn theo ánh mắt Sính Đình, trăng đã lên, nhưng rất mờ nhạt, ẩn giữa những tầng mây.
Quan sát kỹ, trăng đã chếch sang bên.
Đã tới mồng Sáu…
Túy Cúc thấy lòng mình chùng xuống, dịu dàng: “Còn một ngày nữa, Vương gia đang trên đường về”.
Giọng Sính Đình vô cùng bình thản: “Chắc chàng đang trên lưng ngựa, mệt mỏi vô cùng, cổ họng vừa rát vừa khát, cả người bám đầy bụi đất, trên vai bao nhiêu là tuyết”.
Giọng Sính Đình như vọng lại từ phương xa nào tới, tựa tiếng đàn cất lên nơi u cốc, khiến muôn hoa trên cây cũng phải rơi xuống. Túy Cúc chăm chú nhìn thần sắc Sính Đình, nhưng không thể đoán nổi nàng đang nghĩ gì.
Túy Cúc khẽ đắp chăn cho Sính Đình, cùng Sính Đình ngồi ngắm trăng bên cửa sổ. Hơn một canh giờ sau, Túy Cúc dịu giọng khuyên: “Ngủ đi”.
Sính Đình ngoan ngoãn nằm xuống, nhắm mắt. Túy Cúc cũng bớt lo, bước xuống, đi về phía giường của mình, như cảm thấy đôi mắt người sau lưng mở to, bất giác quay lại nhìn.
“Cô nương sao thế?”
Sính Đình nhìn Túy Cúc, bật cười: “Không sao cả”, rồi lại ngoan ngoãn nhắm mắt.
Đêm đó ở Hoa phủ, Sở Bắc Tiệp tưởng nàng là thị nữ câm của Hoa tiểu thư, thấy nàng bệnh, hình như chàng cũng nói câu “Ngủ đi” này.
Người ấy muốn gì làm nấy, chẳng để tâm đến tục lệ thế gian. Khi hai bên còn chưa quen biết, chàng đã ôm eo, bế nàng về căn phòng nhỏ, đặt nàng lên giường, còn vụng về đắp chăn cho nàng.
Câu nói cứng nhắc “Ngủ đi!” như lời của bậc tướng quân ra lệnh cho binh sĩ, nay nghĩ đến, thật khiến ngươi ta nhòa lệ.
Chàng sẽ về, nhất định sẽ về.
Mười ngón tay ngọc nắm chặt kiên cường.
Nếu tình yêu sâu đậm chỉ có bấy nhiêu, dù dịu dàng như nước, tôi luyện thành lưỡng kiếm Ly hồn và Thần uy, cũng có tác dụng gì?
Trăng đã chếch sang bên, ngày mồng Sáu đã tới.
Sở Bắc Tiệp lao đi như bay.
Gió Bắc tê buốt, thét gào bên tai.
Đã bao lần chàng phi ngựa như tên bắn trong gió, tuấn mã tung bốn vó, đường trường rong ruổi, gió thổi bạt áo chàng, bay phần phật, để dòng sông thuần phục dưới chân, để dãy núi cao ngạo phải cúi đầu.
Ngựa phi như bay, oanh liệt mà sảng khoái.
Lúc này đây, chàng không còn cảm nhận được chút gì sảng khoái.
Gió thét gào rát mặt, nhưng cảm giác đau như dao cứa ấy chẳng thể sánh được với nỗi đau trong tim chàng. Trái tim như bị lửa đốt của chàng đang treo lơ lửng giữa tầng không.
Biệt viện ẩn cư yên tĩnh cách xa tầm mắt, nhưng hương mai thoang thoảng cứ quẩn quanh trái tim nóng rẫy của chàng.
Vốn hiểu rõ tính tình vương huynh, nay thấy ca ca dốc hết tâm huyết, không từ thủ đoạn giữ mình lại thành đô, Sở Bắc Tiệp cũng đoán được cách đối phó nơi biệt viện ẩn cư sẽ kinh khủng nhường nào.
Mười ngón tay ngọc chỉ biết gảy đàn của Sính Đình sao có thể đối phó với sự khiêu chiến của Đông Lâm vương?
Liệu có phải thân hình mảnh mai ấy giờ đang đứng trước gươm đao sáng loáng?
Dáng hình yếu mềm của nàng, chàng có ôm bao nhiêu lần nữa cũng không thấy đủ…
Khuôn mặt nhỏ nhắn, thanh tú của nàng, chàng có ngắm bao nhiêu lần nữa cũng không thấy đủ…
Tiếng đàn uyển chuyển của nàng, chàng có nghe bao nhiêu lần cũng vẫn như lần đầu…
Nữ nhân khiến người ta yêu thương ấy, sao không thể giơ cao đánh khẽ mà bỏ qua cho nàng?
Nàng đã quy ẩn.
Nàng đã không màng đến chuyện thế gian.
Nàng đã phải chịu bao đau đớn, bao tổn thương, chỉ mong quên hết chuyện cũ, bằng lòng làm một nữ nhân.
Nữ nhân của Sở Bắc Tiệp.
“Sính Đình không hề tham lam, chỉ mong trước khi dẫn quân ra chiến trường, chàng trở về gặp Sính Đình. Vào sinh thần của Vương gia, Sính Đình sẽ nói với chàng một việc rất quan trọng.”
Tâm nguyện thật đơn giản biết bao!
Tâm nguyện mà một nam nhân bình thường cũng có thể đáp ứng.
Nhưng chàng không phải nam nhân bình thường. Chàng là Sở Bắc Tiệp, là Trấn Bắc vương của Đông Lâm.
Sở Bắc Tiệp vung roi, quất mạnh lên lưng ngựa, đôi mắt vằn đỏ. Gió thổi tung vạt áo, nhưng vẫn chẳng thể thổi tắt ngọn lửa đang thiêu đốt tâm can chàng.
Hai bên tuyết trộn lẫn bùn, con đường ở giữa vươn dài thẳng tắp, như không có điểm dừng.
Đường về nhà chưa bao giờ dài đến thế.
Ánh mắt Sở Bắc Tiệp nhìn thẳng về phía trước.
Ánh mắt xuyên qua thăm thẳm vạn tầng mây, Sính Đình liệu có an toàn?
Không thấy dung nhan kiều diễm của Sính Đình, lọt vào tầm mắt Sở Bắc Tiệp là lá cờ thấp thoáng đằng xa. Đội quân phía trước đang thúc ngựa tiến tới. Sở Bắc Tiệp căng hết tầm mắt nhìn lá cờ tung bay trong gió, hiện rõ chữ “Mâu” quen thuộc.
Lòng như trĩu nặng, chàng vung roi thúc tuấn mã đã mệt đến sùi bọt mép, xông đến đội quân phía trước, ghìm cương, hét lớn: “Thần Mâu ở đâu?”, giọng khản đặc đến khó nghe bởi lâu không uống nước.
Thấy Sở Bắc Tiệp, Thần Mâu vội vã xuất hiện, nhảy xuống ngựa, hành lễ: “Vương gia, Thần Mâu có mặt!”.
“Ngươi quản lý doanh trại Long Hổ, sao dám tự ý rời bỏ vị trí?”
Thần Mâu đáp: “Mạt tướng nhận được điều lệnh của Đại vương, năm ngày trước đến Lạc Minh bẩm báo với Phú Lang vương, giờ về thành đô bái kiến Đại vương”.
“Doanh trại Long Hổ giờ do ai tiếp quản?”
“Phụng vương lệnh, do thuộc hạ của Phú Lang vương là Phong Mân tạm thời tiếp quản.”
Phong Mân tướng quân đã nhận lệnh của Phú Lang vương tiếp quản doanh trại. Dù có Thần uy bảo kiếm trong tay, nhưng với thân phận hiện nay, Sính Đình không thể điều động được đại quân Long Hổ.
Đông Lâm vương đối phó với đệ đệ mình chẳng chút sơ hở.
Sở Bắc Tiệp tức giận đến đau lòng, trời đất như chao đảo.
Sính Đình không nơi cầu cứu, chỉ mình chàng là hy vọng duy nhất.
Với trí tuệ của Sính Đình và cái hẹn mồng Sáu, nhất định nàng sẽ cố nghĩ cách để trì hoãn quân địch, cho đến lúc chàng trở về biệt viện.
Đợi ta, nàng hãy đợi ta!
Hai bàn tay rộp máu, nhưng Sở Bắc Tiệp không hề đau. Chàng nắm chặt dây cương, ngồi thẳng trên lưng ngựa.
Theo Sở Bắc Tiệp chinh chiến trên sa trường nhiều năm, thấy bộ dạng Vương gia lúc này, Thần Mâu biết chàng đã cưỡi ngựa nhiều canh giờ, hai tay cung kính dâng lên túi nước của mình: “Vương gia uống ngụm nước. Vương gia đang vội ra chiến trường sao? Khẩn cấp thế này, e là binh sĩ và tuấn mã không chịu nổi”.
Sở Bắc Tiệp nhận lấy túi nước, ngửa cổ tu ừng ực hết sạch, rồi quay lại nhìn ba ngàn quân tinh nhuệ đã theo mình suốt một ngày hai đêm.
Ra khỏi thành đô, suốt chặng đường họ chỉ biết vung roi, không hề ngừng nghỉ, ai cũng sức cùng lực kiệt, bàn tay cầm dây cương rướm máu, dọc đường đã có mấy chục binh sĩ không chịu được mà ngã lăn ra đất.
Cầm quân đã nhiều năm, chưa bao giờ chàng không biết thương xót quân sĩ đến thế.
Lòng trĩu nặng, Sở Bắc Tiệp quay lại hỏi Thần Mâu: “Ngươi dẫn theo bao nhiêu quân?”.
“Không nhiều, một ngàn bảy trăm người, đều là quân tinh nhuệ trong tay mạt tướng.”
“Giao cả cho ta.” Sở Bắc Tiệp rút binh phù, giơ lên không trung, hét lớn, “Bản vương thống lĩnh binh mã toàn quốc, các tướng sĩ nghe lệnh! Ba ngàn kỵ binh tinh nhuệ của quân cấm thành nếu đã kiệt sức, hãy theo Thần Mâu trở về. Một ngàn bảy trăm người dưới quyền Thần Mâu sẽ thuộc quyền chỉ huy của bản vương, lập tức theo bản vương. Đi!”. Chàng nhảy xuống ngựa, chuyển sang tuấn mã khỏe mạnh tươi tỉnh của Thần Mâu, trầm giọng, “Cho ta mượn ngựa của ngươi”.
“Vương gia vội vã đi đâu thế?”
“Mồng Sáu, bản vương nhất định phải trở về biệt viện ẩn cư trước khi trăng lên đỉnh.”
Thần Mâu ngạc nhiên: “Giờ đã là mồng Sáu, còn mười canh giờ nữa, làm sao về kịp?”.
Như không nghe thấy gì, Sở Bắc Tiệp kéo căng dây cương, tuấn mã hí vang, lao về phía trước.
Thần Mâu không biết cụ thể đã xảy ra chuyện gì, nhưng cũng biết tình thế cấp bách. Thấy bóng Sở Bắc Tiệp thoắt cái đã mờ xa, hắn cắn răng chặn phó tướng lại.
“Ta đi theo Vương gia, ngươi dẫn đội binh lính kia về thành đô trước. Đổi ngựa cho ta.”
Thần Mâu nhanh chóng lên ngựa, rút roi, đuổi theo đoàn kỵ binh đang cuồn cuộn tiến về phía trước.
Con đường đất vàng bụi bay mù mịt.
Mồng Sáu.
Sính Đình.
Đã đến sinh thần của ta.
Không khí trầm lặng khiến người ta ngạt thở bao trùm khắp biệt viện.
Rừng núi bên ngoài vẫn chìm trong tuyết trắng, mặt trăng đã lui đi, mặt trời lấp ló những tia nắng đầu tiên sau tầng mây nhạt.
Tuyết lại bắt đầu rơi.
Muôn vàn bông tuyết nhỏ chao nghiêng trong gió.
Tiếng đàn véo von ngân nga trong mênh mang tuyết trắng, vượt qua tường cao, như vệt sáng xoẹt qua nền trời xanh thẳm.
Sính Đình gảy đàn.
Đã sang mồng Sáu, liệu cánh tay cầm kiếm của những binh sĩ đang bao vây ngoài kia có chắc thêm vài phần?
Mồng Sáu, người mang dáng hình vững chãi như bóng núi, giọng cười hào sảng vô cùng đã sinh ra vào ngày tuyết rơi.
Chàng nhận được sự sủng ái của ông Trời.
Ông Trời cho chàng thân thế hiển hách, cơ thể tráng kiện, sống mũi cao thẳng, ánh mắt đen sáng ngời, sự tự tin và uy nghiêm bẩm sinh.
Ông Trời đã tạo ra một Sở Bắc Tiệp anh hùng cái thế để nàng không sao cầm lòng mà hồn xiêu phách lạc, cung thuận phục tùng.
Mồng Sáu chính là hôm nay.
Ngón tay Sính Đình chạm lên dây đàn.
Nàng có duyên với đàn, đàn là thanh, là âm của nàng.
Mỗi khi đặt tay lên mấy dây đàn, nàng mới có thể vứt bỏ phía sau mọi lo lắng khiến nàng ngạt thở. Nhắm mắt lại, Sính Đình vô ưu vô lo chìm vào hồi ức.
Chuyện xưa lần lượt hiện ra trước mắt, nàng vẫn nhớ rõ.
Hôm đó nhìn chàng qua tấm rèm, trái tim nàng giờ vẫn loạn nhịp.
Dường như chàng đang quay lại con đường ruột dê, hình bóng Sở Bắc Tiệp ung dung trong vội vã, tiếng ngựa gõ móng tới gần, chàng túm lấy eo nàng, ôm chặt vào lòng. Lồng ngực nhiệt huyết của chàng, nhịp tim vững chãi của chàng như vẫn ngay đây.
Dường như chàng chưa từng rời đi, vẫn bưng bát canh, vụng về đút cho nàng, dỗ nàng vào giấc ngủ, cùng nàng thưởng nguyệt ngắm sao, không hề ngần ngại.
Ân ân oán oán, ngọt ngào đến thế, nhưng trái tim cũng tan thành trăm mảnh.
Chàng sao có thể không yêu nàng?
Chàng sao có thể không giữ lời hứa, quên hẹn ước với nàng?
Chàng sao có thể vì dòng máu anh hùng không ngừng chảy trong huyết quản, vì chuyện quốc gia đại sự mà nhẫn tâm bỏ mặc nàng?
Bắc Tiệp, nếu Sính Đình là người quan trọng nhất trong lòng chàng, vậy thì thiên hạ rộng lớn này, liệu điều gì ngăn nổi bước chân chàng trở về bên thiếp?
Thiếp đã chôn vò Tố hương bán vận, đợi chàng nơi đây.
Túy Cúc đứng lặng một bên, chăm chú nhìn Sính Đình đang say với cây đàn. Dáng hình gầy yếu, nhưng sống lưng thẳng tắp, như được chống đỡ bằng khung xương thép vững chãi.
Túy Cúc lắng tai nghe.
Tiếng đàn như khóc, như than, như lời kể về câu chuyện đã qua, khiến người ta đau đớn khôn cùng, dẫu chưa từng trải qua.
Chỉ là loạn thế đau thương, hà tất phải dệt nên âm sắc trong trẻo nhường ấy.
Quốc trọng, hay tình trọng?
Phải bảo vệ tình yêu hiếm có trong đời, hay nên bảo toàn tổ quốc thân yêu?
Tâm sự vẫn cất giấu tận sâu trong đáy lòng, không dám chạm tới, cây kim vẫn lơ lửng chốn không trung bấy lâu giờ đang châm thẳng vào lục phủ ngũ tạng, khiến Túy Cúc đau đến tột cùng.
Con người đâu phải cỏ cây, sao có thể vô tình?
Dây đàn mỏng manh bỗng trở thành vũ khí sắc bén cứa rách con tim, giày vò Sính Đình ướt đẫm mồ hôi, đầu ngón tay nhỏ máu.
Không sao chịu đựng thêm tiếng đàn đang thâm nhập vào mọi ngóc ngách không gian, Túy Cúc tiến lên một bước, cố nén tình cảm trào dâng, khẽ giọng: “Cô nương, dừng lại đi. Bữa trưa đã mang tới lúc lâu rồi”.
Sính Đình giữ dây đàn, tiếng đàn ngưng bặt. Nàng ngẩng lên, hai mắt long lanh nhìn Túy Cúc.
“Dù thế nào cũng phải cố ăn một chút.” Tránh ánh mắt Sính Đình, Túy Cúc đỡ nàng dậy.
Hồng Tường nhanh nhẹn dọn cơm canh.
Ánh mắt Sính Đình dừng lại, trên bàn bày đĩa đồ ăn Quy Lạc khác hẳn ngày thường. Nàng chậm rãi ngồi xuống, cầm đũa gắp một miếng, đưa lên nhìn, rồi lại đặt xuống.
“Đây là món ăn Quy Lạc do Hà Hiệp tự tay làm.” Sính Đình im lặng giây lát, rồi nói tiếp, “Có thể thấy Hà Hiệp quyết tâm đến mức nào”.
Cảm giác nguy hiểm rình rập, đè nặng trái tim.
Bỗng thấy ngộp thở vì không khí im lặng nơi đây, Hồng Tường bạo gan lên tiếng: “Tuy dẫn binh bao vây biệt viện, nhưng rõ ràng tiểu Kính An vương vẫn nhớ tới tình cảm với cô nương trước đây. Cho dù…”. Thấy Túy Cúc kéo vạt áo mình, Hồng Tường giật mình, im bặt.
Sính Đình không trách Hồng Tường, khóe môi cố nở nụ cười: “Có được mấy phần là thật sự nhớ đến tình cảm trước đây?”.
Bạch Sính Đình thuộc về bất cứ ai, Hà Hiệp đều có thể chấp nhận.
Chỉ trừ một người, Sở Bắc Tiệp.
Trong thiên hạ, khiến Hà Hiệp kiêng dè chỉ có mình Sở Bắc Tiệp.
Trong thiên hạ, khiến Hà Hiệp đố kỵ chỉ có mình Sở Bắc Tiệp.
Nơi nào cũng có thể là chiến trường, cuộc đọ sức của hai kẻ thù đâu chỉ giới hạn trên sa trường gươm đao sáng loáng?
Bên ngoài, tuyết bay lất phất, vài bông tuyết lạc vào phòng ấm áp qua kẽ hở khi rèm cửa dao động, cam tâm tình nguyện hóa thành giọt lệ mùa đông.
Mặt trời đã chếch về đông.
Mồng Sáu đã qua một nửa.
Mười hai canh giờ, chỉ còn một nửa.
Tác giả :
Phong Lộng