Chuyện Xảy Ra Ở London
Chương 1
Đến năm mười hai tuổi, Harry Valentine có chút khác biệt so với những đứa bạn cùng lớp ở nước Anh đầu thế kỷ mười chín. Ấy là do cậu có hai biệt tài khác thường.
Thứ nhất là cậu rất thạo tiếng Pháp và tiếng Nga. Biệt tài này chẳng có gì khó hiểu; vì lúc Harry được bốn tháng, bà ngoại Olga Petrova Obolenskiy Dell có tiếng là trưởng giả và độc đoán đến sống cùng nhà Valentine.
Bà Olga ghét cay ghét đắng tiếng Anh. Lúc nào bà cũng khăng khăng rằng chẳng thứ gì trên thế giới này cần nói ra mà lại không thể diễn đạt được bằng tiếng Pháp hay tiếng Nga.
Còn chuyện tại sao bà lại lấy ông ngoại - một người Anh - làm chồng thì bà chẳng thể nào giải thích cho ra ngô ra khoai.
“Có thể vì chuyện này cần giải thích bằng tiếng Anh mới được,” chị Anne thì thào.
Harry chỉ nhún vai cười mỉm (như bất kỳ một thằng em biết hành xử đúng mực nào) khi chị bị cốc đầu vì câu nói đó. Bà coi tiếng Anh không ra gì thật nhưng bà hiểu không sót một từ nào, tai bà thì còn thính hơn cả tai chó săn. Thì thào bất kỳ điều gì - bằng bất kỳ thứ tiếng gì - chẳng phải là ý hay khi bà đang có mặt trong phòng học. Thì thào bằng tiếng Anh là việc làm dại dột hết nước hết cái. Đằng này lại còn thì thào bằng tiếng Anh để chỉ trích cả tiếng Pháp lẫn tiếng Nga đều không thể biểu đạt điều cần nói...
Thực sự, Harry thấy bất ngờ chuyện Anne không bị bà ngoại cho mấy roi vào mông.
Bà ngoại ghét tiếng Anh như thế nào thì Anne không ưa tiếng Nga như thế ấy. Cô kêu nó quá nhiêu khê, còn tiếng Pháp thật khó nhằn. Khi bà đến sống cùng, Anne đã lên năm và lúc ấy tiếng Anh của cô bé đã ăn sâu bén rễ trong đầu, không chịu cho một thứ tiếng nào khác có chỗ đứng ngang bằng.
Harry, trái lại, hăm hở nói bất kỳ thứ tiếng nào cậu nghe được từ người khác. Tiếng Anh để nói hằng ngày, tiếng Pháp cho những điều thanh tao, còn tiếng Nga dùng cho những chuyện kịch tính và huyên náo. Nước Nga rộng lớn. Lạnh. Và trên tất cả, đây là đất nước vĩ đại.
Peter Đại đế, Catherine Vĩ đại - từ bé Harry đã thuộc nằm lòng những câu chuyện về họ.
“Úi dào!” không ít lần bà Olga buông lời chế giễu thế khi gia sư của Harry cố dạy lịch sử nước Anh cho cậu. “Ethelred Chưa sẵn sàng[1] là ai đấy? Có cái thứ đất nước nào mà vua chúa lại ở thế chưa sẵn sàng không chứ?”
[1] Tên của vị vua này trong tiếng Anh cổ là Æthelred the Unræd. Unræd có nghĩa là bị xúi dại. Có tên này là do vua lên ngôi khi mới khoảng mười tuổi nên làm việc gì cũng phải hỏi ý kiến người khác nhưng lại hay bị họ xúi bậy. Æthelred the Unræd sau được dịch ra tiếng Anh hiện đại thành Ethelred the Unready; từ unready có nghĩa là chưa sẵn sàng, không còn giữ nguyên được nghĩa gốc của unræd nữa.
“Nữ hoàng Elizabeth cũng vĩ đại mà bà,” Harry vớt vát.
Điều đó cũng chẳng gây được ấn tượng gì cho bà Olga. “Vậy bà ấy có được gọi là Elizabeth Đại đế không? Hay Nữ hoàng Vĩ đại không? Không, không hề. Người ta gọi bà ấy là Nữ hoàng Đồng trinh, như thể chuyện đó đáng hãnh diện lắm vậy.”
Đến lúc này, tai cậu gia sư đỏ lựng lên, khiến Harry đâm tò mò tợn.
“Cái bà ấy thì vĩ đại nỗi gì,” bà Olga tiếp tục bằng giọng lạnh có khi còn hơn cả băng. “Ngay cả chuyện để lại cho đất nước một người kế vị ngai vàng cũng không làm được thì có gì mà vĩ với chả đại.”
“Hầu hết các sử gia đều đồng tình rằng nữ hoàng không kết hôn thế là khôn ngoan,” cậu gia sư lên tiếng. “Bà cần phải giữ hình ảnh không hề bị hoen ố, và...”
Cậu gia sư bỏ lửng câu nói. Harry không hề ngạc nhiên. Bà Olga vừa lia cặp mắt sắc như dao về phía cậu ta. Harry chưa thấy ai có thể tiếp tục nói khi bị ánh mắt ấy chiếu thẳng vào mặt như thế.
“Cậu rõ là ngu ngốc,” bà dằn từng tiếng rành rọt rồi quay ngoắt đi. Ngày hôm sau bà đuổi việc cậu gia sư và tự mình dạy Harry đến khi nào tìm được gia sư mới.
Đúng ra, việc thuê gia sư cho trẻ con nhà Valentine - lúc này đã lên đến ba đứa (thằng em Edward đi nhà trẻ khi Harry lên bảy) - và sa thải họ không phải là chuyện của bà Olga. Nhưng chẳng ai muốn vướng vào chuyện này. Mẹ Harry, Katarina Dell Valentine, không bao giờ tranh cãi với mẹ mình, còn cha Harry thì... ừm...
Có khá nhiều điều để nói về biệt tài thứ hai của Harry Valentine - một biệt tài bất thường đối với đứa trẻ mười hai tuổi.
Cha Harry, ngài Lionel Valentine, là một kẻ nát rượu.
Tất nhiên đây không phải biệt tài rồi. Không ai là không biết ngài Lionel nốc rượu như hũ hèm. Ngài Lionel thường chân nam đá chân chiêu, nói năng nhíu nhịu, rồi phá lên cười vang một mình. Và thật xui xẻo cho hai chị hầu gái (và cả hai tấm thảm trong phòng đọc sách của ông nữa) khi ông có cách để rượu không thể làm ông mập lên được.
Và cũng bởi thế, Harry đâm ra thạo việc lau dọn đống cha nôn mửa ra.
Chuyện này bắt đầu từ năm cậu lên mười. Hôm ấy đúng ra cậu có thể cứ để nguyên thế, có điều trước đó cậu đang cố hỏi xin cha ít tiền tiêu vặt và trót hỏi lúc đã khá khuya. Ngài Lionel đã làm một cữ brandy buổi chiều, một cốc nhỏ lúc chạng vạng, ít vang vào bữa tối, rồi ngay sau đó lại bồi tiếp porto, và giờ quay lại với thứ ông khoái nhất, brandy nhập lậu từ Pháp mà lúc chiều ông vừa mới nốc xong. Harry dám chắc một điều là cậu đã nói rất rành rọt bằng tiếng Anh khi hỏi xin tiền cha, nhưng ông cứ chằm chằm nhìn cậu, mắt chớp chớp mấy cái như thể ông chẳng hiểu nổi đứa con trai đang nói gì, và rồi phun cả lên giày Harry.
Harry không tránh đi đâu được cái của nợ gớm chết ấy.
Rồi sự việc cứ lặp lại như thế. Một tuần sau đó cha cậu lại nôn, dù không vào đúng chân cậu, rồi một tháng sau chuyện tương tự lại xảy ra. Năm Harry lên mười hai, chẳng đứa nhỏ nào ở tuổi cậu có thể nhớ nổi số lần dọn dẹp chỗ nôn mửa của cha trong những lần say, nhưng cậu luôn là đứa thích chính xác, và một khi cậu đã bắt đầu đếm thì khó mà dừng lại được.
Hầu hết mọi người chỉ có thể nhớ đến bảy là cùng. Đã là con số lớn nhất mà phần đông có thể nhận biết trực quan. Harry biết được điều đó khi đọc thêm về logic và số học. Hầu như ai cũng có thể nói ngay “Bảy” chỉ sau một cái liếc mắt lên trang giấy có vẽ bảy dấu chấm. Thêm một chấm nữa vào, hầu hết mọi người đều chịu.
Harry có thể nhận biết đến con số hai mươi mốt.
Vậy nên chẳng mấy ngạc nhiên khi, sau mười lăm lần lau dọn, Harry vẫn biết chính xác bao nhiêu lần cậu trông thấy dáng cha xiêu vẹo đi qua sảnh, hay mê man bất tỉnh trên sàn, hay nôn (trượt) vào chậu đựng nước tiểu trong phòng. Và thế là, một khi đã đạt đến con số hai mươi, chuyện này đã trở thành một cái gì đó hơi mang tính học thuật, và cậu phải tiếp tục, không dừng lại được.
Chuyện này hẳn phải mang tính học thuật. Nếu không phải vậy thì sẽ là cái gì đó khác, và khi đó có thể cậu sẽ nằm khóc cho đến khi ngủ thiếp đi thay vì nhìn chong chong lên trần nhà, miệng lẩm nhẩm, “Lần bốn mươi sáu rồi, nhưng nhỏ hơn một tẹo so với cái đống hôm thứ Ba vừa rồi. Hình như tối nay cha ăn ít thì phải.”
Đã từ lâu mẹ Harry quyết định làm ngơ mỗi khi chuyện đó xảy ra, và những lúc như thế bà thường ra vườn chăm mấy khóm hồng bà Olga mang sang từ Nga nhiều năm trước. Lúc sắp bước sang tuổi mười bảy, Anne cho cậu biết cô sẽ lấy chồng để “thoát khỏi cái địa ngục trần gian này.” Và cô làm thế thật, để chứng minh cho lòng quyết tâm của cô, bởi lẽ cả cha lẫn mẹ đều chẳng mảy may để tâm gì đến việc đảm bảo cho cô con gái một đám môn đăng hộ đối. Còn cậu út Edward chọn cách thích nghi, như anh Harry của mình. Sau bốn giờ chiều là có cha mà cũng như không, ngay cả khi có vẻ như ông cũng còn chút tỉnh táo (thường là thế, cho đến bữa tối thì ông mới thật sự chẳng còn ra người ngợm gì nữa).
Kẻ ở người làm trong nhà ai cũng biết rõ cả. Chẳng có mấy người nên gia đình Valentine sống khá thư thả trong một ngôi nhà ngăn nắp sạch sẽ ở Sussex và hằng năm vẫn đều đặn nhận một trăm bảng từ khoản hồi môn của mẹ Katarina. Nhưng thế không có nghĩa là họ giàu có thừa mứa gì, và kẻ ở người làm nhà Valentine chỉ có tám người - ông quản gia chị bếp, bà dọn dẹp, đứa giữ ngựa, hai hầu trai, cô hầu gái, và chị rửa bát. Hầu như ai cũng thấy yên ổn hài lòng khi giúp việc cho nhà Valentine cho dù đôi lúc phải làm những phận sự không mấy dễ chịu liên quan đến thói quen rượu chè của ông chủ. Ngài Lionel có thể nát rượu thật đấy nhưng ông không phải là một tay nát rượu ti tiện. Ông cũng không phải là người keo kiệt, và thậm chí mấy cô hầu gái còn biết cách kiếm thêm vài đồng từ việc “xử lý” đống nôn mửa của ông chủ khi ông mang máng nhớ lại những chuyện mình đã làm và thấy xấu hổ.
Do vậy Harry thực sự không hiểu tại sao cậu cứ lo lau rửa dọn dẹp mỗi bận cha cậu nôn mửa như thế, vì rõ ràng là nếu cậu cứ để nguyên vậy thì cũng có người khác làm thôi. Có thể cậu không muốn kẻ ở người làm trong nhà biết cha say sưa thường xuyên ra sao. Có thể cậu muốn mình ý thức được những hiểm họa từ rượu. Cậu nghe nói ông nội cậu cũng chè chén be bét y như thế. Chả lẽ những chuyện như vậy mà cũng di truyền được hay sao?
Cậu không muốn tìm hiểu.
Và rồi, bà ngoại qua đời khá đường đột. Không bình yên như lúc bà đi ngủ - bà Olga Petrova Obolenskiy Dell đời nào chịu cứ thế lìa trần mà không kèm theo một chút kịch tính chứ. Vào bữa tối, đang định xúc muỗng xúp đưa lên miệng thì bà đột nhiên ôm ngực, thở gấp mấy lần rồi gục xuống. Sau này cả nhà mới nhận ra rằng trước lúc gục xuống như thế hẳn bà vẫn còn chút tỉnh táo nên đã không để mặt vục vào bát xúp mà chệch hẳn sang một bên, và không biết làm cách nào bà đập được vào cái muỗng, khiến cho chỗ xúp nóng trong đó văng lên nhắm thẳng hướng ngài Lionel lúc đó không còn đủ tỉnh táo để kịp cụp đầu xuống tránh.
Harry không được chứng kiến cảnh đó; ở tuổi mười hai, cậu không được phép ăn cùng người lớn. Nhưng Anne thấy hết từ đầu chí cuối, và tức tốc kể lại một lèo cho Harry nghe như sợ ai kể mất không bằng.
“Thế là cha cởi luôn cái ca vát ra!”
“Ngay tại bàn ăn?”
“Ngay tại bàn ăn chứ sao! Nhìn rõ cả vết bỏng nữa cơ!” Anne giơ ngón cái và ngón trỏ để miêu tả cho Harry thấy chỗ bỏng ấy rộng khoảng một phân. “Ngần này này!”
“Còn bà thì sao?”
Anne hơi rầu rầu. Nhưng chỉ hơi hơi thôi. “Chị nghĩ bà chết rồi.”
Harry nuốt khan và gục gặc đầu. “Bà cũng già lắm rồi.”
“Chắc cũng phải chín mươi là ít.”
“Em không nghĩ bà chín mươi đâu.”
“Trông bà chín mươi mà,” Anne lầm bầm.
Harry không nói gì. Cậu không chắc phụ nữ ở tuổi chín mươi thì trông thế nào, nhưng bà ngoại chắc chắn có nhiều nếp nhăn hơn bất kỳ người quen nào của cậu.
“Nhưng để chị kể em nghe phần lạ lùng nhất này,” Anne vừa nói vừa nghiêng người về phía trước. “Mẹ ấy.”
Harry chớp mắt. “Mẹ làm gì?”
“Không làm gì cả. Không hề.”
“Mẹ ngồi cạnh bà chứ?”
“Không, ý chị không phải thế. Mẹ ngồi chếch phía bên kia bàn nên không thể đỡ bà lúc ấy.”
“Rồi...”
“Mẹ cứ ngồi tại chỗ thế,” Anne ngắt lời. “Mẹ không nhúc nhích tí nào. Ngay cả dợm nhổm người lên cũng không nốt.”
Harry trầm ngâm. Chuyện này, đáng buồn thay, không khiến cậu ngạc nhiên mấy.
“Mặt mẹ chẳng biểu lộ gì cả. Mẹ chỉ ngồi yên như thế này này.” Rồi Anne sửa cho ra nét mặt trống rỗng vô cảm, và Harry buộc phải thừa nhận là giống hệt nét mặt mẹ.
“Nói cho em nghe này,” Anne nói. “Nếu mẹ mà có gục xuống chén xúp như thế trước mặt chị, thì chí ít chị cũng ngạc nhiên.” Cô lắc đầu. “Hai người ấy kỳ cục quá, cả hai luôn, cha không làm gì ngoài việc nốc rượu, còn mẹ thì không làm gì hết. Nói cho em biết điều này luôn, chị không thể đợi đến sinh nhật được. Nhà đang có tang cũng mặc. Chị sẽ cưới anh William Forbush, hai người họ chẳng thể ngăn nổi đâu.”
“Em không nghĩ chị phải lo lắng đến chuyện đó,” Harry nói. “Mẹ sẽ chẳng có ý kiến gì, còn cha thì có lúc nào tỉnh đâu mà để ý đến.”
“Ừm, em nói cũng có lý.” Anne mím môi tư lự trông đến sầu thảm. Đoạn cô đưa tay siết chặt vai em trai - một cử chỉ thể hiện tình chị em hiếm thấy ở cô. “Em cũng sẽ ra khỏi chỗ này sớm thôi mà. Đừng lo nhé.”
Harry gật đầu. Ít tuần nữa thôi là cậu đi học rồi.
Và chút tội lỗi mới chớm về việc ra khỏi nhà trong khi chị Anne và em Edward vẫn phải ở lại liền bị dập tắt bởi cái cảm giác nhẹ nhõm đến choáng ngợp khi lần đầu tiên được rời nhà đi học.
Đi khỏi nhà đúng thật là tốt. Dù vẫn kính trọng bà ngoại và những vị vua chúa bà yêu mến, song Harry vẫn thấy chuyện này thậm chí còn có thể rất vĩ đại nữa.
* * *
Những năm học phổ thông của Harry thật bổ ích đúng như cậu hằng mong đợi. Cậu vào học trường Hesslewhite, một học viện tương đối phù hợp cho con trai của những gia đình thiếu vai vế (hay trong trường hợp của Harry, không đủ lợi tức) để cho con học tại Eton hay Harrow.
Harry yêu trường học. Yêu. Cậu yêu những giờ học, yêu thể thao, và yêu những lúc đi ngủ không phải săm soi mọi ngóc ngách của tòa nhà khi đêm đã muộn để xem cha mình thế nào, mong sao cha chưa kịp nôn mửa đã say lăn quay ra rồi. Ở trường Harry cứ thế đi thẳng từ phòng sinh hoạt chung đến ký túc xá, và cậu yêu mỗi bước đi thảnh thơi ấy.
Thế nhưng điều tốt đẹp nào rồi cũng phải đến hồi kết, và ở tuổi mười chín, Harry tốt nghiệp cùng với chúng bạn trong lớp, tính cả Sebastian Grey, con trai dì ruột cậu và cũng là bạn chí thiết của cậu. Nhà trường tổ chức một buổi lễ tốt nghiệp, vì gần như cậu chàng nào cũng mong ước được ăn mừng sự kiện này, nhưng Harry lại “quên” báo cho gia đình.
“Mẹ cháu đâu?” dì Anna hỏi. Giống mẹ Harry, giọng dì chẳng lộ chút âm sắc nào của tiếng mẹ đẻ, cho dù hồi họ còn nhỏ, bà Olga nhất quyết chỉ nói với hai cô con gái bằng tiếng Nga. Đến lúc lấy chồng, Anna có đám tốt hơn Katarina, chồng bà là con trai thứ của một bá tước. Chuyện này chẳng hề gây bất hòa gì giữa hai chị em; vì sau cùng thì ngài Lionel cũng là một tòng nam tước, điều đó có nghĩa là Katarina cũng được người ta gọi là “phu nhân”. Nhưng Anna có nhiều mối quen biết lớn và có của, và có lẽ quan trọng hơn cả là, bà có một người chồng hiếm khi uống đến ly vang thứ hai trong bữa tối. Không may ông mất cách đây hai năm.
Và do vậy khi Harry ấp úng gì đó trong miệng về chuyện mẹ mình hơi mệt thì Anna biết đích xác ý cậu muốn nói - rằng nếu mẹ cậu đến thì cha cậu cũng đi theo. Sau “buổi trình diễn” đầy ngoạn mục của cha cậu ở hội nghị tại trường năm 1807 thì Harry sợ không dám mời cha đến dự buổi lễ nào của trường nữa.
Ngài Lionel có khuynh hướng đánh mất âm r khi say, và Harry không chắc mình có thể sống sót sau một bài phát biểu “Ngôi tường tốt” nữa, nhất là khi cha cậu leo hẳn lên ghế phát biểu.
Harry đứng im như trời trồng một lúc.
Đoạn cậu cố kéo cha xuống, và lẽ ra cậu đã làm được rồi nếu mẹ cậu đang ngồi bên kia ngài Lionel giúp cậu một tay. Thế nhưng, mẹ chỉ nhìn thẳng về phía trước như mẹ vẫn luôn vậy trong những dịp thế này, tảng lờ như không nghe thấy gì. Chỉ có mình Harry kéo cha nghiêng về một bên khiến ông mất thăng bằng. Ông vừa la vừa ngã nhào xuống, đập mặt vào chiếc ghế đằng trước Harry.
Như người khác thì đã nổi điên lên rồi, nhưng ngài Lionel thì không. Ông chỉ nở một nụ cười ngờ nghệch, gọi Harry là “con tai tốt” rồi phun ra một cái răng.
Harry vẫn còn giữ cái răng đó. Và cậu không bao giờ để cha đặt chân đến trường lần nữa. Ngay cả khi điều đó có nghĩa rằng cậu là đứa duy nhất không có phụ huynh tham gia buổi lễ tốt nghiệp này.
Dì Anna một mực muốn đưa cậu về nhà và Harry thấy biết ơn dì. Cậu không thích có khách đến nhà, nhưng dì Anna và Sebastian đã biết tất cả những gì không nên biết về cha cậu rồi - ồ, hầu như tất thảy. Harry không hé môi một lời về một trăm hai sáu lần lau dọn chỗ nôn mửa cho cha. Hay vụ hư hại cái ấm samovar quý giá của bà ngoại dịp gần đây khi ngài Lionel vấp vào một cái ghế, nhảy tung một cú vào không trung - cú nhảy đẹp mắt không thể tin nổi - (có lẽ để giữ thăng bằng), rồi hạ cánh sấp bụng xuống tủ ly. Toàn bộ lớp men bên ngoài ấm bị tróc cả.
Ba đĩa trứng và một tảng thịt lợn muối xông khói cũng bị hỏng vào sáng hôm đó.
Bù lại, bọn chó săn chưa khi nào được chén no nê đến thế.
Học viện Hesslewhite được gia đình Valentine chọn bởi vì gần nhà, và do vậy sau chỉ chín mươi phút đi xe ngựa họ đã rẽ vào lối chạy xe, chỉ còn quãng ngắn này nữa là tới nhà.
“Cây cối năm nay chắc sẽ tốt um cho mà xem,” dì Anna nhận xét. “Chắc chắn mấy khóm hồng của mẹ cháu cũng sẽ ra hoa nhiều lắm.”
Harry hờ hững gật đầu, cố ước lượng thời gian. Vẫn còn xế chiều ấy chứ nhỉ, hay đã chạng vạng rồi? Nếu chạng vạng, cậu sẽ phải mời họ ở lại dùng bữa tối. Dù có thế nào cậu cũng phải mời hai mẹ con họ vào nhà; dì Anna cũng muốn chào chị gái mình chứ. Nhưng nếu giờ đang là xế chiều, họ sẽ chỉ ở lại dùng trà thôi, thế có nghĩa là họ có thể vào rồi về mà không gặp cha cậu.
Ăn tối lại là chuyện khác. Ngài Lionel nhất nhất phải ăn mặc trang trọng vào bữa tối. Theo ông, ăn mặc trang trọng mới thể hiện được phong thái của một quý ông. Và cho dù bữa tối ít người đến cỡ nào (chỉ có ngài Lionel, phu nhân Valentine và bất kỳ người con nào có mặt ở nhà, mà mười bữa thì tới chín bữa rưỡi như thế), ông cũng thích đóng vai chủ nhà. Thế thường có nghĩa là kể chuyện nhiều và nói nhiều bon mot (tức lời lẽ hoa mỹ), nhưng ngài Lionel thường hay quên đoạn giữa câu chuyện, và “mot” của ông thì chẳng lấy gì làm “bon” cả.
Nghĩa đó lại dẫn tới nghĩa nữa là những người còn lại bên bàn ăn đành phải chìm trong im lặng bức bối, suốt bữa giả vờ như không thấy bát nước xốt bị đổ, hay ngài Lionel rót thêm rượu vào ly.
Cứ như thế.
Và cứ như thế.
Và rồi, đương nhiên, cứ như thế.
Không ai từng mở miệng bảo ông ngừng lại. Có ích gì đâu chứ? Ngài Lionel cũng biết mình uống quá nhiều rượu. Harry đã không còn nhớ nổi số lần cha quay sang cậu mà nức nở, “Cha xin lỗi, con tai, cha xin lỗi, con tai. Cha không cố ý gây phiền cho con. Con là con tai ngoan, Harry.”
Nhưng rồi chuyện đâu lại vào đấy, chẳng bao giờ khác đi được. Cho dù điều gì lôi kéo ngài Lionel tìm đến con ma men đi nữa thì nó cũng mạnh hơn gấp bội cảm giác tội lỗi hay hối hận mà ông bấu víu lấy để thoát ra khỏi rượu. Ngài Lionel không phủ nhận chuyện mình đã khổ sở đến thế nào. Tuy thế ông hoàn toàn bất lực, không thể làm gì được chứng nghiện rượu.
Cậu cũng chẳng hơn gì. Chỉ thiếu nước cột cha vào giường là cậu chưa đang tâm làm thôi. Do vậy cậu không bao giờ mời bạn bè về nhà, tránh ở nhà vào bữa tối, và vì rằng đã tốt nghiệp phổ thông nên cậu đếm từng ngày để bắt đầu đi học đại học.
Nhưng trước hết cậu phải làm sao để có thể được yên ổn trong mùa hè này cái đã. Cậu nhảy xuống xe ngựa rồi đỡ dì Anna xuống khi họ dừng trên lối chạy xe trước nhà. Sebastian xuống theo rồi cả ba người đi vào phòng khách, nơi Katarina đang ngồi thêu.
“Anna!” bà thốt lên, trông như thể bà sắp đứng dậy (nhưng hoàn toàn không hề). “Ngạc nhiên chưa!”
Anna khom người ôm chị rồi ngồi xuống ghế phía đối diện. “Em tiện thể đưa Harry về nhà.”
“Ồ, tốt nghiệp rồi à con?” Katarina lẩm bẩm.
Harry cười gượng gạo. Cậu tin rằng mình đáng bị mẹ hờ hững như thế vì đã không báo cho mẹ ngày trường tổ chức lễ tốt nghiệp, nhưng chẳng phải làm mẹ thì không nên chấp nhặt mấy chuyện cỏn con đó hay sao?
“Sebastian,” Katarina quay sang đứa cháu trai. “Con lớn quá nhỉ!”
“Bình thường thôi mà bác,” Sebastian nói với bác bằng giọng tưng tửng và điệu cười nhếch môi thường thấy.
“Ôi chao,” bà cười cười, “chẳng mấy nữa mà con khiến đám con gái chết mê chết mệt mất thôi.”
Harry gần như trố mắt lên vì kinh ngạc. Sebastian đã chinh phục gần như tất thảy bọn con gái trong ngôi làng gần trường Hesslewhite. Hẳn là người cậu ta tỏa ra mùi hương gì đấy vì cô nàng nào cũng gục ngã dưới chân cậu ta.
Thế thật là khó chịu, ngoại trừ việc các cô nàng đó không thể khiêu vũ với Sebastian cùng một lúc được. Và Harry vô cùng sung sướng khi là người đứng gần bên Sebastian nhất “hưởng” những cô nàng không chen được vào khiêu vũ cùng với Sebastian.
“Sẽ không có thời gian cho chuyện đó đâu,” dì Anna vội nói. “Em đã mua một bằng phong cấp sĩ quan cho cu cậu rồi. Một tháng nữa là lên đường.”
“Con vào quân đội à?” Katarina ngạc nhiên quay sang đứa cháu. “Oai nhỉ.”
Sebastian nhún vai.
“Mẹ chắc chắn phải biết rồi chứ,” Harry bảo. Tương lai của Sebastian đã được quyết định từ nhiều tháng trước. Dì Anna luôn canh cánh chuyện con trai cần được tiếp nhận ảnh hưởng mạnh mẽ nam tính từ khi cha cậu ta mất. Và vì Sebastian có thể không có được tước hiệu hay của cải gì, nên ai cũng cho rằng cậu ta cần phải tìm con đường tiến thân cho riêng mình.
Không một ai, ngay cả mẹ Sebastian - người luôn nghĩ con trai mình là cái rốn của vũ trụ - gợi ý cậu ta xem xét giới tăng lữ.
Sebastian không hào hứng lắm về viễn cảnh chiến tranh với Napoleon trong chừng mười năm tới, nhưng như cậu ta vẫn thường nói với Harry - cậu ta có thể làm gì khác hơn? Bác cậu ta, bá tước xứ Newbury, ghét cay ghét đắng cậu ta và thẳng thừng rằng Sebastian đừng có hòng nhận được lộc lá, tiền bạc hay bất cứ thứ gì từ ông.
“Có thể ông ta sẽ chết,” Harry dè dặt nói bằng tất cả sự nhạy cảm và khéo léo của đứa con trai mười chín tuổi.
Nhưng rồi, thật khó có thể làm Sebastian mủi lòng, nhất là khi liên quan đến ông bác. Hoặc đứa con trai duy nhất của ông ta, người thừa tự xứ Newbury. “Ông anh họ đó thậm chí còn tệ hơn nữa,” Sebastian đáp. “Ở London anh ta luôn cố làm ra vẻ không hề biết em là thằng nào giữa đám đông.”
Harry cau mày kinh ngạc khi nghe điều đó. Anh ta làm thế nghĩa là khinh ghét người nhà mình, cũng như cố gắng làm bẽ mặt người ta trước mặt bao nhiêu người. “Thế chú đã làm gì?”
Sebastian cong môi thành một nụ cười trễ nải. “Ve vãn đứa con gái mà thằng cha đó muốn cưới chứ sao nữa.”
Harry nhìn đứa em họ với vẻ như chẳng tin một tẹo nào điều cậu ta vừa thốt ra.
“Ồ,” Sebastian bớt gay gắt, “em còn ve vãn cả đứa con gái làm ở quán rượu mà gã đang để mắt đến nữa.”
“Còn cô gái gã muốn cưới đó thì sao?”
“Có còn muốn cưới gã nữa đâu mà!” Sebastian cười rũ.
“Ôi trời, Seb, chú đã làm gì thế?”
“Ồ, chẳng có gì lâu dài cả. Em không dại gì mà đi làm tổn thương con gái một bá tước đâu. Em chỉ phỉnh phờ chút để cô nàng tưởng mình là nhất trên đời thôi.”
Nhưng như mẹ cậu ta nói, Sebastian sẽ không có nhiều cơ may cho bất kỳ chuyện ái tình nhăng nhít nào, cuộc sống trong quân đội đang chờ cậu ta không cho phép làm chuyện đó. Harry đã cố không nghĩ về chuyến đi sắp tới của cậu em họ; Seb là người duy nhất trên đời này cậu tin tưởng, hoàn toàn và tuyệt đối.
Cậu ta là người duy nhất chưa từng khiến Harry buồn phiền hay thất vọng.
Chuyện như vậy cũng là lẽ đương nhiên không có gì khó hiểu cả. Sebastian không phải đứa kém thông minh - thực ra còn hoàn toàn ngược lại - nhưng cậu ta không phù hợp với con đường học hành. Quân đội là chọn lựa tốt hơn nhiều cho cậu ta. Nhưng dẫu vậy, khi Harry ngồi đó nơi phòng khách, thấy bức bối trong chiếc ghế Ai Cập quá nhỏ so với người cậu, cậu không khỏi cảm thấy chút tủi phận. Và cả ích kỷ nữa. Cậu muốn Sebastian đi học đại học cùng cậu hơn, kể cả nếu đó chẳng phải là điều tốt nhất cho Sebastian.
“Con sẽ mặc quân phục màu gì nhỉ?” bà Katarina hỏi.
“Xanh sẫm, con đoán thế,” Sebastian trả lời giọng lễ độ.
“Ồ, con mặc màu xanh trông sẽ rất bảnh đấy. Em nghĩ thế không, Anna?”
Anna gật đầu đồng tình, và Katarina nói thêm, “Con cũng thế đi Harry nhỉ. Có lẽ chúng ta cũng nên mua cho con một bằng phong cấp sĩ quan.”
Harry chớp mắt kinh ngạc. Quân đội chưa bao giờ là đề tài được đề cập khi bàn đến tương lai của cậu. Cậu là con trai trưởng, dứt khoát sẽ thừa kế ngôi nhà, tước tòng nam, và bất kỳ món tiền nào cha cậu chưa nướng hết vào rượu trước khi ông mất. Dù thế nào cũng không được đưa cậu tới chỗ nguy hiểm.
Và thêm nữa, cậu là một trong số ít học sinh tại trường Hesslewhite thực sự ham học. Cậu được bạn bè gán cho biệt danh “giáo sư” và cậu thấy không phiền gì cả. Mẹ cậu đang nghĩ đi đâu thế? Mẹ có hiểu cậu không? Có phải mẹ bảo cậu gia nhập quân đội là để nâng cao hiểu biết của cậu về thời trang không?
“Ấy, anh Harry đâu thể làm lính tráng được,” Sebastian nói giọng châm chọc. “Địch ở ngay trước mũi anh ấy còn không bắn trúng ấy chứ.”
“Không đúng,” Harry cãi lại. “Con không giỏi bằng chú ấy,” cậu hất đầu về phía Seb, “nhưng hơn bất kỳ đứa nào khác.”
“Vậy con bắn cừ lắm à, Sebastian?” Katarina hỏi.
“Số một.”
“Chú ấy cũng khiêm tốn cực kỳ nữa,” Harry lầm bầm. Nhưng đúng thế thật. Sebastian là một tay súng cự phách, và quân đội sẽ mừng rơn vì có được cậu ta, miễn là họ có thể giữ không cho cậu ta tán tỉnh cả Bồ Đào Nha.
Đúng ra là một nửa. Nửa toàn phụ nữ.
“Con cũng nên gia nhập quân ngũ đi nhỉ?” Katarina gợi ý.
Harry quay sang mẹ, cố đọc nét mặt mẹ, cố đọc vị mẹ. Bà luôn vô tâm đến phát bực, như thể năm tháng trôi qua dần dần quét sạch đi khả năng thấu hiểu của bà. Bà không hề có một ý kiến gì, bà mẹ cậu. Bà cứ để cuộc sống trôi cuồn cuộn xung quanh, và cứ ngồi thế để mặc mọi thứ, như thể bà không để tâm đến bất kỳ điều gì.
“Mẹ nghĩ con sẽ thích quân đội,” bà nói giản dị, và cậu nghĩ - Liệu đã bao giờ bà đưa ra lời tuyên bố như vậy chưa nhỉ? Có bao giờ bà đưa ra ý kiến về tương lai của cậu, về cuộc sống của cậu chưa?
Có phải bà vẫn đợi đến lúc thích hợp?
Mẹ cậu cười như cách bà vẫn thường cười - kèm theo một tiếng thở dài khẽ khàng, như thể cố gắng ấy là quá nhiều. “Con mặc màu xanh trông sẽ rất tuyệt đấy.” Và rồi bà quay sang Anna. “Em nghĩ vậy không?”
Harry mở miệng định nói - à, định nói gì đấy. Ngay khi cậu nghĩ ra mình cần nói gì. Cậu không hề có kế hoạch tham gia quân đội. Cậu sẽ đi học đại học. Cậu đã kiếm được một suất tại đại học Pembroke ở Oxford. Cậu nghĩ cậu sẽ học tiếng Nga. Cậu không còn dùng ngôn ngữ này mấy từ khi bà ngoại mất. Mẹ cậu có nói nhưng hai mẹ con nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh còn hiếm, nói chi đến tiếng Nga.
Khỉ thật, nhưng Harry thấy nhớ bà ngoại. Bà ngoại không phải lúc nào cũng đúng, thậm chí không phải lúc nào bà cũng dễ chịu, nhưng bà thú vị. Và bà yêu cậu.
Bà sẽ muốn cậu làm gì nhỉ? Harry không chắc nữa. Hẳn bà sẽ ủng hộ chuyện Harry tiếp tục học lên đại học nếu thế có nghĩa là cậu sẽ suốt ngày vùi đầu vào văn chương Nga. Nhưng đồng thời bà cũng đánh giá rất cao quân đội và luôn công khai bới móc cha Harry về chuyện ông chưa bao giờ làm gì phục vụ cho đất nước.
Đương nhiên, bà cũng công khai mai mỉa cha Harry vì nhiều chuyện khác nữa.
“Con nên cân nhắc chuyện này, Harry à,” dì Anna nói rành rọt từng tiếng. “Dì tin chắc là Sebastian sẽ rất sung sướng nếu có con cùng đi.”
Harry lia ánh mắt cầu cứu sang Sebastian. Chắc chắn cậu ta hiểu được nỗi khổ tâm của Harry. Họ đang nghĩ gì nhỉ? Rằng cậu có thể đưa ra một quyết định lớn như thế vào bữa trà ư? Rằng cậu có thể vừa cắn bánh quy vừa nghĩ về chuyện đó một chốc lát rồi quyết định rằng dạ vâng, màu xanh sẫm là màu tuyệt đẹp dành cho đồng phục hay sao.
Nhưng Sebastian chỉ nhún nhẹ một bên vai, như muốn nói: Em có thể nói gì chứ? Thế giới này là một chốn ngớ ngẩn mà.
Mẹ Harry đưa tách trà lên môi, nếu dựa vào độ nghiêng của tách thì không thể biết được bà có nhấp ngụm nào không. Và rồi, vừa đặt chiếc cốc xuống đĩa bà vừa nhắm mắt lại.
Thật ra đó chỉ là một cái chớp mắt, lâu hơn một chút so với cái chớp mắt thông thường, nhưng Harry hiểu thế có nghĩa là gì. Bà vừa nghe thấy tiếng bước chân. Bước chân của cha cậu. Bà luôn nghe thấy tiếng chồng về trước tất thảy những người khác. Có lẽ nhờ vào nhiều năm cùng chung sống trong một mái nhà, hay nói đúng hơn là cùng chung một thế giới, mà thói quen ấy được hình thành. Ở bà, khả năng tự lừa dối mình rằng cuộc sống của mình không như nó vốn vậy phát triển song hành cùng với khả năng biết được nơi nào có mặt chồng tại bất cứ thời điểm nào.
Thật quá dễ dàng lờ đi những gì người khác thực sự không trông thấy.
“Anna!” ngài Lionel kêu lên khi vừa xuất hiện, xiêu vẹo dựa người vào khung cửa. “Cả Sebastian nữa. Ngạc nhiên chưa. Con thế nào rồi, nhóc?”
Harry quan sát cha lúc ông bước vào phòng. Thật khó mà nói được cha cậu đã say đến mức nào rồi. Ông chưa đến mức đi đứng loạng choạng, song nhìn hai cánh tay ông vung vẩy thì Harry không thấy vừa mắt cho được.
“Vui mừng gặp lại con, Harry,” ngài Lionel nói, phát nhẹ vào cánh tay Harry trước khi tiến đến chỗ chiếc tủ kệ. “Tốt nghiệp rồi phải không con?”
“Vâng, thưa cha,” Harry đáp.
Ngài Lionel rót gì đó vào một cái ly - Harry đứng xa quá không nhìn rõ đó là gì - rồi quay sang Sebastian cười nhăn nhở. “Con bao nhiêu tuổi rồi ấy nhỉ, Sebastian?” ông hỏi.
“Mười chín, thưa bác.”
Bằng tuổi Harry. Hai người chỉ cách nhau một tháng. Cậu ta luôn giống như Harry.
“Em đãi cháu nó trà đấy à, Katy?” ngài Lionel hỏi vợ. “Em đang nghĩ sao thế? Nó ra dáng đàn ông rồi mà.”
“Trà là thích hợp rồi, cha,” Harry gay gắt.
Ngài Lionel quay sang cậu chớp mắt vẻ kinh ngạc, như thể ông đã quên có cậu ở đó. “Harry, vui mừng gặp lại con.”
Harry mím chặt môi, rồi bặm lại. “Rất vui gặp lại cha.”
Ngài Lionel nốc một ngụm rượu lớn. “Học xong rồi hả con?”
Harry gật đầu, đáp chiếu lệ, “Vâng, thưa cha.”
Ngài Lionel chau mày, rồi lại uống tiếp. “Con tốt nghiệp rồi. Nhỉ? Ta nhận được giấy báo của trường Pembroke báo con đã trúng tuyển đại học.” Ông lại chau mày, rồi nháy mắt vài cái, rồi so vai. “Chẳng biết con đã đăng ký đấy.” Và rồi, vớt vát thêm, “Cừ lắm.”
“Con sẽ không đi.”
Những lời nói đó bật ra khỏi miệng Harry khiến cậu không khỏi ngạc nhiên. Cậu đang nói gì thế không biết? Đương nhiên là cậu sẽ tới Pembroke học. Đó chính là điều cậu mong muốn. Điều cậu luôn mong muốn. Cậu thích đi học. Cậu thích sách vở. Cậu thích những con số. Cậu thích ngồi trong thư viện, ngay cả khi bên ngoài mặt trời chiếu sáng rực rỡ và Sebastian cố kéo cậu ra ngoài chơi bóng bầu dục cho bằng được. (Sebastian luôn thắng trong cuộc chiến này; ở miền Nam nước Anh hiếm khi có mặt trời chiếu sáng, những ngày nắng lên ai cũng muốn ra ngoài bất kỳ khi nào có thể. Đó là chưa kể đến chuyện Sebastian là một người cực kỳ giỏi thuyết phục, về tất cả mọi thứ.)
Không có một đứa con trai nào ở Anh thích hợp với môi trường đại học bằng Harry. Thế nhưng... “Con sẽ nhập ngũ.”
Lại một lần nữa những lời được thốt ra nằm ngoài tầm kiểm soát của cậu, có gì đó như vô thức. Harry tự hỏi cậu đang nói cái gì thế. Cậu tự hỏi tại sao cậu lại nói như vậy.
“Cùng với Sebastian hả?” Anna hỏi.
Harry gật đầu. “Phải có ai đó đảm bảo chú ấy không để mình bị kết liễu chứ.”
Sebastian ném sang cậu tia nhìn lạnh lùng vì bị rỉa rói, nhưng rõ ràng cậu ta hài lòng với diễn tiến sự việc đến nỗi không thèm trả miếng. Cậu ta luôn có thái độ nước đôi về việc gia nhập quân đội; Harry biết cậu ta thấy nhẹ cả người khi có người anh họ đi cùng dù vẻ ngoài luôn gồng lên có cố tỏ ra can đảm.
“Con không thể ra chiến trận được,” ngài Lionel nói. “Con là người thừa kế nhà ta cơ mà.”
Ai nấy trong phòng - cả bốn người - đều quay sang nhìn tòng nam tước với vẻ ngạc nhiên ở mức độ khác nhau. Có lẽ đây là câu nói đúng đắn duy nhất được thốt ra từ miệng ông trong suốt nhiều năm nay.
“Cha còn có em Edward,” Harry nói thẳng.
Ngài Lionel uống tiếp, chớp mắt, và so vai. “À, đúng thế thật.”
Đó là điều trong chừng mực nào đó Harry đã đoán biết được, tuy thế từ sâu đáy lòng cậu vẫn cảm thấy dậy lên một nỗi thất vọng. Và cả oán giận.
Và đau lòng.
“Chúc mừng Harry!” ngài Lionel nói giọng hân hoan, nâng ly lên. Hình như ông không để ý thấy rằng không một ai hưởng ứng mình cả. “Chúc may mắn, con tai.” Ông nghiêng ly đổ rượu vào miệng thì mới biết mình chưa rót lại vào cái cốc đã cạn sạch. “Mẹ kiếp,” ông làu bàu. “Chẳng ra làm sao cả.”
Harry có cảm giác như thân mình sụp xuống ghế. Nhưng đồng thời chân cậu bắt đầu ngứa ngáy như thể chúng muốn lao bổ về phía trước. Để tháo chạy.
“Khi nào con đi?” ngài Lionel vừa hỏi vừa hồ hởi rót rượu vào ly.
Harry nhìn Sebastian và cậu ta ngay lập tức lên tiếng, “Cháu phải báo cáo vào tuần tới.”
“Thế nên con cũng vậy,” Harry nói với cha. “Dĩ nhiên con phải có tiền để mua bằng phong cấp sĩ quan.”
“Hẳn vậy rồi,” ngài Lionel theo bản năng đáp lại mà không cần suy nghĩ trước kiểu nói mệnh lệnh của Harry. “Được.” Ông nhìn xuống chân mình rồi đưa mắt sang vợ.
Bà đang nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ.
“Rất vui gặp tất cả mọi người,” ngài Lionel nói. Ông dằn mạnh chiếc ly xuống rồi thong thả đi ra cửa, chân chỉ loạng choạng đúng một lần duy nhất.
Harry nhìn cha chằm chằm khi ông rời khỏi phòng, cảm thấy mình như bị tách ra khỏi cảnh tượng này một cách lạ lùng. Đương nhiên cậu đã hình dung ra chuyện này trước đó rồi. Không phải gia nhập quân đội, mà là ra khỏi nhà. Cậu luôn nghĩ rằng cậu sẽ đến trường đại học theo kiểu thông thường, thu dọn đồ đạc lên chiếc xe ngựa của nhà rồi đi. Thế nhưng cậu vẫn thích tưởng tượng ra một cuộc ra đi với đủ mọi kịch tính - mọi thứ từ khoa tay múa chân loạn xạ đến những ánh nhìn chăm chăm lạnh như băng. Những cảnh cậu thích đều liên quan tới ném chai vào tường. Những chai rượu đắt tiền. Những chai rượu nhập lậu từ Pháp. Liệu cha cậu có còn tiếp tục ủng hộ bè lũ Phú Lang Sa bằng việc mua bán bất hợp pháp ấy khi mà giờ đây con trai ông sắp đương đầu với chúng ngoài chiến trường không?
Harry nhìn trân trân ra lối cửa đá khuất dáng cha. Không vấn đề gì, phải không? Ở đây cậu tròn trách nhiệm rồi. Cậu tròn trách nhiệm rồi.
Với nơi này, với gia đình này, với tất thảy những đêm dìu cha vào giường, cẩn thận đặt ông nằm nghiêng để nếu ông lại nôn nữa thì ít nhất ông cũng không bị sặc vì chỗ nôn đó.
Cậu đã tròn trách nhiệm.
Tròn trách nhiệm.
Nhưng cậu có cảm giác thế này thật trống rỗng, thật vắng lặng. Chuyến ra đi của cậu được đánh dấu bởi... không gì cả.
Và phải mất nhiều năm sau đó cậu mới nhận ra rằng mình đã bị lừa.
“Nghe đâu anh ta giết cô vợ cả đấy”
Bao nhiêu đó cũng đủ để tiểu thư Olivia Bevelstoke đang khuấy trà ngừng phắt tay lại. “Ai cơ?” nàng hỏi, vì quả thật từ lúc nãy đến giờ nàng không hề lắng nghe.
“Ngài Harry Valentine chứ ai.Hàng xóm mới của cậu đó.”
Olivia trân trân nhìn Anne Buxton, rồi chuyển ánh nhìn sang Mary Cadogan, cô này gật đầu khẳng định chuyện đó là đúng. “Các cậu đùa đấy à,” nàng nói mặc dù biết rõ rằng Anne sẽ không bao giờ đùa chuyện như thế. Và ngồi lê đôi mách đã nhiễm vào máu thịt của cô.
“Đùa đâu mà đùa, anh ta đúng là hàng xóm mới của cậu còn gì,” Philomena Waincliff xen vào.
Olivia nhấp một ngụm trà cốt để có thời gian che giấu suy nghĩ thật sau nét mặt đan xen giữa bực mình và nghi hoặc. “Ý tớ là cậu ấy đùa về chuyện anh ta giết người ấy,” nàng nói, giọng nhẫn nại không giống nàng chút nào.
“Ra vậy,” Philomena nhón một miếng bánh quy.”Xin lỗi nhé.”
“Chính tai tớ nghe người ta nói anh ta giết vợ sắp cưới mà,” Anne khăng khăng.
“Nếu anh ta giết người thì phải vào tù rồi chứ,” Olivia cãi lại.
“Nếu không có chứng cớ thì đâu có bắt anh ta vào tù được.”
Olivia chầm chậm đưa mắt về phía bên trái, xuyên qua bức tường đá dày chắc, chừng ba mét đất lồng lộng gió xuân rồi một bức tường gạch dày nữa, là ngôi nhà ngài Harry Valentine mới thuê nằm ngay phía Nam nhà nàng.
Ba cô bạn nhìn theo hướng nàng nhìn, khiến Olivia thấy thật xuẩn ngốc, vì giờ cả bọn họ đang nhìn chăm chăm vào khoảng không trống trơn nơi bức tường phòng khách. “Anh ta chẳng giết ai cả,” nàng nói giọng chắc nịch.
“Sao cậu biết?”Anne vặn lại.
Mary gật đầu hùa theo.
“Vì anh ta không giết, thế thôi,” Olivia nói.”Anh ta sẽ không sống ngay cạnh nhà mình ở Mayfair thế này nếu đã giết người.”
“Nếu không có chứng cớ thì đâu có bắt anh ta vào tù được,” Anne lặp lại câu nói lúc nãy.
Mary gật đầu hùa theo.
Philomena nhón thêm một chiếc bánh nữa.
Olivia khẽ cong môi. Cong môi chứ không phải bĩu môi, nàng hy vọng thế. Để không lộ vẻ khó chịu. Giờ đã bốn giờ chiều. Ba cô bạn đã ở đây được một giờ đồng hồ rồi, tán hết chuyện này sang chuyện khác, bới móc hết chuyện người này đến chuyện người kia (đương nhiên rồi), và bàn luận về việc chọn váy cho ba buổi tiệc quan trọng sắp tới. Họ thường xuyên gặp nhau như thế này, chừng mỗi tuần một lần, và Olivia thích tụ tập với mấy cô bạn của mình, ngay cả khi những cuộc nói chuyện không thú vị như khi có người bạn thân nhất của nàng là Miranda, họ hồi con gái là Chcever, giờ đã là Bevclstoke.
Đúng vậy, Miranda đã bỏ cuộc chơi để theo chồng là anh trai của Olivia. Đây là một điều tốt đẹp.Một điều tuyệt vời. Họ đã là bạn bè với nhau từ thuở còn nằm trong nôi, và giờ họ sẽ là chị em cho đến khi nằm xuống đất. Nhưng điều đó cũng có nghĩa Miranda không còn là gái chưa chồng nữa, cô sẽ không phải làm những điều mà một cô gái chưa chồng phải làm.
Những điều cô gái chưa chồng phải làm
Olivia Bevelstoke, chưa chồng.
Mặc đồ màu nhã
(và nên vui đi nếu ta sở hữu một làn da hợp với những tông màu đó)
Hãy mỉm cười và giữ ý kiến cho riêng mình
(gắng làm thành công nhất có thể)
Hãy làm những điều cha mẹ bảo.
Chấp nhận hậu quả khi làm trái lời cha mẹ.
Hãy tìm một người chồng không khiến ta phải khó chịu vì cứ bảo ta phải làm theo ý anh ta.
Việc Olivia khắc cốt ghi tâm những điều lạ lùng đó không phải là chuyện bất thường. Điều đó có thể lý giải tại sao nàng thường xuyên bắt gặp mình không lắng nghe khi mà nàng cần phải làm thế.
Và có lẽ còn giải thích tại sao một đôi lần nàng nói những điều mà thực sự nàng chỉ nên giữ cho riêng mình biết. Mặc dù công bằng mà nói, cũng đã hai năm trôi qua kể từ khi nàng gọi ngài Robert Kent là chồn ecmin lớn quá khổ, và cũng thành thực mà nói, đó là cụm từ nhẹ nhàng nhất trong số những cụm từ nàng nghĩ trong đầu.
Quay trở lại chuyện chính, Miranda giờ phải làm những việc phụ nữ có chồng cần làm, và Olivia muốn soạn ra một danh sách những việc đó, trừ chuyện không một ai (ngay cả Miranda, và Olivia vẫn chưa tha thứ cho chị dâu về chuyện này) chịu cho nàng biết những điều phụ nữ có chồng làm, ngoại trừ không phải mặc đồ màu nhã, không cần phải có người đi kèm bất kỳ khi nào ra ngoài, và sinh con với khoảng cách sinh hợp lý.
Olivia chắc mẩm rằng điều cuối cùng chính là cái khó nói nhất nên cứ mỗi lần nàng hỏi đến là mẹ nàng lại lảng ra khỏi phòng.
Trở lại với chuyện về Miranda. Cô đã hạ sinh một bé gái - cháu gái Caroline đáng yêu của Olivia, vì con bé nàng sẵn lòng lao vào chốn hang hùm miệng cọp - và giờ sắp sửa cho ra đời một em bé nữa, thế có nghĩa là cô không còn rảnh rỗi để chiều chiều ngồi tán chuyện. Và vì Olivia thích nói chuyện phiếm -và cả thời trang cũng như ngồi lê đôi mách - nàng thấy mình ngày càng dành nhiều thời gian với Anne, Mary và Philomena. Dù ba cô là những người bạn thú vị và không bao giờ có ác ý gì, nhưng nhiều khi họ thật ngờ nghệch.
Như ngay lúc này đây.
“Vậy người ta là ai?” Olivia hỏi.
“Người ta á?” Anne hỏi lại.
“Ừ, người ta. Người bảo hàng xóm của tớ giết hôn thê của anh ta ấy.”
Anne khựng lại. Cô nhìn Mary.” Cậu nhớ không?”
Mary lắc đầu. “Không nhớ lắm. Hình như Sarah Forsythe hay sao ấy.”
“Không phải,” Philomena xen vào, lắc đầu quầy quậy.”Không phải Sarah đâu. Cậu ấy mới từ Bath về cách đây hai ngày thôi mà. Libby Lockwood phải không nhỉ?”
“Không phải Libby đâu,” Anne nói. “Nếu là Libby thì tớ phải nhớ chứ.”
“Thế tớ mới hỏi,” Olivia xen vào. “Các cậu không nhớ được ai nói chuyện này. Chẳng ai nhớ được.”
“Ô, tớ không bịa ra đâu,” Anne vẫn vớt vát.
“Tớ đâu có nói cậu bịa. Tớ không bao giờ nghĩ rằng cậu bịa bất kỳ chuyện gì. Đúng như thế. Anne kể lại hầu như bất kỳ điều gì cô nghe thấy được từ người khác, nhưng cô không bao giờ bịa chuyện.” Olivia ngừng nói, tập trung tư tưởng. “Các cậu có nghĩ rằng đó chỉ là một kiểu đồn đại mà ta cần xác minh không?”
Ba cô kia xoay sang nhìn nàng chăm chăm dò hỏi.
Olivia đổi chiến thuật. “Nếu vì chính sự an toàn của các cậu. Nếu chuyện như thế là sự thật...”
“Như vậy cậu cũng nghĩ là thật rồi hả?” Anne hỏi bằng giọng hơi áp đặt.
“Không.” Chúa ơi. “Tớ không nghĩ thế. Nhưng nếu chuyện đúng là thế thì anh ta dứt khoát không phải là người mà bọn mình muốn giao du.”
Không ai nói thêm gì một lúc lâu cho đến khi rốt cuộc Philomena phá vỡ im lặng: “Mẹ tớ đã bảo tớ nên tránh xa anh ta ra.”
“Đó là lý do tại sao tớ nên xác minh tin đồn đó.” Oliviatiếp tục, khó nhọc như đang lội qua một vũng bùn. “Bởi vì nếu chuyện này không đúng...”
“Anh ta rất đẹp trai,” Mary ngắt lời. Và nói thêm “Phải nói là anh ta rất đẹp trai.”
Olivia chớp mắt, cố nghe kịp.
“Tớ chưa bao giờ trông thấy anh ta,” Philomena nói.
“Anh ta mặc toàn đồ đen,” Mary nói, giọng điệu ra chiều vừa tiết lộ một bí mật chưa ai biết.
“Tớ thấy anh ta mặc đồ xanh sẫm mà,” Anne cãi lại.
“Anh ta chỉ mặc những màu tối thôi,” Mary sửa lại, ném sang Anne một tia nhìn cáu kỉnh. “Và mắt anh ta nữa chứ - ôi chúng có thể thiêu cháy các cậu được đấy.”
“Mắt anh ta màu gì?” Olivia hỏi, mường tượng đủ thứ màu vui mắt - đỏ, vàng, cam...
“Xanh da trời.”
“Xám chứ,” Anne nói.
“Xanh xám. Nhưng nhìn lạnh kinh lên được.”
Anne gật đầu, không phản đối ý kiến này.
“Thế tóc anh ta màu gì?” Olivia hỏi. Chắc chắn đây là đặc điểm được ngắm nghía kỹ càng.
“Nâu sẫm,” hai cô gái đồng thanh trả lời.
“Sẫm như tóc tớ không?” Philomena vừa hỏi vừa chạm tay lên mái tóc.
“Sẫm hơn,” Mary nói.
“Nhưng không phải đen,” Anne nói thêm. “Không hề đen.”
“Và anh ta cũng cao nữa,” Mary nói.
“Những người đẹp trai thì luôn thế mà,” Olivia lẩm bẩm.
“Nhưng không quá cao đâu,” Mary nói tiếp. “Tớ không thích mấy ông cao lêu nghêu.”
“Chắc chắn cậu đã trông thấy anh ta,” Anne nói với Olivia, “anh ta sống sát cạnh nhà cậu còn gì.”
“Tớ không nghĩ là đã trông thấy anh ta,” Olivia lẩm bẩm. “Anh ta mới thuê nhà đầu tháng, mà tớ thì dự tiệc nhà Macclesfield suốt tuần đó.”
“Cậu về London lúc nào?”Anne hỏi.
“Sáu ngày trước,” Olivia đáp, rồi vội quay sang chủ đề cả đám đang bàn tán: “Tớ thậm chí còn chả biết có một anh chàng chưa vợ đang sống nơi này nữa là.” Nói xong thì nàng mới nhận ra hàm nghĩa nếu nàng biết chuyện sớm hơn thì nàng đã cố tìm hiểu nhiều về anh ta rồi.
Điều này có thể đúng nhưng nàng sẽ không thừa nhận. “Các cậu có biết tớ nghe được gì không?” Philomena đột nhiên hỏi. “Anh ta đã đánh Julian Prentice.”
“Cái gì?” Cả ba người còn lại đồng thanh hét lớn.
“Cậu chỉ nghe hơi nồi chõ thôi chứ gì?” Anne thêm vào giọng không một chút tin tưởng.
Philomena gạt đi. “Anh tớ bảo thế. Anh ấy và Julian là bạn chí cốt mà.”
“Cụ thể ra làm sao?” Mary hỏi.
“Tớ không rõ lắm,” Philomena thừa nhận. “Robert chỉ nhớ mang máng thôi.”
“Đàn ông chả bao giờ nhớ được tường tận cả,” Olivia nói, nghĩ về người em song sinh của mình, Winston. Cậu ấy chẳng có ích gì trong những chuyện ngồi lê đôi mách thế này cả, không chút nào.
Philomena gật đầu đồng tình. “Lúc về Robert trông chán đời lắm. Hơi... ờ... nhếch nhác.”
Cả bọn gật đầu. Bởi ai cũng có anh trai.
“Anh ấy gần như không đứng thẳng được nữa,” Philomena tiếp tục. “Người thì bốc mùi um lên.” Cô phẩy phẩy tay trước mũi. “Tớ phải giúp anh ấy đi qua phòng khách làm sao để mẹ khỏi trông thấy đấy.”
“Vậy giờ anh ấy mắc nợ cậu rồi,” Olivia nói, song vẫn luôn trầm ngâm nghĩ ngợi.
Philomena gật đầu. “Rõ ràng là họ đã đi chơi đâu đó và làm bất kỳ chuyện gì cánh đàn ông hay làm, và Julian đã hơi...ờ...”
“Say bét nhè?” Anne xen vào.
“Lúc nào mà anh ta chẳng thế,” Olivia thêm vào.
“Ừ. Thế thì lúc về mới thảm thế chứ.” Philomena ngừng lời, cặp chân mày chau lại như đang cân nhắc điều gì - nhưng rồi cô thôi chau mày ngay và tiếp tục, “Anh ấy nói Julian chả làm gì quá đáng cả, thế mà cái ngài Harry đó đi đánh người ta phải gọi là tay đi đường tay chân đi đường chân.”
“Có đổ máu không?” Olivia hỏi.
“Olivia!” Mary quở trách.
“Hỏi thế thì sao nào?”
“Tớ chẳng biết có máu me gì không nữa,” Philomena nói cho qua chuyện.
“Tớ nghĩ là có đấy,” Olivia trầm ngâm. “Tay đi đương tay chân đi đường chân cơ mà.”
Chân tay là bộ phận ít quan trọng nhất đối với mình theo thứ tự từ trên xuống.
Olivia Bevelstoke
(lúc này chân tay vẫn còn nguyên)
Không, quên điều đó đi. Nàng ngọ nguậy mấy ngón chân trong đôi dép đi trong nhà, cố giữ vẻ điềm nhiên.
“Anh ta bị bầm đen một bên mắt” Philomena tiếp tục. “Ngài Harry á?” Anne hỏi.
“Julian Prentice chứ. Ngài Harry có bị bầm mắt không thì tớ chịu. Tớ có bao giờ thấy anh ta đâu.”
“Hôm kia tớ trông thấy anh ta,” Mary nói. “Không thấy mắt anh ta bị bầm.”
“Anh ta trông có vẻ thương tích gì không?”
“Không. Vẫn bảnh bao như thường lệ. Dù vậy, mặc toàn đồ đen. Khó hiểu thật.”
“Toàn đồ đen hả?” Olivia nhấn mạnh.
“Thì gần như thế. Sơ mi và ca vát trắng. Nhưng vẫn là...” Mary xua tay như thể không thể chấp nhận được khả năng đó. “Cứ như anh ta đang để tang ấy.”
“Biết đâu thế thật,” Anne nhảy vào. “Để tang cho vợ sắp cưới chứ còn gì nữa!”
“Người mà anh ta giết chết ư?” Philomena hỏi.
“Anh ta không giết ai cả!” Olivia hét lên.
“Sao cậu biết?” ba người đồng thanh hỏi.
Olivia sẽ phải trả lời câu hỏi này nhưng nàng chợt nhận ra mình không hề biết. Nàng chưa một lần trông thấy người đàn ông đó, những lời xì xầm về anh ta thì mãi tới giờ nàng mới được nghe. Thế nhưng nàng là người có óc phán đoán. Việc sát hại vợ sắp cưới nghe rất giống mấy cuốn tiểu thuyết lãng mạn kinh dị mà Mary và Anne vẫn thường hay đọc.
“Olivia!” ai đó lên tiếng.
Nàng chớp mắt, nhận ra rằng mình đã trầm ngâm mộtlúc rất lâu. “Không có gì,” nàng nói, lắc nhẹ đầu “Chỉ nghĩ chút thôi.”
“Về ngài Harry đó à,” Anne nói giọng hơi tự mãn.
“Đâu có vẻ gì là tớ có cơ hội nghĩ về chuyện khác chứ,” Olivia làu bàu.
“Thế có cơ hội thì cậu sẽ nghĩ về điều gì?” Philomena hỏi.
Olivia mở miệng chực nói, rồi chợt nhận ra mình không biết nên trả lời sao. “Bất kỳ điều gì,” rốt cuộc nàng nói. “Gần như mọi điều.”
Nhưng trí tò mò của nàng đã bị khêu gợi. Mà trí tò mò của tiểu thư Olivia Frances Bevelstoke thì dữ dội phải biết.
Cô gái nơi căn nhà phía Bắc lại quan sát anh. Cô ta làm thế đã suýt soát một tuần nay. Thoạt tiên Harry không bận tâm về chuyện đó. Cô ta là con gái của bá tước Rudland, ơn trời, hoặc nếu không thế thì cũng bà con gì đấy - chứ nếu là hầu gái thì chắc phải bị sa thải vì suốt ngày đứng bên cửa sổ mà không chịu làm gì rồi.
Và cô ta cũng không phải gia sư. Bá tước Rudland có vợ, hoặc Harry nghe bảo thế. Không có người vợ nào chịu thu nhận một nữ gia sư trông như thế cả.
Vậy nên chắc chắn cô ta là con gái nhà họ rồi. Thế có nghĩa là anh không có bất kỳ lý do nào để cho rằng cô ta là một quý cô tọc mạch, lấy việc chõ mũi vào chuyện của hàng xóm mới làm thú vui. Ngoại trừ việc cô ta đãtheo dõi anh thế này năm ngày nay rồi. Nếu cô ta tò mò về kiểu áo choàng và màu tóc của anh thì chắc hẳn giờ này cô ta đã thỏa mãn rồi.
Anh những muốn vẫy chào cô ta. Khoác lên mặt một nụ cười tươi tắn và vẫy chào. Như thế công cuộc theo dõi của cô ta sẽ chấm dứt. Nhưng như thế cũng có nghĩa là anh sẽ không bao giờ biết được tại sao cô ta để ý đến anh như vậy.
Điều đó Harry không thể nào chịu được. Anh không bao giờ có thể chịu đựng được việc câu hỏi “tại sao” của anh không được trả lời mà cứ lửng lơ như thế.
Chưa kể anh hoàn toàn không đủ gần cửa sổ nhà cô ta để có thể nhìn nét mặt cô ta mà đoán câu trả lời. Điều đó dập tắt trong anh suy tính vẫy tay chào. Nếu cô ta ngượng ngùng, anh muốn trông thấy vẻ mặt ấy. Không thế thì còn gì thú vị chứ?
Harry ngồi lại ghế, làm như thể mình không hề hay biết cô ta lén nhìn anh qua rèm cửa. Anh phải làm việc, và anh cần thôi băn khoăn về cô gái tóc vàng nơi cửa sổ nhà hàng xóm. Sáng sớm hôm nay một người đưa tin từ Bộ Chiến tranh đã giao cho anh một tài liệu khá dài cần phải dịch ngay. Harry luôn làm theo một quy trình khi dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh - trước tiên đọc lướt qua để hiểu được nội dung, rồi đọc kỹ hơn, lần này đọc hết từng từ một. Sau khi nghiên cứu tài liệu xong đâu đấy, anh lấy bút mực ra và bắt đầu dịch.
Đó là một công việc nhạt nhẽo. Nhưng anh thích vậy, bởi lẽ anh luôn thích những thách thức. Anh có thể ngồi hàng giờ với xấp tài liệu, và chỉ khi mặt trời lặn anh mới sực nhớ ra cả ngày nay mình chưa ăn gì. Nhưng ngay cả anh, một người ham mê công việc dịch thuật, cũng không tưởng tượng nổi lại có ai bỏ ra cả ngày theo dõi người khác dịch.
Vậy mà giờ cô ta lại ở đó, một lần nữa đứng nơi cửa sổ.
Có thể cô ra đang nghĩ cô ta ẩn mình rất khéo vàanh là một kẻ đại ngốc.
Anh nở một nụ cười tự mãn. Cô ta không biết gì. Đúng là Harry làm việc cho cái ban tẻ nhạt trong Bộ Chiến tranh - công việc chỉ liên quan đến từ ngữ và giấy tờ thay vì súng ống đạn dược và những điệp vụ mật - nhưng anh đã được đào tạo kỹ lưỡng. Anh đã ở trong quân đội được mười năm, hầu hết thời gian đó ở Lục địa, nơi mà sự sống và cái chết phụ thuộc vào sự tinh mắt và chuyển đ
Thứ nhất là cậu rất thạo tiếng Pháp và tiếng Nga. Biệt tài này chẳng có gì khó hiểu; vì lúc Harry được bốn tháng, bà ngoại Olga Petrova Obolenskiy Dell có tiếng là trưởng giả và độc đoán đến sống cùng nhà Valentine.
Bà Olga ghét cay ghét đắng tiếng Anh. Lúc nào bà cũng khăng khăng rằng chẳng thứ gì trên thế giới này cần nói ra mà lại không thể diễn đạt được bằng tiếng Pháp hay tiếng Nga.
Còn chuyện tại sao bà lại lấy ông ngoại - một người Anh - làm chồng thì bà chẳng thể nào giải thích cho ra ngô ra khoai.
“Có thể vì chuyện này cần giải thích bằng tiếng Anh mới được,” chị Anne thì thào.
Harry chỉ nhún vai cười mỉm (như bất kỳ một thằng em biết hành xử đúng mực nào) khi chị bị cốc đầu vì câu nói đó. Bà coi tiếng Anh không ra gì thật nhưng bà hiểu không sót một từ nào, tai bà thì còn thính hơn cả tai chó săn. Thì thào bất kỳ điều gì - bằng bất kỳ thứ tiếng gì - chẳng phải là ý hay khi bà đang có mặt trong phòng học. Thì thào bằng tiếng Anh là việc làm dại dột hết nước hết cái. Đằng này lại còn thì thào bằng tiếng Anh để chỉ trích cả tiếng Pháp lẫn tiếng Nga đều không thể biểu đạt điều cần nói...
Thực sự, Harry thấy bất ngờ chuyện Anne không bị bà ngoại cho mấy roi vào mông.
Bà ngoại ghét tiếng Anh như thế nào thì Anne không ưa tiếng Nga như thế ấy. Cô kêu nó quá nhiêu khê, còn tiếng Pháp thật khó nhằn. Khi bà đến sống cùng, Anne đã lên năm và lúc ấy tiếng Anh của cô bé đã ăn sâu bén rễ trong đầu, không chịu cho một thứ tiếng nào khác có chỗ đứng ngang bằng.
Harry, trái lại, hăm hở nói bất kỳ thứ tiếng nào cậu nghe được từ người khác. Tiếng Anh để nói hằng ngày, tiếng Pháp cho những điều thanh tao, còn tiếng Nga dùng cho những chuyện kịch tính và huyên náo. Nước Nga rộng lớn. Lạnh. Và trên tất cả, đây là đất nước vĩ đại.
Peter Đại đế, Catherine Vĩ đại - từ bé Harry đã thuộc nằm lòng những câu chuyện về họ.
“Úi dào!” không ít lần bà Olga buông lời chế giễu thế khi gia sư của Harry cố dạy lịch sử nước Anh cho cậu. “Ethelred Chưa sẵn sàng[1] là ai đấy? Có cái thứ đất nước nào mà vua chúa lại ở thế chưa sẵn sàng không chứ?”
[1] Tên của vị vua này trong tiếng Anh cổ là Æthelred the Unræd. Unræd có nghĩa là bị xúi dại. Có tên này là do vua lên ngôi khi mới khoảng mười tuổi nên làm việc gì cũng phải hỏi ý kiến người khác nhưng lại hay bị họ xúi bậy. Æthelred the Unræd sau được dịch ra tiếng Anh hiện đại thành Ethelred the Unready; từ unready có nghĩa là chưa sẵn sàng, không còn giữ nguyên được nghĩa gốc của unræd nữa.
“Nữ hoàng Elizabeth cũng vĩ đại mà bà,” Harry vớt vát.
Điều đó cũng chẳng gây được ấn tượng gì cho bà Olga. “Vậy bà ấy có được gọi là Elizabeth Đại đế không? Hay Nữ hoàng Vĩ đại không? Không, không hề. Người ta gọi bà ấy là Nữ hoàng Đồng trinh, như thể chuyện đó đáng hãnh diện lắm vậy.”
Đến lúc này, tai cậu gia sư đỏ lựng lên, khiến Harry đâm tò mò tợn.
“Cái bà ấy thì vĩ đại nỗi gì,” bà Olga tiếp tục bằng giọng lạnh có khi còn hơn cả băng. “Ngay cả chuyện để lại cho đất nước một người kế vị ngai vàng cũng không làm được thì có gì mà vĩ với chả đại.”
“Hầu hết các sử gia đều đồng tình rằng nữ hoàng không kết hôn thế là khôn ngoan,” cậu gia sư lên tiếng. “Bà cần phải giữ hình ảnh không hề bị hoen ố, và...”
Cậu gia sư bỏ lửng câu nói. Harry không hề ngạc nhiên. Bà Olga vừa lia cặp mắt sắc như dao về phía cậu ta. Harry chưa thấy ai có thể tiếp tục nói khi bị ánh mắt ấy chiếu thẳng vào mặt như thế.
“Cậu rõ là ngu ngốc,” bà dằn từng tiếng rành rọt rồi quay ngoắt đi. Ngày hôm sau bà đuổi việc cậu gia sư và tự mình dạy Harry đến khi nào tìm được gia sư mới.
Đúng ra, việc thuê gia sư cho trẻ con nhà Valentine - lúc này đã lên đến ba đứa (thằng em Edward đi nhà trẻ khi Harry lên bảy) - và sa thải họ không phải là chuyện của bà Olga. Nhưng chẳng ai muốn vướng vào chuyện này. Mẹ Harry, Katarina Dell Valentine, không bao giờ tranh cãi với mẹ mình, còn cha Harry thì... ừm...
Có khá nhiều điều để nói về biệt tài thứ hai của Harry Valentine - một biệt tài bất thường đối với đứa trẻ mười hai tuổi.
Cha Harry, ngài Lionel Valentine, là một kẻ nát rượu.
Tất nhiên đây không phải biệt tài rồi. Không ai là không biết ngài Lionel nốc rượu như hũ hèm. Ngài Lionel thường chân nam đá chân chiêu, nói năng nhíu nhịu, rồi phá lên cười vang một mình. Và thật xui xẻo cho hai chị hầu gái (và cả hai tấm thảm trong phòng đọc sách của ông nữa) khi ông có cách để rượu không thể làm ông mập lên được.
Và cũng bởi thế, Harry đâm ra thạo việc lau dọn đống cha nôn mửa ra.
Chuyện này bắt đầu từ năm cậu lên mười. Hôm ấy đúng ra cậu có thể cứ để nguyên thế, có điều trước đó cậu đang cố hỏi xin cha ít tiền tiêu vặt và trót hỏi lúc đã khá khuya. Ngài Lionel đã làm một cữ brandy buổi chiều, một cốc nhỏ lúc chạng vạng, ít vang vào bữa tối, rồi ngay sau đó lại bồi tiếp porto, và giờ quay lại với thứ ông khoái nhất, brandy nhập lậu từ Pháp mà lúc chiều ông vừa mới nốc xong. Harry dám chắc một điều là cậu đã nói rất rành rọt bằng tiếng Anh khi hỏi xin tiền cha, nhưng ông cứ chằm chằm nhìn cậu, mắt chớp chớp mấy cái như thể ông chẳng hiểu nổi đứa con trai đang nói gì, và rồi phun cả lên giày Harry.
Harry không tránh đi đâu được cái của nợ gớm chết ấy.
Rồi sự việc cứ lặp lại như thế. Một tuần sau đó cha cậu lại nôn, dù không vào đúng chân cậu, rồi một tháng sau chuyện tương tự lại xảy ra. Năm Harry lên mười hai, chẳng đứa nhỏ nào ở tuổi cậu có thể nhớ nổi số lần dọn dẹp chỗ nôn mửa của cha trong những lần say, nhưng cậu luôn là đứa thích chính xác, và một khi cậu đã bắt đầu đếm thì khó mà dừng lại được.
Hầu hết mọi người chỉ có thể nhớ đến bảy là cùng. Đã là con số lớn nhất mà phần đông có thể nhận biết trực quan. Harry biết được điều đó khi đọc thêm về logic và số học. Hầu như ai cũng có thể nói ngay “Bảy” chỉ sau một cái liếc mắt lên trang giấy có vẽ bảy dấu chấm. Thêm một chấm nữa vào, hầu hết mọi người đều chịu.
Harry có thể nhận biết đến con số hai mươi mốt.
Vậy nên chẳng mấy ngạc nhiên khi, sau mười lăm lần lau dọn, Harry vẫn biết chính xác bao nhiêu lần cậu trông thấy dáng cha xiêu vẹo đi qua sảnh, hay mê man bất tỉnh trên sàn, hay nôn (trượt) vào chậu đựng nước tiểu trong phòng. Và thế là, một khi đã đạt đến con số hai mươi, chuyện này đã trở thành một cái gì đó hơi mang tính học thuật, và cậu phải tiếp tục, không dừng lại được.
Chuyện này hẳn phải mang tính học thuật. Nếu không phải vậy thì sẽ là cái gì đó khác, và khi đó có thể cậu sẽ nằm khóc cho đến khi ngủ thiếp đi thay vì nhìn chong chong lên trần nhà, miệng lẩm nhẩm, “Lần bốn mươi sáu rồi, nhưng nhỏ hơn một tẹo so với cái đống hôm thứ Ba vừa rồi. Hình như tối nay cha ăn ít thì phải.”
Đã từ lâu mẹ Harry quyết định làm ngơ mỗi khi chuyện đó xảy ra, và những lúc như thế bà thường ra vườn chăm mấy khóm hồng bà Olga mang sang từ Nga nhiều năm trước. Lúc sắp bước sang tuổi mười bảy, Anne cho cậu biết cô sẽ lấy chồng để “thoát khỏi cái địa ngục trần gian này.” Và cô làm thế thật, để chứng minh cho lòng quyết tâm của cô, bởi lẽ cả cha lẫn mẹ đều chẳng mảy may để tâm gì đến việc đảm bảo cho cô con gái một đám môn đăng hộ đối. Còn cậu út Edward chọn cách thích nghi, như anh Harry của mình. Sau bốn giờ chiều là có cha mà cũng như không, ngay cả khi có vẻ như ông cũng còn chút tỉnh táo (thường là thế, cho đến bữa tối thì ông mới thật sự chẳng còn ra người ngợm gì nữa).
Kẻ ở người làm trong nhà ai cũng biết rõ cả. Chẳng có mấy người nên gia đình Valentine sống khá thư thả trong một ngôi nhà ngăn nắp sạch sẽ ở Sussex và hằng năm vẫn đều đặn nhận một trăm bảng từ khoản hồi môn của mẹ Katarina. Nhưng thế không có nghĩa là họ giàu có thừa mứa gì, và kẻ ở người làm nhà Valentine chỉ có tám người - ông quản gia chị bếp, bà dọn dẹp, đứa giữ ngựa, hai hầu trai, cô hầu gái, và chị rửa bát. Hầu như ai cũng thấy yên ổn hài lòng khi giúp việc cho nhà Valentine cho dù đôi lúc phải làm những phận sự không mấy dễ chịu liên quan đến thói quen rượu chè của ông chủ. Ngài Lionel có thể nát rượu thật đấy nhưng ông không phải là một tay nát rượu ti tiện. Ông cũng không phải là người keo kiệt, và thậm chí mấy cô hầu gái còn biết cách kiếm thêm vài đồng từ việc “xử lý” đống nôn mửa của ông chủ khi ông mang máng nhớ lại những chuyện mình đã làm và thấy xấu hổ.
Do vậy Harry thực sự không hiểu tại sao cậu cứ lo lau rửa dọn dẹp mỗi bận cha cậu nôn mửa như thế, vì rõ ràng là nếu cậu cứ để nguyên vậy thì cũng có người khác làm thôi. Có thể cậu không muốn kẻ ở người làm trong nhà biết cha say sưa thường xuyên ra sao. Có thể cậu muốn mình ý thức được những hiểm họa từ rượu. Cậu nghe nói ông nội cậu cũng chè chén be bét y như thế. Chả lẽ những chuyện như vậy mà cũng di truyền được hay sao?
Cậu không muốn tìm hiểu.
Và rồi, bà ngoại qua đời khá đường đột. Không bình yên như lúc bà đi ngủ - bà Olga Petrova Obolenskiy Dell đời nào chịu cứ thế lìa trần mà không kèm theo một chút kịch tính chứ. Vào bữa tối, đang định xúc muỗng xúp đưa lên miệng thì bà đột nhiên ôm ngực, thở gấp mấy lần rồi gục xuống. Sau này cả nhà mới nhận ra rằng trước lúc gục xuống như thế hẳn bà vẫn còn chút tỉnh táo nên đã không để mặt vục vào bát xúp mà chệch hẳn sang một bên, và không biết làm cách nào bà đập được vào cái muỗng, khiến cho chỗ xúp nóng trong đó văng lên nhắm thẳng hướng ngài Lionel lúc đó không còn đủ tỉnh táo để kịp cụp đầu xuống tránh.
Harry không được chứng kiến cảnh đó; ở tuổi mười hai, cậu không được phép ăn cùng người lớn. Nhưng Anne thấy hết từ đầu chí cuối, và tức tốc kể lại một lèo cho Harry nghe như sợ ai kể mất không bằng.
“Thế là cha cởi luôn cái ca vát ra!”
“Ngay tại bàn ăn?”
“Ngay tại bàn ăn chứ sao! Nhìn rõ cả vết bỏng nữa cơ!” Anne giơ ngón cái và ngón trỏ để miêu tả cho Harry thấy chỗ bỏng ấy rộng khoảng một phân. “Ngần này này!”
“Còn bà thì sao?”
Anne hơi rầu rầu. Nhưng chỉ hơi hơi thôi. “Chị nghĩ bà chết rồi.”
Harry nuốt khan và gục gặc đầu. “Bà cũng già lắm rồi.”
“Chắc cũng phải chín mươi là ít.”
“Em không nghĩ bà chín mươi đâu.”
“Trông bà chín mươi mà,” Anne lầm bầm.
Harry không nói gì. Cậu không chắc phụ nữ ở tuổi chín mươi thì trông thế nào, nhưng bà ngoại chắc chắn có nhiều nếp nhăn hơn bất kỳ người quen nào của cậu.
“Nhưng để chị kể em nghe phần lạ lùng nhất này,” Anne vừa nói vừa nghiêng người về phía trước. “Mẹ ấy.”
Harry chớp mắt. “Mẹ làm gì?”
“Không làm gì cả. Không hề.”
“Mẹ ngồi cạnh bà chứ?”
“Không, ý chị không phải thế. Mẹ ngồi chếch phía bên kia bàn nên không thể đỡ bà lúc ấy.”
“Rồi...”
“Mẹ cứ ngồi tại chỗ thế,” Anne ngắt lời. “Mẹ không nhúc nhích tí nào. Ngay cả dợm nhổm người lên cũng không nốt.”
Harry trầm ngâm. Chuyện này, đáng buồn thay, không khiến cậu ngạc nhiên mấy.
“Mặt mẹ chẳng biểu lộ gì cả. Mẹ chỉ ngồi yên như thế này này.” Rồi Anne sửa cho ra nét mặt trống rỗng vô cảm, và Harry buộc phải thừa nhận là giống hệt nét mặt mẹ.
“Nói cho em nghe này,” Anne nói. “Nếu mẹ mà có gục xuống chén xúp như thế trước mặt chị, thì chí ít chị cũng ngạc nhiên.” Cô lắc đầu. “Hai người ấy kỳ cục quá, cả hai luôn, cha không làm gì ngoài việc nốc rượu, còn mẹ thì không làm gì hết. Nói cho em biết điều này luôn, chị không thể đợi đến sinh nhật được. Nhà đang có tang cũng mặc. Chị sẽ cưới anh William Forbush, hai người họ chẳng thể ngăn nổi đâu.”
“Em không nghĩ chị phải lo lắng đến chuyện đó,” Harry nói. “Mẹ sẽ chẳng có ý kiến gì, còn cha thì có lúc nào tỉnh đâu mà để ý đến.”
“Ừm, em nói cũng có lý.” Anne mím môi tư lự trông đến sầu thảm. Đoạn cô đưa tay siết chặt vai em trai - một cử chỉ thể hiện tình chị em hiếm thấy ở cô. “Em cũng sẽ ra khỏi chỗ này sớm thôi mà. Đừng lo nhé.”
Harry gật đầu. Ít tuần nữa thôi là cậu đi học rồi.
Và chút tội lỗi mới chớm về việc ra khỏi nhà trong khi chị Anne và em Edward vẫn phải ở lại liền bị dập tắt bởi cái cảm giác nhẹ nhõm đến choáng ngợp khi lần đầu tiên được rời nhà đi học.
Đi khỏi nhà đúng thật là tốt. Dù vẫn kính trọng bà ngoại và những vị vua chúa bà yêu mến, song Harry vẫn thấy chuyện này thậm chí còn có thể rất vĩ đại nữa.
* * *
Những năm học phổ thông của Harry thật bổ ích đúng như cậu hằng mong đợi. Cậu vào học trường Hesslewhite, một học viện tương đối phù hợp cho con trai của những gia đình thiếu vai vế (hay trong trường hợp của Harry, không đủ lợi tức) để cho con học tại Eton hay Harrow.
Harry yêu trường học. Yêu. Cậu yêu những giờ học, yêu thể thao, và yêu những lúc đi ngủ không phải săm soi mọi ngóc ngách của tòa nhà khi đêm đã muộn để xem cha mình thế nào, mong sao cha chưa kịp nôn mửa đã say lăn quay ra rồi. Ở trường Harry cứ thế đi thẳng từ phòng sinh hoạt chung đến ký túc xá, và cậu yêu mỗi bước đi thảnh thơi ấy.
Thế nhưng điều tốt đẹp nào rồi cũng phải đến hồi kết, và ở tuổi mười chín, Harry tốt nghiệp cùng với chúng bạn trong lớp, tính cả Sebastian Grey, con trai dì ruột cậu và cũng là bạn chí thiết của cậu. Nhà trường tổ chức một buổi lễ tốt nghiệp, vì gần như cậu chàng nào cũng mong ước được ăn mừng sự kiện này, nhưng Harry lại “quên” báo cho gia đình.
“Mẹ cháu đâu?” dì Anna hỏi. Giống mẹ Harry, giọng dì chẳng lộ chút âm sắc nào của tiếng mẹ đẻ, cho dù hồi họ còn nhỏ, bà Olga nhất quyết chỉ nói với hai cô con gái bằng tiếng Nga. Đến lúc lấy chồng, Anna có đám tốt hơn Katarina, chồng bà là con trai thứ của một bá tước. Chuyện này chẳng hề gây bất hòa gì giữa hai chị em; vì sau cùng thì ngài Lionel cũng là một tòng nam tước, điều đó có nghĩa là Katarina cũng được người ta gọi là “phu nhân”. Nhưng Anna có nhiều mối quen biết lớn và có của, và có lẽ quan trọng hơn cả là, bà có một người chồng hiếm khi uống đến ly vang thứ hai trong bữa tối. Không may ông mất cách đây hai năm.
Và do vậy khi Harry ấp úng gì đó trong miệng về chuyện mẹ mình hơi mệt thì Anna biết đích xác ý cậu muốn nói - rằng nếu mẹ cậu đến thì cha cậu cũng đi theo. Sau “buổi trình diễn” đầy ngoạn mục của cha cậu ở hội nghị tại trường năm 1807 thì Harry sợ không dám mời cha đến dự buổi lễ nào của trường nữa.
Ngài Lionel có khuynh hướng đánh mất âm r khi say, và Harry không chắc mình có thể sống sót sau một bài phát biểu “Ngôi tường tốt” nữa, nhất là khi cha cậu leo hẳn lên ghế phát biểu.
Harry đứng im như trời trồng một lúc.
Đoạn cậu cố kéo cha xuống, và lẽ ra cậu đã làm được rồi nếu mẹ cậu đang ngồi bên kia ngài Lionel giúp cậu một tay. Thế nhưng, mẹ chỉ nhìn thẳng về phía trước như mẹ vẫn luôn vậy trong những dịp thế này, tảng lờ như không nghe thấy gì. Chỉ có mình Harry kéo cha nghiêng về một bên khiến ông mất thăng bằng. Ông vừa la vừa ngã nhào xuống, đập mặt vào chiếc ghế đằng trước Harry.
Như người khác thì đã nổi điên lên rồi, nhưng ngài Lionel thì không. Ông chỉ nở một nụ cười ngờ nghệch, gọi Harry là “con tai tốt” rồi phun ra một cái răng.
Harry vẫn còn giữ cái răng đó. Và cậu không bao giờ để cha đặt chân đến trường lần nữa. Ngay cả khi điều đó có nghĩa rằng cậu là đứa duy nhất không có phụ huynh tham gia buổi lễ tốt nghiệp này.
Dì Anna một mực muốn đưa cậu về nhà và Harry thấy biết ơn dì. Cậu không thích có khách đến nhà, nhưng dì Anna và Sebastian đã biết tất cả những gì không nên biết về cha cậu rồi - ồ, hầu như tất thảy. Harry không hé môi một lời về một trăm hai sáu lần lau dọn chỗ nôn mửa cho cha. Hay vụ hư hại cái ấm samovar quý giá của bà ngoại dịp gần đây khi ngài Lionel vấp vào một cái ghế, nhảy tung một cú vào không trung - cú nhảy đẹp mắt không thể tin nổi - (có lẽ để giữ thăng bằng), rồi hạ cánh sấp bụng xuống tủ ly. Toàn bộ lớp men bên ngoài ấm bị tróc cả.
Ba đĩa trứng và một tảng thịt lợn muối xông khói cũng bị hỏng vào sáng hôm đó.
Bù lại, bọn chó săn chưa khi nào được chén no nê đến thế.
Học viện Hesslewhite được gia đình Valentine chọn bởi vì gần nhà, và do vậy sau chỉ chín mươi phút đi xe ngựa họ đã rẽ vào lối chạy xe, chỉ còn quãng ngắn này nữa là tới nhà.
“Cây cối năm nay chắc sẽ tốt um cho mà xem,” dì Anna nhận xét. “Chắc chắn mấy khóm hồng của mẹ cháu cũng sẽ ra hoa nhiều lắm.”
Harry hờ hững gật đầu, cố ước lượng thời gian. Vẫn còn xế chiều ấy chứ nhỉ, hay đã chạng vạng rồi? Nếu chạng vạng, cậu sẽ phải mời họ ở lại dùng bữa tối. Dù có thế nào cậu cũng phải mời hai mẹ con họ vào nhà; dì Anna cũng muốn chào chị gái mình chứ. Nhưng nếu giờ đang là xế chiều, họ sẽ chỉ ở lại dùng trà thôi, thế có nghĩa là họ có thể vào rồi về mà không gặp cha cậu.
Ăn tối lại là chuyện khác. Ngài Lionel nhất nhất phải ăn mặc trang trọng vào bữa tối. Theo ông, ăn mặc trang trọng mới thể hiện được phong thái của một quý ông. Và cho dù bữa tối ít người đến cỡ nào (chỉ có ngài Lionel, phu nhân Valentine và bất kỳ người con nào có mặt ở nhà, mà mười bữa thì tới chín bữa rưỡi như thế), ông cũng thích đóng vai chủ nhà. Thế thường có nghĩa là kể chuyện nhiều và nói nhiều bon mot (tức lời lẽ hoa mỹ), nhưng ngài Lionel thường hay quên đoạn giữa câu chuyện, và “mot” của ông thì chẳng lấy gì làm “bon” cả.
Nghĩa đó lại dẫn tới nghĩa nữa là những người còn lại bên bàn ăn đành phải chìm trong im lặng bức bối, suốt bữa giả vờ như không thấy bát nước xốt bị đổ, hay ngài Lionel rót thêm rượu vào ly.
Cứ như thế.
Và cứ như thế.
Và rồi, đương nhiên, cứ như thế.
Không ai từng mở miệng bảo ông ngừng lại. Có ích gì đâu chứ? Ngài Lionel cũng biết mình uống quá nhiều rượu. Harry đã không còn nhớ nổi số lần cha quay sang cậu mà nức nở, “Cha xin lỗi, con tai, cha xin lỗi, con tai. Cha không cố ý gây phiền cho con. Con là con tai ngoan, Harry.”
Nhưng rồi chuyện đâu lại vào đấy, chẳng bao giờ khác đi được. Cho dù điều gì lôi kéo ngài Lionel tìm đến con ma men đi nữa thì nó cũng mạnh hơn gấp bội cảm giác tội lỗi hay hối hận mà ông bấu víu lấy để thoát ra khỏi rượu. Ngài Lionel không phủ nhận chuyện mình đã khổ sở đến thế nào. Tuy thế ông hoàn toàn bất lực, không thể làm gì được chứng nghiện rượu.
Cậu cũng chẳng hơn gì. Chỉ thiếu nước cột cha vào giường là cậu chưa đang tâm làm thôi. Do vậy cậu không bao giờ mời bạn bè về nhà, tránh ở nhà vào bữa tối, và vì rằng đã tốt nghiệp phổ thông nên cậu đếm từng ngày để bắt đầu đi học đại học.
Nhưng trước hết cậu phải làm sao để có thể được yên ổn trong mùa hè này cái đã. Cậu nhảy xuống xe ngựa rồi đỡ dì Anna xuống khi họ dừng trên lối chạy xe trước nhà. Sebastian xuống theo rồi cả ba người đi vào phòng khách, nơi Katarina đang ngồi thêu.
“Anna!” bà thốt lên, trông như thể bà sắp đứng dậy (nhưng hoàn toàn không hề). “Ngạc nhiên chưa!”
Anna khom người ôm chị rồi ngồi xuống ghế phía đối diện. “Em tiện thể đưa Harry về nhà.”
“Ồ, tốt nghiệp rồi à con?” Katarina lẩm bẩm.
Harry cười gượng gạo. Cậu tin rằng mình đáng bị mẹ hờ hững như thế vì đã không báo cho mẹ ngày trường tổ chức lễ tốt nghiệp, nhưng chẳng phải làm mẹ thì không nên chấp nhặt mấy chuyện cỏn con đó hay sao?
“Sebastian,” Katarina quay sang đứa cháu trai. “Con lớn quá nhỉ!”
“Bình thường thôi mà bác,” Sebastian nói với bác bằng giọng tưng tửng và điệu cười nhếch môi thường thấy.
“Ôi chao,” bà cười cười, “chẳng mấy nữa mà con khiến đám con gái chết mê chết mệt mất thôi.”
Harry gần như trố mắt lên vì kinh ngạc. Sebastian đã chinh phục gần như tất thảy bọn con gái trong ngôi làng gần trường Hesslewhite. Hẳn là người cậu ta tỏa ra mùi hương gì đấy vì cô nàng nào cũng gục ngã dưới chân cậu ta.
Thế thật là khó chịu, ngoại trừ việc các cô nàng đó không thể khiêu vũ với Sebastian cùng một lúc được. Và Harry vô cùng sung sướng khi là người đứng gần bên Sebastian nhất “hưởng” những cô nàng không chen được vào khiêu vũ cùng với Sebastian.
“Sẽ không có thời gian cho chuyện đó đâu,” dì Anna vội nói. “Em đã mua một bằng phong cấp sĩ quan cho cu cậu rồi. Một tháng nữa là lên đường.”
“Con vào quân đội à?” Katarina ngạc nhiên quay sang đứa cháu. “Oai nhỉ.”
Sebastian nhún vai.
“Mẹ chắc chắn phải biết rồi chứ,” Harry bảo. Tương lai của Sebastian đã được quyết định từ nhiều tháng trước. Dì Anna luôn canh cánh chuyện con trai cần được tiếp nhận ảnh hưởng mạnh mẽ nam tính từ khi cha cậu ta mất. Và vì Sebastian có thể không có được tước hiệu hay của cải gì, nên ai cũng cho rằng cậu ta cần phải tìm con đường tiến thân cho riêng mình.
Không một ai, ngay cả mẹ Sebastian - người luôn nghĩ con trai mình là cái rốn của vũ trụ - gợi ý cậu ta xem xét giới tăng lữ.
Sebastian không hào hứng lắm về viễn cảnh chiến tranh với Napoleon trong chừng mười năm tới, nhưng như cậu ta vẫn thường nói với Harry - cậu ta có thể làm gì khác hơn? Bác cậu ta, bá tước xứ Newbury, ghét cay ghét đắng cậu ta và thẳng thừng rằng Sebastian đừng có hòng nhận được lộc lá, tiền bạc hay bất cứ thứ gì từ ông.
“Có thể ông ta sẽ chết,” Harry dè dặt nói bằng tất cả sự nhạy cảm và khéo léo của đứa con trai mười chín tuổi.
Nhưng rồi, thật khó có thể làm Sebastian mủi lòng, nhất là khi liên quan đến ông bác. Hoặc đứa con trai duy nhất của ông ta, người thừa tự xứ Newbury. “Ông anh họ đó thậm chí còn tệ hơn nữa,” Sebastian đáp. “Ở London anh ta luôn cố làm ra vẻ không hề biết em là thằng nào giữa đám đông.”
Harry cau mày kinh ngạc khi nghe điều đó. Anh ta làm thế nghĩa là khinh ghét người nhà mình, cũng như cố gắng làm bẽ mặt người ta trước mặt bao nhiêu người. “Thế chú đã làm gì?”
Sebastian cong môi thành một nụ cười trễ nải. “Ve vãn đứa con gái mà thằng cha đó muốn cưới chứ sao nữa.”
Harry nhìn đứa em họ với vẻ như chẳng tin một tẹo nào điều cậu ta vừa thốt ra.
“Ồ,” Sebastian bớt gay gắt, “em còn ve vãn cả đứa con gái làm ở quán rượu mà gã đang để mắt đến nữa.”
“Còn cô gái gã muốn cưới đó thì sao?”
“Có còn muốn cưới gã nữa đâu mà!” Sebastian cười rũ.
“Ôi trời, Seb, chú đã làm gì thế?”
“Ồ, chẳng có gì lâu dài cả. Em không dại gì mà đi làm tổn thương con gái một bá tước đâu. Em chỉ phỉnh phờ chút để cô nàng tưởng mình là nhất trên đời thôi.”
Nhưng như mẹ cậu ta nói, Sebastian sẽ không có nhiều cơ may cho bất kỳ chuyện ái tình nhăng nhít nào, cuộc sống trong quân đội đang chờ cậu ta không cho phép làm chuyện đó. Harry đã cố không nghĩ về chuyến đi sắp tới của cậu em họ; Seb là người duy nhất trên đời này cậu tin tưởng, hoàn toàn và tuyệt đối.
Cậu ta là người duy nhất chưa từng khiến Harry buồn phiền hay thất vọng.
Chuyện như vậy cũng là lẽ đương nhiên không có gì khó hiểu cả. Sebastian không phải đứa kém thông minh - thực ra còn hoàn toàn ngược lại - nhưng cậu ta không phù hợp với con đường học hành. Quân đội là chọn lựa tốt hơn nhiều cho cậu ta. Nhưng dẫu vậy, khi Harry ngồi đó nơi phòng khách, thấy bức bối trong chiếc ghế Ai Cập quá nhỏ so với người cậu, cậu không khỏi cảm thấy chút tủi phận. Và cả ích kỷ nữa. Cậu muốn Sebastian đi học đại học cùng cậu hơn, kể cả nếu đó chẳng phải là điều tốt nhất cho Sebastian.
“Con sẽ mặc quân phục màu gì nhỉ?” bà Katarina hỏi.
“Xanh sẫm, con đoán thế,” Sebastian trả lời giọng lễ độ.
“Ồ, con mặc màu xanh trông sẽ rất bảnh đấy. Em nghĩ thế không, Anna?”
Anna gật đầu đồng tình, và Katarina nói thêm, “Con cũng thế đi Harry nhỉ. Có lẽ chúng ta cũng nên mua cho con một bằng phong cấp sĩ quan.”
Harry chớp mắt kinh ngạc. Quân đội chưa bao giờ là đề tài được đề cập khi bàn đến tương lai của cậu. Cậu là con trai trưởng, dứt khoát sẽ thừa kế ngôi nhà, tước tòng nam, và bất kỳ món tiền nào cha cậu chưa nướng hết vào rượu trước khi ông mất. Dù thế nào cũng không được đưa cậu tới chỗ nguy hiểm.
Và thêm nữa, cậu là một trong số ít học sinh tại trường Hesslewhite thực sự ham học. Cậu được bạn bè gán cho biệt danh “giáo sư” và cậu thấy không phiền gì cả. Mẹ cậu đang nghĩ đi đâu thế? Mẹ có hiểu cậu không? Có phải mẹ bảo cậu gia nhập quân đội là để nâng cao hiểu biết của cậu về thời trang không?
“Ấy, anh Harry đâu thể làm lính tráng được,” Sebastian nói giọng châm chọc. “Địch ở ngay trước mũi anh ấy còn không bắn trúng ấy chứ.”
“Không đúng,” Harry cãi lại. “Con không giỏi bằng chú ấy,” cậu hất đầu về phía Seb, “nhưng hơn bất kỳ đứa nào khác.”
“Vậy con bắn cừ lắm à, Sebastian?” Katarina hỏi.
“Số một.”
“Chú ấy cũng khiêm tốn cực kỳ nữa,” Harry lầm bầm. Nhưng đúng thế thật. Sebastian là một tay súng cự phách, và quân đội sẽ mừng rơn vì có được cậu ta, miễn là họ có thể giữ không cho cậu ta tán tỉnh cả Bồ Đào Nha.
Đúng ra là một nửa. Nửa toàn phụ nữ.
“Con cũng nên gia nhập quân ngũ đi nhỉ?” Katarina gợi ý.
Harry quay sang mẹ, cố đọc nét mặt mẹ, cố đọc vị mẹ. Bà luôn vô tâm đến phát bực, như thể năm tháng trôi qua dần dần quét sạch đi khả năng thấu hiểu của bà. Bà không hề có một ý kiến gì, bà mẹ cậu. Bà cứ để cuộc sống trôi cuồn cuộn xung quanh, và cứ ngồi thế để mặc mọi thứ, như thể bà không để tâm đến bất kỳ điều gì.
“Mẹ nghĩ con sẽ thích quân đội,” bà nói giản dị, và cậu nghĩ - Liệu đã bao giờ bà đưa ra lời tuyên bố như vậy chưa nhỉ? Có bao giờ bà đưa ra ý kiến về tương lai của cậu, về cuộc sống của cậu chưa?
Có phải bà vẫn đợi đến lúc thích hợp?
Mẹ cậu cười như cách bà vẫn thường cười - kèm theo một tiếng thở dài khẽ khàng, như thể cố gắng ấy là quá nhiều. “Con mặc màu xanh trông sẽ rất tuyệt đấy.” Và rồi bà quay sang Anna. “Em nghĩ vậy không?”
Harry mở miệng định nói - à, định nói gì đấy. Ngay khi cậu nghĩ ra mình cần nói gì. Cậu không hề có kế hoạch tham gia quân đội. Cậu sẽ đi học đại học. Cậu đã kiếm được một suất tại đại học Pembroke ở Oxford. Cậu nghĩ cậu sẽ học tiếng Nga. Cậu không còn dùng ngôn ngữ này mấy từ khi bà ngoại mất. Mẹ cậu có nói nhưng hai mẹ con nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh còn hiếm, nói chi đến tiếng Nga.
Khỉ thật, nhưng Harry thấy nhớ bà ngoại. Bà ngoại không phải lúc nào cũng đúng, thậm chí không phải lúc nào bà cũng dễ chịu, nhưng bà thú vị. Và bà yêu cậu.
Bà sẽ muốn cậu làm gì nhỉ? Harry không chắc nữa. Hẳn bà sẽ ủng hộ chuyện Harry tiếp tục học lên đại học nếu thế có nghĩa là cậu sẽ suốt ngày vùi đầu vào văn chương Nga. Nhưng đồng thời bà cũng đánh giá rất cao quân đội và luôn công khai bới móc cha Harry về chuyện ông chưa bao giờ làm gì phục vụ cho đất nước.
Đương nhiên, bà cũng công khai mai mỉa cha Harry vì nhiều chuyện khác nữa.
“Con nên cân nhắc chuyện này, Harry à,” dì Anna nói rành rọt từng tiếng. “Dì tin chắc là Sebastian sẽ rất sung sướng nếu có con cùng đi.”
Harry lia ánh mắt cầu cứu sang Sebastian. Chắc chắn cậu ta hiểu được nỗi khổ tâm của Harry. Họ đang nghĩ gì nhỉ? Rằng cậu có thể đưa ra một quyết định lớn như thế vào bữa trà ư? Rằng cậu có thể vừa cắn bánh quy vừa nghĩ về chuyện đó một chốc lát rồi quyết định rằng dạ vâng, màu xanh sẫm là màu tuyệt đẹp dành cho đồng phục hay sao.
Nhưng Sebastian chỉ nhún nhẹ một bên vai, như muốn nói: Em có thể nói gì chứ? Thế giới này là một chốn ngớ ngẩn mà.
Mẹ Harry đưa tách trà lên môi, nếu dựa vào độ nghiêng của tách thì không thể biết được bà có nhấp ngụm nào không. Và rồi, vừa đặt chiếc cốc xuống đĩa bà vừa nhắm mắt lại.
Thật ra đó chỉ là một cái chớp mắt, lâu hơn một chút so với cái chớp mắt thông thường, nhưng Harry hiểu thế có nghĩa là gì. Bà vừa nghe thấy tiếng bước chân. Bước chân của cha cậu. Bà luôn nghe thấy tiếng chồng về trước tất thảy những người khác. Có lẽ nhờ vào nhiều năm cùng chung sống trong một mái nhà, hay nói đúng hơn là cùng chung một thế giới, mà thói quen ấy được hình thành. Ở bà, khả năng tự lừa dối mình rằng cuộc sống của mình không như nó vốn vậy phát triển song hành cùng với khả năng biết được nơi nào có mặt chồng tại bất cứ thời điểm nào.
Thật quá dễ dàng lờ đi những gì người khác thực sự không trông thấy.
“Anna!” ngài Lionel kêu lên khi vừa xuất hiện, xiêu vẹo dựa người vào khung cửa. “Cả Sebastian nữa. Ngạc nhiên chưa. Con thế nào rồi, nhóc?”
Harry quan sát cha lúc ông bước vào phòng. Thật khó mà nói được cha cậu đã say đến mức nào rồi. Ông chưa đến mức đi đứng loạng choạng, song nhìn hai cánh tay ông vung vẩy thì Harry không thấy vừa mắt cho được.
“Vui mừng gặp lại con, Harry,” ngài Lionel nói, phát nhẹ vào cánh tay Harry trước khi tiến đến chỗ chiếc tủ kệ. “Tốt nghiệp rồi phải không con?”
“Vâng, thưa cha,” Harry đáp.
Ngài Lionel rót gì đó vào một cái ly - Harry đứng xa quá không nhìn rõ đó là gì - rồi quay sang Sebastian cười nhăn nhở. “Con bao nhiêu tuổi rồi ấy nhỉ, Sebastian?” ông hỏi.
“Mười chín, thưa bác.”
Bằng tuổi Harry. Hai người chỉ cách nhau một tháng. Cậu ta luôn giống như Harry.
“Em đãi cháu nó trà đấy à, Katy?” ngài Lionel hỏi vợ. “Em đang nghĩ sao thế? Nó ra dáng đàn ông rồi mà.”
“Trà là thích hợp rồi, cha,” Harry gay gắt.
Ngài Lionel quay sang cậu chớp mắt vẻ kinh ngạc, như thể ông đã quên có cậu ở đó. “Harry, vui mừng gặp lại con.”
Harry mím chặt môi, rồi bặm lại. “Rất vui gặp lại cha.”
Ngài Lionel nốc một ngụm rượu lớn. “Học xong rồi hả con?”
Harry gật đầu, đáp chiếu lệ, “Vâng, thưa cha.”
Ngài Lionel chau mày, rồi lại uống tiếp. “Con tốt nghiệp rồi. Nhỉ? Ta nhận được giấy báo của trường Pembroke báo con đã trúng tuyển đại học.” Ông lại chau mày, rồi nháy mắt vài cái, rồi so vai. “Chẳng biết con đã đăng ký đấy.” Và rồi, vớt vát thêm, “Cừ lắm.”
“Con sẽ không đi.”
Những lời nói đó bật ra khỏi miệng Harry khiến cậu không khỏi ngạc nhiên. Cậu đang nói gì thế không biết? Đương nhiên là cậu sẽ tới Pembroke học. Đó chính là điều cậu mong muốn. Điều cậu luôn mong muốn. Cậu thích đi học. Cậu thích sách vở. Cậu thích những con số. Cậu thích ngồi trong thư viện, ngay cả khi bên ngoài mặt trời chiếu sáng rực rỡ và Sebastian cố kéo cậu ra ngoài chơi bóng bầu dục cho bằng được. (Sebastian luôn thắng trong cuộc chiến này; ở miền Nam nước Anh hiếm khi có mặt trời chiếu sáng, những ngày nắng lên ai cũng muốn ra ngoài bất kỳ khi nào có thể. Đó là chưa kể đến chuyện Sebastian là một người cực kỳ giỏi thuyết phục, về tất cả mọi thứ.)
Không có một đứa con trai nào ở Anh thích hợp với môi trường đại học bằng Harry. Thế nhưng... “Con sẽ nhập ngũ.”
Lại một lần nữa những lời được thốt ra nằm ngoài tầm kiểm soát của cậu, có gì đó như vô thức. Harry tự hỏi cậu đang nói cái gì thế. Cậu tự hỏi tại sao cậu lại nói như vậy.
“Cùng với Sebastian hả?” Anna hỏi.
Harry gật đầu. “Phải có ai đó đảm bảo chú ấy không để mình bị kết liễu chứ.”
Sebastian ném sang cậu tia nhìn lạnh lùng vì bị rỉa rói, nhưng rõ ràng cậu ta hài lòng với diễn tiến sự việc đến nỗi không thèm trả miếng. Cậu ta luôn có thái độ nước đôi về việc gia nhập quân đội; Harry biết cậu ta thấy nhẹ cả người khi có người anh họ đi cùng dù vẻ ngoài luôn gồng lên có cố tỏ ra can đảm.
“Con không thể ra chiến trận được,” ngài Lionel nói. “Con là người thừa kế nhà ta cơ mà.”
Ai nấy trong phòng - cả bốn người - đều quay sang nhìn tòng nam tước với vẻ ngạc nhiên ở mức độ khác nhau. Có lẽ đây là câu nói đúng đắn duy nhất được thốt ra từ miệng ông trong suốt nhiều năm nay.
“Cha còn có em Edward,” Harry nói thẳng.
Ngài Lionel uống tiếp, chớp mắt, và so vai. “À, đúng thế thật.”
Đó là điều trong chừng mực nào đó Harry đã đoán biết được, tuy thế từ sâu đáy lòng cậu vẫn cảm thấy dậy lên một nỗi thất vọng. Và cả oán giận.
Và đau lòng.
“Chúc mừng Harry!” ngài Lionel nói giọng hân hoan, nâng ly lên. Hình như ông không để ý thấy rằng không một ai hưởng ứng mình cả. “Chúc may mắn, con tai.” Ông nghiêng ly đổ rượu vào miệng thì mới biết mình chưa rót lại vào cái cốc đã cạn sạch. “Mẹ kiếp,” ông làu bàu. “Chẳng ra làm sao cả.”
Harry có cảm giác như thân mình sụp xuống ghế. Nhưng đồng thời chân cậu bắt đầu ngứa ngáy như thể chúng muốn lao bổ về phía trước. Để tháo chạy.
“Khi nào con đi?” ngài Lionel vừa hỏi vừa hồ hởi rót rượu vào ly.
Harry nhìn Sebastian và cậu ta ngay lập tức lên tiếng, “Cháu phải báo cáo vào tuần tới.”
“Thế nên con cũng vậy,” Harry nói với cha. “Dĩ nhiên con phải có tiền để mua bằng phong cấp sĩ quan.”
“Hẳn vậy rồi,” ngài Lionel theo bản năng đáp lại mà không cần suy nghĩ trước kiểu nói mệnh lệnh của Harry. “Được.” Ông nhìn xuống chân mình rồi đưa mắt sang vợ.
Bà đang nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ.
“Rất vui gặp tất cả mọi người,” ngài Lionel nói. Ông dằn mạnh chiếc ly xuống rồi thong thả đi ra cửa, chân chỉ loạng choạng đúng một lần duy nhất.
Harry nhìn cha chằm chằm khi ông rời khỏi phòng, cảm thấy mình như bị tách ra khỏi cảnh tượng này một cách lạ lùng. Đương nhiên cậu đã hình dung ra chuyện này trước đó rồi. Không phải gia nhập quân đội, mà là ra khỏi nhà. Cậu luôn nghĩ rằng cậu sẽ đến trường đại học theo kiểu thông thường, thu dọn đồ đạc lên chiếc xe ngựa của nhà rồi đi. Thế nhưng cậu vẫn thích tưởng tượng ra một cuộc ra đi với đủ mọi kịch tính - mọi thứ từ khoa tay múa chân loạn xạ đến những ánh nhìn chăm chăm lạnh như băng. Những cảnh cậu thích đều liên quan tới ném chai vào tường. Những chai rượu đắt tiền. Những chai rượu nhập lậu từ Pháp. Liệu cha cậu có còn tiếp tục ủng hộ bè lũ Phú Lang Sa bằng việc mua bán bất hợp pháp ấy khi mà giờ đây con trai ông sắp đương đầu với chúng ngoài chiến trường không?
Harry nhìn trân trân ra lối cửa đá khuất dáng cha. Không vấn đề gì, phải không? Ở đây cậu tròn trách nhiệm rồi. Cậu tròn trách nhiệm rồi.
Với nơi này, với gia đình này, với tất thảy những đêm dìu cha vào giường, cẩn thận đặt ông nằm nghiêng để nếu ông lại nôn nữa thì ít nhất ông cũng không bị sặc vì chỗ nôn đó.
Cậu đã tròn trách nhiệm.
Tròn trách nhiệm.
Nhưng cậu có cảm giác thế này thật trống rỗng, thật vắng lặng. Chuyến ra đi của cậu được đánh dấu bởi... không gì cả.
Và phải mất nhiều năm sau đó cậu mới nhận ra rằng mình đã bị lừa.
“Nghe đâu anh ta giết cô vợ cả đấy”
Bao nhiêu đó cũng đủ để tiểu thư Olivia Bevelstoke đang khuấy trà ngừng phắt tay lại. “Ai cơ?” nàng hỏi, vì quả thật từ lúc nãy đến giờ nàng không hề lắng nghe.
“Ngài Harry Valentine chứ ai.Hàng xóm mới của cậu đó.”
Olivia trân trân nhìn Anne Buxton, rồi chuyển ánh nhìn sang Mary Cadogan, cô này gật đầu khẳng định chuyện đó là đúng. “Các cậu đùa đấy à,” nàng nói mặc dù biết rõ rằng Anne sẽ không bao giờ đùa chuyện như thế. Và ngồi lê đôi mách đã nhiễm vào máu thịt của cô.
“Đùa đâu mà đùa, anh ta đúng là hàng xóm mới của cậu còn gì,” Philomena Waincliff xen vào.
Olivia nhấp một ngụm trà cốt để có thời gian che giấu suy nghĩ thật sau nét mặt đan xen giữa bực mình và nghi hoặc. “Ý tớ là cậu ấy đùa về chuyện anh ta giết người ấy,” nàng nói, giọng nhẫn nại không giống nàng chút nào.
“Ra vậy,” Philomena nhón một miếng bánh quy.”Xin lỗi nhé.”
“Chính tai tớ nghe người ta nói anh ta giết vợ sắp cưới mà,” Anne khăng khăng.
“Nếu anh ta giết người thì phải vào tù rồi chứ,” Olivia cãi lại.
“Nếu không có chứng cớ thì đâu có bắt anh ta vào tù được.”
Olivia chầm chậm đưa mắt về phía bên trái, xuyên qua bức tường đá dày chắc, chừng ba mét đất lồng lộng gió xuân rồi một bức tường gạch dày nữa, là ngôi nhà ngài Harry Valentine mới thuê nằm ngay phía Nam nhà nàng.
Ba cô bạn nhìn theo hướng nàng nhìn, khiến Olivia thấy thật xuẩn ngốc, vì giờ cả bọn họ đang nhìn chăm chăm vào khoảng không trống trơn nơi bức tường phòng khách. “Anh ta chẳng giết ai cả,” nàng nói giọng chắc nịch.
“Sao cậu biết?”Anne vặn lại.
Mary gật đầu hùa theo.
“Vì anh ta không giết, thế thôi,” Olivia nói.”Anh ta sẽ không sống ngay cạnh nhà mình ở Mayfair thế này nếu đã giết người.”
“Nếu không có chứng cớ thì đâu có bắt anh ta vào tù được,” Anne lặp lại câu nói lúc nãy.
Mary gật đầu hùa theo.
Philomena nhón thêm một chiếc bánh nữa.
Olivia khẽ cong môi. Cong môi chứ không phải bĩu môi, nàng hy vọng thế. Để không lộ vẻ khó chịu. Giờ đã bốn giờ chiều. Ba cô bạn đã ở đây được một giờ đồng hồ rồi, tán hết chuyện này sang chuyện khác, bới móc hết chuyện người này đến chuyện người kia (đương nhiên rồi), và bàn luận về việc chọn váy cho ba buổi tiệc quan trọng sắp tới. Họ thường xuyên gặp nhau như thế này, chừng mỗi tuần một lần, và Olivia thích tụ tập với mấy cô bạn của mình, ngay cả khi những cuộc nói chuyện không thú vị như khi có người bạn thân nhất của nàng là Miranda, họ hồi con gái là Chcever, giờ đã là Bevclstoke.
Đúng vậy, Miranda đã bỏ cuộc chơi để theo chồng là anh trai của Olivia. Đây là một điều tốt đẹp.Một điều tuyệt vời. Họ đã là bạn bè với nhau từ thuở còn nằm trong nôi, và giờ họ sẽ là chị em cho đến khi nằm xuống đất. Nhưng điều đó cũng có nghĩa Miranda không còn là gái chưa chồng nữa, cô sẽ không phải làm những điều mà một cô gái chưa chồng phải làm.
Những điều cô gái chưa chồng phải làm
Olivia Bevelstoke, chưa chồng.
Mặc đồ màu nhã
(và nên vui đi nếu ta sở hữu một làn da hợp với những tông màu đó)
Hãy mỉm cười và giữ ý kiến cho riêng mình
(gắng làm thành công nhất có thể)
Hãy làm những điều cha mẹ bảo.
Chấp nhận hậu quả khi làm trái lời cha mẹ.
Hãy tìm một người chồng không khiến ta phải khó chịu vì cứ bảo ta phải làm theo ý anh ta.
Việc Olivia khắc cốt ghi tâm những điều lạ lùng đó không phải là chuyện bất thường. Điều đó có thể lý giải tại sao nàng thường xuyên bắt gặp mình không lắng nghe khi mà nàng cần phải làm thế.
Và có lẽ còn giải thích tại sao một đôi lần nàng nói những điều mà thực sự nàng chỉ nên giữ cho riêng mình biết. Mặc dù công bằng mà nói, cũng đã hai năm trôi qua kể từ khi nàng gọi ngài Robert Kent là chồn ecmin lớn quá khổ, và cũng thành thực mà nói, đó là cụm từ nhẹ nhàng nhất trong số những cụm từ nàng nghĩ trong đầu.
Quay trở lại chuyện chính, Miranda giờ phải làm những việc phụ nữ có chồng cần làm, và Olivia muốn soạn ra một danh sách những việc đó, trừ chuyện không một ai (ngay cả Miranda, và Olivia vẫn chưa tha thứ cho chị dâu về chuyện này) chịu cho nàng biết những điều phụ nữ có chồng làm, ngoại trừ không phải mặc đồ màu nhã, không cần phải có người đi kèm bất kỳ khi nào ra ngoài, và sinh con với khoảng cách sinh hợp lý.
Olivia chắc mẩm rằng điều cuối cùng chính là cái khó nói nhất nên cứ mỗi lần nàng hỏi đến là mẹ nàng lại lảng ra khỏi phòng.
Trở lại với chuyện về Miranda. Cô đã hạ sinh một bé gái - cháu gái Caroline đáng yêu của Olivia, vì con bé nàng sẵn lòng lao vào chốn hang hùm miệng cọp - và giờ sắp sửa cho ra đời một em bé nữa, thế có nghĩa là cô không còn rảnh rỗi để chiều chiều ngồi tán chuyện. Và vì Olivia thích nói chuyện phiếm -và cả thời trang cũng như ngồi lê đôi mách - nàng thấy mình ngày càng dành nhiều thời gian với Anne, Mary và Philomena. Dù ba cô là những người bạn thú vị và không bao giờ có ác ý gì, nhưng nhiều khi họ thật ngờ nghệch.
Như ngay lúc này đây.
“Vậy người ta là ai?” Olivia hỏi.
“Người ta á?” Anne hỏi lại.
“Ừ, người ta. Người bảo hàng xóm của tớ giết hôn thê của anh ta ấy.”
Anne khựng lại. Cô nhìn Mary.” Cậu nhớ không?”
Mary lắc đầu. “Không nhớ lắm. Hình như Sarah Forsythe hay sao ấy.”
“Không phải,” Philomena xen vào, lắc đầu quầy quậy.”Không phải Sarah đâu. Cậu ấy mới từ Bath về cách đây hai ngày thôi mà. Libby Lockwood phải không nhỉ?”
“Không phải Libby đâu,” Anne nói. “Nếu là Libby thì tớ phải nhớ chứ.”
“Thế tớ mới hỏi,” Olivia xen vào. “Các cậu không nhớ được ai nói chuyện này. Chẳng ai nhớ được.”
“Ô, tớ không bịa ra đâu,” Anne vẫn vớt vát.
“Tớ đâu có nói cậu bịa. Tớ không bao giờ nghĩ rằng cậu bịa bất kỳ chuyện gì. Đúng như thế. Anne kể lại hầu như bất kỳ điều gì cô nghe thấy được từ người khác, nhưng cô không bao giờ bịa chuyện.” Olivia ngừng nói, tập trung tư tưởng. “Các cậu có nghĩ rằng đó chỉ là một kiểu đồn đại mà ta cần xác minh không?”
Ba cô kia xoay sang nhìn nàng chăm chăm dò hỏi.
Olivia đổi chiến thuật. “Nếu vì chính sự an toàn của các cậu. Nếu chuyện như thế là sự thật...”
“Như vậy cậu cũng nghĩ là thật rồi hả?” Anne hỏi bằng giọng hơi áp đặt.
“Không.” Chúa ơi. “Tớ không nghĩ thế. Nhưng nếu chuyện đúng là thế thì anh ta dứt khoát không phải là người mà bọn mình muốn giao du.”
Không ai nói thêm gì một lúc lâu cho đến khi rốt cuộc Philomena phá vỡ im lặng: “Mẹ tớ đã bảo tớ nên tránh xa anh ta ra.”
“Đó là lý do tại sao tớ nên xác minh tin đồn đó.” Oliviatiếp tục, khó nhọc như đang lội qua một vũng bùn. “Bởi vì nếu chuyện này không đúng...”
“Anh ta rất đẹp trai,” Mary ngắt lời. Và nói thêm “Phải nói là anh ta rất đẹp trai.”
Olivia chớp mắt, cố nghe kịp.
“Tớ chưa bao giờ trông thấy anh ta,” Philomena nói.
“Anh ta mặc toàn đồ đen,” Mary nói, giọng điệu ra chiều vừa tiết lộ một bí mật chưa ai biết.
“Tớ thấy anh ta mặc đồ xanh sẫm mà,” Anne cãi lại.
“Anh ta chỉ mặc những màu tối thôi,” Mary sửa lại, ném sang Anne một tia nhìn cáu kỉnh. “Và mắt anh ta nữa chứ - ôi chúng có thể thiêu cháy các cậu được đấy.”
“Mắt anh ta màu gì?” Olivia hỏi, mường tượng đủ thứ màu vui mắt - đỏ, vàng, cam...
“Xanh da trời.”
“Xám chứ,” Anne nói.
“Xanh xám. Nhưng nhìn lạnh kinh lên được.”
Anne gật đầu, không phản đối ý kiến này.
“Thế tóc anh ta màu gì?” Olivia hỏi. Chắc chắn đây là đặc điểm được ngắm nghía kỹ càng.
“Nâu sẫm,” hai cô gái đồng thanh trả lời.
“Sẫm như tóc tớ không?” Philomena vừa hỏi vừa chạm tay lên mái tóc.
“Sẫm hơn,” Mary nói.
“Nhưng không phải đen,” Anne nói thêm. “Không hề đen.”
“Và anh ta cũng cao nữa,” Mary nói.
“Những người đẹp trai thì luôn thế mà,” Olivia lẩm bẩm.
“Nhưng không quá cao đâu,” Mary nói tiếp. “Tớ không thích mấy ông cao lêu nghêu.”
“Chắc chắn cậu đã trông thấy anh ta,” Anne nói với Olivia, “anh ta sống sát cạnh nhà cậu còn gì.”
“Tớ không nghĩ là đã trông thấy anh ta,” Olivia lẩm bẩm. “Anh ta mới thuê nhà đầu tháng, mà tớ thì dự tiệc nhà Macclesfield suốt tuần đó.”
“Cậu về London lúc nào?”Anne hỏi.
“Sáu ngày trước,” Olivia đáp, rồi vội quay sang chủ đề cả đám đang bàn tán: “Tớ thậm chí còn chả biết có một anh chàng chưa vợ đang sống nơi này nữa là.” Nói xong thì nàng mới nhận ra hàm nghĩa nếu nàng biết chuyện sớm hơn thì nàng đã cố tìm hiểu nhiều về anh ta rồi.
Điều này có thể đúng nhưng nàng sẽ không thừa nhận. “Các cậu có biết tớ nghe được gì không?” Philomena đột nhiên hỏi. “Anh ta đã đánh Julian Prentice.”
“Cái gì?” Cả ba người còn lại đồng thanh hét lớn.
“Cậu chỉ nghe hơi nồi chõ thôi chứ gì?” Anne thêm vào giọng không một chút tin tưởng.
Philomena gạt đi. “Anh tớ bảo thế. Anh ấy và Julian là bạn chí cốt mà.”
“Cụ thể ra làm sao?” Mary hỏi.
“Tớ không rõ lắm,” Philomena thừa nhận. “Robert chỉ nhớ mang máng thôi.”
“Đàn ông chả bao giờ nhớ được tường tận cả,” Olivia nói, nghĩ về người em song sinh của mình, Winston. Cậu ấy chẳng có ích gì trong những chuyện ngồi lê đôi mách thế này cả, không chút nào.
Philomena gật đầu đồng tình. “Lúc về Robert trông chán đời lắm. Hơi... ờ... nhếch nhác.”
Cả bọn gật đầu. Bởi ai cũng có anh trai.
“Anh ấy gần như không đứng thẳng được nữa,” Philomena tiếp tục. “Người thì bốc mùi um lên.” Cô phẩy phẩy tay trước mũi. “Tớ phải giúp anh ấy đi qua phòng khách làm sao để mẹ khỏi trông thấy đấy.”
“Vậy giờ anh ấy mắc nợ cậu rồi,” Olivia nói, song vẫn luôn trầm ngâm nghĩ ngợi.
Philomena gật đầu. “Rõ ràng là họ đã đi chơi đâu đó và làm bất kỳ chuyện gì cánh đàn ông hay làm, và Julian đã hơi...ờ...”
“Say bét nhè?” Anne xen vào.
“Lúc nào mà anh ta chẳng thế,” Olivia thêm vào.
“Ừ. Thế thì lúc về mới thảm thế chứ.” Philomena ngừng lời, cặp chân mày chau lại như đang cân nhắc điều gì - nhưng rồi cô thôi chau mày ngay và tiếp tục, “Anh ấy nói Julian chả làm gì quá đáng cả, thế mà cái ngài Harry đó đi đánh người ta phải gọi là tay đi đường tay chân đi đường chân.”
“Có đổ máu không?” Olivia hỏi.
“Olivia!” Mary quở trách.
“Hỏi thế thì sao nào?”
“Tớ chẳng biết có máu me gì không nữa,” Philomena nói cho qua chuyện.
“Tớ nghĩ là có đấy,” Olivia trầm ngâm. “Tay đi đương tay chân đi đường chân cơ mà.”
Chân tay là bộ phận ít quan trọng nhất đối với mình theo thứ tự từ trên xuống.
Olivia Bevelstoke
(lúc này chân tay vẫn còn nguyên)
Không, quên điều đó đi. Nàng ngọ nguậy mấy ngón chân trong đôi dép đi trong nhà, cố giữ vẻ điềm nhiên.
“Anh ta bị bầm đen một bên mắt” Philomena tiếp tục. “Ngài Harry á?” Anne hỏi.
“Julian Prentice chứ. Ngài Harry có bị bầm mắt không thì tớ chịu. Tớ có bao giờ thấy anh ta đâu.”
“Hôm kia tớ trông thấy anh ta,” Mary nói. “Không thấy mắt anh ta bị bầm.”
“Anh ta trông có vẻ thương tích gì không?”
“Không. Vẫn bảnh bao như thường lệ. Dù vậy, mặc toàn đồ đen. Khó hiểu thật.”
“Toàn đồ đen hả?” Olivia nhấn mạnh.
“Thì gần như thế. Sơ mi và ca vát trắng. Nhưng vẫn là...” Mary xua tay như thể không thể chấp nhận được khả năng đó. “Cứ như anh ta đang để tang ấy.”
“Biết đâu thế thật,” Anne nhảy vào. “Để tang cho vợ sắp cưới chứ còn gì nữa!”
“Người mà anh ta giết chết ư?” Philomena hỏi.
“Anh ta không giết ai cả!” Olivia hét lên.
“Sao cậu biết?” ba người đồng thanh hỏi.
Olivia sẽ phải trả lời câu hỏi này nhưng nàng chợt nhận ra mình không hề biết. Nàng chưa một lần trông thấy người đàn ông đó, những lời xì xầm về anh ta thì mãi tới giờ nàng mới được nghe. Thế nhưng nàng là người có óc phán đoán. Việc sát hại vợ sắp cưới nghe rất giống mấy cuốn tiểu thuyết lãng mạn kinh dị mà Mary và Anne vẫn thường hay đọc.
“Olivia!” ai đó lên tiếng.
Nàng chớp mắt, nhận ra rằng mình đã trầm ngâm mộtlúc rất lâu. “Không có gì,” nàng nói, lắc nhẹ đầu “Chỉ nghĩ chút thôi.”
“Về ngài Harry đó à,” Anne nói giọng hơi tự mãn.
“Đâu có vẻ gì là tớ có cơ hội nghĩ về chuyện khác chứ,” Olivia làu bàu.
“Thế có cơ hội thì cậu sẽ nghĩ về điều gì?” Philomena hỏi.
Olivia mở miệng chực nói, rồi chợt nhận ra mình không biết nên trả lời sao. “Bất kỳ điều gì,” rốt cuộc nàng nói. “Gần như mọi điều.”
Nhưng trí tò mò của nàng đã bị khêu gợi. Mà trí tò mò của tiểu thư Olivia Frances Bevelstoke thì dữ dội phải biết.
Cô gái nơi căn nhà phía Bắc lại quan sát anh. Cô ta làm thế đã suýt soát một tuần nay. Thoạt tiên Harry không bận tâm về chuyện đó. Cô ta là con gái của bá tước Rudland, ơn trời, hoặc nếu không thế thì cũng bà con gì đấy - chứ nếu là hầu gái thì chắc phải bị sa thải vì suốt ngày đứng bên cửa sổ mà không chịu làm gì rồi.
Và cô ta cũng không phải gia sư. Bá tước Rudland có vợ, hoặc Harry nghe bảo thế. Không có người vợ nào chịu thu nhận một nữ gia sư trông như thế cả.
Vậy nên chắc chắn cô ta là con gái nhà họ rồi. Thế có nghĩa là anh không có bất kỳ lý do nào để cho rằng cô ta là một quý cô tọc mạch, lấy việc chõ mũi vào chuyện của hàng xóm mới làm thú vui. Ngoại trừ việc cô ta đãtheo dõi anh thế này năm ngày nay rồi. Nếu cô ta tò mò về kiểu áo choàng và màu tóc của anh thì chắc hẳn giờ này cô ta đã thỏa mãn rồi.
Anh những muốn vẫy chào cô ta. Khoác lên mặt một nụ cười tươi tắn và vẫy chào. Như thế công cuộc theo dõi của cô ta sẽ chấm dứt. Nhưng như thế cũng có nghĩa là anh sẽ không bao giờ biết được tại sao cô ta để ý đến anh như vậy.
Điều đó Harry không thể nào chịu được. Anh không bao giờ có thể chịu đựng được việc câu hỏi “tại sao” của anh không được trả lời mà cứ lửng lơ như thế.
Chưa kể anh hoàn toàn không đủ gần cửa sổ nhà cô ta để có thể nhìn nét mặt cô ta mà đoán câu trả lời. Điều đó dập tắt trong anh suy tính vẫy tay chào. Nếu cô ta ngượng ngùng, anh muốn trông thấy vẻ mặt ấy. Không thế thì còn gì thú vị chứ?
Harry ngồi lại ghế, làm như thể mình không hề hay biết cô ta lén nhìn anh qua rèm cửa. Anh phải làm việc, và anh cần thôi băn khoăn về cô gái tóc vàng nơi cửa sổ nhà hàng xóm. Sáng sớm hôm nay một người đưa tin từ Bộ Chiến tranh đã giao cho anh một tài liệu khá dài cần phải dịch ngay. Harry luôn làm theo một quy trình khi dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh - trước tiên đọc lướt qua để hiểu được nội dung, rồi đọc kỹ hơn, lần này đọc hết từng từ một. Sau khi nghiên cứu tài liệu xong đâu đấy, anh lấy bút mực ra và bắt đầu dịch.
Đó là một công việc nhạt nhẽo. Nhưng anh thích vậy, bởi lẽ anh luôn thích những thách thức. Anh có thể ngồi hàng giờ với xấp tài liệu, và chỉ khi mặt trời lặn anh mới sực nhớ ra cả ngày nay mình chưa ăn gì. Nhưng ngay cả anh, một người ham mê công việc dịch thuật, cũng không tưởng tượng nổi lại có ai bỏ ra cả ngày theo dõi người khác dịch.
Vậy mà giờ cô ta lại ở đó, một lần nữa đứng nơi cửa sổ.
Có thể cô ra đang nghĩ cô ta ẩn mình rất khéo vàanh là một kẻ đại ngốc.
Anh nở một nụ cười tự mãn. Cô ta không biết gì. Đúng là Harry làm việc cho cái ban tẻ nhạt trong Bộ Chiến tranh - công việc chỉ liên quan đến từ ngữ và giấy tờ thay vì súng ống đạn dược và những điệp vụ mật - nhưng anh đã được đào tạo kỹ lưỡng. Anh đã ở trong quân đội được mười năm, hầu hết thời gian đó ở Lục địa, nơi mà sự sống và cái chết phụ thuộc vào sự tinh mắt và chuyển đ
Tác giả :
Julia Quinn