Chuyện Tình Vịnh Cedar 2: Ngày Mai Không Hẹn Trước
Chương 5
“Cậu có kế hoạch cho tối nay chưa?”. Grace gọi điện cho Olivia vào chiều tối thứ Sáu tuần sau đó. Đó là một ngày mát trời bởi đã vào cuối tháng Mười. Olivia vẫn chờ điện thoại của Jack kể từ sau cuộc gọi hôm sinh nhật chị.
“Kế hoạch à? Ước gì tớ có kế hoạch...”, Olivia nói. ''Cậu có gợi ý gì hay không?'', chị hỏi với vẻ nhiệt tình hơn một tí.
“Hay đi xem đá bóng đi?”, Grace nói. "Sau đó chúng ta sẽ đi ăn tối. Đã lâu quá rồi chúng mình chẳng có dịp ngồi với nhau”.
Olivia rất vui vì Grace gọi điện cho chị. Trong suốt những tháng ngày Dan bỏ nhà ra đi, Grace đã khép lòng mình lại với hầu hết mọi người. Chị luôn nói chuyện ngắn gọn và lạnh nhạt, rõ ràng chị không muốn động chạm đến ngọn ngành của nỗi đau buồn vốn ăn sâu trong cuộc đời mình. Hết lần này đến lần khác, chị cứ trì hoãn các cuộc viếng thăm và nhiều hoạt động xã hội. Chị luôn quan tâm đến Olivia, nhưng chị tôn trọng nhu cầu cá nhân của bạn mình. Chẳng có gì đáng chê trách hay phàn nàn về tình bạn lâu bền và vững chắc giữa họ. Grace đang giải quyết việc hôn nhân của mình. Còn Olivia vẫn luôn bên bạn, động viên khích lệ bạn bằng những tin nhắn và cuộc điện thoại thường xuyên chỉ để duy trì mối tâm tình giữa hai người. Và cũng là để Grace biết rằng chị sẽ luôn ở bên cạnh. Đây là lần đầu tiên sau một thời gian dài, Grace mới gọi điện lại và rủ bạn ra ngoài.
“Tớ thích tham gia vào một trò chơi nào đó”. Olivia nói với bạn.
“Tớ nghĩ là cậu nên đi”, Grace nói. “Thế Jack gọi lại cho cậu chưa?”
“Chẳng một lời nào”.
“Khỉ thật”.
Grace có quyền nói thế. Olivia chán phải thanh minh cho anh lắm rồi, ngay cả với tự bản thân chị nữa. Cả tuần anh vắng bóng, không gọi điện cũng chẳng ghé qua cho dù họ đã hẹn cứ thứ Ba là phải ở bên nhau, tuần nào cũng vậy. Chị không thể không thất vọng khi anh phải hủy cuộc hẹn hôm thứ Bảy đó; dĩ nhiên là chị hiểu lý do. Nhưng lúc đó chị hy vọng anh sẽ gọi lại, hay ít ra là, nhắn một lời ngắn gọn cho chị biết tình hình Eric như thế nào - và nói là anh nhớ chị biết bao. Lẽ ra anh đã phải gọi điện để lên kế hoạch cho tuần tới hay thậm chí là tuần sau nữa cũng được. Vậy mà anh đã phớt lờ chị.
“Mình gặp nhau ở sân bóng lúc bảy giờ nhé.” Grace hẹn.
“Tớ sẽ đến”.
Olivia rất muốn đến một nơi nào đó hoặc làm một việc gì đó. Đặc biệt là cùng với người bạn thân nhất, người đã dứt chị ra khỏi nỗi cô độc mà chị bắt mình phải chịu đựng. Đã vài tháng nay, cuộc sống xã hội của chị chỉ quay quanh Jack. Gần như họ thường xuyên dành cả ngày cuối tuần cho nhau. Lúc bảy giờ, Olivia và Grace gặp nhau bên ngoài hàng rào sân vận động bóng đá của trường trung học vịnh Cedar. Cả sân được thắp sáng bằng những ánh đèn điện và chỗ ngồi ở cả hai bên đã nhanh chóng chật ních người xem. Grace mặc một chiếc áo choàng len màu xanh và một chiếc khăn choàng lên sọc xanh. Chị đội một chiếc mũ trên mái tóc dày màu hạt tiêu và nó rất hợp với chị.
Dan luôn thích vợ để tóc dài ngang vai như cái thuở còn học trung học, nhưng bây giờ Grace chẳng cần phải làm vừa lòng Dan nữa.
“Trông cậu tuyệt lắm”, Olivia bình luận khi họ đứng vào hàng mua vé. “Tất nhiên rồi. Dạo này cậu chỉ trông thấy tớ mướt mồ hôi lúc tập aerobic thôi mà”.
Olivia mỉm cười vì điều đó quá đúng.
“Cậu còn nhớ là hồi còn trung học bọn mình hay đi xem và cổ vũ cho đội bóng không?”. Grace hỏi khi những người xếp hàng đang dần tiến về phía quầy bán vé.
“Tớ nhớ chứ. Bob Beldon và Dan là hai người hùng của bọn mình còn gì...”, Olivia ngừng lại. Chị thấy ân hận vì mình lại nhắc đến Dan trong câu chuyện.
Grace nắm cánh tay bạn. “Tớ cũng đang nghĩ về điều đó. Dan đúng là một vận động viên tuyệt vời lúc anh ấy còn trẻ. Tớ vẫn còn nhớ cái năm anh ấy ghi được bàn thắng quyết định giúp cho đội vịnh Cedar của chúng ta giành được chiến thắng lần đầu tiên trong thập kỷ”.
“Tớ cũng nhớ chuyện đó”. Olivia nói, mắt liếc nhìn bạn. ''Nói chuyện về Dan không làm cậu đau lòng đấy chứ?''.
Grace nhìn vào khoảng không. ''Cũng không hẳn vậy. Nhưng những năm trước, trước khi anh ấy đi Việt Nam thì dễ dàng với tớ hơn”. Rồi chị im lặng một lát. "Tớ chẳng biết tại sao anh ấy lại rời bỏ tớ theo kiểu ấy. Tớ nghĩ về điều đó hàng ngàn lần mà chẳng thể tìm ra câu trả lời. Tớ không hiểu sao anh ấy hành động như thế được. Tớ nhận ra rằng tớ sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi đâu. Tất cả những gì tớ có thể nói, là sự lựa chọn đó là của anh ấy. Tớ cũng có sự lựa chọn của riêng tớ. Và tớ vẫn phải sống tiếp cuộc sống của tớ đấy thôi''.
“Cậu luôn là một phụ nữ manh mẽ”, Ohvia nói, không che giấu được vẻ ngưỡng mộ bạn mình, "nhưng bây giờ cậu còn mạnh mẽ hơn bất cứ lúc nào".
“Ước gì điều cậu nói là sự thật”, Grace lẩm bẩm và sau đó chuyển sang chủ đề khác, mắt ngước lên bầu trời đêm. "Trong cả năm thì thời điểm này làm tớ thích nhất đấy''.
“Tớ cũng vậy”. Thời tiết ở Tây bắc Thái Bình Dương đã thay đổi trong hai tuần vừa rồi. Chẳng bao lâu nữa, những cơn mưa thu sẽ bắt đầu, và những buổi tối trời trong veo sẽ biến thành những cơn gió bão hòa cùng những cơn mưa phùn liên tiếp.
Trả tiền vé xong, họ mua tờ chương trình của một thành viên đội dự bị đang bán rong những cuốn sách nhỏ ngay trong sân cỏ. Đi hướng về phía khán đài, Olivia chợt dừng lại để xem còn chỗ nào trống không.
“Olivia ơi! Grace ơi!”, tiếng bà Charlotte gọi toáng lên từ bên sân của đội nhà.
Olivia nhìn quanh cho đến khi nhận ra mẹ vẫy tay ở phía trên đầu. Bà Charlotte đang ngồi cạnh Cliff Harding ở khoảng giữa lối đi. Bà bận áo có vạt xếp nếp với một dải khâu màu đỏ. Còn Cliff thì mặc một chiếc áo khoác da có tua rua và đội chiếc mũ cao bồi đã cũ.
“Cậu có ngại ngồi gần mẹ tớ không hả Grace?”. Olivia hỏi, mặc dù ngụ ý của chị là muốn ám chỉ đến việc ngồi cạnh Cliff Harding.
“Không, chả ngại đâu”, Grace liếc nhìn Cliff và chậm rãi nở nụ cười với anh. Bây giờ, thật đúng là một bước tiến triển thú vị, Olivia nghĩ khi họ bước lên bậc tam cấp.
Olivia ôm bà Charlotte khi đi ngang qua chỗ mẹ. Dịch xuống phía dưới, chị để lại khoảng trống cho Grace. Cliff ngồi bên ngoài của dãy ghế, ngay cạnh cầu thang.
“Thật là ngạc nhiên đến hài lòng khi nhìn thấy hai con ở đây”, bà Charlotte nói, giọng nghe rất vui vẻ. “Cliff chưa bao giờ xem một trận bóng nào ở vịnh Cedar cả. Cột báo của mẹ tuần này là để hỗ trợ thanh niên đâu các con biết chưa?”
“Con đọc rồi mẹ ạ, đó là một mục tuyệt vời”. Mẹ chị đã trích phần nhuận bút viết báo cho trang người cao tuổi của tờ Bản tin vùng vịnh Cedar cho trận đấu này.
“Cliff cũng đọc nó rồi. Và mẹ bảo là cậu ấy chưa thể hòa nhập với khu dân cư ở đây nếu như cậu ấy chưa đi cổ vũ cho đội bóng của chúng ta”.
Cliff đang xem tờ chương trình và dường như rất ấn tượng với việc tất cả những quảng cáo về cộng đồng ở đây đã ủng hộ cho đội bóng. “Lần cuối cùng cháu tham gia vào đội bóng của một trường trung học cũng là lúc bản thân cháu vẫn đang học trung học đấy bác ạ”.
“Thị trấn này rất mê bóng đá”, Olivia kể cho anh nghe.
“Tôi nhìn là thấy rồi”. Trận đấu sắp sửa bắt đầu rồi. Chỗ ngồi đã chật kín, chỉ còn chỗ đứng mà thôi. Bên cạnh đội bóng còn có ban nhạc của trường, đội ngũ cổ động viên và đội quân dự bị cũng có mặt.
“Hai người đã có kế hoạch gì sau khi xem xong trận đấu chưa?”. Cliff hỏi, nhưng Olivia nhận ra rằng anh chỉ muốn hướng câu hỏi về phía Grace thôi.
“Olivia và em sẽ đi ăn tối ở ngoài”, Grace giải thích.
“Cliff cũng mời mẹ đi ra ngoài ăn tối đấy”, bà Charlotte lên tiếng. “Sao hai con không tham gia cùng chúng ta nhỉ?”. Rồi bà đưa mắt nhìn lần lượt cả hai người.
“Thế thì vui quá còn gì”, Olivia nói. Thấy phản ứng của Grace hướng về phía Cliff, Olivia biết rằng bạn mình sẽ không phản đối.
Trận đấu đã khép lại, và vào giữa hiệp đã có tỉ số. Olivia lại một lần nữa ngạc nhiên vì mẹ mình quen biết khá nhiều người. Mỗi lúc lại có một người đi qua chào bà. Cột báo hàng tuần bà viết bài đã làm bà ngày càng nổi tiếng thêm và được yêu mến hơn với các hoạt động từ thiện, cả những công việc tình nguyện bà làm ở trung tâm dưỡng bệnh, nơi bà đã gặp gỡ ông Tom Harding.
Trường trung học vịnh Cedar đã chiến thắng vào năm giây cuối cùng của trận đấu. Tâm trạng của cả bốn vẫn còn như ngày hội ngay cả khi sân vận động đã hết người xem. Cliff nghĩ quán Pancake Palace sẽ nhất định rất đông sau trận thắng này, nên anh gợi ý cả nhóm ra nhà hàng Bếp Thuyền Trưởng ở khu vực cuối thị trấn.
Họ gặp nhau ở đó và nhanh chóng chọn một cái bàn cho bốn người. Olivia nhận ra rằng Cecilia Randall vẫn còn làm phục vụ ở đây nhưng không có nhiều thời gian để nói tán gẫu với cô vợ hải quân trẻ tuổi đó. Khi họ đã ngồi vào bàn ăn, câu chuyện trở nên nhẹ nhàng cả trước và sau khi họ gọi món. Olivia nhận ra rằng suy nghĩ của mình lại quanh quẩn hướng về Jack, và điều đó làm chị mất tập trung. Không hề tỏ ra cho ai biết, chị đã tìm kiếm anh trong suốt trận đấu. Anh thường hay viết những bài báo thể thao cho các đội bóng trung học, đơn giản vì anh yêu thích những trận đấu ấy. Olivia đã đầu hàng việc đêm xem bao nhiêu sự kiện thể thao mà họ đã cùng tham gia. Nhưng nếu anh ấy có đến trận đấu tối nay thì chắc chị cũng không thể nhìn thấy anh.
Tất nhiên chị có thể gọi điện cho anh. Xét cho cùng thì họ có cãi nhau đâu, mặc dù vậy chị vẫn phải băn khoăn là tại sao anh lại không gọi điện lại cho mình. Có lẽ Eric vẫn còn ở với anh, nhưng con trai anh không thế lấy hết từng giây từng phút của anh đến thế. Olivia bắt đầu thấy giận Jack. Câu chuyện tạm ngưng lại khi người bồi bàn mang thức ăn ra. Và rồi sau đó lại tiếp tục. Họ chuyển đề tài từ trận đấu bóng sang tình hình kinh tế địa phương. Thỉnh thoảng Olivia đã phải bình luận thêm khi thưởng thức món sa-lát cua. Thế nhưng tinh thần của chị chẳng hào hứng được như họ và chị phải tự tranh đấu với bản thân để tách suy nghĩ của mình ra khỏi Jack. Mặc dù thỉnh thoảng có hẹn hò kể từ sau khi bỏ chồng, vẫn chưa gần gũi với ai như đã gần với Jack. Tuy tính cách của họ, hoàn cảnh của họ khác nhau nhưng anh đã mang lại sự cân bằng và sự thoải mái phù hợp với lịch làm việc cứng nhắc của chị. Bên anh chị được tự do cười đùa và có thế gạt bỏ những thói quen nhàm chán đã ăn sâu vào cuộc sống của mình kể từ khi chị được bầu vào làm việc tại tòa án. Jack không cổ hủ, anh khá hài hước và vui tính - và tệ nhất là chị lại nhớ anh đến da diết mới khổ chứ.
Hóa đơn đã được mang ra, và trước khi mọi người tranh nhau thì Cliff đã vớ lấy nó. “Để tôi khao, thưa các quý bà quý cô”, anh khăng khăng. Olivia phản đối. Chị không bao giờ đồng ý đi ăn nếu biết Cliff sẽ trả tiền.
“Tôi không để cho anh làm việc đó đâu”, chị nói.
“Này cô, một người đàn ông liệu có bao nhiêu lần trong đời có cơ hội ngồi cùng bàn với ba người phụ nữ xinh đẹp hả?”.
“Cháu nói hay lắm”, bà Charlotte nhận xét và vỗ tay tán thưởng, ném cho Olivia một cái nhìn sắc bén. Olivia thở dài chấp nhận và chị khẽ đáp lời cảm ơn anh.
Grace đùa. ''Anh chắc là anh không dùng thẻ tín dụng của tôi để thanh toán đấy chứ?''.
Họ phá lên cười vui vẻ và sau một chầu cà-phê, họ chia tay nhau ra về vì trời đã gần chuyển sang đêm.
“Mọi chuyện ổn chứ?”. Grace hỏi khi họ đi bộ xuống khu để xe cạnh thư viện. “Tối nay sao cậu ít nói thế”. Olivia đã hi vọng có được ít phút để nói chuyện riêng với Grace nhưng vì mẹ và Cliff xuất hiện nên chuyện đó không thành.
“Ai mà dám chen lời với mẹ tớ chứ?”, Olivia đùa.
“Chuyện giữa cậu và Jack có ổn không?”. Làm sao Grace có thể quan tâm đến những băn khoăn trong lòng bạn khi chính cuộc sống của chị cũng đầy biến động.
“Tớ cũng nghĩ là ổn”, Olivia bảo, rồi sau đó nói thêm ''tớ hi vọng là ổn''.
“Tớ cũng hi vọng thế”.
Họ chia tay nhau và hứa sẽ sớm gặp nhau để tâm sự tiếp. Olivia lái xe về nhà. Khi vào phòng khách, chị thấy ánh đèn nhấp nháy trên điện thoại báo rằng có tin nhắn trong hộp thoại tự động. Chị nhìn xuống với vài giây hi vọng. Ấn nút để nghe chị chờ đợi và được thưởng bằng giọng nói của Jack.
“Olivia à. Anh xin lỗi vì đã không liên lạc thời gian qua, nhưng anh đã quá bận rộn với thằng Eric. Anh hi vọng em ở nhà để chúng ta có thể nói chuyện. Em không đi chơi với anh chàng nào khác đấy chứ?”. Liền đó là một tiếng cười gượng gạo. “Em nghe này, anh thật sự rất lấy làm tiếc vì tuần trước. Nhưng anh đã mong ước biết bao được gặp em. Em gọi cho anh nhé? Anh có một món quà sinh nhật rất đặc biệt dành cho em đấy. Chúng mình sớm gặp nhau được không em?”.
Olivia nhìn đồng hồ. Gần mười một giờ đêm rồi và nếu gọi lại cho anh giờ này thì muộn quá. Dù sao thì anh đã bắt chị đợi chờ cá tuần rồi, chị sẽ để anh phấp phỏng cho đến sáng mai cũng chẳng sao. Khi nằm dài ra giường, Olivia mỉm cười sung sướng.
Maryellen muốn đá cho mình một cái vì phải tham dự cái ý tưởng “trao đổi đàn ông” kỳ cục này. Chỉ tại cô ngây thơ đề cập đến cái bài báo nói về thị trấn ở Ai Len mà cô đọc được. Điều tiếp theo là cô đã trở thành người tham gia lên kế hoạch cho bữa tiệc. Khi đến sửa móng tay lần sau, mọi người lại bàn tán việc tự tập tại lễ hội Halloween và cô quên mất không đếm xem có bao nhiêu người tham gia.
“Cậu vẫn nhớ là sẽ mang theo anh chàng bếp trưởng bạn cậu chứ?”, Terri hỏi. Maryellen vừa mới ngồi xuống thì Terri đã bắt đầu tra tấn cô bằng các câu hỏi về Jon mà cô chẳng thể trả lời hết được.
“Thì như tớ đã nói rồi, anh ấy chỉ là một người bạn thôi - à không”, cô sửa lại, ''Jon chỉ hơn là một người quen qua công việc thôi. Còn anh ấy cũng chưa khẳng định là có tới được hay không nữa”.
“Ôi thế à”. Terri thốt lên vẻ thất vọng. “Thế cậu cũng không biết là anh ấy có đến được hay không à?”.
“Tớ không thể chắc chắn được”. Sau câu chuyện mở đầu từ tuần trước, cô đã nói chuyện lại với Jon đâu. “Nếu anh ấy không đến, tớ bảo đảm sẽ giới thiệu cho cậu vào dịp khác”.
Đôi mắt đen láy của Terri sáng bừng lên. “Tuyệt đấy”.
Đêm hôm sau - đêm lễ hội Halloween - Maryellen đứng ở góc tối nhất, khuất nhất của quán bar đã được trang trí rất đẹp với một hình nộm con nhện lúc lắc đu đua từ trên trần nhà thẳng xuống chỗ cô đứng. Hơn bao giờ hết, cô quả quyết rằng mình đã phạm một sai lầm khi đến đây. Căn phòng đông đúc và chật cứng với hàng trăm thanh niên nam nữ, người thì mặc trang phục hóa trang, người thì không.
Thế rồi không hẹn trước, và vì không nhìn thấy Jon đi vào nên Jon đứng ngay bên cô lúc nào mà cô không biết. Anh đang cầm trên tay cốc bia lạnh, “chào em”, anh lên tiếng trước, mắt nhìn về phía căn phòng đông đúc. “Anh đến đấy à”. Bây giờ thì mọi thứ sáng sủa rồi. Cô chẳng biết nói sao nữa ''Ý em là... anh đã không gọi điện trước cho em. Em không thấy anh nói gì nên em tưởng anh không đến''.
"Lẽ ra anh nên gọi điện trước cho em, nhưng anh muốn chắc chắn xem mình có thể nghỉ vào buổi tối hôm nay không đã''.
“Có gì đâu - anh chẳng phải xin lỗi làm gì”. Anh ấy đã không xin lỗi nhưng...
“Với nhà hàng và công việc chụp ảnh, anh phải làm nhiều giờ quá. Thỉnh thoảng anh không thế chủ động được giờ giấc của mình nữa”.
Thói quen làm việc của nghệ sĩ thì Maryellen chẳng lạ gì. "Em hiểu mà''.
Anh hớp một ngụm bia. ''Để anh lấy gì cho em uống nhé?''
“Em không cần đâu, cảm ơn anh”. Rồi cô nhìn quanh văn phòng và bắt gặp Terri đang trong trang phục của Cleopatra, mắt trang điểm rất đậm và mang bộ tóc giả màu đen. “Kia là người em muốn giới thiệu với anh”.
“Được rồi”, Jon bảo và đi theo tay cô vẫy qua đám đông.
“Terii”, Maryellen cất tiếng gọi làm gián đoạn câu chuyện dở dang của Terri với một người khác - đàn ông hay đàn bà nhỉ - đang mặc bộ áo choàng rộng thùng thình của phù thuỷ. “Đây là anh Jon, người mà tớ đã kể cho cậu nghe rồi đấy”.
“Xin chào anh, Jon”. Terri quay lại, như thể cô đã chờ đợi cả cuộc đời chỉ để có được giây phút này. Anh chàng phù thuỷ, khi không được cô chú ý nữa thì đã bỏ đi từ bao giờ.
“Rất vui được gặp em, Terri”, Jon nói.
“Em nghe nói anh là bếp trưởng” Terri tiến lại gần anh hơn, và Maryellen có thể thấy rằng Terri đã uống quá đủ rồi. Cô cắn môi, nghĩ xem làm thế nào để gợi ý cho họ gặp nhau lần khác là tốt nhất. ''Em cũng biết vào bếp đấy. Muốn khuấy cái nọ với cái kia ấy mà?''
“Nghe cũng vui đấy”. Jon lại uống một ngụm bia nữa, và Maryellen thấy rằng anh đang cố gắng để che đi một nụ cười.
“Em nghe Maryellen nói anh còn chụp ảnh nữa, đúng không”.
“Việc tay trái thôi mà”.
Nghe vậy Maryellen vội chen vào giải thích, chữa lại những gì anh tự nói về mình. ''Thực ra anh Jon là một nghệ sĩ nhiếp ảnh xuất sắc”. Không muốn huyên thuyên chen vào chuyện của hai người nên Maryellen quyết định đi lang thang quanh quẩn trong phòng và cuối cùng lại tìm về cái góc an toàn lúc nãy. Nhưng chẳng mấy chốc Jon đã lại đến bến cô. “Vậy Terri là cô gái mà em muốn anh kết bạn đấy à?”, anh hỏi.
“Anh đã bao giờ làm điều gì phải hối tiếc chưa?”, cô hỏi. ''Em e rằng đây là một trong những tình huống như vậy”.
Jon gật đầu, nhưng không đáp lại lời nào. Và họ cứ đứng yên lặng như thế trong vài phút.
Ai đó đã cho một nắm xu lẻ vào máy hát tự động, thế là nhạc nổi lên. Vài đôi đã đưa nhau ra sàn để khiêu vũ. Jon làm bộ khoát tay. “Chúng ta nhảy nhé?”.
Jon không để cho cô có cơ hội từ chối. Anh đặt cốc bia sang bên cạnh và nhẹ nhàng kéo cô trong vòng tay ôm của mình.
Anh cảm thấy mạnh mẽ và rắn rỏi khi được chạm vào người cô. Thế nhưng Maryellen chẳng có xúc cảm gì hết. “Em nghĩ chúng ta đừng nên như vậy”, cô nói vẻ cứng nhắc. Cô không muốn Jon ôm cô càng không muốn mối quan hệ này đi xa hơn trừ công việc. Nhưng cô cũng nhận ra rằng chính mình đã phá lệ khi nhấc máy gọi điện mời anh đến đây - và nhận ra rằng cô cũng bị Jon Bowman hấp dẫn.
“Em hãy thứ giãn đi”, anh thì thầm vào tai cô.
“Em không thế”.
“Tại sao lại không thế?”.
Cô thở dài. “Đó là cả một câu chuyện dài, Jon ạ. Em nói nghiêm túc đấy, chẳng có gì hay ho”. Nếu từ chối thì thật là vô duyên. "Thôi được'', cô đồng ý, nhưng miễn cưỡng. Maryellen cố gắng giữ khoảng cách với Jon dù rất khó bởi cô đã ở trọn trong vòng tay ôm chặt của anh, và buộc phải tiến gần sát với anh. Bản nhạc thuộc loại cố điển và điệu nhảy trở nên chậm. Đó là bản “Hoa anh đào” và cô không thể không bị cuốn hút theo. Nếu như Jon không dịu dàng, nồng ấm và quan tâm thì có lẽ cô đã dễ dàng giữ được sự kín đáo của mình. Cô bắt đầu cảm thấy thoải mái dần trong tay anh.
“Tốt hơn, tốt hơn nhiều rồi đấy em ạ”, anh thì thầm và dẫn cô ra giữa sàn nhảy. Anh đỡ lưng cô trong một động tác thân mật và chậm làm cho nhịp tim cô đập rộn lên. m nhạc đã tắt từ bao giờ mà mãi cô mới dừng lại được.
“Không tồi chút nào, đúng không em?”, Jon hỏi.
Cô ngước mắt nhìn anh, không nhận ra rằng mình đã nhắm mắt suốt từ nãy. “Không”. Hơi sợ nhưng thật tuyệt vời, cả hai cùng thấy thế. Cô thật sự không muốn cảm nhận điều này chút nào. Những tiếng chuông báo động lại vang lên trong đầu cô. Tuy nhiên, khi bản nhạc tiếp theo nổi lên ngay cả trước khi Jon đề nghị - cô đã trượt vào vòng tay anh, ôm cổ anh và xoay tròn cùng anh.
Jon chẳng nói được lời nào, nhưng cô cảm nhận được nụ cười của anh. Và cô bỗng ngạc nhiên thấy mình cũng mỉm cười.
Họ nhảy hết bản nhạc này đến bản nhạc khác trong nhiều giờ đồng hồ. Không nói chuyện gì cả, nhưng mối giao lưu tâm tình giữa họ thì rất rõ ràng. Cái cách anh ôm chặt cô vào lòng chứng tỏ cho cô thấy rằng anh thật sự quan tâm và muốn gần gũi cô. Còn cách cô đáp lại sự đụng chạm của anh cũng cho anh thấy những tác phẩm sáng giá và đẹp đẽ của mình đã hấp dẫn được cô - với cả hai tư cách: một nguời nghệ sĩ và một người đàn ông.
Cô muốn biết lý do làm sao mà anh luôn trả lời các câu hỏi bằng một câu hỏi khác. Hay là anh có những bí mật? Cô nghĩ là anh có bí mật thật. Thì bản thân cô cũng có bí mật đấy thôi. Những bí mật đã từng được đào sâu chôn chặt ngay từ những ngày đầu của đời sống vợ chồng. Chẳng ai biết, ngay cả mẹ cô. Em cô cũng không biết nốt. Có lẽ bởi nguyên do ấy mà cả hai đã xích lại gần nhau. Có lẽ anh đã linh cảm được điều này ở cô và cô cũng cảm thấy ở anh. Maryellen chỉ chắc chắn được một vế. Bí mật thật nguy hiểm.
Lễ hội Halloween đã khép lại. Jon muốn đưa cô ra chỗ để xe. Maryellen đồng ý. Vì biết trước thế nào bãi đỗ xe cũng đông nên Maryellen đã đỗ xe ngay phía sau phòng trưng bày nghệ thuật của của mình. Trời tối và vắng. Cô thấy mừng vì Jon đã tự nguyện tháp tùng cô như thế.
“Anh đã có buổi tối thật vui vẻ”, anh bảo cô khi cả hai bước vào con hẻm.
“Em cũng vậy đấy”. Chỉ cách con phố chưa đầy nửa mét, bóng tối đã nuốt chửng họ.
“Anh tha thứ cho em vì cái tội định đá anh cho bạn em đấy”.
Khuôn mặt Maryellen chợt bừng đỏ, và cô thấy biết ơn bởi trời không đủ sáng để Jon nhận ra. ''Đó chỉ là hiếu nhầm thôi mà anh''.
Anh đùa. ''Nếu em nói thế thì anh tin''
Khi Maryellen lục tìm ví để lấy chìa khóa xe ôtô, Jon ngăn cô lại. “Anh đã muốn tìm hiểu nhiều hơn về em từ mấy năm nay rồi, em biết không”, anh nói với giọng trầm lắng.
Maryellen không thể nói thêm lời nào, tất cả đang phụ thuộc vào câu trả lời của cô. Cô tưởng tượng mình sẽ cảm ơn anh theo kiểu thẳng thừng, có thể là khiếm nhã, sau đó sẽ nhanh chóng mở cửa xe. Nhưng thay vào đó, cô lại đứng như mọc rễ tại chỗ và nhìn anh không chóp. Anh tiến lại thật gần, rồi cúi xuống hôn cô. Không thế xảy ra chuyện này được, đơn giản là cô không thể cho phép mình. Vậy mà ý định muốn phản kháng chỉ lướt qua rất nhanh trong đầu cô rồi bay biến đi đâu hết. Cô nhận ra mình đang chầm chậm - loại bỏ những giới hạn - và dần dần dựa vào anh. Cô ngẩng đầu lên, mắt khẽ nhắm lại.
Khi đôi môi anh chạm vào môi cô thì như không thể chờ đợi thêm được nữa, nụ hôn bỗng trở nên gấp gáp và say mê. Jon nâng bổng cô lên khỏi vỉa hè cho đến khi cô chỉ còn đứng bằng mũi bàn chân. Miệng anh như gặp cơn đói, gấp gáp và thèm muốn. Đôi môi anh nuốt trọn lấy môi cô. Cô nhắm nghiền mắt, nằm trọn nỗi đam mê của anh khi lưỡi anh lùa trong miệng mình, cô nuốt lấy những tiếng rên rỉ của anh, cứ như thế cho đến khi cô chắc chắn mình sắp ngất vì choáng ngợp trước nụ hôn ấy.
Chưa có người đàn ông nào, kể cả chồng cũ của cô trước đây, hôn cô say mê và đắm đuối đến thế.
Khi Jon dừng lại, Maryellen như nghẹt thở, không nói được lời nào. Anh buông cô ra, cô đổ nhào xuống mặt đất.
“Ôi không”. Cô cố gắng nói gì đó nhưng chỉ bật ra được hai tiếng như vậy.
“Không?”. Jon hỏi.
“Ôi… không”.
“Anh có miếng băng ở đây, để anh băng lại chỗ bầm này cho em. Em không thể làm tốt hơn thế được sao?”.
“Anh Jon”. Phải mất một lúc cô mới lấy lại được bình tĩnh. ''Đó là...''.
“Khỉ thật, giá em bảo trước với anh”.
“Vâng...”. Maryellen không sao mở lời để giải thích cho anh lý do cô không nói trước.
“Anh đã muốn làm thế trong suốt cả buổi tối nay đấy”, Jon nói với giọng thỏa mãn.
Vặn vẹo hai bàn tay, Maryellen ngồi thụp vào trong xe. Cô vẫn rất khó thở, và vì lý do nào đó, cô cảm thấy như mình sắp sửa khóc. ''Em nghĩ chúng ta cần nói chuyện".
“Chúng ta sẽ nói chuyện”, Jon hứa và lại cúi xuống hôn cô. Maryellen nửa như phản kháng nửa như chờ đợi, và mặc dù cô đã lường trước sự việc nhưng khi anh đụng vào, cô như bừng tỉnh, cô thở hổn hển vì bất ngờ và cả hài lòng nữa.
"Chẳng lâu nữa đâu em ạ'', anh nói khi rời đôi môi của cô. “Em đồng ý không?”.
“Được ạ”, cô nói giọng đã khản đặc, mặc dù cô không thể gọi tên được cái gì sẽ diễn ra ở cái thời điểm “chẳng bao lâu nữa” ấy.
Khi đã an toàn trong xe, Maryellen đặt tay lên vô lăng. Cô thấy tay mình run khủng khiếp, đến nỗi cô không thể tra chìa khóa vào ổ cắm để nổ máy nữa. Cô đã làm gì thế này? Tại sao cô lại buông thả bản thân như thế?
Trong trang phục áo sơ-mi và quần jeans để bắt đầu đi ra ngoài, Grace ngó quanh căn nhà và ga-ra để xe. Đã sắp vào tiết đông, không thể trì hoãn việc sửa sang căn nhà được nữa. Dan thường hay chăm chút cho những việc vặt; bây giờ, lần đầu tiên từ lúc kết hôn, Grace phải tự mình làm cho xong những việc mà cô vốn chẳng quen trước đây.
Nhờ trời, Paul vẫn đến mỗi khi chị cần giúp đỡ. Cậu ta chi cho chị cách thay bình lọc của lò sưởi cách chữa vòi nước bị rò rỉ và chữa cái máy sấy. Nhưng Grace không thể tiếp tục dựa dẫm vào con rể được nữa. Chị phải học cách tự mình đương đầu với những tình huống đó thôi.
Việc đầu tiên chị làm là nhìn vào cửa ga-ra đang mở. Trong hai tuần vừa rồt, cánh cửa tự động đã không nhúc nhích được tí nào. Grace đã cố gắng mở bằng tay, nhưng tối hôm qua nó lại bị tắc ở đúng chỗ mở. Cần phải sửa cái của này trước khi có kẻ nào đó nhìn thấy bởi điều ấy chẳng khác nào mời hắn ta đến cướp xe của mình.
Grace cứ đúng trước cửa ga-ra, tay đeo đôi găng mà Dan vẫn hay đeo, hai tay chống hông. Chị xem xét nhà để xe cứ như thể có một con rồng sắp sửa gầm rú và phun lửa vào mình vậy.
“Phải nắm thật chặt mới được”, chị nói trong hơi thở. “Mình có thể làm được điều này mà. Mình đã làm tất cả những việc khác - thì chắc chắn mình sẽ phải xử lý được một cái cửa ga-ra chứ”. Được rồi, đầu tiên chị phải kiếm bộ đồ dụng cụ cần thiết đã. Dan vẫn hay tự hào về những túi đồ nghề của anh. Anh có đủ các loại dụng cụ có thể tưởng tượng ra. Nhưng khi ra đi anh không mang theo một cái nào cả. Cũng như sự biến mất của anh, điều này làm chị thấy lúng túng. Liệu người đàn bà kia có quá phi thường, có đáng khâm phục đến mức đáp ứng được mọi yêu cầu của anh? Hay những thứ trước kia có ý nghĩa với anh nay chẳng là gì nữa? Anh để lại quần áo, những dụng cụ làm việc, và cả nhẫn cưới nữa. Anh chẳng mang gì ngoài bộ quần áo trên người.
Grace không biết tìm hướng dẫn sử dụng ở đâu. Chị nghĩ chắc Dan để nó cùng với các quyển sách hướng dẫn khác trong một cái hộp ở ngay ga-ra thôi.
Chị nhìn thấy một loạt hộp được xếp đống dưới thùng đồ nghề, và lật nắp lên. Bò ra sàn bê tông, chị mở nắp. Thay vì quyển hướng dẫn sử dụng, chị tìm thấy một chiếc áo len đã mua cho anh hồi Giáng sinh năm ngoái. Chị nâng nó lên và thở hổn hển. Chiếc áo đã bị xé nhỏ. Xem ra Dan đã lấy kéo cắt cho nó mấy nhát liền và cắt một cách có hệ thống chiếc áo giá năm mươi đôla ra thành những mảnh vụn. Duy chỉ còn cố áo và cửa tay áo là nguyên vẹn.
Grace vẫn nhớ đã có lần hỏi Dan về chiếc áo. Chị vẫn nhớ được anh trả lời đó là chiếc áo anh yêu thích nhất, nhưng thực ra chưa bao giờ chị thấy anh mặc.
Sau một thời gian, chị cũng dần cho ra khỏi đầu chuyện đó.
Một chiếc hộp khác đã hé lộ điều ngạc nhiên tồi tệ thứ hai Kelly đã tặng cho Dan một quyển sách rất quý về chiến tranh Thế giới thứ hai vào hôm sinh nhật bố nó. Anh đã cảm ơn con rất nhiều và nói rằng chắc chắn sẽ đọc. Nhưng thực tế là chưa bao giờ anh đọc cả. Bởi cuốn sách cũng bị hủy hoại, các trang đã long ra khỏi gáy sách. Grace còn nhận ra hai hộp nữa. Cứ như thể anh đã có ý xếp chúng ở đây để cho chị tìm thấy vậy. Dan không thể hét toáng lên sự căm ghét của mình khi đứng trực tiếp trước mặt vợ.
Lắc đầu để quay về với thực tại, Grace quẳng những chiếc hộp vào thùng rác và ngồi phệt xuống bậc tam cấp nơi của sau. Phản ứng đầu tiên chị nhận ra là mình vô cùng giận dữ. Tại sao anh dám làm những việc đó. Tại sao dám cơ chứ! Chị thấy nỗi uất úc nghẹn lên, bật thành tiếng khóc. Nước mắt tràn đầy, và chị cứ để cho chúng chan chứa trên mặt. Chị không thể cho chồng cái quyền hạ nhục mình, biến mình thành một kẻ nhu nhược hèn nhát và đạo đức giả được. Con Buttercup vẫn quanh quẩn bên chủ, hình như nó cảm nhận được nỗi buồn khổ của Grace.
“Cái gì đã khiến anh ta xử sự như vậy?”, chị hỏi người bạn vàng tri kỷ của mình.
Nó ngước nhìn Grare với đôi mắt có hồn và rộng mở.
“Ta cũng không biết được cưng ạ. Ta không sao hiểu được”. Grace bỗng có nhu cầu được ôm ai vào lòng. Chị quàng tay quanh cổ Buttercup và vùi mặt vào ông con chó.
Chị không biết mình đã ngồi đó trong bao lâu, trong lòng đấy giận hờn, hối tiếc và tình cảm bị dồn nén. Một lúc sau chị cất bước ra khỏi ga-ra. Cửa ga-ra vẫn chưa được sửa.
Trong lúc đào bới để rồi phát hiện ra mấy cái hộp ấy, cuối cùng chị cũng tìm được hướng dẫn sử dụng chiếc cửa tự động. Chị lật nhanh từng trang sách và tìm ra thông tin. Cuốn sách đã đưa ra những gợi ý khi chiếc cửa gặp vấn đề rắc rối.
Grace đã nghiên cứu những chi tiết đó. Chị nhắc đi nhắc lại nhiều lần với bản thân là phải tự chữa được chiếc của này.
Grace vừa mới đặt chiếc thang lên thì nghe có tiếng chiếc xe tải đến gần. Nhận ra Cliff chị hơi do dự, bàn chân đặt lên nấc thang thứ tư run run. “Chào em”, Cliff vừa gọi Grace vừa bước ra khỏi chiếc xe. Con Buttercup lao ra chào đón anh. Thường thì cho dù có tỏ ra thân thiện nhưng người bạn tri kỷ luôn bảo vệ Grace này không thích cho người lạ vào sân nhà. Grace rất ngạc nhiên khi thấy nó chào đón Cliff cứ như thể anh là thành viên trong gia đình vậy.
“Chào anh”, chị cất tiếng chào lại, trong lòng ước gì mình mặc chiếc quần jeans mới hơn và chiếc áo thì đừng phai màu thế này.
“Bà Charlotte bảo rằng em gặp vấn đề rắc rối với cánh cửa ga-ra ôtô”, anh nói và cúi xuống cọ nhẹ đôi tai con Buttercup.
Grace chớp mắt, không hiểu tại sao mẹ của Olivia lại biết chuyện cái cửa bị hỏng. Nhưng cũng chẳng lạ, bởi bà Charlotte luôn tìm ra cách khám phá mọi thứ.
Cliff đứng thẳng dậy và dường như đợi một lời mời của Grace. “Anh đến xem có giúp gì được em không?”.
Lúc này, Grace chẳng thể từ chối sự giúp đỡ. “Nếu anh xem giúp thì em cảm ơn anh lắm. Em đã đọc hướng dẫn sử dụng nhưng vẫn chưa có cách nào kiểm tra cơ chế hoạt động của nó cả”.
“Anh có sở trường với những rắc rối kiểu này đấy, Cliff liếc nhìn xung quanh. “Anh chuyên đi dọn dẹp bãi chiến trường mà”.
Grace cười. ''Anh đúng là thiên thần đội lốt''.
“Anh chẳng nghĩ thế. Anh giúp chị leo xuống thang. Ngay trước khi Grace vào nhà để đun được một ấm cà-phê thì anh đã làm cho chiếc cửa ga-ra hoạt động trở lại.
“Có vấn đề gì với cái cửa thế?”, chị hỏi, ngạc nhiên vì anh lại sửa nó dễ dàng và nhanh đến vậy.
“Các bánh lăn chạy ra khỏi đường trượt. Anh chỉ lắp lại thôi mà. Chẳng có gì đâu”.
Trong khi Cliff mang chiếc thang vào nhà thì Grace vớ lấy cái cào và bắt đầu vun lá sồi lại thành một đống to. Khi chị làm xong, anh giúp chị nhét chúng vào những túi nhựa.
“Anh sẵn sàng uống cà-phê chưa?”, Grace hỏi khi họ đã buộc chặt chiếc túi nhựa cuối cùng.
“Tuyệt đấy”.
Chị đưa anh vào phòng bếp và bày ra hai chiếc cốc to. “Em chẳng biết phải cảm ơn anh thế nào”.
Cliff nhìn chị dò xét một lúc, sau đó nở một nụ cười rất đàn ông. “Anh sẽ nghĩ sau”, anh trêu.
“Em thách anh tìm được đấy”. Grace cười - và bỗng nhận ra rằng chỉ hai tiếng trước đó thôi, chị đã phải chan chứa nước mắt. Sự tương phản ấy càng rõ ràng hơn khi chị chứng kiến con Buttercup chào đón anh nồng nhiệt thế nào.
“Con Buttercup nhà em chẳng bao giờ tỏ ra thân thiện với người lạ đâu”, chị bảo anh.
Cliff âu yếm con chó. “Có lẽ nó ngửi thấy mùi ngựa”.
Grace chống khuỷu tay lên mặt bàn. “Em quên mất là anh còn nuôi được cả mười lăm con ngựa?”.
“Chúng là một phần lớn của cuộc đời anh. Em có biết cưỡi ngựa không?”. Họ nói chuyện phiếm với nhau một lúc, câu chuyện lúc trầm lắng lúc lên cao nhưng khá tự nhiên. Hiếm khi Grace cảm thấy thoải mái với một người đàn ông như vậy. Đã mấy lần chị tự nhắc nhở mình rằng về mặt pháp lý chị vẫn là vợ của Dan. Trong khi anh chạy theo một người đàn bà khác - hay ở mức độ nào đó là bỏ trốn - thì chị định sẽ vẫn giữ lời nguyền.
Khi Cliff chuẩn bị ra về, Grace thấy anh nhìn về phía phòng khách. Một bức ảnh chụp cả gia đình được đóng khung và đặt trên giá sách. “Có phải Dan đó không?”, anh hỏi.
Grace gật đầu.
Cliff bước về phía giá sách và cầm tấm ảnh lên xem. Bức ảnh này được chụp từ gần hai mươi năm về trước. Cả hai chị con gái còn đang ở tuổi vị thành niên và Kelly thì vẫn còn mặc quần dây. Cái nhìn của Dan trông rất buồn khi anh chiếu thẳng vào ống kính ca-mê-ra, chẳng hề để lộ chút tình cảm nào.
Sau khoảnh khắc khá lâu, Cliff đặt lại tấm ảnh đã nhạt mầu xuống. “Em không biết tại sao anh ấy ra đi”.
Grace thì thầm. “Em không hề biết”.
Cliff chẳng nói lời nào.
“Không biết thì thật đáng sợ”.
“Em chỉ có thể tưởng tượng ra thôi”.
Chị nuốt nước bọt một cách khó nhọc.
Cliff đưa tay vén tóc khỏi má Grace. “Anh không muốn em cảm thấy tội lỗi vì sự có mặt của anh chiều nay. Đây không phải là hẹn hò em ạ”.
Grace mỉm cười run rẩy.
“Nếu em phải khổ sở và đau đớn vì hối hận thì em hãy quan tâm đến chuyện ngay lúc này đây, anh muốn ôm em trong vòng tay anh như thế nào. Nếu em thấy tội lỗi, thì em cứ việc có cảm giác ấy đi, còn anh sẽ phải chịu đựng sự đau
khổ khủng khiếp vì không được hôn em”.
Grace nhắm mắt lại, bởi biết rằng nếu chị nhìn anh, Cliff sẽ nhận ra đó cũng là điều chị muốn.
Cliff thở dài và đưa tay lên vuốt má Grace rồi ra về. Chị vẫn nhắm mắt và nghe thấy tiếng anh mở cửa bỏ đi.
“Kế hoạch à? Ước gì tớ có kế hoạch...”, Olivia nói. ''Cậu có gợi ý gì hay không?'', chị hỏi với vẻ nhiệt tình hơn một tí.
“Hay đi xem đá bóng đi?”, Grace nói. "Sau đó chúng ta sẽ đi ăn tối. Đã lâu quá rồi chúng mình chẳng có dịp ngồi với nhau”.
Olivia rất vui vì Grace gọi điện cho chị. Trong suốt những tháng ngày Dan bỏ nhà ra đi, Grace đã khép lòng mình lại với hầu hết mọi người. Chị luôn nói chuyện ngắn gọn và lạnh nhạt, rõ ràng chị không muốn động chạm đến ngọn ngành của nỗi đau buồn vốn ăn sâu trong cuộc đời mình. Hết lần này đến lần khác, chị cứ trì hoãn các cuộc viếng thăm và nhiều hoạt động xã hội. Chị luôn quan tâm đến Olivia, nhưng chị tôn trọng nhu cầu cá nhân của bạn mình. Chẳng có gì đáng chê trách hay phàn nàn về tình bạn lâu bền và vững chắc giữa họ. Grace đang giải quyết việc hôn nhân của mình. Còn Olivia vẫn luôn bên bạn, động viên khích lệ bạn bằng những tin nhắn và cuộc điện thoại thường xuyên chỉ để duy trì mối tâm tình giữa hai người. Và cũng là để Grace biết rằng chị sẽ luôn ở bên cạnh. Đây là lần đầu tiên sau một thời gian dài, Grace mới gọi điện lại và rủ bạn ra ngoài.
“Tớ thích tham gia vào một trò chơi nào đó”. Olivia nói với bạn.
“Tớ nghĩ là cậu nên đi”, Grace nói. “Thế Jack gọi lại cho cậu chưa?”
“Chẳng một lời nào”.
“Khỉ thật”.
Grace có quyền nói thế. Olivia chán phải thanh minh cho anh lắm rồi, ngay cả với tự bản thân chị nữa. Cả tuần anh vắng bóng, không gọi điện cũng chẳng ghé qua cho dù họ đã hẹn cứ thứ Ba là phải ở bên nhau, tuần nào cũng vậy. Chị không thể không thất vọng khi anh phải hủy cuộc hẹn hôm thứ Bảy đó; dĩ nhiên là chị hiểu lý do. Nhưng lúc đó chị hy vọng anh sẽ gọi lại, hay ít ra là, nhắn một lời ngắn gọn cho chị biết tình hình Eric như thế nào - và nói là anh nhớ chị biết bao. Lẽ ra anh đã phải gọi điện để lên kế hoạch cho tuần tới hay thậm chí là tuần sau nữa cũng được. Vậy mà anh đã phớt lờ chị.
“Mình gặp nhau ở sân bóng lúc bảy giờ nhé.” Grace hẹn.
“Tớ sẽ đến”.
Olivia rất muốn đến một nơi nào đó hoặc làm một việc gì đó. Đặc biệt là cùng với người bạn thân nhất, người đã dứt chị ra khỏi nỗi cô độc mà chị bắt mình phải chịu đựng. Đã vài tháng nay, cuộc sống xã hội của chị chỉ quay quanh Jack. Gần như họ thường xuyên dành cả ngày cuối tuần cho nhau. Lúc bảy giờ, Olivia và Grace gặp nhau bên ngoài hàng rào sân vận động bóng đá của trường trung học vịnh Cedar. Cả sân được thắp sáng bằng những ánh đèn điện và chỗ ngồi ở cả hai bên đã nhanh chóng chật ních người xem. Grace mặc một chiếc áo choàng len màu xanh và một chiếc khăn choàng lên sọc xanh. Chị đội một chiếc mũ trên mái tóc dày màu hạt tiêu và nó rất hợp với chị.
Dan luôn thích vợ để tóc dài ngang vai như cái thuở còn học trung học, nhưng bây giờ Grace chẳng cần phải làm vừa lòng Dan nữa.
“Trông cậu tuyệt lắm”, Olivia bình luận khi họ đứng vào hàng mua vé. “Tất nhiên rồi. Dạo này cậu chỉ trông thấy tớ mướt mồ hôi lúc tập aerobic thôi mà”.
Olivia mỉm cười vì điều đó quá đúng.
“Cậu còn nhớ là hồi còn trung học bọn mình hay đi xem và cổ vũ cho đội bóng không?”. Grace hỏi khi những người xếp hàng đang dần tiến về phía quầy bán vé.
“Tớ nhớ chứ. Bob Beldon và Dan là hai người hùng của bọn mình còn gì...”, Olivia ngừng lại. Chị thấy ân hận vì mình lại nhắc đến Dan trong câu chuyện.
Grace nắm cánh tay bạn. “Tớ cũng đang nghĩ về điều đó. Dan đúng là một vận động viên tuyệt vời lúc anh ấy còn trẻ. Tớ vẫn còn nhớ cái năm anh ấy ghi được bàn thắng quyết định giúp cho đội vịnh Cedar của chúng ta giành được chiến thắng lần đầu tiên trong thập kỷ”.
“Tớ cũng nhớ chuyện đó”. Olivia nói, mắt liếc nhìn bạn. ''Nói chuyện về Dan không làm cậu đau lòng đấy chứ?''.
Grace nhìn vào khoảng không. ''Cũng không hẳn vậy. Nhưng những năm trước, trước khi anh ấy đi Việt Nam thì dễ dàng với tớ hơn”. Rồi chị im lặng một lát. "Tớ chẳng biết tại sao anh ấy lại rời bỏ tớ theo kiểu ấy. Tớ nghĩ về điều đó hàng ngàn lần mà chẳng thể tìm ra câu trả lời. Tớ không hiểu sao anh ấy hành động như thế được. Tớ nhận ra rằng tớ sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi đâu. Tất cả những gì tớ có thể nói, là sự lựa chọn đó là của anh ấy. Tớ cũng có sự lựa chọn của riêng tớ. Và tớ vẫn phải sống tiếp cuộc sống của tớ đấy thôi''.
“Cậu luôn là một phụ nữ manh mẽ”, Ohvia nói, không che giấu được vẻ ngưỡng mộ bạn mình, "nhưng bây giờ cậu còn mạnh mẽ hơn bất cứ lúc nào".
“Ước gì điều cậu nói là sự thật”, Grace lẩm bẩm và sau đó chuyển sang chủ đề khác, mắt ngước lên bầu trời đêm. "Trong cả năm thì thời điểm này làm tớ thích nhất đấy''.
“Tớ cũng vậy”. Thời tiết ở Tây bắc Thái Bình Dương đã thay đổi trong hai tuần vừa rồi. Chẳng bao lâu nữa, những cơn mưa thu sẽ bắt đầu, và những buổi tối trời trong veo sẽ biến thành những cơn gió bão hòa cùng những cơn mưa phùn liên tiếp.
Trả tiền vé xong, họ mua tờ chương trình của một thành viên đội dự bị đang bán rong những cuốn sách nhỏ ngay trong sân cỏ. Đi hướng về phía khán đài, Olivia chợt dừng lại để xem còn chỗ nào trống không.
“Olivia ơi! Grace ơi!”, tiếng bà Charlotte gọi toáng lên từ bên sân của đội nhà.
Olivia nhìn quanh cho đến khi nhận ra mẹ vẫy tay ở phía trên đầu. Bà Charlotte đang ngồi cạnh Cliff Harding ở khoảng giữa lối đi. Bà bận áo có vạt xếp nếp với một dải khâu màu đỏ. Còn Cliff thì mặc một chiếc áo khoác da có tua rua và đội chiếc mũ cao bồi đã cũ.
“Cậu có ngại ngồi gần mẹ tớ không hả Grace?”. Olivia hỏi, mặc dù ngụ ý của chị là muốn ám chỉ đến việc ngồi cạnh Cliff Harding.
“Không, chả ngại đâu”, Grace liếc nhìn Cliff và chậm rãi nở nụ cười với anh. Bây giờ, thật đúng là một bước tiến triển thú vị, Olivia nghĩ khi họ bước lên bậc tam cấp.
Olivia ôm bà Charlotte khi đi ngang qua chỗ mẹ. Dịch xuống phía dưới, chị để lại khoảng trống cho Grace. Cliff ngồi bên ngoài của dãy ghế, ngay cạnh cầu thang.
“Thật là ngạc nhiên đến hài lòng khi nhìn thấy hai con ở đây”, bà Charlotte nói, giọng nghe rất vui vẻ. “Cliff chưa bao giờ xem một trận bóng nào ở vịnh Cedar cả. Cột báo của mẹ tuần này là để hỗ trợ thanh niên đâu các con biết chưa?”
“Con đọc rồi mẹ ạ, đó là một mục tuyệt vời”. Mẹ chị đã trích phần nhuận bút viết báo cho trang người cao tuổi của tờ Bản tin vùng vịnh Cedar cho trận đấu này.
“Cliff cũng đọc nó rồi. Và mẹ bảo là cậu ấy chưa thể hòa nhập với khu dân cư ở đây nếu như cậu ấy chưa đi cổ vũ cho đội bóng của chúng ta”.
Cliff đang xem tờ chương trình và dường như rất ấn tượng với việc tất cả những quảng cáo về cộng đồng ở đây đã ủng hộ cho đội bóng. “Lần cuối cùng cháu tham gia vào đội bóng của một trường trung học cũng là lúc bản thân cháu vẫn đang học trung học đấy bác ạ”.
“Thị trấn này rất mê bóng đá”, Olivia kể cho anh nghe.
“Tôi nhìn là thấy rồi”. Trận đấu sắp sửa bắt đầu rồi. Chỗ ngồi đã chật kín, chỉ còn chỗ đứng mà thôi. Bên cạnh đội bóng còn có ban nhạc của trường, đội ngũ cổ động viên và đội quân dự bị cũng có mặt.
“Hai người đã có kế hoạch gì sau khi xem xong trận đấu chưa?”. Cliff hỏi, nhưng Olivia nhận ra rằng anh chỉ muốn hướng câu hỏi về phía Grace thôi.
“Olivia và em sẽ đi ăn tối ở ngoài”, Grace giải thích.
“Cliff cũng mời mẹ đi ra ngoài ăn tối đấy”, bà Charlotte lên tiếng. “Sao hai con không tham gia cùng chúng ta nhỉ?”. Rồi bà đưa mắt nhìn lần lượt cả hai người.
“Thế thì vui quá còn gì”, Olivia nói. Thấy phản ứng của Grace hướng về phía Cliff, Olivia biết rằng bạn mình sẽ không phản đối.
Trận đấu đã khép lại, và vào giữa hiệp đã có tỉ số. Olivia lại một lần nữa ngạc nhiên vì mẹ mình quen biết khá nhiều người. Mỗi lúc lại có một người đi qua chào bà. Cột báo hàng tuần bà viết bài đã làm bà ngày càng nổi tiếng thêm và được yêu mến hơn với các hoạt động từ thiện, cả những công việc tình nguyện bà làm ở trung tâm dưỡng bệnh, nơi bà đã gặp gỡ ông Tom Harding.
Trường trung học vịnh Cedar đã chiến thắng vào năm giây cuối cùng của trận đấu. Tâm trạng của cả bốn vẫn còn như ngày hội ngay cả khi sân vận động đã hết người xem. Cliff nghĩ quán Pancake Palace sẽ nhất định rất đông sau trận thắng này, nên anh gợi ý cả nhóm ra nhà hàng Bếp Thuyền Trưởng ở khu vực cuối thị trấn.
Họ gặp nhau ở đó và nhanh chóng chọn một cái bàn cho bốn người. Olivia nhận ra rằng Cecilia Randall vẫn còn làm phục vụ ở đây nhưng không có nhiều thời gian để nói tán gẫu với cô vợ hải quân trẻ tuổi đó. Khi họ đã ngồi vào bàn ăn, câu chuyện trở nên nhẹ nhàng cả trước và sau khi họ gọi món. Olivia nhận ra rằng suy nghĩ của mình lại quanh quẩn hướng về Jack, và điều đó làm chị mất tập trung. Không hề tỏ ra cho ai biết, chị đã tìm kiếm anh trong suốt trận đấu. Anh thường hay viết những bài báo thể thao cho các đội bóng trung học, đơn giản vì anh yêu thích những trận đấu ấy. Olivia đã đầu hàng việc đêm xem bao nhiêu sự kiện thể thao mà họ đã cùng tham gia. Nhưng nếu anh ấy có đến trận đấu tối nay thì chắc chị cũng không thể nhìn thấy anh.
Tất nhiên chị có thể gọi điện cho anh. Xét cho cùng thì họ có cãi nhau đâu, mặc dù vậy chị vẫn phải băn khoăn là tại sao anh lại không gọi điện lại cho mình. Có lẽ Eric vẫn còn ở với anh, nhưng con trai anh không thế lấy hết từng giây từng phút của anh đến thế. Olivia bắt đầu thấy giận Jack. Câu chuyện tạm ngưng lại khi người bồi bàn mang thức ăn ra. Và rồi sau đó lại tiếp tục. Họ chuyển đề tài từ trận đấu bóng sang tình hình kinh tế địa phương. Thỉnh thoảng Olivia đã phải bình luận thêm khi thưởng thức món sa-lát cua. Thế nhưng tinh thần của chị chẳng hào hứng được như họ và chị phải tự tranh đấu với bản thân để tách suy nghĩ của mình ra khỏi Jack. Mặc dù thỉnh thoảng có hẹn hò kể từ sau khi bỏ chồng, vẫn chưa gần gũi với ai như đã gần với Jack. Tuy tính cách của họ, hoàn cảnh của họ khác nhau nhưng anh đã mang lại sự cân bằng và sự thoải mái phù hợp với lịch làm việc cứng nhắc của chị. Bên anh chị được tự do cười đùa và có thế gạt bỏ những thói quen nhàm chán đã ăn sâu vào cuộc sống của mình kể từ khi chị được bầu vào làm việc tại tòa án. Jack không cổ hủ, anh khá hài hước và vui tính - và tệ nhất là chị lại nhớ anh đến da diết mới khổ chứ.
Hóa đơn đã được mang ra, và trước khi mọi người tranh nhau thì Cliff đã vớ lấy nó. “Để tôi khao, thưa các quý bà quý cô”, anh khăng khăng. Olivia phản đối. Chị không bao giờ đồng ý đi ăn nếu biết Cliff sẽ trả tiền.
“Tôi không để cho anh làm việc đó đâu”, chị nói.
“Này cô, một người đàn ông liệu có bao nhiêu lần trong đời có cơ hội ngồi cùng bàn với ba người phụ nữ xinh đẹp hả?”.
“Cháu nói hay lắm”, bà Charlotte nhận xét và vỗ tay tán thưởng, ném cho Olivia một cái nhìn sắc bén. Olivia thở dài chấp nhận và chị khẽ đáp lời cảm ơn anh.
Grace đùa. ''Anh chắc là anh không dùng thẻ tín dụng của tôi để thanh toán đấy chứ?''.
Họ phá lên cười vui vẻ và sau một chầu cà-phê, họ chia tay nhau ra về vì trời đã gần chuyển sang đêm.
“Mọi chuyện ổn chứ?”. Grace hỏi khi họ đi bộ xuống khu để xe cạnh thư viện. “Tối nay sao cậu ít nói thế”. Olivia đã hi vọng có được ít phút để nói chuyện riêng với Grace nhưng vì mẹ và Cliff xuất hiện nên chuyện đó không thành.
“Ai mà dám chen lời với mẹ tớ chứ?”, Olivia đùa.
“Chuyện giữa cậu và Jack có ổn không?”. Làm sao Grace có thể quan tâm đến những băn khoăn trong lòng bạn khi chính cuộc sống của chị cũng đầy biến động.
“Tớ cũng nghĩ là ổn”, Olivia bảo, rồi sau đó nói thêm ''tớ hi vọng là ổn''.
“Tớ cũng hi vọng thế”.
Họ chia tay nhau và hứa sẽ sớm gặp nhau để tâm sự tiếp. Olivia lái xe về nhà. Khi vào phòng khách, chị thấy ánh đèn nhấp nháy trên điện thoại báo rằng có tin nhắn trong hộp thoại tự động. Chị nhìn xuống với vài giây hi vọng. Ấn nút để nghe chị chờ đợi và được thưởng bằng giọng nói của Jack.
“Olivia à. Anh xin lỗi vì đã không liên lạc thời gian qua, nhưng anh đã quá bận rộn với thằng Eric. Anh hi vọng em ở nhà để chúng ta có thể nói chuyện. Em không đi chơi với anh chàng nào khác đấy chứ?”. Liền đó là một tiếng cười gượng gạo. “Em nghe này, anh thật sự rất lấy làm tiếc vì tuần trước. Nhưng anh đã mong ước biết bao được gặp em. Em gọi cho anh nhé? Anh có một món quà sinh nhật rất đặc biệt dành cho em đấy. Chúng mình sớm gặp nhau được không em?”.
Olivia nhìn đồng hồ. Gần mười một giờ đêm rồi và nếu gọi lại cho anh giờ này thì muộn quá. Dù sao thì anh đã bắt chị đợi chờ cá tuần rồi, chị sẽ để anh phấp phỏng cho đến sáng mai cũng chẳng sao. Khi nằm dài ra giường, Olivia mỉm cười sung sướng.
Maryellen muốn đá cho mình một cái vì phải tham dự cái ý tưởng “trao đổi đàn ông” kỳ cục này. Chỉ tại cô ngây thơ đề cập đến cái bài báo nói về thị trấn ở Ai Len mà cô đọc được. Điều tiếp theo là cô đã trở thành người tham gia lên kế hoạch cho bữa tiệc. Khi đến sửa móng tay lần sau, mọi người lại bàn tán việc tự tập tại lễ hội Halloween và cô quên mất không đếm xem có bao nhiêu người tham gia.
“Cậu vẫn nhớ là sẽ mang theo anh chàng bếp trưởng bạn cậu chứ?”, Terri hỏi. Maryellen vừa mới ngồi xuống thì Terri đã bắt đầu tra tấn cô bằng các câu hỏi về Jon mà cô chẳng thể trả lời hết được.
“Thì như tớ đã nói rồi, anh ấy chỉ là một người bạn thôi - à không”, cô sửa lại, ''Jon chỉ hơn là một người quen qua công việc thôi. Còn anh ấy cũng chưa khẳng định là có tới được hay không nữa”.
“Ôi thế à”. Terri thốt lên vẻ thất vọng. “Thế cậu cũng không biết là anh ấy có đến được hay không à?”.
“Tớ không thể chắc chắn được”. Sau câu chuyện mở đầu từ tuần trước, cô đã nói chuyện lại với Jon đâu. “Nếu anh ấy không đến, tớ bảo đảm sẽ giới thiệu cho cậu vào dịp khác”.
Đôi mắt đen láy của Terri sáng bừng lên. “Tuyệt đấy”.
Đêm hôm sau - đêm lễ hội Halloween - Maryellen đứng ở góc tối nhất, khuất nhất của quán bar đã được trang trí rất đẹp với một hình nộm con nhện lúc lắc đu đua từ trên trần nhà thẳng xuống chỗ cô đứng. Hơn bao giờ hết, cô quả quyết rằng mình đã phạm một sai lầm khi đến đây. Căn phòng đông đúc và chật cứng với hàng trăm thanh niên nam nữ, người thì mặc trang phục hóa trang, người thì không.
Thế rồi không hẹn trước, và vì không nhìn thấy Jon đi vào nên Jon đứng ngay bên cô lúc nào mà cô không biết. Anh đang cầm trên tay cốc bia lạnh, “chào em”, anh lên tiếng trước, mắt nhìn về phía căn phòng đông đúc. “Anh đến đấy à”. Bây giờ thì mọi thứ sáng sủa rồi. Cô chẳng biết nói sao nữa ''Ý em là... anh đã không gọi điện trước cho em. Em không thấy anh nói gì nên em tưởng anh không đến''.
"Lẽ ra anh nên gọi điện trước cho em, nhưng anh muốn chắc chắn xem mình có thể nghỉ vào buổi tối hôm nay không đã''.
“Có gì đâu - anh chẳng phải xin lỗi làm gì”. Anh ấy đã không xin lỗi nhưng...
“Với nhà hàng và công việc chụp ảnh, anh phải làm nhiều giờ quá. Thỉnh thoảng anh không thế chủ động được giờ giấc của mình nữa”.
Thói quen làm việc của nghệ sĩ thì Maryellen chẳng lạ gì. "Em hiểu mà''.
Anh hớp một ngụm bia. ''Để anh lấy gì cho em uống nhé?''
“Em không cần đâu, cảm ơn anh”. Rồi cô nhìn quanh văn phòng và bắt gặp Terri đang trong trang phục của Cleopatra, mắt trang điểm rất đậm và mang bộ tóc giả màu đen. “Kia là người em muốn giới thiệu với anh”.
“Được rồi”, Jon bảo và đi theo tay cô vẫy qua đám đông.
“Terii”, Maryellen cất tiếng gọi làm gián đoạn câu chuyện dở dang của Terri với một người khác - đàn ông hay đàn bà nhỉ - đang mặc bộ áo choàng rộng thùng thình của phù thuỷ. “Đây là anh Jon, người mà tớ đã kể cho cậu nghe rồi đấy”.
“Xin chào anh, Jon”. Terri quay lại, như thể cô đã chờ đợi cả cuộc đời chỉ để có được giây phút này. Anh chàng phù thuỷ, khi không được cô chú ý nữa thì đã bỏ đi từ bao giờ.
“Rất vui được gặp em, Terri”, Jon nói.
“Em nghe nói anh là bếp trưởng” Terri tiến lại gần anh hơn, và Maryellen có thể thấy rằng Terri đã uống quá đủ rồi. Cô cắn môi, nghĩ xem làm thế nào để gợi ý cho họ gặp nhau lần khác là tốt nhất. ''Em cũng biết vào bếp đấy. Muốn khuấy cái nọ với cái kia ấy mà?''
“Nghe cũng vui đấy”. Jon lại uống một ngụm bia nữa, và Maryellen thấy rằng anh đang cố gắng để che đi một nụ cười.
“Em nghe Maryellen nói anh còn chụp ảnh nữa, đúng không”.
“Việc tay trái thôi mà”.
Nghe vậy Maryellen vội chen vào giải thích, chữa lại những gì anh tự nói về mình. ''Thực ra anh Jon là một nghệ sĩ nhiếp ảnh xuất sắc”. Không muốn huyên thuyên chen vào chuyện của hai người nên Maryellen quyết định đi lang thang quanh quẩn trong phòng và cuối cùng lại tìm về cái góc an toàn lúc nãy. Nhưng chẳng mấy chốc Jon đã lại đến bến cô. “Vậy Terri là cô gái mà em muốn anh kết bạn đấy à?”, anh hỏi.
“Anh đã bao giờ làm điều gì phải hối tiếc chưa?”, cô hỏi. ''Em e rằng đây là một trong những tình huống như vậy”.
Jon gật đầu, nhưng không đáp lại lời nào. Và họ cứ đứng yên lặng như thế trong vài phút.
Ai đó đã cho một nắm xu lẻ vào máy hát tự động, thế là nhạc nổi lên. Vài đôi đã đưa nhau ra sàn để khiêu vũ. Jon làm bộ khoát tay. “Chúng ta nhảy nhé?”.
Jon không để cho cô có cơ hội từ chối. Anh đặt cốc bia sang bên cạnh và nhẹ nhàng kéo cô trong vòng tay ôm của mình.
Anh cảm thấy mạnh mẽ và rắn rỏi khi được chạm vào người cô. Thế nhưng Maryellen chẳng có xúc cảm gì hết. “Em nghĩ chúng ta đừng nên như vậy”, cô nói vẻ cứng nhắc. Cô không muốn Jon ôm cô càng không muốn mối quan hệ này đi xa hơn trừ công việc. Nhưng cô cũng nhận ra rằng chính mình đã phá lệ khi nhấc máy gọi điện mời anh đến đây - và nhận ra rằng cô cũng bị Jon Bowman hấp dẫn.
“Em hãy thứ giãn đi”, anh thì thầm vào tai cô.
“Em không thế”.
“Tại sao lại không thế?”.
Cô thở dài. “Đó là cả một câu chuyện dài, Jon ạ. Em nói nghiêm túc đấy, chẳng có gì hay ho”. Nếu từ chối thì thật là vô duyên. "Thôi được'', cô đồng ý, nhưng miễn cưỡng. Maryellen cố gắng giữ khoảng cách với Jon dù rất khó bởi cô đã ở trọn trong vòng tay ôm chặt của anh, và buộc phải tiến gần sát với anh. Bản nhạc thuộc loại cố điển và điệu nhảy trở nên chậm. Đó là bản “Hoa anh đào” và cô không thể không bị cuốn hút theo. Nếu như Jon không dịu dàng, nồng ấm và quan tâm thì có lẽ cô đã dễ dàng giữ được sự kín đáo của mình. Cô bắt đầu cảm thấy thoải mái dần trong tay anh.
“Tốt hơn, tốt hơn nhiều rồi đấy em ạ”, anh thì thầm và dẫn cô ra giữa sàn nhảy. Anh đỡ lưng cô trong một động tác thân mật và chậm làm cho nhịp tim cô đập rộn lên. m nhạc đã tắt từ bao giờ mà mãi cô mới dừng lại được.
“Không tồi chút nào, đúng không em?”, Jon hỏi.
Cô ngước mắt nhìn anh, không nhận ra rằng mình đã nhắm mắt suốt từ nãy. “Không”. Hơi sợ nhưng thật tuyệt vời, cả hai cùng thấy thế. Cô thật sự không muốn cảm nhận điều này chút nào. Những tiếng chuông báo động lại vang lên trong đầu cô. Tuy nhiên, khi bản nhạc tiếp theo nổi lên ngay cả trước khi Jon đề nghị - cô đã trượt vào vòng tay anh, ôm cổ anh và xoay tròn cùng anh.
Jon chẳng nói được lời nào, nhưng cô cảm nhận được nụ cười của anh. Và cô bỗng ngạc nhiên thấy mình cũng mỉm cười.
Họ nhảy hết bản nhạc này đến bản nhạc khác trong nhiều giờ đồng hồ. Không nói chuyện gì cả, nhưng mối giao lưu tâm tình giữa họ thì rất rõ ràng. Cái cách anh ôm chặt cô vào lòng chứng tỏ cho cô thấy rằng anh thật sự quan tâm và muốn gần gũi cô. Còn cách cô đáp lại sự đụng chạm của anh cũng cho anh thấy những tác phẩm sáng giá và đẹp đẽ của mình đã hấp dẫn được cô - với cả hai tư cách: một nguời nghệ sĩ và một người đàn ông.
Cô muốn biết lý do làm sao mà anh luôn trả lời các câu hỏi bằng một câu hỏi khác. Hay là anh có những bí mật? Cô nghĩ là anh có bí mật thật. Thì bản thân cô cũng có bí mật đấy thôi. Những bí mật đã từng được đào sâu chôn chặt ngay từ những ngày đầu của đời sống vợ chồng. Chẳng ai biết, ngay cả mẹ cô. Em cô cũng không biết nốt. Có lẽ bởi nguyên do ấy mà cả hai đã xích lại gần nhau. Có lẽ anh đã linh cảm được điều này ở cô và cô cũng cảm thấy ở anh. Maryellen chỉ chắc chắn được một vế. Bí mật thật nguy hiểm.
Lễ hội Halloween đã khép lại. Jon muốn đưa cô ra chỗ để xe. Maryellen đồng ý. Vì biết trước thế nào bãi đỗ xe cũng đông nên Maryellen đã đỗ xe ngay phía sau phòng trưng bày nghệ thuật của của mình. Trời tối và vắng. Cô thấy mừng vì Jon đã tự nguyện tháp tùng cô như thế.
“Anh đã có buổi tối thật vui vẻ”, anh bảo cô khi cả hai bước vào con hẻm.
“Em cũng vậy đấy”. Chỉ cách con phố chưa đầy nửa mét, bóng tối đã nuốt chửng họ.
“Anh tha thứ cho em vì cái tội định đá anh cho bạn em đấy”.
Khuôn mặt Maryellen chợt bừng đỏ, và cô thấy biết ơn bởi trời không đủ sáng để Jon nhận ra. ''Đó chỉ là hiếu nhầm thôi mà anh''.
Anh đùa. ''Nếu em nói thế thì anh tin''
Khi Maryellen lục tìm ví để lấy chìa khóa xe ôtô, Jon ngăn cô lại. “Anh đã muốn tìm hiểu nhiều hơn về em từ mấy năm nay rồi, em biết không”, anh nói với giọng trầm lắng.
Maryellen không thể nói thêm lời nào, tất cả đang phụ thuộc vào câu trả lời của cô. Cô tưởng tượng mình sẽ cảm ơn anh theo kiểu thẳng thừng, có thể là khiếm nhã, sau đó sẽ nhanh chóng mở cửa xe. Nhưng thay vào đó, cô lại đứng như mọc rễ tại chỗ và nhìn anh không chóp. Anh tiến lại thật gần, rồi cúi xuống hôn cô. Không thế xảy ra chuyện này được, đơn giản là cô không thể cho phép mình. Vậy mà ý định muốn phản kháng chỉ lướt qua rất nhanh trong đầu cô rồi bay biến đi đâu hết. Cô nhận ra mình đang chầm chậm - loại bỏ những giới hạn - và dần dần dựa vào anh. Cô ngẩng đầu lên, mắt khẽ nhắm lại.
Khi đôi môi anh chạm vào môi cô thì như không thể chờ đợi thêm được nữa, nụ hôn bỗng trở nên gấp gáp và say mê. Jon nâng bổng cô lên khỏi vỉa hè cho đến khi cô chỉ còn đứng bằng mũi bàn chân. Miệng anh như gặp cơn đói, gấp gáp và thèm muốn. Đôi môi anh nuốt trọn lấy môi cô. Cô nhắm nghiền mắt, nằm trọn nỗi đam mê của anh khi lưỡi anh lùa trong miệng mình, cô nuốt lấy những tiếng rên rỉ của anh, cứ như thế cho đến khi cô chắc chắn mình sắp ngất vì choáng ngợp trước nụ hôn ấy.
Chưa có người đàn ông nào, kể cả chồng cũ của cô trước đây, hôn cô say mê và đắm đuối đến thế.
Khi Jon dừng lại, Maryellen như nghẹt thở, không nói được lời nào. Anh buông cô ra, cô đổ nhào xuống mặt đất.
“Ôi không”. Cô cố gắng nói gì đó nhưng chỉ bật ra được hai tiếng như vậy.
“Không?”. Jon hỏi.
“Ôi… không”.
“Anh có miếng băng ở đây, để anh băng lại chỗ bầm này cho em. Em không thể làm tốt hơn thế được sao?”.
“Anh Jon”. Phải mất một lúc cô mới lấy lại được bình tĩnh. ''Đó là...''.
“Khỉ thật, giá em bảo trước với anh”.
“Vâng...”. Maryellen không sao mở lời để giải thích cho anh lý do cô không nói trước.
“Anh đã muốn làm thế trong suốt cả buổi tối nay đấy”, Jon nói với giọng thỏa mãn.
Vặn vẹo hai bàn tay, Maryellen ngồi thụp vào trong xe. Cô vẫn rất khó thở, và vì lý do nào đó, cô cảm thấy như mình sắp sửa khóc. ''Em nghĩ chúng ta cần nói chuyện".
“Chúng ta sẽ nói chuyện”, Jon hứa và lại cúi xuống hôn cô. Maryellen nửa như phản kháng nửa như chờ đợi, và mặc dù cô đã lường trước sự việc nhưng khi anh đụng vào, cô như bừng tỉnh, cô thở hổn hển vì bất ngờ và cả hài lòng nữa.
"Chẳng lâu nữa đâu em ạ'', anh nói khi rời đôi môi của cô. “Em đồng ý không?”.
“Được ạ”, cô nói giọng đã khản đặc, mặc dù cô không thể gọi tên được cái gì sẽ diễn ra ở cái thời điểm “chẳng bao lâu nữa” ấy.
Khi đã an toàn trong xe, Maryellen đặt tay lên vô lăng. Cô thấy tay mình run khủng khiếp, đến nỗi cô không thể tra chìa khóa vào ổ cắm để nổ máy nữa. Cô đã làm gì thế này? Tại sao cô lại buông thả bản thân như thế?
Trong trang phục áo sơ-mi và quần jeans để bắt đầu đi ra ngoài, Grace ngó quanh căn nhà và ga-ra để xe. Đã sắp vào tiết đông, không thể trì hoãn việc sửa sang căn nhà được nữa. Dan thường hay chăm chút cho những việc vặt; bây giờ, lần đầu tiên từ lúc kết hôn, Grace phải tự mình làm cho xong những việc mà cô vốn chẳng quen trước đây.
Nhờ trời, Paul vẫn đến mỗi khi chị cần giúp đỡ. Cậu ta chi cho chị cách thay bình lọc của lò sưởi cách chữa vòi nước bị rò rỉ và chữa cái máy sấy. Nhưng Grace không thể tiếp tục dựa dẫm vào con rể được nữa. Chị phải học cách tự mình đương đầu với những tình huống đó thôi.
Việc đầu tiên chị làm là nhìn vào cửa ga-ra đang mở. Trong hai tuần vừa rồt, cánh cửa tự động đã không nhúc nhích được tí nào. Grace đã cố gắng mở bằng tay, nhưng tối hôm qua nó lại bị tắc ở đúng chỗ mở. Cần phải sửa cái của này trước khi có kẻ nào đó nhìn thấy bởi điều ấy chẳng khác nào mời hắn ta đến cướp xe của mình.
Grace cứ đúng trước cửa ga-ra, tay đeo đôi găng mà Dan vẫn hay đeo, hai tay chống hông. Chị xem xét nhà để xe cứ như thể có một con rồng sắp sửa gầm rú và phun lửa vào mình vậy.
“Phải nắm thật chặt mới được”, chị nói trong hơi thở. “Mình có thể làm được điều này mà. Mình đã làm tất cả những việc khác - thì chắc chắn mình sẽ phải xử lý được một cái cửa ga-ra chứ”. Được rồi, đầu tiên chị phải kiếm bộ đồ dụng cụ cần thiết đã. Dan vẫn hay tự hào về những túi đồ nghề của anh. Anh có đủ các loại dụng cụ có thể tưởng tượng ra. Nhưng khi ra đi anh không mang theo một cái nào cả. Cũng như sự biến mất của anh, điều này làm chị thấy lúng túng. Liệu người đàn bà kia có quá phi thường, có đáng khâm phục đến mức đáp ứng được mọi yêu cầu của anh? Hay những thứ trước kia có ý nghĩa với anh nay chẳng là gì nữa? Anh để lại quần áo, những dụng cụ làm việc, và cả nhẫn cưới nữa. Anh chẳng mang gì ngoài bộ quần áo trên người.
Grace không biết tìm hướng dẫn sử dụng ở đâu. Chị nghĩ chắc Dan để nó cùng với các quyển sách hướng dẫn khác trong một cái hộp ở ngay ga-ra thôi.
Chị nhìn thấy một loạt hộp được xếp đống dưới thùng đồ nghề, và lật nắp lên. Bò ra sàn bê tông, chị mở nắp. Thay vì quyển hướng dẫn sử dụng, chị tìm thấy một chiếc áo len đã mua cho anh hồi Giáng sinh năm ngoái. Chị nâng nó lên và thở hổn hển. Chiếc áo đã bị xé nhỏ. Xem ra Dan đã lấy kéo cắt cho nó mấy nhát liền và cắt một cách có hệ thống chiếc áo giá năm mươi đôla ra thành những mảnh vụn. Duy chỉ còn cố áo và cửa tay áo là nguyên vẹn.
Grace vẫn nhớ đã có lần hỏi Dan về chiếc áo. Chị vẫn nhớ được anh trả lời đó là chiếc áo anh yêu thích nhất, nhưng thực ra chưa bao giờ chị thấy anh mặc.
Sau một thời gian, chị cũng dần cho ra khỏi đầu chuyện đó.
Một chiếc hộp khác đã hé lộ điều ngạc nhiên tồi tệ thứ hai Kelly đã tặng cho Dan một quyển sách rất quý về chiến tranh Thế giới thứ hai vào hôm sinh nhật bố nó. Anh đã cảm ơn con rất nhiều và nói rằng chắc chắn sẽ đọc. Nhưng thực tế là chưa bao giờ anh đọc cả. Bởi cuốn sách cũng bị hủy hoại, các trang đã long ra khỏi gáy sách. Grace còn nhận ra hai hộp nữa. Cứ như thể anh đã có ý xếp chúng ở đây để cho chị tìm thấy vậy. Dan không thể hét toáng lên sự căm ghét của mình khi đứng trực tiếp trước mặt vợ.
Lắc đầu để quay về với thực tại, Grace quẳng những chiếc hộp vào thùng rác và ngồi phệt xuống bậc tam cấp nơi của sau. Phản ứng đầu tiên chị nhận ra là mình vô cùng giận dữ. Tại sao anh dám làm những việc đó. Tại sao dám cơ chứ! Chị thấy nỗi uất úc nghẹn lên, bật thành tiếng khóc. Nước mắt tràn đầy, và chị cứ để cho chúng chan chứa trên mặt. Chị không thể cho chồng cái quyền hạ nhục mình, biến mình thành một kẻ nhu nhược hèn nhát và đạo đức giả được. Con Buttercup vẫn quanh quẩn bên chủ, hình như nó cảm nhận được nỗi buồn khổ của Grace.
“Cái gì đã khiến anh ta xử sự như vậy?”, chị hỏi người bạn vàng tri kỷ của mình.
Nó ngước nhìn Grare với đôi mắt có hồn và rộng mở.
“Ta cũng không biết được cưng ạ. Ta không sao hiểu được”. Grace bỗng có nhu cầu được ôm ai vào lòng. Chị quàng tay quanh cổ Buttercup và vùi mặt vào ông con chó.
Chị không biết mình đã ngồi đó trong bao lâu, trong lòng đấy giận hờn, hối tiếc và tình cảm bị dồn nén. Một lúc sau chị cất bước ra khỏi ga-ra. Cửa ga-ra vẫn chưa được sửa.
Trong lúc đào bới để rồi phát hiện ra mấy cái hộp ấy, cuối cùng chị cũng tìm được hướng dẫn sử dụng chiếc cửa tự động. Chị lật nhanh từng trang sách và tìm ra thông tin. Cuốn sách đã đưa ra những gợi ý khi chiếc cửa gặp vấn đề rắc rối.
Grace đã nghiên cứu những chi tiết đó. Chị nhắc đi nhắc lại nhiều lần với bản thân là phải tự chữa được chiếc của này.
Grace vừa mới đặt chiếc thang lên thì nghe có tiếng chiếc xe tải đến gần. Nhận ra Cliff chị hơi do dự, bàn chân đặt lên nấc thang thứ tư run run. “Chào em”, Cliff vừa gọi Grace vừa bước ra khỏi chiếc xe. Con Buttercup lao ra chào đón anh. Thường thì cho dù có tỏ ra thân thiện nhưng người bạn tri kỷ luôn bảo vệ Grace này không thích cho người lạ vào sân nhà. Grace rất ngạc nhiên khi thấy nó chào đón Cliff cứ như thể anh là thành viên trong gia đình vậy.
“Chào anh”, chị cất tiếng chào lại, trong lòng ước gì mình mặc chiếc quần jeans mới hơn và chiếc áo thì đừng phai màu thế này.
“Bà Charlotte bảo rằng em gặp vấn đề rắc rối với cánh cửa ga-ra ôtô”, anh nói và cúi xuống cọ nhẹ đôi tai con Buttercup.
Grace chớp mắt, không hiểu tại sao mẹ của Olivia lại biết chuyện cái cửa bị hỏng. Nhưng cũng chẳng lạ, bởi bà Charlotte luôn tìm ra cách khám phá mọi thứ.
Cliff đứng thẳng dậy và dường như đợi một lời mời của Grace. “Anh đến xem có giúp gì được em không?”.
Lúc này, Grace chẳng thể từ chối sự giúp đỡ. “Nếu anh xem giúp thì em cảm ơn anh lắm. Em đã đọc hướng dẫn sử dụng nhưng vẫn chưa có cách nào kiểm tra cơ chế hoạt động của nó cả”.
“Anh có sở trường với những rắc rối kiểu này đấy, Cliff liếc nhìn xung quanh. “Anh chuyên đi dọn dẹp bãi chiến trường mà”.
Grace cười. ''Anh đúng là thiên thần đội lốt''.
“Anh chẳng nghĩ thế. Anh giúp chị leo xuống thang. Ngay trước khi Grace vào nhà để đun được một ấm cà-phê thì anh đã làm cho chiếc cửa ga-ra hoạt động trở lại.
“Có vấn đề gì với cái cửa thế?”, chị hỏi, ngạc nhiên vì anh lại sửa nó dễ dàng và nhanh đến vậy.
“Các bánh lăn chạy ra khỏi đường trượt. Anh chỉ lắp lại thôi mà. Chẳng có gì đâu”.
Trong khi Cliff mang chiếc thang vào nhà thì Grace vớ lấy cái cào và bắt đầu vun lá sồi lại thành một đống to. Khi chị làm xong, anh giúp chị nhét chúng vào những túi nhựa.
“Anh sẵn sàng uống cà-phê chưa?”, Grace hỏi khi họ đã buộc chặt chiếc túi nhựa cuối cùng.
“Tuyệt đấy”.
Chị đưa anh vào phòng bếp và bày ra hai chiếc cốc to. “Em chẳng biết phải cảm ơn anh thế nào”.
Cliff nhìn chị dò xét một lúc, sau đó nở một nụ cười rất đàn ông. “Anh sẽ nghĩ sau”, anh trêu.
“Em thách anh tìm được đấy”. Grace cười - và bỗng nhận ra rằng chỉ hai tiếng trước đó thôi, chị đã phải chan chứa nước mắt. Sự tương phản ấy càng rõ ràng hơn khi chị chứng kiến con Buttercup chào đón anh nồng nhiệt thế nào.
“Con Buttercup nhà em chẳng bao giờ tỏ ra thân thiện với người lạ đâu”, chị bảo anh.
Cliff âu yếm con chó. “Có lẽ nó ngửi thấy mùi ngựa”.
Grace chống khuỷu tay lên mặt bàn. “Em quên mất là anh còn nuôi được cả mười lăm con ngựa?”.
“Chúng là một phần lớn của cuộc đời anh. Em có biết cưỡi ngựa không?”. Họ nói chuyện phiếm với nhau một lúc, câu chuyện lúc trầm lắng lúc lên cao nhưng khá tự nhiên. Hiếm khi Grace cảm thấy thoải mái với một người đàn ông như vậy. Đã mấy lần chị tự nhắc nhở mình rằng về mặt pháp lý chị vẫn là vợ của Dan. Trong khi anh chạy theo một người đàn bà khác - hay ở mức độ nào đó là bỏ trốn - thì chị định sẽ vẫn giữ lời nguyền.
Khi Cliff chuẩn bị ra về, Grace thấy anh nhìn về phía phòng khách. Một bức ảnh chụp cả gia đình được đóng khung và đặt trên giá sách. “Có phải Dan đó không?”, anh hỏi.
Grace gật đầu.
Cliff bước về phía giá sách và cầm tấm ảnh lên xem. Bức ảnh này được chụp từ gần hai mươi năm về trước. Cả hai chị con gái còn đang ở tuổi vị thành niên và Kelly thì vẫn còn mặc quần dây. Cái nhìn của Dan trông rất buồn khi anh chiếu thẳng vào ống kính ca-mê-ra, chẳng hề để lộ chút tình cảm nào.
Sau khoảnh khắc khá lâu, Cliff đặt lại tấm ảnh đã nhạt mầu xuống. “Em không biết tại sao anh ấy ra đi”.
Grace thì thầm. “Em không hề biết”.
Cliff chẳng nói lời nào.
“Không biết thì thật đáng sợ”.
“Em chỉ có thể tưởng tượng ra thôi”.
Chị nuốt nước bọt một cách khó nhọc.
Cliff đưa tay vén tóc khỏi má Grace. “Anh không muốn em cảm thấy tội lỗi vì sự có mặt của anh chiều nay. Đây không phải là hẹn hò em ạ”.
Grace mỉm cười run rẩy.
“Nếu em phải khổ sở và đau đớn vì hối hận thì em hãy quan tâm đến chuyện ngay lúc này đây, anh muốn ôm em trong vòng tay anh như thế nào. Nếu em thấy tội lỗi, thì em cứ việc có cảm giác ấy đi, còn anh sẽ phải chịu đựng sự đau
khổ khủng khiếp vì không được hôn em”.
Grace nhắm mắt lại, bởi biết rằng nếu chị nhìn anh, Cliff sẽ nhận ra đó cũng là điều chị muốn.
Cliff thở dài và đưa tay lên vuốt má Grace rồi ra về. Chị vẫn nhắm mắt và nghe thấy tiếng anh mở cửa bỏ đi.
Tác giả :
Debbie Macomber