Chuyện Tình Vịnh Cedar 2: Ngày Mai Không Hẹn Trước
Chương 2
C liff Harding khẳng định rằng cái thẻ tín dụng này chắc chắn là của người phụ nữ ngồi đối diện với anh trong nhà hàng hôm thứ hai tuần trước. Lẽ ra anh cũng chẳng đế ý đến chị đâu, nhưng rốt cuộc anh vẫn phải tìm cách báo cho chị biết. Họ là hai người duy nhất trong quán Pancake Palace vào chiều hôm ấy. Đám đông đến ăn trưa ở quán đó cũng đã về hết, mà nếu cho rằng người cầm thẻ nằm trong đám khách đến ăn chiều thì lại càng không thể bởi lúc ấy sớm quá.
Người phụ nữ ấy khá hấp dẫn và chỉ xấp xỉ tuổi anh. Thế nhưng chị có vẻ hơi bối rối mỗi khi bị anh bắt gặp đang mải mê đuổi theo những suy nghĩ của mình. Anh sẽ rất ngạc nhiên nếu chị còn nhớ được anh cũng đã ở đó. Họ đã thanh toán bữa trưa cùng một lúc và việc đã xảy ra như trời định trước vậy. Hoá đơn của anh thì chính xác nhưng chính cái thẻ tín dụng của Grace Sherman mà anh đã nhét nhanh vào ví mình thì lại không. Đương nhiên là chị đã cầm thẻ của anh.
Suốt cả tuần bận rộn với hàng núi công việc khiến Cliff đã quên bẵng việc mình cầm thẻ tín dụng của người khác. Nếu một nhân viên chu đáo ở hiệu thuốc không chỉ cho anh biết thì có lẽ còn lâu anh mới nhận ra việc đó. Ngay khi về đến nhà, anh tìm ngay số điện thoại của Grace Sherman trong danh bạ nhưng chẳng may anh không tìm được số của chị. Tuy nhiên, anh đã tìm thấy trong danh sách ấy có một cái tên D & G Sherman ở căn nhà số 204 Rosewood, khu vịnh Cedar. Tiếng thoại ở máy trả lời tự động là giọng một phụ nữ nên anh đã để lại lời nhắn và chờ chị gọi lại cho anh. Vậy mà chẳng có ai gọi cả và anh nghĩ là mình đã gọi điện nhầm cho người cũng có tên Sherman đó. Bây giờ việc anh phải làm là nên đưa lại tấm thẻ tín dụng đó cho chủ quản lý nhà hàng Pancake Palace và yêu cầu ông ấy lấy lại thẻ tín dụng giúp anh. Sau đó, Cliff đã tìm thấy lý do để lái xe đến khu vực vịnh Cedar. Bà Charlotte Jeferson đã gọi điện cho anh hồi tháng Sáu và nói với anh về một người ông mà anh chưa một lần gặp mặt. Cliff chẳng có một ấn tượng tốt đẹp nào về Tom Harding, ngay cả khi biết ông là một nghệ sĩ cao bồi có khả năng đổi giọng nổi tiếng từ cuối những năm ba mươi đến giữa những năm năm mươi. Tom Harding đã bỏ rơi bà nội Cliff và bố anh để chạy theo tiếng gọi của danh vọng. Vào cuối cuộc đời mình ông ta bỗng cảm thấy ân hận vì đã gây ra nỗi đau khổ cho gia đình mình. Nhưng lúc ấy thì đã quá muộn rồi. Cliff chính là thằng cháu nội duy nhất của ông và - ít nhất là theo lời bà Charlotte Jefferson - thì ông già kia đã có ý định liên lạc với anh.
Bà Charlotte đã ở tuổi thất thập rồi. Thế nhưng bà lại là một người phụ nữ đầy sức sống và nhân hậu. Bà đối xử rất tốt với ông của Cliff. Đó là khi bà tình nguyện làm việc ở Trung tâm An dưỡng ở vịnh Cedar. Bà đã gặp và lập tức yêu qúy ông già này. Charlotte kể rằng họ là những người bạn tốt của nhau.
Ông già Tom đã mất khả năng giao tiếp sau một trận đột quỵ. Thế nhưng rõ ràng là bà Charlotte vẫn có thể nói chuyện được với ông. Bà kể với Cliff rằng ông Tom đã trao cho bà một chiếc chìa khoá lúc làm chung. Sau khi tìm hiểu, bà khám phá ra nhiều kỉ vật cá nhân của ông trong phòng kho và đi đến kết luận ông Tom là một ngôi sao điện ảnh đóng phim cao bồi trên truyền hình một thời.
Cliff là người họ hàng duy nhất còn sống sót của ông Tom nên anh đã có quyền được trao lại những kỷ vật này.
Lúc đầu, Cliff định sẽ chẳng dính dáng gì với ông già này cả. Thế nhưng bà Charlotte không nghe. Bà vẫn đảm đương nhiệm vụ cao cả của mình đối với ông Tom, rằng tất cả những tấm áp phích quảng cáo, những kịch bản phim đã được đánh máy và cả khẩu súng lục của ông nữa - đều phải được giao lại cho Cliff, bất chấp Cliff có muốn giữ hay không.
Khi Cliff gặp bà Charlotte, anh đã hiểu tại sao ông nội anh lại cảm thấy rất thoải mái bên người phụ nữ già nua lớn tuổi hơn và tại sao chỉ qua có một mùa hè thôi, họ đã thân thiết nhau đến vậy.
Anh đã tạo thói quen ghé thăm bà hoặc gọi điện cho bà theo định kỳ hai tuần một lần. Có vẻ như bà cũng rất thích những chuyến viếng thăm này. Bà đã rất tự hào khoe hai đứa con của mình và các cháu bà nữa. Con trai bà, William đang sống ở miền Nam, nếu như bà nhớ chính xác, còn cô con gái Olivia là một thẩm phán toà án dân sự ở ngay vịnh Cedar này. Cliff chưa gặp Olivia nhưng anh băn khoăn tự hỏi không hiểu trên đời có người phụ nữ nào lại thật sự tuyệt vời như những gì mẹ họ hay nói về họ không.
Giờ thì Cliff cũng đã dành thời gian nghiên cứu những kỷ vật mà bà Charlotte đã lôi ra từ phòng kho rồi. Và anh thấy biết ơn bà vì những gì bà đã làm. Anh nghĩ mãi vẫn chưa ra có cách gì hơn để cảm ơn bà. Tốt nhất vẫn là tặng lại cho bà những tấm áp phích quảng cáo phim mà anh đã cất công làm viền và đóng khung cho chúng. Bà Charlotte đã thật lòng yêu mến ông Tom và chuyện đó xảy ra trước khi bà biết ông là ngôi sao điện ảnh cơ mà.
Cliff đỗ chiếc xe tải ở dốc đối phía trên khu vịnh nhỏ, hướng bánh xe về sát lề đường. Tay cầm theo tấm áp phích cồng kềnh, anh bước lên mấy bậc tam cấp dẫn vào gia đình lớn của bà. Cũng như mọi khi, chú mèo “gác cổng” Harry vẫn đang cuộn tròn bên cửa sổ phòng khách. Thậm chí trước khi Cliff bấm chuông anh đã nghe thấy tiếng bà Charlotte vặn khoá cửa.
Anh chưa bao giờ có dịp đếm xem nhà bà Charlotte có bao nhiêu cái khoá. Nhưng anh nghĩ rằng Houdini lẽ ra không nên ở bên trong. Anh không chắc bà muốn giấu một điều gì quan trọng, anh biết lằng vật gì quý giá thể nào cũng được chôn giấu trong một đống quần áo lót như bà đã từng làm. Anh cũng biết rõ là trong câu chuyện của anh với bà Chariotte, bà ấy muốn khai thác ở anh một điều gì đó.
“Ôi Cliff đến đấy à”, bà vui mùng reo lên, tay đẩy chốt để mở khoá hết khoá thứ nhất rồi đến khoá thứ hai. “Ngạc nhiên làm sao. Thế mà cháu chẳng báo trước cho ta là cháu sẽ rẽ qua. Thế nào ta cũng sẽ nướng cho cháu một ít bánh bích qui”.
Đó chính là lý do mà anh không gọi điện trước. Bà lão này rõ là đang muốn làm cho anh béo lên đây. Về điểm này thì anh đâu cần sự giúp đỡ của ai - anh đã phát tướng từ lúc tuổi còn trung niên và phải tốn công lắm mới giảm được. Đến bây giờ anh cũng đã tiêu được mười cân so với hồi đầu năm, anh thề rằng thà róc đá còn dễ hơn thế này. Cho tới khi về hưu thì anh chẳng còn phải lo chuyện cân nặng của mình nữa.
“Cháu mang đến cho bác cái này hay lắm”, anh nói khi bà mở cánh cửa bình phong cho anh. Harry ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào Cliff và nhận ra anh là người bạn của gia đình nên nó lại nhắm mắt và quay lại với giấc ngủ trưa của mình.
“Cháu ngồi đi, bác sẽ đi pha trà cho cháu”, bà Charlotte đon đả mời Cliff. “À, ta có mấy cái bánh nghiền cho cháu đây”.
“Không phải phiền phức thế đâu”. Cliff biết phản đối thế cũng chẳng ăn thua gì nhưng dù sao vẫn muốn nói. Anh chỉ muốn ở lại đó trong vài phút thôi. Sau khi rời khỏi nhà bà Charlotte, anh còn phải mang tấm thẻ tín dụng của Grace Sherman đến quán Pancake nữa. Có thể anh phải hỏi bà Charlotte xem bà có biết ai là Grace không. Vì bà cũng là người già cả ở vịnh Cedar này mà. Có lẽ bà quen biết hầu hết mọi người ở đây cũng nên.
“Chắc cháu đói lắm rồi”, bà Charlotte nói, giọng có vẻ xót xa pha chút giận dỗi vì anh từ chối lời mời của bà.
“Bác Charlotte này”, anh nói giọng tha thiết, “bác mở quà ra đi”. Món quà không được gói ghém cẩn thận nhưng cửa hàng đã đóng khung lại và cho nó vào một hộp bìa các tông kín.
Bà Charlotte ngước nhìn anh vẻ ngạc nhiên. “Cháu tặng ta đấy ư?”
Anh mỉm cười gật đầu, cảm thấy thú vị vì bà Charlotte phản ứng bằng vẻ bối rối đầy cảm động.
Bà Charlotte là tuýp phụ nữ lúc nào cũng cảm thấy thoải mái và vui vẻ khi cho ai bất cứ cái gì nhưng lại thấy áy náy khi nhận quà của người khác.
Bà mở chiếc hộp, Cliff giúp bà tháo khung. Anh dựng tấm áp phích lên và nghe tiếng bà thở gấp khi nhận ra đó là món quà gì. Bà vột lấy tay che miệng, đôi mắt màu xám bạc đã ngấn đầy nước mắt.
“Ôi Cliff, lẽ ra cháu không nên làm thế này”, bà nói mắt vẫn mở to vì kinh ngạc. “Món quà này quá quý giá đối với ta”.
“Bác đừng nói thế. Cháu chắc rằng ông nội cháu rất muốn bác giữ nó mà. Nếu không mang nó đến cho bác thì cháu cũng chẳng thể giữ nổi cái nào nữa”. Cliff cũng không biết gì về ông nội của anh cả, ngoài mấy điều sơ sơ qua lời ba anh kể lại. Bây giờ anh không còn nhìn ông Tom như một người ích kỷ chỉ biết chạy theo danh vọng mà chỉ thấy đó là một ông già đã ăn năn hối hận muốn trở lại những năm tháng xưa, để chọn con đường khác đúng đắn hơn.
“Cháu đúng là bướng bỉnh”, bà Charlotte cau mày ngắt ngang dòng suy nghĩ của anh.
Anh không thể phủ nhận điều đó. Bà đã rất kiên định để gọi điện và viết thư. Nếu Cliff không tới bậc cửa nhà bà, anh nghĩ bà cũng sẽ đích thân mang tất cả mọi thứ trả lại cho anh bằng cách phiêu lưu trên một chiếc xe mà anh chắc rằng chưa bao giờ được lái với vận tốc quá bốn mươi dặm một giờ.
Bà Charlotte với chiếc khăn mùi xoa bằng đăng ten được gấp nếp gọn gàng trong túi chiếc tạp dề và hỉ mũi rất to vào đó. “Ta chẳng biết phải nói gì nữa Cliff à”.
"Bác có muốn cháu treo nó lên không ạ?".
“Ừ ừ, cháu treo lên giúp ta đi”.
Anh đã nghĩ trước đến việc phải giúp bà Charlotte treo tấm áp phích lên. Bỗng bà hỏi anh. “Cháu có nghĩ là treo ở trong phòng ngủ của ta thì sẽ rất hợp không?”
“Cháu nghĩ đó là một sáng kiến hoàn hảo đấy bác ạ”. Anh khẳng định với bà như vậy. Anh đi dọc hành lang dài theo chân bà đến phòng ngủ chính ở tít cuối căn nhà. Chiếc giường đôi kê sát tường một bên thành cong cong uốn lượn. Một chiếc bàn trang điểm cổ điển với một tấm gương lớn được kê phía đối diện trong căn phòng. Một chiếc ghế êm ái với đệm bọc màu xanh rất đẹp và một cái bàn với chiếc đèn đọc sách khá xinh xắn. Mắt hướng về chồng sách cao trên bàn, anh đoán rằng chắc bà toàn đọc sách ở đó.
“Treo ở đây có được không nhỉ?”, bà Charlotte hỏi, tay chỉ về phía khoảng tường trắng trống trơn phía đầu giường.
Phía trên chiếc bàn trang điểm treo rất nhiều tranh ảnh. Thế nhưng Cliff vẫn không có dịp chiêm ngưỡng chúng. Tuy nhiên mắt anh chợt dừng lại ở một bức ảnh. Bà Charlotte thấy anh chăm chú vào bức ảnh đó thì tiến lại và giải thích. “Đó là Olivia hồi sáu tháng tuổi đấy”. Bà nói và chỉ vào bức ảnh của cô bé và nói thêm. “Hồi ấy nó là một đứa trẻ phi thường”.
Cliff mỉm cười. Cô bé Olivia sáu tháng tuổi đang mút đầu ngón chân và há cái miệng không răng cười toe tuét. Anh không thể tưởng tượng được nữ thẩm phán sẽ nói gì nếu như biết anh đã nhìn thấy bức ảnh này của cô ta.
“Mẹ ơi?”, khi đang ngắm bức ảnh cô con gái của bà Charlotte, anh bỗng nghe tiếng một phụ nữ gọi với từ phòng khách. “Mẹ vẫn ổn đâu chứ? Con thấy cửa trước mở và...”.
“Ôi con đấy à…”, bà Charlotte lao ra khỏi phòng ngủ. “Olivia về đấy hả con?”.
“Con thấy mẹ không khoá cửa, mà mẹ có bao giờ...”. Olivia bỏ lửng câu nói khi nhìn thấy bà Charlotte ở hành lang. Chị ngừng lời ngay lập tức khi thấy Cliff bước ra khỏi phòng ngủ của bà.
Olivia hết nhìn mẹ lại sang Cliff.
“Xin chào cô”, anh lên tiếng trước, cảm thấy thú vị trước cái nhìn bối rối ấy. Olivia đã trưởng thành và là một phụ nữ khá hấp dẫn. Có lẽ bây giờ không phải lúc hỏi xem chị có còn đủ lanh lẹ để nâng được chân cho lên miệng mà mút nữa không. Dù vậy, anh vẫn không nén nổi buồn cười. Hai mẹ con bà Charlotte giống nhau nhất là ở đôi mắt. Nếu không biết trước Olivia là một thẩm phán, có lẽ anh vẫn đoán chị đang đảm đương một chức vụ đáng kính nào đó bởi cách nhìn nghiêm nghị và đạo mạo. Chị cao vừa phải, chắc cũng ở độ tuổi của anh, và mái tóc thì vẫn ẩn hiện một màu nâu rạng rỡ.
“Tôi tên là Cliff Harding”, anh tự giới thiệu rồi bước lên phía trước và đưa tay ra.
Bà Charlotte vội giải thích. “Anh ấy là cháu nội của ông Tom con ạ. Anh ấy đang giúp mẹ treo tấm áp phích mà anh ấy đã tặng mẹ”.
Olivia cau mày lại khi bắt tay Cliff. “Ôi Chúa ơi, anh đúng là Cliff Harding rồi”.
“Thì mẹ cũng vừa giới thiệu với con đấy thôi”, bà Charlotte lẩm bẩm.
“Anh ấy cầm tấm thẻ tín dụng của Grace”.
Thực ra Cliff chi biết là Grace đang cầm thẻ tín dụng của anh mà thôi. “Cô biết Grace Sherman à?”
Olivia gật đầu. “Bọn tôi là bạn bè thân từ nhiều năm nay rồi. Cô ấy định bụng tối nay sẽ trả thẻ lại cho anh”.
Bà Charlotte chẳng hiểu mô tê gì, bà nhìn hết người này đến người kia, cứ như thế những gì bà vừa nghe thấy chỉ là một trò đùa vậy.
Cliff kể lại sự việc một cách chi tiết nhất cho bà nghe.
Bà Charlotte khuyên anh. “Cháu nên giải quyết việc này ngay đi. Bác thì chẳng bao giờ dùng thẻ tín dụng cả. Dùng thẻ đó chẳng khác gì đem tiền cho bọn cướp”.
Anh nói. "Thì cháu cũng đang mong lấy lại được cái thẻ của cháu lắm chứ. Bác có nghĩ là cháu nên đến nhà Grace không ạ?"
“Cô ấy làm việc ở thư viện cháu ạ”. Bà Charlotte bảo anh. “Cháu đỗ xe ở đây rồi đi bộ đến đó cũng được. Chỉ cách đây có vài đoạn đường thôi mà. Và ta không nghĩ còn nhiều buổi chiều nắng tươi đẹp như thế này nữa đâu”.
“Tôi nghĩ là anh nên gặp Grace”. Olivia khích lệ anh, và quay đi không nhìn chằm chằm vào anh nữa. Cliff bỗng cảm thấy như anh vừa bỏ lỡ điều gì rất thú vị trong ánh mắt của Olivia.
“Ừ đúng đấy”. Bà Charlotte tán thưởng. “Olivia nói đúng đấy cháu ạ. Cháu nên gặp Grace. Cô ấy nên gặp một người bạn trai sau khi Dan đã xử sự với cô ấy như thế”.
“Dan là chồng cô ấy, à, đã từng là chống cô ấy. Tự nhiên hồi đầu năm anh ta lại mất tích”.
Hai người phụ nữ quay ra bàn tán về người chồng tên Dan đó và cả những phán đoán của họ nữa, rằng anh ta bỏ trốn theo người đàn bà khác.
“Grace đã làm thủ tục ly dị hôm thứ hai tuần trước”, Olivia kể cho anh nghe. Hoá ra lại trùng với cái ngày có chuyện xảy ra với chiếc thẻ tín dụng. Không nghi ngờ gì nữa, có lẽ lúc đó cô ấy buồn chán quá mà đâm ra lơ đãng chăng. Hẳn là cô ấy đã rất cô đơn nữa. Mặc dù vậy, Cliff vẫn có thể nhận ra dù cô có lẫn vào đám đông đi chăng nữa.
Cliff thấy Grace Sherman giống như một bông hoa dại của núi rừng. Thường thì anh cũng chẳng thích thơ văn anh cũng không hiểu tại sao mình lại đi lồng ghép Grace vào hình ảnh và lời lẽ bay bướm như vậy, nhưng thực sự là hình ảnh ấy cứ quanh quẩn trong đầu anh. Đó là một bông hoa tươi thắm, nở rạng rỡ giữa trời bất chấp bão táp, gió mưa và gian khổ. Anh cố gắng không nghĩ đến nữa, nhưng hình ảnh Grace cứ mãi ám ảnh anh, làm cho anh không nguôi nhớ đến. Đã quá lâu rồi anh chẳng ngắm nhìn người phụ nữ nào giống như kiểu anh đã từng ngắm Grace.
Anh lẩm bẩm. “Cháu sẽ đi bộ đến thư viện bác ạ”.
Olivia mắt sáng lên tán thưởng. “Hayquá”.
Con gái bà Charlotte có vẻ ủng hộ việc anh đi đến đó. Cũng có thể là cô ta đang muốn khích lệ anh gặp bạn mình. Nếu đúng vậy thì Cliff chẳng cần phải có sự khích lệ hay cố gắng nào cả, bản thân anh cũng rất muốn điều đó. Sau khi tạm biệt bà Charlotte và Olivia, anh rời khỏi căn nhà và lao xuống dốc hướng về phía bến tàu. Đây là lần đầu tiên anh đến thư viện này. Anh dừng lại để ngắm nhìn những bức tranh được khắc họa bên ngoài tường thư viện. Cũng có vài bức tranh tường trong thị trấn khiến anh ngưỡng mộ này.
Grace Sherman đứng ngay ở bàn đầu khi Cliff bước vào thư viện. Chị nhìn anh rất nhanh khi anh tiến lại quầy. “Tôi giúp gì được anh ạ?”
“Tôi là Cliff Harding đây, anh nói và chờ xem chị phản ứng ra sao.
Cũng phải mất một khoảnh khắc cái tên của anh mới gây ấn tượng. “Ôi chào anh. Hoá ra anh là người đã cầm thẻ tín dụng của tôi và tôi lại cầm thẻ của anh à? Tôi xin lỗi nhé. Lẽ ra tôi đã phải nhận ra anh ngay mới phải. Anh chờ tôi một lát được không, tôi vào lấy cái ví đã nhé”. Grace hít một hơi thở thật sâu rồi quay ra bảo anh. "Tôi còn đang định tối nay sẽ gọi điện cho anh đây".
"Tôi cũng thấy Olivia bảo vậy".
“Anh biết Olivia à?”.
“Chúng tôi gặp nhau ở nhà bà Charlotte hồi chiều”.
Lại một thoáng do dự, cứ như thể Grace phải cần thời gian để ghép các chi tiết của câu chuyện lại. “Anh là cháu của ông Tom Harding đấy à? Lúc nào bà Charlotte cũng nhắc đến anh. Tôi xin lỗi nhé, tôi chẳng nhận ra anh ngay. Phiền anh đợi tôi một chút”.
“Không sao cả”.
Grace biến mất sau cánh cửa một căn phòng nhỏ ngay phía sau quầy mượn sách và nhanh chóng quay lại với chiếc ví trên tay. Tấm thẻ tín dụng của anh được cất trong một cái phong bì nhỏ màu trắng. Họ đổi thẻ cho nhau, cùng phá lên cười vì sự nhầm lẫn của mình rồi đứng nhìn nhau đầy bối rối trong vài giây. Hoặc là bây giờ, hoặc sẽ không bao giờ cả. Cliff nghĩ nhanh và quyết định "Tôi nghĩ có lẽ chúng ta sẽ có dịp nói chuyện trong một bữa tối nào đó”. Đã nhiều năm nay anh không hẹn hò với một người phụ nữ nào cả. Vậy nên anh cảm thấy hơi khó khăn khi mở lời. Không thấy Grace trả lời, anh nghĩ có lẽ mình đã thất bại.
“Ăn tối ạ? Chỉ có hai chúng ta thôi ư?”. Cuối rùng thì Grace cũng lên tiếng.
Cliff nói nhanh. “Tôi đã ly hôn được năm năm rồi. Từ lúc vợ tôi bỏ đi, tôi chưa bao giờ hẹn hò với người phụ nữ nào khác. Tôi nghĩ có lẽ đã đến lúc tôi phải tìm lấy một người bạn”.
“Tôi hiểu”, chị trả lời, lại nhìn anh lần nữa. “Ý tôi là…” Chị dừng lại và hít một hơi thở thật sâu nữa. “Cảm ơn anh”. Chị đưa tay lên sờ vào cổ. “Anh không biết là anh đã làm tôi vui thế nào khi anh đề nghị điều đó. Nhưng dở một nỗi tôi chưa sẵn sàng”.
Đó là một câu trả lời thật lòng. “Thế theo cô thì khi nào sẵn sàng được?”.
“Bây giờ tôi chưa thể nói được. Tôi mới làm thủ tục ly dị. Tôi không muốn hẹn hò gặp gỡ ai cho đến khi tôi thật sự được tự do về pháp lý để làm điều đó”. Chị nhìn đi nơi khác. “Tôi đoán là anh đã nghe nói về chồng tôi rồi đúng không?”.
Cliff chậm rãi gật đầu. “Tôi sẽ đợi, Grace, tôi đủ kiên nhẫn mà”. Đôi mắt chị gặp ánh mắt anh và anh cảm nhận được một ánh cười trong đó. Đó là điều anh hết lòng mong mỏi sẽ được thấy lại ở chị trong lần nói chuyện tới. Chắc sẽ không lâu nữa. Anh tin như vậy.
“Tốt hơn hết em hãy kể cho anh biết là đã có chuyện gì xảy ra”. Jack nói, hai bàn chân vẫn còn đi tất gác lên chiếc ghế nệm dài trước tivi màn hình rộng của Olivia. Đêm thứ Ba bao giờ cũng là đêm hò hẹn của họ. Olivia đã mời anh đến ăn tối và xem phim Những thám tử mới trên kênh truyền hình Discovery. Đã lâu họ cứ thay phiên mời nhau ăn và tuần này đến lượt của Olivia. Chị làm món gà nướng nồi đất, nó thực sự rất xứng đáng để được gọi là món quà ẩm thực. Nói chung Jack thường hay mua đồ ăn đem về nhà.
“Anh nói có chuyện là nghĩa làm sao?”, chị gặng hỏi.
“Bởi suốt cả tối đến giờ em chỉ mới nói được mỗi một câu thôi”.
Olivia khẽ thở dài, ngả đầu vào vai anh. Đó là một ngày may mắn của anh, ngày của buổi sáng cách đây chín tháng kể từ khi Jack đến liên hệ công việc ở toà án của chị. Tất cả mọi thứ đều mới mẻ với anh, cả thị trấn vịnh Cedar và toà báo. Anh đã ghé vào dự phiên toà xử ly hôn hôm ấy, trong lòng mệt mỏi vì đã từng trải qua chuyện đó, nhưng anh vẫn muốn được nghe lại chuyện mình đã từng trải qua.
Thế nhưng Olivia thì khác hẳn. Đôi vợ chồng trẻ, Ian và Cecilia Randall đang đứng trước mặt chị cùng cả luật sư của họ nữa. Lại một vụ ly hôn nữa. Hai người mang hai trái tim tan vỡ vẫn cố tỏ ra rằng họ chẳng thấy đau khổ gì. Nhưng từng cử chỉ và ánh mắt của họ đều toát lên một điều rằng họ đang vô cùng đớn đau bởi sự tan vỡ này. Jack thấy thế và anh tự hỏi những người khác không biết có cùng suy nghĩ với mình không. Anh cho rằng những người làm trong ngành toà án thường lạnh lùng và chẳng cảm nhận được sự đổ vỡ vốn thường diễn ra trong những cuộc phán xử như thế này. Đôi vợ chồng bước vào, trái tim đập liên hồi và cõi lòng thì tan nát. Những người chồng, người vợ khổ đau vẫn giáng cho nhau những cú sốc tình cảm như thế.
Jack nhớ rằng gia đình Randall đã mất một đứa con gái lúc mới sinh. Và họ đã nhờ Olivia huỷ bỏ bản thoả thuận tiền hơn nhân để có thể tiến hành thủ tục ly hôn. Olivia đã bác bỏ lời thỉnh cầu này và quan trọng hơn là chị bác luôn cả đơn ly hôn của họ. Ngày cuối tuần đó Jack đã viết một bài báo khen ngợi sự dũng cảm của chị.
Olivia không thích những sự soi mói không đáng có. Nhưng chị vẫn bỏ qua cho anh. Rồi một thời gian sau anh hiểu rằng mình có cảm tình với Olivia Lockhart. Họ đã đến bên nhau, và anh bắt đầu hi vọng mối quan hệ của họ sẽ dẫn đến một tương lai tốt đẹp.
“Em có định nói cho anh biết không?”. Jack hỏi Olivia, lòng băn khoăn không hiểu anh sẽ đọc được thêm điều gì trong sự im lặng của chị. Chiều nay anh cũng đã có những phiền toái của riêng mình rồi, nhưng anh vẫn chưa sẵn sàng để tìm hiểu xem nó là gì.
“Em lo cho Justine anh ạ”. Olivia lên tiếng sau một lúc im lặng.
“Sao thế?”. Theo như Jack biết thì con gái của Olivia đang yêu say đắm người chồng làm nghề đánh cá.
“Em nghe nói là nó đã ăn trưa với anh chàng Warren Saget vào thứ Sáu tuần trước”.
“Warren á?”. Jack không hiểu được con gái của Oliver nhìn thấy điều gì hay ho ở cái anh chàng chủ thầu xây dựng ấy chứ. Hơn nữa, Justine đã làm đám cưới với với Seth rồi còn gì. Và anh cũng hi vọng là Warren sẽ chuyển sang gặm cỏ ở những đồi cỏ xanh non hơn - có nghĩa là anh ta đã chuyển sang yêu những cô gái trẻ đẹp hơn rồi chứ.
“Em nghe người ta nói hay chính Justine nói với em?”.
“Em nghe người ta nói anh ạ”, Olivia trả lời, cắn môi dưới vẻ đăm chiêu, “Justine chẳng mấy khi tâm sự với em”. Chị nhìn anh với đôi mắt mở to lo lắng. “Em nghĩ nó ân hận vì đã lấy Seth”.
Jack bỏ chân xuống khỏi chiếc đi văng và ngồi thẳng dậy. Điều này đúng là đáng lo thật. Anh cau mày, cố nghĩ ra một điều gì đó để có thế an ủi Olivia. Nhưng anh đúng là một chuyên gia tồi trong mối quan hệ cha mẹ con cái. Bản thân quan hệ giữa anh và thằng con trai anh cũng đầy chông gai, nhưng lý do của nó lại rất đặc biệt. Thằng Eric nhà anh bị bệnh bạch cầu từ nhỏ. Nên Jack quay sang tìm vui trong rượu. Rồi anh triền miên bỏ bê vợ con. Sau khi vợ chồng anh ly dị, Eric chẳng muốn dây dưa gì với anh cả, nó nhất định không giữ liên lạc với anh. Jack chẳng trách gì con. Mặc dù vậy lòng anh đau đớn lắm. Bây giờ sau nhiều năm cai rượu, lại được sự động viên của Olivia, anh đã quyết tâm sẽ cải thiện mối quan hệ này.
Olivia và con gái cô đã cũng chẳng hợp nhau, nhưng lại ở cấp độ khác hẳn mối quan hệ của bố con anh
“Thì em cứ hỏi thẳng con bé xem. Biết đâu nó lại muốn kể cho em nghe thì sao”. Anh khuyên.
Một cái lắc đầu bác bỏ ngay ý kiến của anh. “Em không thể… Justine sẽ lại bực tức cho mà xem. Em không dám nói nếu như nó không tự bộc bạch trước với em. Hơn nữa, em không muốn nó biết là em đã nghe thấy người ta đồn nó đi ăn với Warren. Thế nào nó cũng bảo em là thừa hơi để nghe bọn ngồi lê đôi mách”. Olivia buông chân xuống và cúi người về phía trước. Chị nói tiếp. “Em chẳng biết thế nào nữa. Em luôn đưa ra những lời phán xét hợp lý trong phòng xử án. Vậy mà lại chẳng thể nói chuyện cởi mở chân thành với chính đứa con gái mình dứt ruột đẻ ra”.
Đó cũng chính là câu hỏi Jack tự đặt cho mình trong mối quan hệ của anh với con trai. Tuần nào Jack cũng viết một bài xã luận đăng trên tờ Bản tin vùng vịnh Cedar. Bao giờ anh cũng thành công khi muốn diễn đạt suy nghĩ của mình. Thế nhưng nói chuyện với cậu con trai thì anh lại không thể tự tin được. Anh rất sợ phải nói quá nhiều với nó, hoặc là nói không đủ lời với nó, anh sợ sự suy xét phán đoán và sợ cả sự thờ ơ lạnh lùng của con.
“Chiều nay thằng Eric có gọi điện cho anh”. Jack nói buồn bã. “Nó có vẻ chán nản lắm mà anh thì chẳng biết phải nói thế nào với nó. Anh là bố nó, nó gặp vấn đề rắc rối nên mới gọi anh. Vậy mà anh chẳng giúp gì được cho nó cả”.
“Nó gặp rắc rối gì thế hả anh?”. Cũng giống như Jack, Olivia biết rằng phải có một điểm bứt phá trong mối quan hệ khó khăn giữa anh và Eric thì nó mới gọi điện cho anh như thế.
Thấy anh không trả lời, Olivia liền đưa tay xoa dọc lưng anh và thì thầm, “anh Jack”.
“Cô bé mà nó đang sống cùng đã mang bầu rồi em ạ”.
“Chúng nó không dùng biện pháp phòng ngừa nào à?”.
“Không. Chắc bởi vì nó nghĩ chuyện có thai là viễn tưởng đối với nó”.
Olivia khẽ rười. “Em không thể hiểu tại sao nhiều đôi lại không muốn ngừa thai”
Jack xoay mặt lại nhìn Olivia. “Vì Eric biết rằng nó bị ung thư từ lúc nhỏ, lại phải dùng bao nhiêu là thuốc và với phương pháp trị liệu đó thì vô sinh là chắc chắn. Bác sĩ đã nói với bọn anh từ nhiều năm nay rồi”.
Olivia cau mày lại. “Vậy ý anh là đứa bé không phải con nó à?”
Jack lấy tay lau mắt. “Không thể là con nó được em ạ. Eric biết điều đó mà”.
“Ôi anh yêu”.
Jack đã muốn nói gì đó để an ủi Eric nhưng anh chẳng nghĩ ra được lời nào hoặc khuyên gì cho con cả. Anh đã cúp máy với tâm trạng nặng nề và lại cảm thấy mình thất bại trước con trai một lần nữa.
Phòng trưng bày mỹ thuật phố Harbor lúc này thật yên tĩnh. Nhân lúc được nghỉ ngơi, Maryellen lẻn vào gian phòng nhỏ phía sau để thưởng thức một tách cà-phê. Những ngày làm việc trôi qua thật chậm chạp, nhất là vào mùa thu. Vào những tháng mùa hè, phòng tranh của cô là điểm hấp dẫn khách du lịch và lúc nào cũng chật ních người ra vào. Maryellen rất thích khoảnh khắc yên tĩnh mà mùa thu mang đến, đặc biệt là khi mùa Giáng sinh đang về rất nhanh. Tất cả mọi người đều đang hối hả chuẩn bị cho mùa Giáng sinh mới. Hôm nay thế nào cũng có lúc Jon Bowman sẽ rẽ qua. Cô gặp anh lần cuối vào hồi tháng Sáu và cô vẫn nhớ như in lần gặp gỡ đầy bối rối ngượng ngùng ấy. Jon là một người đàn ông kín đáo dè dặt, có phần hay xấu hổ nữa. Anh ít khi hứng thú với những chuyện tâm sự riêng. Ước gì cô có thể lôi anh vào những cuộc nói chuyện của mình; nhưng thay vào đó cô lại huyên thuyên về đủ thứ chuyện trên đời. Đến lúc anh ra về cô chỉ muốn tự sỉ vả vì đã biến bản thân thành nạn nhân của chính nỗi đam mê của mình
Vừa rót xong cà-phê vào tách, cô đã nghe thấy tiếng bước chân trên thềm phòng trưng bày bên ngoài. Nhấp thật nhanh một ngụm cà-phê cho tỉnh táo cô đặt chiếc cốc sang bên và lao ra, chuẩn bị chào đón khách hàng của mình. “Xin chào mừng...”, cô nói, khuôn mặt bừng sáng khi nhận ra người khách, “anh Jon, em đang nghĩ đến anh”. Những bức ảnh nghệ thuật của anh luôn làm cô thích thú, thích hơn cả những đồ vật mỹ thuật khác được bán ở đây. Phòng trưngbày của cô còn đảm nhiệm trưng bày cả các tác phẩm nghệ thuật khác nữa: các bức tranh sơn dầu và màu nước, các tác phẩm kiến trúc bằng cẩm thạch và bằng đồng, những bức tượng nhỏ bằng sứ, và những tác phẩm bằng gốm độc nhất-vô-nhị nữa. Jon là nhiếp ảnh gia duy nhất có ảnh trưng bày ở phòng trưng bày mỹ thuật Harbor này.
Những bức ảnh của anh gồm những bức ảnh màu và ảnh đen trắng. Anh chụp cả phong cảnh hoặc những chi tiết của thiên nhiên, ví dụ như anh chụp cận cảnh những nốt rỗ trên một viên đá ở bãi biển, hay trên một kiểu vỏ cây nào đó. Thỉnh thoảng anh lại tập trung máy vào chủ đề con người. Ví như anh chụp một chiếc thuyền chèo hay túp lều của một người đánh cá. Chẳng mấy khi anh dùng hình ảnh con người trong bố cục các bức ảnh của mình. Maryellen rất ấn tượng với phong cách giản dị mà anh thể hiện qua các bức ảnh phong cảnh khá phức tạp, khiến cho người xem cảm nhận được những hình ảnh độc đáo và đường nét rất đẹp trong đó - và cả cách anh hóa giải sự phức tạp đa dạng bằng những chi tiết rất nhỏ nhung thật giản dị. Anh thực sự là một nghệ sĩ có phong cách riêng không thể bị nhầm lẫn với bất cứ ai khác. Điều đó khiến tâm hồn cô xao động mỗi suy nghĩ về anh.
Cô biết đến Jon chỉ qua công việc. Là người phụ nữ đã thất bại trong hôn nhân nên Maryellen luôn e dè khi tiếp xúc với đàn ông; còn Jon thì vốn là người ít nói. Nên những câu chuyện giữa họ cũng chỉ xoay quanh đề tài những bức ảnh của anh. Những bức ảnh cũng là lý do khiến cô muốn tìm hiểu nhiều hơn về anh. Và chỉ có vậy thôi. Ngay cả khi anh có ngoại hình hết sức hấp dẫn và gợi cảm...
Jon là chàng trai khá cao với dáng thể thao, có lẽ cao trên một mét tám. Mái tóc dài của anh luôn được buộc gọn gàng phía sau kiểu như đuôi ngựa. Anh không hẳn là người hấp dẫn như những người đàn ông khác; đường nét trên mặt anh khá sắc sảo cái mũi hơi to so với khuôn mặt nhỏ và hẹp kiểu diều hâu. Cách ăn mặc thì xuềnh xoàng đơn giản, thường thì anh hay mặc quần Jeans và áo sơ mi kẻ ca-rô.
Cách đây ba năm anh bắt đầu mang tác phẩm của mình đến phòng trưng bày mỹ thuật này, nhưng thường cách quãng, đôi khi anh còn nghỉ một thời gian dài. Maryellen đã làm cho phòng Mỹ thuật này đến mười năm nay rồi. Cô biết rõ về các nghệ sĩ sống quanh đây. Cô hay giao tiếp và hoà nhập với họ, nhưng với Jon ngoài công việc ra thì cô hiếm khi nói chuyện.
Cô nhận thấy thật ngớ ngẩn khi người nghệ sĩ cô yêu thích lại muốn từ chối làm bạn với mình.
Anh cất tiếng. “Anh mang thêm mấy bức ảnh vừa chụp được”.
“Em hi vọng là anh sẽ đến đấy. Em bán hết tất cả những bức ảnh anh mang đến từ hồi tháng Sáu rồi”.
Nghe vậy Jon nở một nụ cười khe khẽ. Nụ cười của Jon cũng hiếm hoi như những câu chuyện của anh vậy.
“Nhiều người thích ảnh của anh lắm đấy”.
Những lời khen ngại của cô làm cho anh thấy lúng túng. Anh vẫn hay từ chối những lời mời gặp gỡ từ các khách hàng yêu thích tranh ảnh của mình. Anh không giải thích gì, nhưng cô cảm nhận được rằng có lẽ anh nghĩ công chúng nên tập trung vào tác phẩm nghệ thuật chứ không phải là tập trung vào người nghệ sĩ.
“Chờ anh lấy những tấm ảnh đã”. Anh nói một cách cộc lốc và biến mất ra cửa sau.
Khi quay lại, Jon mang theo một ôm to các bức ảnh đã được lồng khung với nhiều kích cỡ khác nhau. Anh mang chúng vào phòng trong và đặt tất cả trên bàn làm việc của Maryellen.
“Em đãi anh một tách cà-phê nhé?”, cô hỏi. Trước đây cô cũng đã từng mời anh và lần nào anh cũng từ chối.
“Được thôi”.
Maryellen chắc chắn rằng mình đã hiểu nhầm anh. Cô tự bảo mình rằng thật vớ vẩn khi cảm thấy phấn khởi bởi cuối cùng anh đã nhận lời uống cà-phê. Cô rót cho anh một tách và ra hiệu xem anh có cần đường hay kem không. Anh lắc đầu.
Họ ngồi trên hai chiếc ghế đối diện nhau, cả hai đều rơi xuống nhìn vào tách cà-phê của mình. Cuối cùng thì Maryellen lên tiếng trước. "Các tác phẩm của anh càng ngày càng nổi tiếng đấy".
Jon giả tảng như không nghe thấy lời bình của cô. Anh đột ngột hỏi thẳng. "Em ly dị rồi phải không?”.
Câu hỏi làm Maryellen thức tỉnh. Cô đã tưởng anh là người ít chuyện. Vậy mà câu hỏi lại dường như quá thẳng thắn, thậm chí hơi thô lỗ. Dù sao thì cô vẫn quyết định trả lời câu hỏi của anh - rồi quay ngược vấn đề sáng anh. “Đã mười ba năm nay rối anh ạ”. Mỗi khi đề cập đến cuộc hôn nhân đã tan vỡ, cô lại cảm thấy sao mà khó khăn thế. Hồi ấy cô vẫn còn trẻ trung bồng bột lắm. Và cô đã phải trả giá rất đắt cho lỗi lầm của mình. Ngay khi vụ ly dị kết thúc, cô đã lấy lại tên thời con gái của mình và để lại đằng sau một quá khứ chẳng mấy ngọt ngào. “Thế còn anh thì sao?”.
Jon rõ ràng đã sắp đặt sẵn những câu trả lời của anh, vì khi nghe cô hỏi vậy, anh chỉ trả lời bằng một câu hỏi ngược lại. "Em cũng không hẹn hò nhau nhiều lắm đúng không?
“Không, thế anh thì sao?”.
“Cũng vài lần hẹn hò”.
“Anh có vợ rồi ư?”.
“Không”.
“Hay anh đã ly dị?”. Cô đoán là chưa.
“Không”.
Hiển nhiên là anh chẳng thấy khó chịu khi chia sẻ những bí ẩn đời tư của mình với cô. Anh cũng chẳng hế thấy ép buộc khi trả lời những băn khoăn thắc mắc của cô.
“Sao em không yêu ai đó đi?”, anh lại hỏi.
Maryellen nhún vai, không trả lời anh mà chỉ im lặng thay cho một lời giải thích mà cô nghĩ sẽ rất dài.
Jon uống một ngụm cà-phê rồi hỏi. "Em không thích ai à?".
“Ồ, có chứ”. Cô vốn là một người thích tiệc tùng và các hoạt động xã hội. “Tại sao lại quan tâm? Thế anh có ý định mời em đi chơi không?”. Cô mạnh dạn đề nghị. Nếu anh mời cô thì chắc thể nào cô cũng bị cám dỗ. Nhưng biết đâu cô lại nhầm. Những người đàn ông bí ẩn và ngăm đen thường là nguy hiểm, bởi cô đã có một bài học quý giá trong đời rồi.
"Anh ta đã làm gì em?”. Jon nhấn mạnh câu hỏi.
Maryellen đứng dậy rời chiếc ghế, lòng cảm thấy bực bội khi thấy anh đang tránh né những câu hỏi của cô bằng cách hỏi ngược lại cô. Mỗi câu hỏi như xoáy vào tâm can cô khiến vết thương lòng tưởng đã lành nay lại bị khoét sâu hơn, đào bới cái quá khứ cô đã từ lâu muốn nó ngủ yên mãi mãi.
“Anh kể về anh đi. Về những điều em chưa bao giờ biết ở anh”. Cô nhìn anh đầy thách thức.
“Anh là một bếp trưởng”.
“Ý của anh anh thích nấu ăn?”.
“Không, anh nói anh là bếp trưởng của quán Andre”. Đó là nhà hàng hải sản trên đường Tacoma.
“Em... em không biết”.
"Thì hầu hết mọi người có ai biết đâu. Anh phải làm thêm thì mới có tiền để thanh toán các hóa đơn chứ”.
Có tiếng của Kelly vang lên ngoài phòng trưng bày. “Có ai ở đây không nhỉ?”
Em gái cô không thể chọn một thời điểm khác tồi tệ hơn để ghé thăm hay sao chứ. Maryellen tiếc rẻ nhìn ra ngoài phòng. “Chắc là em gái em đến”.
“Anh phải đi đây”. Jon uống nốt tách cà-phê rồi đặt cốc xuống.
“Anh đừng đi vội”. Cô hấp tấp tiến lại gần anh, nắm lấy cánh tay anh. “Em với anh chỉ vừa mới nói chuyện thôi mà”.
“Em hãy đến quán Andre vào hôm nào đó đi. Anh sẽ làm cho em một món đặc biệt”.
Maryellen không chắc chắn là ý anh muốn cô đến đó một mình hay đi cùng một anh chàng nào đó. Nhưng hỏi lại thì bất tiện quá. “Được rồi, em sẽ đến”. Cô nói khi Kelly bước vào căn phòng phía sau. Em gái cô đứng sựng lại, khuôn mặt đầy ngạc nhiên và chợt bừng sáng lên khi cô phát hiện ra chị gái mình đang đứng cùng với một người đàn ông.
“Chào. Tôi là Jon Bowman”. Anh nói và tiến về phía trước. “Anh để bọn em nói chuyện với nhau nhé. Rất vui gặp lại em Maryellen”.
“Tạm biệt anh”, cô nói với cảm xúc lẫn lộn chen giữa sự ngạc nhiên và nuối tiếc. Thâm tâm cô phải tự thú với mình rằng cô rất hi vọng vào lần gặp sau. Và những xúc cảm này cô đã không có được trong nhiều năm nay rồi.
Kelly nhìn theo anh. Ngay khi Jon đi khuất và chắc rằng anh không còn có thể nghe được, cô hỏi. “Anh chàng đặc biệt của chị đấy à?”.
“Chỉ là một nghệ sĩ làm cho bọn chị thôi mà”, Maryellen quay lại, chẳng bịa thêm được điều gì về anh.
Kelly kêu lên, kéo chiếc ghê Jon vừa mới rời khỏi. “Làm sao mà mẹ mình lại có thể vượt qua được sự cô đơn nhỉ?”
“Thậm chí còn tốt hơn rất nhiều so với những dự doán của chị”. Cuộc gặp đầu tiên với tiên luật sư đã rất khó khăn, nhưng mẹ cô rất quyết tâm.
“Chị biết không, thể nào ba cũng quay về”. Kelly nói.
Malyellen không tranh luận gì với em, từ lâu cô đã mất hi vọng rằng ba sẽ trở về. “Chị không tin em à?”. Kelly hỏi cứ như thách thức.
Thực tế, Maryellen đã đầu hàng. Cho dù lý do là gì đi chăng nữa thì ba cô cũng đã biến mất rồi. Khi nói về đàn ông, cô chẳng mấy kỳ vọng ở họ, kể cả đó là người đã sinh ra cô.
Liệu Jon có phải là một người đàn ông khác với họ? Cô quyết định sẽ chẳng nghĩ đến điều đó bây giờ làm gì.
“Ba sẽ về”. Kell khăng khăng khẳng định lại khi thấy Maryellen chẳng hề quan tâm đến câu hỏi của cô.
“Thời gian sẽ trả lời, em gái ạ”. Malyellen nói rồi với lấy cốc cà-phê đang uống dở.
Người phụ nữ ấy khá hấp dẫn và chỉ xấp xỉ tuổi anh. Thế nhưng chị có vẻ hơi bối rối mỗi khi bị anh bắt gặp đang mải mê đuổi theo những suy nghĩ của mình. Anh sẽ rất ngạc nhiên nếu chị còn nhớ được anh cũng đã ở đó. Họ đã thanh toán bữa trưa cùng một lúc và việc đã xảy ra như trời định trước vậy. Hoá đơn của anh thì chính xác nhưng chính cái thẻ tín dụng của Grace Sherman mà anh đã nhét nhanh vào ví mình thì lại không. Đương nhiên là chị đã cầm thẻ của anh.
Suốt cả tuần bận rộn với hàng núi công việc khiến Cliff đã quên bẵng việc mình cầm thẻ tín dụng của người khác. Nếu một nhân viên chu đáo ở hiệu thuốc không chỉ cho anh biết thì có lẽ còn lâu anh mới nhận ra việc đó. Ngay khi về đến nhà, anh tìm ngay số điện thoại của Grace Sherman trong danh bạ nhưng chẳng may anh không tìm được số của chị. Tuy nhiên, anh đã tìm thấy trong danh sách ấy có một cái tên D & G Sherman ở căn nhà số 204 Rosewood, khu vịnh Cedar. Tiếng thoại ở máy trả lời tự động là giọng một phụ nữ nên anh đã để lại lời nhắn và chờ chị gọi lại cho anh. Vậy mà chẳng có ai gọi cả và anh nghĩ là mình đã gọi điện nhầm cho người cũng có tên Sherman đó. Bây giờ việc anh phải làm là nên đưa lại tấm thẻ tín dụng đó cho chủ quản lý nhà hàng Pancake Palace và yêu cầu ông ấy lấy lại thẻ tín dụng giúp anh. Sau đó, Cliff đã tìm thấy lý do để lái xe đến khu vực vịnh Cedar. Bà Charlotte Jeferson đã gọi điện cho anh hồi tháng Sáu và nói với anh về một người ông mà anh chưa một lần gặp mặt. Cliff chẳng có một ấn tượng tốt đẹp nào về Tom Harding, ngay cả khi biết ông là một nghệ sĩ cao bồi có khả năng đổi giọng nổi tiếng từ cuối những năm ba mươi đến giữa những năm năm mươi. Tom Harding đã bỏ rơi bà nội Cliff và bố anh để chạy theo tiếng gọi của danh vọng. Vào cuối cuộc đời mình ông ta bỗng cảm thấy ân hận vì đã gây ra nỗi đau khổ cho gia đình mình. Nhưng lúc ấy thì đã quá muộn rồi. Cliff chính là thằng cháu nội duy nhất của ông và - ít nhất là theo lời bà Charlotte Jefferson - thì ông già kia đã có ý định liên lạc với anh.
Bà Charlotte đã ở tuổi thất thập rồi. Thế nhưng bà lại là một người phụ nữ đầy sức sống và nhân hậu. Bà đối xử rất tốt với ông của Cliff. Đó là khi bà tình nguyện làm việc ở Trung tâm An dưỡng ở vịnh Cedar. Bà đã gặp và lập tức yêu qúy ông già này. Charlotte kể rằng họ là những người bạn tốt của nhau.
Ông già Tom đã mất khả năng giao tiếp sau một trận đột quỵ. Thế nhưng rõ ràng là bà Charlotte vẫn có thể nói chuyện được với ông. Bà kể với Cliff rằng ông Tom đã trao cho bà một chiếc chìa khoá lúc làm chung. Sau khi tìm hiểu, bà khám phá ra nhiều kỉ vật cá nhân của ông trong phòng kho và đi đến kết luận ông Tom là một ngôi sao điện ảnh đóng phim cao bồi trên truyền hình một thời.
Cliff là người họ hàng duy nhất còn sống sót của ông Tom nên anh đã có quyền được trao lại những kỷ vật này.
Lúc đầu, Cliff định sẽ chẳng dính dáng gì với ông già này cả. Thế nhưng bà Charlotte không nghe. Bà vẫn đảm đương nhiệm vụ cao cả của mình đối với ông Tom, rằng tất cả những tấm áp phích quảng cáo, những kịch bản phim đã được đánh máy và cả khẩu súng lục của ông nữa - đều phải được giao lại cho Cliff, bất chấp Cliff có muốn giữ hay không.
Khi Cliff gặp bà Charlotte, anh đã hiểu tại sao ông nội anh lại cảm thấy rất thoải mái bên người phụ nữ già nua lớn tuổi hơn và tại sao chỉ qua có một mùa hè thôi, họ đã thân thiết nhau đến vậy.
Anh đã tạo thói quen ghé thăm bà hoặc gọi điện cho bà theo định kỳ hai tuần một lần. Có vẻ như bà cũng rất thích những chuyến viếng thăm này. Bà đã rất tự hào khoe hai đứa con của mình và các cháu bà nữa. Con trai bà, William đang sống ở miền Nam, nếu như bà nhớ chính xác, còn cô con gái Olivia là một thẩm phán toà án dân sự ở ngay vịnh Cedar này. Cliff chưa gặp Olivia nhưng anh băn khoăn tự hỏi không hiểu trên đời có người phụ nữ nào lại thật sự tuyệt vời như những gì mẹ họ hay nói về họ không.
Giờ thì Cliff cũng đã dành thời gian nghiên cứu những kỷ vật mà bà Charlotte đã lôi ra từ phòng kho rồi. Và anh thấy biết ơn bà vì những gì bà đã làm. Anh nghĩ mãi vẫn chưa ra có cách gì hơn để cảm ơn bà. Tốt nhất vẫn là tặng lại cho bà những tấm áp phích quảng cáo phim mà anh đã cất công làm viền và đóng khung cho chúng. Bà Charlotte đã thật lòng yêu mến ông Tom và chuyện đó xảy ra trước khi bà biết ông là ngôi sao điện ảnh cơ mà.
Cliff đỗ chiếc xe tải ở dốc đối phía trên khu vịnh nhỏ, hướng bánh xe về sát lề đường. Tay cầm theo tấm áp phích cồng kềnh, anh bước lên mấy bậc tam cấp dẫn vào gia đình lớn của bà. Cũng như mọi khi, chú mèo “gác cổng” Harry vẫn đang cuộn tròn bên cửa sổ phòng khách. Thậm chí trước khi Cliff bấm chuông anh đã nghe thấy tiếng bà Charlotte vặn khoá cửa.
Anh chưa bao giờ có dịp đếm xem nhà bà Charlotte có bao nhiêu cái khoá. Nhưng anh nghĩ rằng Houdini lẽ ra không nên ở bên trong. Anh không chắc bà muốn giấu một điều gì quan trọng, anh biết lằng vật gì quý giá thể nào cũng được chôn giấu trong một đống quần áo lót như bà đã từng làm. Anh cũng biết rõ là trong câu chuyện của anh với bà Chariotte, bà ấy muốn khai thác ở anh một điều gì đó.
“Ôi Cliff đến đấy à”, bà vui mùng reo lên, tay đẩy chốt để mở khoá hết khoá thứ nhất rồi đến khoá thứ hai. “Ngạc nhiên làm sao. Thế mà cháu chẳng báo trước cho ta là cháu sẽ rẽ qua. Thế nào ta cũng sẽ nướng cho cháu một ít bánh bích qui”.
Đó chính là lý do mà anh không gọi điện trước. Bà lão này rõ là đang muốn làm cho anh béo lên đây. Về điểm này thì anh đâu cần sự giúp đỡ của ai - anh đã phát tướng từ lúc tuổi còn trung niên và phải tốn công lắm mới giảm được. Đến bây giờ anh cũng đã tiêu được mười cân so với hồi đầu năm, anh thề rằng thà róc đá còn dễ hơn thế này. Cho tới khi về hưu thì anh chẳng còn phải lo chuyện cân nặng của mình nữa.
“Cháu mang đến cho bác cái này hay lắm”, anh nói khi bà mở cánh cửa bình phong cho anh. Harry ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào Cliff và nhận ra anh là người bạn của gia đình nên nó lại nhắm mắt và quay lại với giấc ngủ trưa của mình.
“Cháu ngồi đi, bác sẽ đi pha trà cho cháu”, bà Charlotte đon đả mời Cliff. “À, ta có mấy cái bánh nghiền cho cháu đây”.
“Không phải phiền phức thế đâu”. Cliff biết phản đối thế cũng chẳng ăn thua gì nhưng dù sao vẫn muốn nói. Anh chỉ muốn ở lại đó trong vài phút thôi. Sau khi rời khỏi nhà bà Charlotte, anh còn phải mang tấm thẻ tín dụng của Grace Sherman đến quán Pancake nữa. Có thể anh phải hỏi bà Charlotte xem bà có biết ai là Grace không. Vì bà cũng là người già cả ở vịnh Cedar này mà. Có lẽ bà quen biết hầu hết mọi người ở đây cũng nên.
“Chắc cháu đói lắm rồi”, bà Charlotte nói, giọng có vẻ xót xa pha chút giận dỗi vì anh từ chối lời mời của bà.
“Bác Charlotte này”, anh nói giọng tha thiết, “bác mở quà ra đi”. Món quà không được gói ghém cẩn thận nhưng cửa hàng đã đóng khung lại và cho nó vào một hộp bìa các tông kín.
Bà Charlotte ngước nhìn anh vẻ ngạc nhiên. “Cháu tặng ta đấy ư?”
Anh mỉm cười gật đầu, cảm thấy thú vị vì bà Charlotte phản ứng bằng vẻ bối rối đầy cảm động.
Bà Charlotte là tuýp phụ nữ lúc nào cũng cảm thấy thoải mái và vui vẻ khi cho ai bất cứ cái gì nhưng lại thấy áy náy khi nhận quà của người khác.
Bà mở chiếc hộp, Cliff giúp bà tháo khung. Anh dựng tấm áp phích lên và nghe tiếng bà thở gấp khi nhận ra đó là món quà gì. Bà vột lấy tay che miệng, đôi mắt màu xám bạc đã ngấn đầy nước mắt.
“Ôi Cliff, lẽ ra cháu không nên làm thế này”, bà nói mắt vẫn mở to vì kinh ngạc. “Món quà này quá quý giá đối với ta”.
“Bác đừng nói thế. Cháu chắc rằng ông nội cháu rất muốn bác giữ nó mà. Nếu không mang nó đến cho bác thì cháu cũng chẳng thể giữ nổi cái nào nữa”. Cliff cũng không biết gì về ông nội của anh cả, ngoài mấy điều sơ sơ qua lời ba anh kể lại. Bây giờ anh không còn nhìn ông Tom như một người ích kỷ chỉ biết chạy theo danh vọng mà chỉ thấy đó là một ông già đã ăn năn hối hận muốn trở lại những năm tháng xưa, để chọn con đường khác đúng đắn hơn.
“Cháu đúng là bướng bỉnh”, bà Charlotte cau mày ngắt ngang dòng suy nghĩ của anh.
Anh không thể phủ nhận điều đó. Bà đã rất kiên định để gọi điện và viết thư. Nếu Cliff không tới bậc cửa nhà bà, anh nghĩ bà cũng sẽ đích thân mang tất cả mọi thứ trả lại cho anh bằng cách phiêu lưu trên một chiếc xe mà anh chắc rằng chưa bao giờ được lái với vận tốc quá bốn mươi dặm một giờ.
Bà Charlotte với chiếc khăn mùi xoa bằng đăng ten được gấp nếp gọn gàng trong túi chiếc tạp dề và hỉ mũi rất to vào đó. “Ta chẳng biết phải nói gì nữa Cliff à”.
"Bác có muốn cháu treo nó lên không ạ?".
“Ừ ừ, cháu treo lên giúp ta đi”.
Anh đã nghĩ trước đến việc phải giúp bà Charlotte treo tấm áp phích lên. Bỗng bà hỏi anh. “Cháu có nghĩ là treo ở trong phòng ngủ của ta thì sẽ rất hợp không?”
“Cháu nghĩ đó là một sáng kiến hoàn hảo đấy bác ạ”. Anh khẳng định với bà như vậy. Anh đi dọc hành lang dài theo chân bà đến phòng ngủ chính ở tít cuối căn nhà. Chiếc giường đôi kê sát tường một bên thành cong cong uốn lượn. Một chiếc bàn trang điểm cổ điển với một tấm gương lớn được kê phía đối diện trong căn phòng. Một chiếc ghế êm ái với đệm bọc màu xanh rất đẹp và một cái bàn với chiếc đèn đọc sách khá xinh xắn. Mắt hướng về chồng sách cao trên bàn, anh đoán rằng chắc bà toàn đọc sách ở đó.
“Treo ở đây có được không nhỉ?”, bà Charlotte hỏi, tay chỉ về phía khoảng tường trắng trống trơn phía đầu giường.
Phía trên chiếc bàn trang điểm treo rất nhiều tranh ảnh. Thế nhưng Cliff vẫn không có dịp chiêm ngưỡng chúng. Tuy nhiên mắt anh chợt dừng lại ở một bức ảnh. Bà Charlotte thấy anh chăm chú vào bức ảnh đó thì tiến lại và giải thích. “Đó là Olivia hồi sáu tháng tuổi đấy”. Bà nói và chỉ vào bức ảnh của cô bé và nói thêm. “Hồi ấy nó là một đứa trẻ phi thường”.
Cliff mỉm cười. Cô bé Olivia sáu tháng tuổi đang mút đầu ngón chân và há cái miệng không răng cười toe tuét. Anh không thể tưởng tượng được nữ thẩm phán sẽ nói gì nếu như biết anh đã nhìn thấy bức ảnh này của cô ta.
“Mẹ ơi?”, khi đang ngắm bức ảnh cô con gái của bà Charlotte, anh bỗng nghe tiếng một phụ nữ gọi với từ phòng khách. “Mẹ vẫn ổn đâu chứ? Con thấy cửa trước mở và...”.
“Ôi con đấy à…”, bà Charlotte lao ra khỏi phòng ngủ. “Olivia về đấy hả con?”.
“Con thấy mẹ không khoá cửa, mà mẹ có bao giờ...”. Olivia bỏ lửng câu nói khi nhìn thấy bà Charlotte ở hành lang. Chị ngừng lời ngay lập tức khi thấy Cliff bước ra khỏi phòng ngủ của bà.
Olivia hết nhìn mẹ lại sang Cliff.
“Xin chào cô”, anh lên tiếng trước, cảm thấy thú vị trước cái nhìn bối rối ấy. Olivia đã trưởng thành và là một phụ nữ khá hấp dẫn. Có lẽ bây giờ không phải lúc hỏi xem chị có còn đủ lanh lẹ để nâng được chân cho lên miệng mà mút nữa không. Dù vậy, anh vẫn không nén nổi buồn cười. Hai mẹ con bà Charlotte giống nhau nhất là ở đôi mắt. Nếu không biết trước Olivia là một thẩm phán, có lẽ anh vẫn đoán chị đang đảm đương một chức vụ đáng kính nào đó bởi cách nhìn nghiêm nghị và đạo mạo. Chị cao vừa phải, chắc cũng ở độ tuổi của anh, và mái tóc thì vẫn ẩn hiện một màu nâu rạng rỡ.
“Tôi tên là Cliff Harding”, anh tự giới thiệu rồi bước lên phía trước và đưa tay ra.
Bà Charlotte vội giải thích. “Anh ấy là cháu nội của ông Tom con ạ. Anh ấy đang giúp mẹ treo tấm áp phích mà anh ấy đã tặng mẹ”.
Olivia cau mày lại khi bắt tay Cliff. “Ôi Chúa ơi, anh đúng là Cliff Harding rồi”.
“Thì mẹ cũng vừa giới thiệu với con đấy thôi”, bà Charlotte lẩm bẩm.
“Anh ấy cầm tấm thẻ tín dụng của Grace”.
Thực ra Cliff chi biết là Grace đang cầm thẻ tín dụng của anh mà thôi. “Cô biết Grace Sherman à?”
Olivia gật đầu. “Bọn tôi là bạn bè thân từ nhiều năm nay rồi. Cô ấy định bụng tối nay sẽ trả thẻ lại cho anh”.
Bà Charlotte chẳng hiểu mô tê gì, bà nhìn hết người này đến người kia, cứ như thế những gì bà vừa nghe thấy chỉ là một trò đùa vậy.
Cliff kể lại sự việc một cách chi tiết nhất cho bà nghe.
Bà Charlotte khuyên anh. “Cháu nên giải quyết việc này ngay đi. Bác thì chẳng bao giờ dùng thẻ tín dụng cả. Dùng thẻ đó chẳng khác gì đem tiền cho bọn cướp”.
Anh nói. "Thì cháu cũng đang mong lấy lại được cái thẻ của cháu lắm chứ. Bác có nghĩ là cháu nên đến nhà Grace không ạ?"
“Cô ấy làm việc ở thư viện cháu ạ”. Bà Charlotte bảo anh. “Cháu đỗ xe ở đây rồi đi bộ đến đó cũng được. Chỉ cách đây có vài đoạn đường thôi mà. Và ta không nghĩ còn nhiều buổi chiều nắng tươi đẹp như thế này nữa đâu”.
“Tôi nghĩ là anh nên gặp Grace”. Olivia khích lệ anh, và quay đi không nhìn chằm chằm vào anh nữa. Cliff bỗng cảm thấy như anh vừa bỏ lỡ điều gì rất thú vị trong ánh mắt của Olivia.
“Ừ đúng đấy”. Bà Charlotte tán thưởng. “Olivia nói đúng đấy cháu ạ. Cháu nên gặp Grace. Cô ấy nên gặp một người bạn trai sau khi Dan đã xử sự với cô ấy như thế”.
“Dan là chồng cô ấy, à, đã từng là chống cô ấy. Tự nhiên hồi đầu năm anh ta lại mất tích”.
Hai người phụ nữ quay ra bàn tán về người chồng tên Dan đó và cả những phán đoán của họ nữa, rằng anh ta bỏ trốn theo người đàn bà khác.
“Grace đã làm thủ tục ly dị hôm thứ hai tuần trước”, Olivia kể cho anh nghe. Hoá ra lại trùng với cái ngày có chuyện xảy ra với chiếc thẻ tín dụng. Không nghi ngờ gì nữa, có lẽ lúc đó cô ấy buồn chán quá mà đâm ra lơ đãng chăng. Hẳn là cô ấy đã rất cô đơn nữa. Mặc dù vậy, Cliff vẫn có thể nhận ra dù cô có lẫn vào đám đông đi chăng nữa.
Cliff thấy Grace Sherman giống như một bông hoa dại của núi rừng. Thường thì anh cũng chẳng thích thơ văn anh cũng không hiểu tại sao mình lại đi lồng ghép Grace vào hình ảnh và lời lẽ bay bướm như vậy, nhưng thực sự là hình ảnh ấy cứ quanh quẩn trong đầu anh. Đó là một bông hoa tươi thắm, nở rạng rỡ giữa trời bất chấp bão táp, gió mưa và gian khổ. Anh cố gắng không nghĩ đến nữa, nhưng hình ảnh Grace cứ mãi ám ảnh anh, làm cho anh không nguôi nhớ đến. Đã quá lâu rồi anh chẳng ngắm nhìn người phụ nữ nào giống như kiểu anh đã từng ngắm Grace.
Anh lẩm bẩm. “Cháu sẽ đi bộ đến thư viện bác ạ”.
Olivia mắt sáng lên tán thưởng. “Hayquá”.
Con gái bà Charlotte có vẻ ủng hộ việc anh đi đến đó. Cũng có thể là cô ta đang muốn khích lệ anh gặp bạn mình. Nếu đúng vậy thì Cliff chẳng cần phải có sự khích lệ hay cố gắng nào cả, bản thân anh cũng rất muốn điều đó. Sau khi tạm biệt bà Charlotte và Olivia, anh rời khỏi căn nhà và lao xuống dốc hướng về phía bến tàu. Đây là lần đầu tiên anh đến thư viện này. Anh dừng lại để ngắm nhìn những bức tranh được khắc họa bên ngoài tường thư viện. Cũng có vài bức tranh tường trong thị trấn khiến anh ngưỡng mộ này.
Grace Sherman đứng ngay ở bàn đầu khi Cliff bước vào thư viện. Chị nhìn anh rất nhanh khi anh tiến lại quầy. “Tôi giúp gì được anh ạ?”
“Tôi là Cliff Harding đây, anh nói và chờ xem chị phản ứng ra sao.
Cũng phải mất một khoảnh khắc cái tên của anh mới gây ấn tượng. “Ôi chào anh. Hoá ra anh là người đã cầm thẻ tín dụng của tôi và tôi lại cầm thẻ của anh à? Tôi xin lỗi nhé. Lẽ ra tôi đã phải nhận ra anh ngay mới phải. Anh chờ tôi một lát được không, tôi vào lấy cái ví đã nhé”. Grace hít một hơi thở thật sâu rồi quay ra bảo anh. "Tôi còn đang định tối nay sẽ gọi điện cho anh đây".
"Tôi cũng thấy Olivia bảo vậy".
“Anh biết Olivia à?”.
“Chúng tôi gặp nhau ở nhà bà Charlotte hồi chiều”.
Lại một thoáng do dự, cứ như thể Grace phải cần thời gian để ghép các chi tiết của câu chuyện lại. “Anh là cháu của ông Tom Harding đấy à? Lúc nào bà Charlotte cũng nhắc đến anh. Tôi xin lỗi nhé, tôi chẳng nhận ra anh ngay. Phiền anh đợi tôi một chút”.
“Không sao cả”.
Grace biến mất sau cánh cửa một căn phòng nhỏ ngay phía sau quầy mượn sách và nhanh chóng quay lại với chiếc ví trên tay. Tấm thẻ tín dụng của anh được cất trong một cái phong bì nhỏ màu trắng. Họ đổi thẻ cho nhau, cùng phá lên cười vì sự nhầm lẫn của mình rồi đứng nhìn nhau đầy bối rối trong vài giây. Hoặc là bây giờ, hoặc sẽ không bao giờ cả. Cliff nghĩ nhanh và quyết định "Tôi nghĩ có lẽ chúng ta sẽ có dịp nói chuyện trong một bữa tối nào đó”. Đã nhiều năm nay anh không hẹn hò với một người phụ nữ nào cả. Vậy nên anh cảm thấy hơi khó khăn khi mở lời. Không thấy Grace trả lời, anh nghĩ có lẽ mình đã thất bại.
“Ăn tối ạ? Chỉ có hai chúng ta thôi ư?”. Cuối rùng thì Grace cũng lên tiếng.
Cliff nói nhanh. “Tôi đã ly hôn được năm năm rồi. Từ lúc vợ tôi bỏ đi, tôi chưa bao giờ hẹn hò với người phụ nữ nào khác. Tôi nghĩ có lẽ đã đến lúc tôi phải tìm lấy một người bạn”.
“Tôi hiểu”, chị trả lời, lại nhìn anh lần nữa. “Ý tôi là…” Chị dừng lại và hít một hơi thở thật sâu nữa. “Cảm ơn anh”. Chị đưa tay lên sờ vào cổ. “Anh không biết là anh đã làm tôi vui thế nào khi anh đề nghị điều đó. Nhưng dở một nỗi tôi chưa sẵn sàng”.
Đó là một câu trả lời thật lòng. “Thế theo cô thì khi nào sẵn sàng được?”.
“Bây giờ tôi chưa thể nói được. Tôi mới làm thủ tục ly dị. Tôi không muốn hẹn hò gặp gỡ ai cho đến khi tôi thật sự được tự do về pháp lý để làm điều đó”. Chị nhìn đi nơi khác. “Tôi đoán là anh đã nghe nói về chồng tôi rồi đúng không?”.
Cliff chậm rãi gật đầu. “Tôi sẽ đợi, Grace, tôi đủ kiên nhẫn mà”. Đôi mắt chị gặp ánh mắt anh và anh cảm nhận được một ánh cười trong đó. Đó là điều anh hết lòng mong mỏi sẽ được thấy lại ở chị trong lần nói chuyện tới. Chắc sẽ không lâu nữa. Anh tin như vậy.
“Tốt hơn hết em hãy kể cho anh biết là đã có chuyện gì xảy ra”. Jack nói, hai bàn chân vẫn còn đi tất gác lên chiếc ghế nệm dài trước tivi màn hình rộng của Olivia. Đêm thứ Ba bao giờ cũng là đêm hò hẹn của họ. Olivia đã mời anh đến ăn tối và xem phim Những thám tử mới trên kênh truyền hình Discovery. Đã lâu họ cứ thay phiên mời nhau ăn và tuần này đến lượt của Olivia. Chị làm món gà nướng nồi đất, nó thực sự rất xứng đáng để được gọi là món quà ẩm thực. Nói chung Jack thường hay mua đồ ăn đem về nhà.
“Anh nói có chuyện là nghĩa làm sao?”, chị gặng hỏi.
“Bởi suốt cả tối đến giờ em chỉ mới nói được mỗi một câu thôi”.
Olivia khẽ thở dài, ngả đầu vào vai anh. Đó là một ngày may mắn của anh, ngày của buổi sáng cách đây chín tháng kể từ khi Jack đến liên hệ công việc ở toà án của chị. Tất cả mọi thứ đều mới mẻ với anh, cả thị trấn vịnh Cedar và toà báo. Anh đã ghé vào dự phiên toà xử ly hôn hôm ấy, trong lòng mệt mỏi vì đã từng trải qua chuyện đó, nhưng anh vẫn muốn được nghe lại chuyện mình đã từng trải qua.
Thế nhưng Olivia thì khác hẳn. Đôi vợ chồng trẻ, Ian và Cecilia Randall đang đứng trước mặt chị cùng cả luật sư của họ nữa. Lại một vụ ly hôn nữa. Hai người mang hai trái tim tan vỡ vẫn cố tỏ ra rằng họ chẳng thấy đau khổ gì. Nhưng từng cử chỉ và ánh mắt của họ đều toát lên một điều rằng họ đang vô cùng đớn đau bởi sự tan vỡ này. Jack thấy thế và anh tự hỏi những người khác không biết có cùng suy nghĩ với mình không. Anh cho rằng những người làm trong ngành toà án thường lạnh lùng và chẳng cảm nhận được sự đổ vỡ vốn thường diễn ra trong những cuộc phán xử như thế này. Đôi vợ chồng bước vào, trái tim đập liên hồi và cõi lòng thì tan nát. Những người chồng, người vợ khổ đau vẫn giáng cho nhau những cú sốc tình cảm như thế.
Jack nhớ rằng gia đình Randall đã mất một đứa con gái lúc mới sinh. Và họ đã nhờ Olivia huỷ bỏ bản thoả thuận tiền hơn nhân để có thể tiến hành thủ tục ly hôn. Olivia đã bác bỏ lời thỉnh cầu này và quan trọng hơn là chị bác luôn cả đơn ly hôn của họ. Ngày cuối tuần đó Jack đã viết một bài báo khen ngợi sự dũng cảm của chị.
Olivia không thích những sự soi mói không đáng có. Nhưng chị vẫn bỏ qua cho anh. Rồi một thời gian sau anh hiểu rằng mình có cảm tình với Olivia Lockhart. Họ đã đến bên nhau, và anh bắt đầu hi vọng mối quan hệ của họ sẽ dẫn đến một tương lai tốt đẹp.
“Em có định nói cho anh biết không?”. Jack hỏi Olivia, lòng băn khoăn không hiểu anh sẽ đọc được thêm điều gì trong sự im lặng của chị. Chiều nay anh cũng đã có những phiền toái của riêng mình rồi, nhưng anh vẫn chưa sẵn sàng để tìm hiểu xem nó là gì.
“Em lo cho Justine anh ạ”. Olivia lên tiếng sau một lúc im lặng.
“Sao thế?”. Theo như Jack biết thì con gái của Olivia đang yêu say đắm người chồng làm nghề đánh cá.
“Em nghe nói là nó đã ăn trưa với anh chàng Warren Saget vào thứ Sáu tuần trước”.
“Warren á?”. Jack không hiểu được con gái của Oliver nhìn thấy điều gì hay ho ở cái anh chàng chủ thầu xây dựng ấy chứ. Hơn nữa, Justine đã làm đám cưới với với Seth rồi còn gì. Và anh cũng hi vọng là Warren sẽ chuyển sang gặm cỏ ở những đồi cỏ xanh non hơn - có nghĩa là anh ta đã chuyển sang yêu những cô gái trẻ đẹp hơn rồi chứ.
“Em nghe người ta nói hay chính Justine nói với em?”.
“Em nghe người ta nói anh ạ”, Olivia trả lời, cắn môi dưới vẻ đăm chiêu, “Justine chẳng mấy khi tâm sự với em”. Chị nhìn anh với đôi mắt mở to lo lắng. “Em nghĩ nó ân hận vì đã lấy Seth”.
Jack bỏ chân xuống khỏi chiếc đi văng và ngồi thẳng dậy. Điều này đúng là đáng lo thật. Anh cau mày, cố nghĩ ra một điều gì đó để có thế an ủi Olivia. Nhưng anh đúng là một chuyên gia tồi trong mối quan hệ cha mẹ con cái. Bản thân quan hệ giữa anh và thằng con trai anh cũng đầy chông gai, nhưng lý do của nó lại rất đặc biệt. Thằng Eric nhà anh bị bệnh bạch cầu từ nhỏ. Nên Jack quay sang tìm vui trong rượu. Rồi anh triền miên bỏ bê vợ con. Sau khi vợ chồng anh ly dị, Eric chẳng muốn dây dưa gì với anh cả, nó nhất định không giữ liên lạc với anh. Jack chẳng trách gì con. Mặc dù vậy lòng anh đau đớn lắm. Bây giờ sau nhiều năm cai rượu, lại được sự động viên của Olivia, anh đã quyết tâm sẽ cải thiện mối quan hệ này.
Olivia và con gái cô đã cũng chẳng hợp nhau, nhưng lại ở cấp độ khác hẳn mối quan hệ của bố con anh
“Thì em cứ hỏi thẳng con bé xem. Biết đâu nó lại muốn kể cho em nghe thì sao”. Anh khuyên.
Một cái lắc đầu bác bỏ ngay ý kiến của anh. “Em không thể… Justine sẽ lại bực tức cho mà xem. Em không dám nói nếu như nó không tự bộc bạch trước với em. Hơn nữa, em không muốn nó biết là em đã nghe thấy người ta đồn nó đi ăn với Warren. Thế nào nó cũng bảo em là thừa hơi để nghe bọn ngồi lê đôi mách”. Olivia buông chân xuống và cúi người về phía trước. Chị nói tiếp. “Em chẳng biết thế nào nữa. Em luôn đưa ra những lời phán xét hợp lý trong phòng xử án. Vậy mà lại chẳng thể nói chuyện cởi mở chân thành với chính đứa con gái mình dứt ruột đẻ ra”.
Đó cũng chính là câu hỏi Jack tự đặt cho mình trong mối quan hệ của anh với con trai. Tuần nào Jack cũng viết một bài xã luận đăng trên tờ Bản tin vùng vịnh Cedar. Bao giờ anh cũng thành công khi muốn diễn đạt suy nghĩ của mình. Thế nhưng nói chuyện với cậu con trai thì anh lại không thể tự tin được. Anh rất sợ phải nói quá nhiều với nó, hoặc là nói không đủ lời với nó, anh sợ sự suy xét phán đoán và sợ cả sự thờ ơ lạnh lùng của con.
“Chiều nay thằng Eric có gọi điện cho anh”. Jack nói buồn bã. “Nó có vẻ chán nản lắm mà anh thì chẳng biết phải nói thế nào với nó. Anh là bố nó, nó gặp vấn đề rắc rối nên mới gọi anh. Vậy mà anh chẳng giúp gì được cho nó cả”.
“Nó gặp rắc rối gì thế hả anh?”. Cũng giống như Jack, Olivia biết rằng phải có một điểm bứt phá trong mối quan hệ khó khăn giữa anh và Eric thì nó mới gọi điện cho anh như thế.
Thấy anh không trả lời, Olivia liền đưa tay xoa dọc lưng anh và thì thầm, “anh Jack”.
“Cô bé mà nó đang sống cùng đã mang bầu rồi em ạ”.
“Chúng nó không dùng biện pháp phòng ngừa nào à?”.
“Không. Chắc bởi vì nó nghĩ chuyện có thai là viễn tưởng đối với nó”.
Olivia khẽ rười. “Em không thể hiểu tại sao nhiều đôi lại không muốn ngừa thai”
Jack xoay mặt lại nhìn Olivia. “Vì Eric biết rằng nó bị ung thư từ lúc nhỏ, lại phải dùng bao nhiêu là thuốc và với phương pháp trị liệu đó thì vô sinh là chắc chắn. Bác sĩ đã nói với bọn anh từ nhiều năm nay rồi”.
Olivia cau mày lại. “Vậy ý anh là đứa bé không phải con nó à?”
Jack lấy tay lau mắt. “Không thể là con nó được em ạ. Eric biết điều đó mà”.
“Ôi anh yêu”.
Jack đã muốn nói gì đó để an ủi Eric nhưng anh chẳng nghĩ ra được lời nào hoặc khuyên gì cho con cả. Anh đã cúp máy với tâm trạng nặng nề và lại cảm thấy mình thất bại trước con trai một lần nữa.
Phòng trưng bày mỹ thuật phố Harbor lúc này thật yên tĩnh. Nhân lúc được nghỉ ngơi, Maryellen lẻn vào gian phòng nhỏ phía sau để thưởng thức một tách cà-phê. Những ngày làm việc trôi qua thật chậm chạp, nhất là vào mùa thu. Vào những tháng mùa hè, phòng tranh của cô là điểm hấp dẫn khách du lịch và lúc nào cũng chật ních người ra vào. Maryellen rất thích khoảnh khắc yên tĩnh mà mùa thu mang đến, đặc biệt là khi mùa Giáng sinh đang về rất nhanh. Tất cả mọi người đều đang hối hả chuẩn bị cho mùa Giáng sinh mới. Hôm nay thế nào cũng có lúc Jon Bowman sẽ rẽ qua. Cô gặp anh lần cuối vào hồi tháng Sáu và cô vẫn nhớ như in lần gặp gỡ đầy bối rối ngượng ngùng ấy. Jon là một người đàn ông kín đáo dè dặt, có phần hay xấu hổ nữa. Anh ít khi hứng thú với những chuyện tâm sự riêng. Ước gì cô có thể lôi anh vào những cuộc nói chuyện của mình; nhưng thay vào đó cô lại huyên thuyên về đủ thứ chuyện trên đời. Đến lúc anh ra về cô chỉ muốn tự sỉ vả vì đã biến bản thân thành nạn nhân của chính nỗi đam mê của mình
Vừa rót xong cà-phê vào tách, cô đã nghe thấy tiếng bước chân trên thềm phòng trưng bày bên ngoài. Nhấp thật nhanh một ngụm cà-phê cho tỉnh táo cô đặt chiếc cốc sang bên và lao ra, chuẩn bị chào đón khách hàng của mình. “Xin chào mừng...”, cô nói, khuôn mặt bừng sáng khi nhận ra người khách, “anh Jon, em đang nghĩ đến anh”. Những bức ảnh nghệ thuật của anh luôn làm cô thích thú, thích hơn cả những đồ vật mỹ thuật khác được bán ở đây. Phòng trưngbày của cô còn đảm nhiệm trưng bày cả các tác phẩm nghệ thuật khác nữa: các bức tranh sơn dầu và màu nước, các tác phẩm kiến trúc bằng cẩm thạch và bằng đồng, những bức tượng nhỏ bằng sứ, và những tác phẩm bằng gốm độc nhất-vô-nhị nữa. Jon là nhiếp ảnh gia duy nhất có ảnh trưng bày ở phòng trưng bày mỹ thuật Harbor này.
Những bức ảnh của anh gồm những bức ảnh màu và ảnh đen trắng. Anh chụp cả phong cảnh hoặc những chi tiết của thiên nhiên, ví dụ như anh chụp cận cảnh những nốt rỗ trên một viên đá ở bãi biển, hay trên một kiểu vỏ cây nào đó. Thỉnh thoảng anh lại tập trung máy vào chủ đề con người. Ví như anh chụp một chiếc thuyền chèo hay túp lều của một người đánh cá. Chẳng mấy khi anh dùng hình ảnh con người trong bố cục các bức ảnh của mình. Maryellen rất ấn tượng với phong cách giản dị mà anh thể hiện qua các bức ảnh phong cảnh khá phức tạp, khiến cho người xem cảm nhận được những hình ảnh độc đáo và đường nét rất đẹp trong đó - và cả cách anh hóa giải sự phức tạp đa dạng bằng những chi tiết rất nhỏ nhung thật giản dị. Anh thực sự là một nghệ sĩ có phong cách riêng không thể bị nhầm lẫn với bất cứ ai khác. Điều đó khiến tâm hồn cô xao động mỗi suy nghĩ về anh.
Cô biết đến Jon chỉ qua công việc. Là người phụ nữ đã thất bại trong hôn nhân nên Maryellen luôn e dè khi tiếp xúc với đàn ông; còn Jon thì vốn là người ít nói. Nên những câu chuyện giữa họ cũng chỉ xoay quanh đề tài những bức ảnh của anh. Những bức ảnh cũng là lý do khiến cô muốn tìm hiểu nhiều hơn về anh. Và chỉ có vậy thôi. Ngay cả khi anh có ngoại hình hết sức hấp dẫn và gợi cảm...
Jon là chàng trai khá cao với dáng thể thao, có lẽ cao trên một mét tám. Mái tóc dài của anh luôn được buộc gọn gàng phía sau kiểu như đuôi ngựa. Anh không hẳn là người hấp dẫn như những người đàn ông khác; đường nét trên mặt anh khá sắc sảo cái mũi hơi to so với khuôn mặt nhỏ và hẹp kiểu diều hâu. Cách ăn mặc thì xuềnh xoàng đơn giản, thường thì anh hay mặc quần Jeans và áo sơ mi kẻ ca-rô.
Cách đây ba năm anh bắt đầu mang tác phẩm của mình đến phòng trưng bày mỹ thuật này, nhưng thường cách quãng, đôi khi anh còn nghỉ một thời gian dài. Maryellen đã làm cho phòng Mỹ thuật này đến mười năm nay rồi. Cô biết rõ về các nghệ sĩ sống quanh đây. Cô hay giao tiếp và hoà nhập với họ, nhưng với Jon ngoài công việc ra thì cô hiếm khi nói chuyện.
Cô nhận thấy thật ngớ ngẩn khi người nghệ sĩ cô yêu thích lại muốn từ chối làm bạn với mình.
Anh cất tiếng. “Anh mang thêm mấy bức ảnh vừa chụp được”.
“Em hi vọng là anh sẽ đến đấy. Em bán hết tất cả những bức ảnh anh mang đến từ hồi tháng Sáu rồi”.
Nghe vậy Jon nở một nụ cười khe khẽ. Nụ cười của Jon cũng hiếm hoi như những câu chuyện của anh vậy.
“Nhiều người thích ảnh của anh lắm đấy”.
Những lời khen ngại của cô làm cho anh thấy lúng túng. Anh vẫn hay từ chối những lời mời gặp gỡ từ các khách hàng yêu thích tranh ảnh của mình. Anh không giải thích gì, nhưng cô cảm nhận được rằng có lẽ anh nghĩ công chúng nên tập trung vào tác phẩm nghệ thuật chứ không phải là tập trung vào người nghệ sĩ.
“Chờ anh lấy những tấm ảnh đã”. Anh nói một cách cộc lốc và biến mất ra cửa sau.
Khi quay lại, Jon mang theo một ôm to các bức ảnh đã được lồng khung với nhiều kích cỡ khác nhau. Anh mang chúng vào phòng trong và đặt tất cả trên bàn làm việc của Maryellen.
“Em đãi anh một tách cà-phê nhé?”, cô hỏi. Trước đây cô cũng đã từng mời anh và lần nào anh cũng từ chối.
“Được thôi”.
Maryellen chắc chắn rằng mình đã hiểu nhầm anh. Cô tự bảo mình rằng thật vớ vẩn khi cảm thấy phấn khởi bởi cuối cùng anh đã nhận lời uống cà-phê. Cô rót cho anh một tách và ra hiệu xem anh có cần đường hay kem không. Anh lắc đầu.
Họ ngồi trên hai chiếc ghế đối diện nhau, cả hai đều rơi xuống nhìn vào tách cà-phê của mình. Cuối cùng thì Maryellen lên tiếng trước. "Các tác phẩm của anh càng ngày càng nổi tiếng đấy".
Jon giả tảng như không nghe thấy lời bình của cô. Anh đột ngột hỏi thẳng. "Em ly dị rồi phải không?”.
Câu hỏi làm Maryellen thức tỉnh. Cô đã tưởng anh là người ít chuyện. Vậy mà câu hỏi lại dường như quá thẳng thắn, thậm chí hơi thô lỗ. Dù sao thì cô vẫn quyết định trả lời câu hỏi của anh - rồi quay ngược vấn đề sáng anh. “Đã mười ba năm nay rối anh ạ”. Mỗi khi đề cập đến cuộc hôn nhân đã tan vỡ, cô lại cảm thấy sao mà khó khăn thế. Hồi ấy cô vẫn còn trẻ trung bồng bột lắm. Và cô đã phải trả giá rất đắt cho lỗi lầm của mình. Ngay khi vụ ly dị kết thúc, cô đã lấy lại tên thời con gái của mình và để lại đằng sau một quá khứ chẳng mấy ngọt ngào. “Thế còn anh thì sao?”.
Jon rõ ràng đã sắp đặt sẵn những câu trả lời của anh, vì khi nghe cô hỏi vậy, anh chỉ trả lời bằng một câu hỏi ngược lại. "Em cũng không hẹn hò nhau nhiều lắm đúng không?
“Không, thế anh thì sao?”.
“Cũng vài lần hẹn hò”.
“Anh có vợ rồi ư?”.
“Không”.
“Hay anh đã ly dị?”. Cô đoán là chưa.
“Không”.
Hiển nhiên là anh chẳng thấy khó chịu khi chia sẻ những bí ẩn đời tư của mình với cô. Anh cũng chẳng hế thấy ép buộc khi trả lời những băn khoăn thắc mắc của cô.
“Sao em không yêu ai đó đi?”, anh lại hỏi.
Maryellen nhún vai, không trả lời anh mà chỉ im lặng thay cho một lời giải thích mà cô nghĩ sẽ rất dài.
Jon uống một ngụm cà-phê rồi hỏi. "Em không thích ai à?".
“Ồ, có chứ”. Cô vốn là một người thích tiệc tùng và các hoạt động xã hội. “Tại sao lại quan tâm? Thế anh có ý định mời em đi chơi không?”. Cô mạnh dạn đề nghị. Nếu anh mời cô thì chắc thể nào cô cũng bị cám dỗ. Nhưng biết đâu cô lại nhầm. Những người đàn ông bí ẩn và ngăm đen thường là nguy hiểm, bởi cô đã có một bài học quý giá trong đời rồi.
"Anh ta đã làm gì em?”. Jon nhấn mạnh câu hỏi.
Maryellen đứng dậy rời chiếc ghế, lòng cảm thấy bực bội khi thấy anh đang tránh né những câu hỏi của cô bằng cách hỏi ngược lại cô. Mỗi câu hỏi như xoáy vào tâm can cô khiến vết thương lòng tưởng đã lành nay lại bị khoét sâu hơn, đào bới cái quá khứ cô đã từ lâu muốn nó ngủ yên mãi mãi.
“Anh kể về anh đi. Về những điều em chưa bao giờ biết ở anh”. Cô nhìn anh đầy thách thức.
“Anh là một bếp trưởng”.
“Ý của anh anh thích nấu ăn?”.
“Không, anh nói anh là bếp trưởng của quán Andre”. Đó là nhà hàng hải sản trên đường Tacoma.
“Em... em không biết”.
"Thì hầu hết mọi người có ai biết đâu. Anh phải làm thêm thì mới có tiền để thanh toán các hóa đơn chứ”.
Có tiếng của Kelly vang lên ngoài phòng trưng bày. “Có ai ở đây không nhỉ?”
Em gái cô không thể chọn một thời điểm khác tồi tệ hơn để ghé thăm hay sao chứ. Maryellen tiếc rẻ nhìn ra ngoài phòng. “Chắc là em gái em đến”.
“Anh phải đi đây”. Jon uống nốt tách cà-phê rồi đặt cốc xuống.
“Anh đừng đi vội”. Cô hấp tấp tiến lại gần anh, nắm lấy cánh tay anh. “Em với anh chỉ vừa mới nói chuyện thôi mà”.
“Em hãy đến quán Andre vào hôm nào đó đi. Anh sẽ làm cho em một món đặc biệt”.
Maryellen không chắc chắn là ý anh muốn cô đến đó một mình hay đi cùng một anh chàng nào đó. Nhưng hỏi lại thì bất tiện quá. “Được rồi, em sẽ đến”. Cô nói khi Kelly bước vào căn phòng phía sau. Em gái cô đứng sựng lại, khuôn mặt đầy ngạc nhiên và chợt bừng sáng lên khi cô phát hiện ra chị gái mình đang đứng cùng với một người đàn ông.
“Chào. Tôi là Jon Bowman”. Anh nói và tiến về phía trước. “Anh để bọn em nói chuyện với nhau nhé. Rất vui gặp lại em Maryellen”.
“Tạm biệt anh”, cô nói với cảm xúc lẫn lộn chen giữa sự ngạc nhiên và nuối tiếc. Thâm tâm cô phải tự thú với mình rằng cô rất hi vọng vào lần gặp sau. Và những xúc cảm này cô đã không có được trong nhiều năm nay rồi.
Kelly nhìn theo anh. Ngay khi Jon đi khuất và chắc rằng anh không còn có thể nghe được, cô hỏi. “Anh chàng đặc biệt của chị đấy à?”.
“Chỉ là một nghệ sĩ làm cho bọn chị thôi mà”, Maryellen quay lại, chẳng bịa thêm được điều gì về anh.
Kelly kêu lên, kéo chiếc ghê Jon vừa mới rời khỏi. “Làm sao mà mẹ mình lại có thể vượt qua được sự cô đơn nhỉ?”
“Thậm chí còn tốt hơn rất nhiều so với những dự doán của chị”. Cuộc gặp đầu tiên với tiên luật sư đã rất khó khăn, nhưng mẹ cô rất quyết tâm.
“Chị biết không, thể nào ba cũng quay về”. Kelly nói.
Malyellen không tranh luận gì với em, từ lâu cô đã mất hi vọng rằng ba sẽ trở về. “Chị không tin em à?”. Kelly hỏi cứ như thách thức.
Thực tế, Maryellen đã đầu hàng. Cho dù lý do là gì đi chăng nữa thì ba cô cũng đã biến mất rồi. Khi nói về đàn ông, cô chẳng mấy kỳ vọng ở họ, kể cả đó là người đã sinh ra cô.
Liệu Jon có phải là một người đàn ông khác với họ? Cô quyết định sẽ chẳng nghĩ đến điều đó bây giờ làm gì.
“Ba sẽ về”. Kell khăng khăng khẳng định lại khi thấy Maryellen chẳng hề quan tâm đến câu hỏi của cô.
“Thời gian sẽ trả lời, em gái ạ”. Malyellen nói rồi với lấy cốc cà-phê đang uống dở.
Tác giả :
Debbie Macomber