Chuyện Tình Dưới Nhành Cây Tầm Gửi
Chương 4
Hôm ấy là một ngày mùa xuân tuyệt đẹp, vô cùng thích hợp cho sự thả bộ lang thang của Bridget. Nàng cần tẩy sạch đầu óc mình trước khi phóng viên của tạp chí Sống Đẹp đến đây và làm rối tung cửa hàng của nàng.
Vừa quẹo qua góc đường, nàng đã thấy họ sẵn sàng ở đấy. Có một xe tải ngoại cỡ đậu ở khúc cua, máy còn đang chạy không biết vì lý do gì, và có những người nàng không quen biết đi lui đi tới với những đèn chớp, tấm phản chiếu, và một lô thiết bị lạ mắt khác. Từ ngoài đường, nàng nhìn qua ô cửa kính trước khi vào nhà. Khoảng không gian trống trải đã giăng đầy những đèn chiếu đặt trên giá, và những người phụ tá khi bật khi tắt. Những tấm phản chiếu điều chỉnh được đặt rải rác đó đây. Bà Dutton đang được rọi sáng chói chang giữa tất cả những thứ này.
Bà Dotty Pomfret từ trong bước ra, gật đầu cảnh báo với Bridget. “Bọn xâm lăng đang kéo đến”.
“Trời ơi, thế à”.
“Họ đang xốc xáo mấy món đồ len của tôi. Rối tung hết cả”.
Bridget vỗ nhẹ trên cánh tay bà. “Rồi họ sẽ xếp dọn lại như cũ ấy mà”.
Bà cụ già thở dài lẩm bẩm: “Họ làm tôi phát điên. Họ còn tính kéo đến chụp hình trang trại của tôi ngày mai, như vậy có nghĩa là đàn cừu sẽ phải cuống lên. Mình đâu có thấy trước mấy chuyện này”.
“Nhất định là mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp mà. Bà đừng lo”.
Bà Dotty hừm một tiếng. “Cô ơi, cô chưa bao giờ thử trấn an một đàn cừu đấy. Một khi chúng đã phát hoảng thì rồi chúng cứ hoảng mãi”.
Bridget nhìn qua ô kính. Nàng nhận ra trong đám người này có vài người là những cộng tác viên chuyên viết bài trên tạp chí Sống Đẹp - như chàng thanh niên tóc đuôi ngựa kia đúng là Gil Blanding, giám đốc nghệ thuật. Dáng người cao to, mặc áo thun đen và quần jean, Gil đã chuyển dời các món hàng trên kệ, sửa cho tròn trịa các cuộn chỉ len và tạo nên một sự hỗn độn đầy nghệ thuật đối với mấy xấp vải đã được xếp gấp và phối hợp màu sắc công phu. Anh ta lùi lại để ngắm công trình của mình, nhíu mày rồi cầm một cuộn chỉ lên ngắm nghía thật kỹ.
Bridget chào bà Dotty rồi bước vào trong nhà, vỗ vai Gil.
Mắt anh ta rời cuộn chỉ để nhìn vào nàng. “À, xin chào. Chị là Bridget, phải không. Bà Dutton đã giới thiệu với tôi tất cả những tấm hình trên bảng quảng cáo. Cửa hàng thật dễ thương”. Anh ta kéo ra một đoạn ngăn ngắn trên cuộn chỉ rồi để nó lòng thòng như thế và đặt trở vào trên kệ. “Đấy. Đẹp tuyệt đấy, chị có đồng ý không?”.
“Tất nhiên rồi. Anh nói đẹp là đẹp mà”. Nàng không muốn tranh luận. Trong sự quảng cáo không tốn tiền này, họ có muốn quậy thế nào với mấy các kệ hàng của nàng cũng được cả.
Gil vỗ vỗ hai tay, nói với toán người của mình. “Được rồi, mọi người hãy nhanh nhanh lên. Không thể mất cả ngày được. Người mẫu đâu rồi? Ra đây, ra đây”.
Đi vào trong quầy nơi mà nàng và các nhân viên bán hàng thường ăn trưa, Bridget đảo mắt tìm bà Dutton và đặt cái túi bánh cam hương quế mà nàng đã mua trên đường đến đây xuống. Đám nhân viên và phụ tá chắc sẽ ngấu nghiến mấy cái bánh này, còn người mẫu thì hẳn là không. Thôi được. Có lẽ ai đó đã cung cấp đủ cà rốt và rau cần cho dịp cuối tuần rồi.
Nàng lấy ra nhiều mặt hàng đan tay của các nghệ nhân địa phương để Gil đánh giá, với hi vọng anh ta sẽ chọn một, hai món để đăng hình trong bài viết trên báo của anh - và kìa, anh ta đã chọn. Một người mẫu tóc vàng gầy guộc, chân dài, trong chiếc áo chẽn lạ mắt bằng loại len tốt nhất của bà Dotty từ phòng sau bước ra, đi theo đằng sau là một nghệ nhân hóa trang phẩy phẩy một chiếc chổi lông tơ chấm phấn thoa mặt.
“Mara, chưa xong mà. Đứng yên nào”.
Mara quắc mắt nhìn nhân viên hóa trang bằng cái nhìn bực bội. “Vâng, vâng. Nhưng tôi ngứa quá. Khi nào mới bỏ được chiếc áo này ra?”. Cô ta xắn tay áo lên và làm điệu, một chân gầy guộc chìa ra phía trước, hai tay chống nạnh.
“Tuyệt lắm, Mara”, đạo diễn suýt xoa. “Em đẹp bẩm sinh cơ mà”.
Mara mỉm cười tự mãn. Bridget muốn ném cho cô ta một cái bánh cam.
“Nhưng cô không thể cởi chiếc áo len ra được”, Gil nói. Ông chụp hình không thích màu nhạt”.
Một người đàn ông lớn tuổi với mái tóc muối tiêu, điều chỉnh bối cảnh trên chiếc máy chụp hình kỹ thuật số hiện đại, rồi nhìn lên nhưng không nhằm vào Mara. Thay vào đó, ông ta nhìn vào Bridget và nháy mắt chào nàng. Nàng mỉm cười chào lại, ngạc nhiên vì vẻ thân thiện trên gương mặt ông. Ông ta có vẻ không hoàn toàn giống dân New York như Gil, chiếc sơ mi vải mềm sờn rách và đôi giày cũ của ông cho thấy ông không bận tâm nhiều lắm đến chuyện thời trang.
“Ông gọi tôi là ông chụp hình hả?”, ông ta hỏi Gil với giọng nói khe khẽ, cười cợt.
“Thế ông muốn tôi gọi ông là gì?”, Gil hỏi.
“Gọi là Harry”.
“Xin lỗi, ông Harry”. Gil gật đầu lơ đãng, bước tới đứng sau Mara và bóp chặt cái eo áo chẽn của nàng. “Kim kẹp áo đâu!”, anh ta gọi. Một phụ tá và một nhà tạo mẫu ào tới với một túi phụ tùng, và họ kẹp chiếc áo len dọc theo cột sống người mẫu cho sát với thân hình mảnh mai của cô ta. Gil đi qua đi lại phía trước để ngắm và hài lòng ra mặt. “Thế đấy. Đẹp hơn rồi đấy, phải không Mara?”. Anh ta nắm vai cô người mẫu, đặt nàng đứng trước một tấm gương dài.
Mara bĩu môi. “Vẫn còn ngứa”.
Bridget không bận tâm. Chiếc áo len trông thật đẹp. Những người này không biết là họ đang làm gì, còn Gil là một chàng hề. Đạo diễn vỗ vỗ lên chóp mũi của người mẫu. “Bóng quá, bóng quá”. Rồi anh ta gọi kỹ thuật viên hóa trang “Felicia, làm ơn hoàn chỉnh gương mặt cô ta để bắt đầu nào”.
Felicia chạy vội sang và bôi phấn tới tấp khiến cho cô người mẫu hắt hơi. Bridget đứng kế bên bà Dutton trong lúc đám nhân viên đưa máy móc vào vị trí, sẵn sàng cho đợt chụp ảnh đầu tiên. Một nhân viên đứng nơi cửa để yêu cầu khách hàng lát nữa hãy quay lại, nhưng chẳng có ai ghé vào.
Tin tức về chuyện chụp hình có thể sẽ lan ra khắp phố chỉ trong vài phút nếu như có ai được biết. Công việc này khá lý thú, cho dù cô người mẫu là người phải thấy khó chịu nhất trên đời. Nhưng Mara chờ đợi khá kiên nhẫn trong lúc mái tóc cô được chăm chút kỹ một lần chót. Một thành viên trong đoàn bật chiếc quạt và ngước nó lên để làm mát người mẫu dưới ánh đèn và thổi bay mái tóc cô đôi chút. Mara có vẻ chuyên nghiệp nhưng buồn nản, cô chụp vài tấm ảnh trước các kệ hàng trong khi Harry quì đằng trước mình, chụp hết tấm ảnh này đến tấm ảnh khác.
Gil ra lệnh cho Mara làm theo. Bridget lấy một cái bánh cam vòng trong túi giấy ra và ăn nhồm nhoàm trong lúc đứng xem. Nàng chắc chắn là ánh mắt người mẫu đã sáng lên khi nhìn cảnh ấy.
“Tuyệt”, Gil hài lòng nói. “Chúng ta cần ánh mắt ấy. Tiếp tục đi”.
Bridget thấy mừng là nhiều bộ đồ thêu đan nữa đang được đem ra chụp hình. Nàng nghĩ là rất hay nếu như người thợ làm ra các sản phẩm ấy cũng được giới thiệu trong bài báo. Nàng lấy một mẩu giấy, cây bút chì và viết tên người thợ trong khi các mặt hàng khác nhau được Mara trình diễn, với sự trợ giúp của nhà tạo mẫu.
“Được rồi, chúng ta nghỉ để ăn trưa nhé”, sau cùng Gil nói. Anh ta biến mất phía sau quầy hàng trong khi các nhân viên bận rộn với các thiết bị. Mara cởi đến chiếc áo đan cuối cùng, để lộ ra chiếc áo cánh nhỏ xíu bên trong. Cô ta đưa chiếc áo đan cho nhà tạo mẫu và cào gãi hai cánh tay một cách thỏa thích.
Bridget thấy ái ngại. Mara có lẽ bị dị ứng với len. Và cô ta đã phải nhịn ăn. Lớp vải mỏng của chiếc áo cánh để lộ rõ những chiếc xương sườn.
“Đừng gãi cánh tay”, nhà tạo mốt nói khẽ. “Nếu phải mặc áo không tay thì làm sao?”.
“Chắc không đâu”, Mara đáp. “Đây là đề tài Giáng sinh mà, bà có nhớ không?”.
Đội chiếc nón Santa trên đầu, Gil từ đâu đó bước vào. Món phụ trang này không phù hợp với chỏm tóc đuôi ngựa thời trang của anh ta. “Ha ha ha. Mọi người ơi, thời tiết mùa đông thật tuyệt diệu. Albert ơi, hãy đập mấy cục đường phèn để giả làm tuyết nhé”.
Cậu nhân viên phụ tá, có vẻ là Albert, đi theo Gil ra trước cửa hàng, dốc ngược hai thùng hàng lớn bằng cỡ cái thúng, bên trong đựng những món đồ trang trí Giáng sinh, trong số đó có một cuộn tầm gửi nhân tạo quấn ruy băng. Bridget và bà Dutton nhìn nhau mỉm cười. Nhìn thấy mấy món này vào tháng năm thực buồn cười.
“Treo cái này lên được không ạ?”, cậu ta lễ phép hỏi.
“Được chứ”, Bridget nói. “Tôi sẵn sàng hợp tác mà”.
“Thật đáng mừng cho tôi”. Albert nói rồi đi ra phía sau mang tới một cái thang, đặt đằng trước quầy hàng.
Gil nghiên cứu cách trưng bày trong ô kính, không để ý đến vài người đi đường đang tò mò nhìn anh ta và những thiết bị bên trong gian hàng. Đây là chuyện lớn đối với thành phố bé nhỏ này, Bridget nghĩ và cười thầm. Nàng vẫy tay chào một phụ nữ quen, bà này đưa bàn tay che mắt và bước vào một lát, rồi đi ra.
“Có lẽ bây giờ cô nên khóa cửa lại”, Gil nói. “Ra vào tự do lộn xộn quá. Mình đều không muốn có ai đi lại trong này phải không?”.
“Có lẽ không”. Bridget khóa ô cửa kính lại và treo bảng “Đóng cửa”.
Albert ngước đầu nhìn lên. Thấy mấy thanh gỗ viền quanh ô kính, cậu ta nói “Dễ mà. Tôi sẽ dùng loại đinh nhỏ, sau khi tháo tất cả xuống thì sẽ không để lại dấu vết gì đâu”.
“Cám ơn”, Bridget nói.
Cậu ta leo lên cây thang, một thân hình rắn chắc bên trong một chiếc áo ca rô và một chiếc quần thô, mang theo một hộp đồ nghề gồm đinh và búa. Cậu ta ra hiệu nhờ Bridget đưa cho cậu ta một trong hai thùng đồ trang trí Giáng sinh để đặt nó trên giá treo của cái thang. Cái thùng lớn có đáy hẹp nhưng không để lọt vào giá thang. Tuy nhiên, theo Bridget được biết thì trong đó chẳng có gì nặng cả. Albert nhìn vào trong thùng rồi nhìn xuống sếp của mình.
“Ông muốn hình gì?”.
“Vẻ đẹp đồng quê. Làm cho giống thật”.
Albert lôi ra một vòng hoa man việt quất dài bằng ni lông, bắp rang bằng bột giấy, và những miếng bánh quy gừng bằng các tông.
“Tôi thấy giống thật lắm rồi”, Gil vui vẻ nói. “Hai người cứ làm đi. Tôi tin tưởng các bạn và tôi đói bụng rồi. Bridget ơi, có chỗ nào ở Randolph bán bánh su-si không?”.
“Không”, Bridget cười trả lời. “Nhưng anh có thể dùng hăm-bơ-gơ rất ngon”.
Đạo diễn lộ vẻ hơi thất vọng. “Tôi không ăn được thịt bò. Albert, cậu muốn ăn sandwich không?”.
“Lúc này thì tôi không ăn”.
Gil đi ra ngả sau, Mara nhanh chân chạy theo, rồi đến Harry và những người khác. Bà Dutton nhận lời cùng đi với nhà tạo mốt và cô thợ hóa trang và không ngớt ca ngợi món bánh pa-tê táo của tiệm To Go, quán ăn cách đấy ba dãy nhà.
Còn một mình Bridget ở lại với Albert, nàng vui mừng được dịp trang hoàng theo ý thích. Người mẫu và những thứ linh tinh khác không phải là lĩnh vực sở trường của nàng, nhưng nàng có một ý kiến rất dứt khoát về cách nàng muốn gian hàng của mình phải như thế nào, căn cứ vào bài viết sắp đăng trên báo.
Albert đóng nhiều cây đinh, sau đó Bridget đưa cái vòng hoa lên, bây giờ trông nó mới có vẻ như thật khi ở trên cao, thòng xuống theo hình bán nguyệt và lay động nhẹ nhàng trong làn gió hiu hiu do chiếc quạt máy tạo ra.
Thùng đồ đã trống trơn và Albert để cho nàng nhặt lấy những gì nàng thích. Cho lần trang trí sau cùng, Bridget chọn ra một đôi thiên thần bằng trái thông sơn trắng, đặt ở hai bên của một cái giá nhỏ treo mấy chiếc áo len trẻ con sọc trắng đỏ. Rất có không khí Giáng sinh.
“Đẹp đấy”, Albert tán thưởng. “Còn bây giờ đến cây tầm gửi”. Anh ta cúi xuống cái thùng nhưng rồi đứng thẳng người lên thật nhanh, thả rơi trở xuống cuộn dây tầm gửi xám xanh quấn ruy-băng. “Oi chao!”. Anh ta đặt một bàn tay lên lưng xoa xoa. “Tôi phải leo xuống. Đau lưng quá”.
“Để tôi treo cho”, Bridget đề nghị. “Anh phải nghỉ một lát. Nếu không thích sandwich thì anh có thể dùng một tí gì đó, chỉ để ngồi nghỉ thôi. Mà này, quán To Go thường có bán pa-tê táo vào lúc hai giờ đấy”.
Albert leo xuống một cách nặng nhọc. “Tôi có được nửa giờ nghỉ ngơi. Cô có muốn ăn gì không?”.
Chỉ một việc đối diện với cô người mẫu siêu mỏng cũng đủ khiến Bridget hết muốn ăn rồi. Và nàng cùng còn hai cái bánh cam. “Không. Lát nữa sẽ gặp anh”.
Albert trao cái búa cho nàng rồi khập khiễng đi. Nàng nghe tiếng cánh cửa sau đóng lại rồi cọt kẹt mở ra - lẽ thường nàng phải gài chốt cửa - trong lúc nàng kéo lê cái thang đi dưới chùm đèn Victoria, cẩn thận để không làm nghiêng hộp đồ trang trí treo trên giá thang. Hình chạm đầu mái nhà sẽ là một chỗ tốt để treo quả cầu buộc ruy-băng.
Nàng leo lên các bậc thang và quấn sợi dây kẽm nhỏ của quả cầu vào hình chạm, sau đó leo xuống và kéo cái thang qua một bên.
Bridget khoanh tay trước ngực, nghĩ rằng cây tầm gửi vào giữa tháng năm trông vừa ngô nghê vừa huyền kỳ. Giống như vòng hoa man việt quất và bắp rang, cuộn dây này chuyển động nhè nhẹ trong làn gió của cái quạt. Tiếng vù vù yếu ớt của cái quạt vang lên trong căn phòng yên tĩnh nên lúc đầu nàng không nghe được tiếng bước chân. Nhìn lên quả cầu tầm gửi, nàng cho rằng có lẽ Albert đang trở lại để lấy cái ví hoặc gì đó, hoặc một người nào trong đám nhân viên, cho nên nàng gần như giật nẩy người khi nhìn thấy Jonas bước vào phía trước cửa hàng.
“Anh làm gì ở đây thế?”, nàng nhận thấy câu hỏi của mình không thân thiện cho lắm nhưng vì chàng đã khiến cho nàng kinh ngạc.
“Anh nhìn vào trong quầy và thấy em đang làm việc hùng hục”. Chàng mỉm cười. “Cửa đã khóa và anh không muốn gõ cửa. Nhất là khi em đang ở trên cây thang”.
Nàng gật đầu, cảm thấy hơi ngớ ngẩn. “Đúng thế”.
Jonas thọc hai tay vào trong túi quần và nhìn xung quanh. “Đang làm gì vậy?”.
“Cửa hàng của em được giới thiệu trong số Giáng sinh của tạp chí Sống Đẹp. Trang trại của bà Dotty cũng thế. Ngày mai họ sẽ đến chụp hình trang trại của bà ấy”.
“Xem nào. Trông đẹp đấy”.
“Cám ơn anh”.
Nàng không rời mắt khỏi gương mặt chàng vì không muốn nhìn lên cây tầm gửi và hi vọng là chàng không để ý đến nó. Nhất định nàng sẽ không để cho chàng hôn mình dưới nhành cây này. Cho dù có hôn thì cái hôn ấy cũng không ý nghĩa gì. Cuộn cây kia chỉ là cây giả.
Jonas liếc nhìn lên cuộn tầm gửi mà chẳng nói gì, rồi chàng nhìn các phần trang trí khác với ánh mắt thích thú. “Trang hoàng nhà cửa chắc là vui lắm. Thế mọi người đi đâu hết rồi?”.
“Đi ăn trưa. Họ trở lại ngay bây giờ”.
“Ồ”.
Nàng có cảm giác như chàng ta muốn bước tới - phía nàng - nhưng chàng vẫn đứng nguyên ở đấy. Sự đứng gần của chàng khiến cho nàng thấy nghẹt thở và tim đập nhanh hơn. Phải rồi, cửa hàng của nàng đón nhận tất cả mọi người, và không có lý do gì mà chàng không thể, thế nhưng nàng vẫn muốn chàng đừng vào. Cái cảm giác có thể bị chàng nhấc bổng lên khỏi mặt đất khiến cho nàng thấy lúng túng. Bridget ngó quanh tìm một thứ gì có thể làm cho chàng xao lãng và nàng thấy cái túi giấy đựng bánh. Nàng có thể lợi dụng điều này để tạo cho mình một chút an toàn. Mẹ nàng vẫn nói rằng đàn ông chỉ là những sinh vật đơn giản, và thông thường có thể đánh lừa họ bằng thức ăn hay tình dục.
“Em đã ăn chưa?”, chàng hỏi đột ngột.
“Em ăn rồi”. Nàng sẽ không đi ăn với chàng được. Phải có người trông coi cửa hàng.
“Tiếc quá nhỉ. Anh chưa ăn”.
Chàng có thể ăn bất cứ thứ gì còn lại trong cái túi và giảm bớt calori cho nàng. “Có bánh cam vòng đấy”. Nàng chỉ vào cái túi. “Em đem đủ bánh cho mọi người”.
Jonas gật đầu. “Được. Anh sẽ ăn một cái bánh cam. Có cà phê không?”.
“Có đấy”. Sốt sắng muốn làm một điều gì đó - bất cứ điều gì - để giữ hai người khỏi ở trong cảnh lúng túng, Bridget đi đến quầy, bấm nút máy pha cà phê, và nàng quì gối nhìn vào trong cái tủ lạnh nhỏ nơi cất trữ những bữa ăn qua loa để tìm một món đi kèm với ly cà phê sữa mới pha.
Mùi thơm của cà phê đang pha làm tan biến đi cơn mơ mộng lông bông của nàng, và nàng thầm cảm ơn về điều này. Bridget đứng dậy, tay cầm bình cà phê đặt lên trên quầy, bên cạnh hộp đường gói. Nàng lấy ra hai gói nhỏ. “Cà phê sữa. Hai gói đường”.
Chàng gật đầu, một nụ cười hiện ra nơi góc môi. “Đúng là cách pha mà anh thích. Em vẫn còn nhớ”.
Không hiểu sao Bridget nghe thấy câu nói mới rồi khiến nàng lúng túng. “Phải. Nhưng nó chẳng có ý nghĩa gì đâu”.
“Anh có nói nó có ý nghĩa gì đâu. Anh chỉ nói em còn nhớ thôi”.
Không quên giữ ý cho dù Jonas có nói gì đi nữa, nàng lấy một cái ly và đặt trước chàng. “Đừng suy nghĩ gì nhiều, Jonas”.
Nụ cười của chàng ta nở rộng hơn. “Đừng lo”.
Chàng tự rót cho mình một ly và lần đầu tiên, nàng để ý thấy chàng đang mặc gì. Chiếc áo thun có tay màu trắng với một logo trường y bạc màu trên ngực phải. Ồ, bộ ngực. Nàng đã quên mất rằng chàng trông vẫn đẹp như thế nào khi mặc một thứ thông thường như chiếc áo thun. Chàng mặc quần jean bạc màu với những vạt cũ mòn màu trắng làm lộ rõ hệ cơ bắp. Nàng nhìn chàng từ đầu đến chân. Chàng có vẻ sẵn sàng cho mùa hè, và trẻ hơn dáng vẻ thường ngày với mái tóc nâu hơi bù xù.
Thái độ chàng thật ung dung khi lấy một cái ly, tự tay rót cà phê vào, cho thêm một vốc lớn sữa và kem, rồi với lấy hai gói đường trên mép quầy. Chàng xé mấy gói đường trút vào trong ly.
“Anh là bác sĩ. Anh không biết là đường và kem có hại thế nào với anh hay sao?”.
Jonas nhún vai, nhe răng cười. “Hì, anh thích đi ra ngoài khuôn khổ”.
Chàng nhấp ly cà phê, nhìn nàng qua phía trên vành ly cho đến khi nàng mỉm cười trở lại. Gần như bất giác, nàng cảm thấy thư giãn.
“Anh uống thêm chứ?”.
“Có lẽ anh uống thêm”. Nàng đi về phía quầy, chàng bước tránh sang một bên. Bridget vẫn giữ một giọng nói hoạt bát và từng trải trong khi mắt nhìn chăm chăm vào ly cà phê. “Em sẽ phải làm việc suốt cả ngày nay và em muốn mọi việc như ý của mình cho đến khi họ chụp hình xong”.
“Anh hiểu. Có vẻ như họ giành quyền kiểm soát đấy”.
Bridget gật đầu. “Cái tốt là họ đã giới thiệu những mặt hàng mà em muốn. Em còn đang hi vọng đưa tên của những người thợ đan vào trong bài báo. Mỗi một chút đều có lợi. Nền kinh tế của Randolph chưa phát triển lắm”.
“Chưa à? Em có vẻ như đang thành công đấy chứ”.
Bridget cho đường vào ly cà phê của mình và khuấy leng keng với chiếc muỗng. “Như thế là nhờ phần lớn công việc kinh doanh của em trên mạng”.
“Giỏi đấy”.
Nàng cảm thấy một thoáng ý nghĩa tự vệ, dù nàng biết chắc là chàng không có ý làm vẻ kẻ cả. Tất nhiên là nàng đã không học lên tới đại học, thậm chí cũng không mong gì nghĩ tới chuyện ấy với một đứa con phải nuôi -nhưng đây không hề là điều mà nàng muốn nói với chàng.
“Một khi đã mở trang web thì các đơn đặt hàng bắt đầu được gởi đến từ phía những người thêu đan và may mền từ khắp mọi nơi trong nước. Em có đăng quảng cáo nho nhỏ trên các tạp chí may mặc và thủ công, nhưng những lời truyền miệng đã thực sự đem đến cho em những khách hàng mới”.
Jonas gật đầu, đưa một tay chỉ mảng trưng bày những hình quảng cáo chăn mền cách đấy không xa. “Đây là những bộ mền may theo ý của khách hàng, phải không?”.
Có lẽ chàng đã xem các mẫu này trong lúc bước vào gian hàng. Bridget thấy nhẹ nhõm là chàng chỉ nhằm vào những câu hỏi an toàn. “Đúng thế. Các sách quảng cáo có những cuộc thi về sở thích, sự ưa chuộng màu sắc, thú nuôi, những thứ như thế - và sách quảng cáo trên mạng cũng giống vậy. Họ đăng ký, rồi sau đó em gởi e-mail cho từng khách hàng quan tâm một mẫu thu nhỏ của chiếc mền mà họ có thể làm, qua việc áp dụng những sở thích và mẫu thiết kế mà em tạo ra”.
“À, ý kiến thông minh đấy. Khái niệm ấy do em tự nghĩ ra, phải không?”.
“Phải”. Bridget cầm ly cà phê lên và chỉ vào chiếc máy vi tính. “Em sẽ cho anh thấy là em làm như thế nào”. Nàng bước tới ngồi xuống, chờ một phút cho màn hình hiện lên trong khi Jonas nhìn qua vai nàng.
Bridget mở một tập tin và nạp đầy khoảng trống của nó với một bàn tay gõ phím. “Ví dụ như một khách hàng thích làm vườn. Bà ta thích quần áo màu nhạt nhẹ. Và yêu mèo”. Bridget cho chuột di chuyển lui tới giữa chương trình các hình vẽ của mình và bảng yêu cầu mà nàng đang mở, chọn lấy những đóa hoa và con mèo cách điệu trong các màu hồng, lam và vàng.
“Tất cả những gì mình cần làm là ghép chung những yếu tố này lại với nhau, sử dụng những loạt mẫu mà mình tạo ra cho từng thể loại - công việc này mất khoảng năm phút. Sau đó em e-mail vài bản khác nhau cho khách hàng xem. Kiểu thiết kế được làm theo ý từng người, nhưng nó được dựa trên những yếu tố tiêu chuẩn mà mình không phải vẽ lại sau mỗi lần sử dụng”.
“Khỏe quá nhỉ. Và cũng rất thông minh. Nhưng em làm sao nếu có yêu cầu của một người thích mô tô, quần bò sờn rách, và chó bull?”.
Bridget cười lớn. “Em vẫn có thể giải quyết những đơn đặt hàng đặc biệt. Phải mất nhiều thời gian hơn một chút để có được những hình ảnh ấy, nên em tính tiền cao hơn. Chỉ có vậy thôi”.
Nàng mở một tập tin trong máy vi tính và một tập hợp các hình nghệ thuật hiện ra, từ những người cá hình xăm cho đến những hình chạm kỷ hà. Jonas tỏ vẻ thích thú thật sự và Bridget cũng say sưa với đề tài của mình. “Những mẫu này khó lắm. Phần nhiều người ta chỉ thích những thứ dễ làm như hoa cúc và ngôi sao. Nếu họ thích một phiên bản thu nhỏ và đặt làm một bộ, thì em vẽ đồ hình nhiều nhóm cho kiểu dáng họ chọn, thêm các chú giải, in tất cả ra và gởi đi. Họ thêu các hình ấy trên vải của họ, như thế có nghĩa là không cần nói đến vật liệu”.
“Đây là một kiểu kinh doanh của thiên niên kỷ mới”.
“Vâng”.
Jonas cười. “Em thật là kỳ tài. Anh phải phục đấy”.
Bridget hơi đỏ mặt. “Mỗi tháng em đều có thêm nhiều đơn đặt hàng. Như vậy có nghĩa là em có thể sống theo giờ giấc riêng của mình và ở lại Randolph này với bé Molly...”.
Nàng ngừng nói, cảm thấy cái nhìn tư lự của chàng đối với mình.
“Đúng đấy”.
“Sống ở đây thì không có nhiều công việc lớn”, nàng nói rõ. Jonas hẳn đã biết như thế, dù chàng đã sống khá lâu tại New York. “Không thể làm cho cửa hàng phát triển như thế này nếu chỉ bán hàng cho người địa phương. Còn về du khách... họ đến theo mùa. Khái niệm “tự thiết kế cho bộ mền của mình” thật sự thịnh hành trên mạng, và em cũng giới thiệu các mẫu thêu tay của em trên trang web nữa. Thế đấy, không có ai giàu nhưng mọi người đều sống được”.
“Ồ, thôi đi!”. Bridget cười với chàng, đồng thời tắt máy vi tính. Ở trong cửa hàng này, nàng cảm thấy yên tâm nhiều hơn là ở nhà. Và nói chuyện về công việc làm ăn có nghĩa là câu chuyện sẽ không bao giờ trở nên quá riêng tư. Nàng vui mừng nghe tiếng cửa sau đánh sầm nhiều lần cho biết là đám người đi ăn đã trở về và đang bắt đầu tràn vào trong quán.
Mara nhàn nhã đi sau cùng, cô ta nhìn Jonas một cách chăm chú, còn chàng thì chẳng mấy để ý đến cô. Cùng lúc ấy, Bridget cảm thấy bực bội. Gil vừa ăn xong một tô cơm không, mua từ một quán ăn Trung Hoa. Anh ta vẫy vẫy cái muỗng về phía Bridget vì miệng ngậm đầy không gọi chào được, trong lúc kiểm tra lại những sự trang trí được thực hiện khi anh ta vắng mặt, và gật đầu tán thành.
“Cô bận rộn quá nhỉ”, anh ta nói sau khi nuốt xong miếng cuối cùng và vứt tô, muỗng vào trong giỏ rác. “Đẹp đấy. Mara, cô đi mặc chiếc áo nịt len nổi hạt xinh xinh ấy vào. Chúng ta bắt tay vào nhanh đi thôi”.
“Chiếc áo nịt len nào cũng có hạt hết”, cô ta vừa cằn nhằn vừa ngúng nguẩy đi qua bên cạnh Jonas. “Tôi chán cái kiểu nổi hạt ấy quá”.
Bridget cau mày. Không biết là vì câu nói của Mara hay là vì cách cô ta muốn được Jonas để ý, nàng không thể nói.
“Suỵt, nào”. Gil nói với vẻ sốt ruột. Anh ta chăm chú nhìn Jonas. “Hừm. Chúng tôi có thể mời anh chụp hình không? Đây là bạn của Bridget, phải không?”.
Bị bối rối, Bridget phải mất vài giây mới trả lời được. “Anh ấy là láng giềng mới của tôi đấy”, cuối cùng nàng nói.
“Tôi là Jonas Concannon”, Jonas nói. “Còn anh là...?”.
Gil chìa bàn tay. “Gil Blanding, giám đốc nghệ thuật của tờ Sống Đẹp. Trước đây anh từng làm người mẫu chưa?”.
Đến lượt Jonas tỏ ra lúng túng. “Ồ, chưa”.
Gil chẳng hề tỏ chút quan tâm để xem Jonas hiện đang làm gì. Anh ta lấy một chiếc áo chui bằng len có sọc cỡ đàn ông trên kệ và áp vào người Jonas. “Chà, trông đẹp đấy. Gồ ghề nhưng trí thức. Harry, đến đây. Mặc chiếc áo này vào nhé, Jonas?”.
Mỉm cười với Bridget, Jonas tròng chiếc áo chui vào, và lùa bàn tay qua mái tóc rối để sửa cho ngay sau đó.
“Này, Harry, mình có thể cho anh ta đứng với Mara trong một màn hôn nhau...”
Phần còn lại trong ý tưởng lớn của Gil đã không được bàn trước với Bridget. Nàng rất nhiệt tình, thực sự nhiệt tình, nhưng không thể làm nhiều quá được. Mara đã từ hậu trường bước ra, chiếc áo chui có hạt đã thực sự làm cho cô ta có vẻ tròn trịa hơn. Nhưng dường như cũng hợp với kiểu cách của cô, vì Mara đang còn phụng phịu.
Vẻ mặt cô ta sáng hẳn lên khi nhìn thấy Jonas đang đứng đó với chiếc áo thun có sọc nổi, đóng vai người mẫu nam rất xứng.
Gil đưa một bàn tay cho Mara để kéo cô ta lại gần hơn - và cho cô đứng kế bên Jonas. “Anh thấy thế nào, Harry?”.
Harry có vẻ như chỉ nhìn đời qua cái kính nhòm. Ông ta nhìn vào trong đó một phút rồi trả lời. “Tôi thấy được đấy, Gil. Anh chàng này thậm chí chẳng cần hóa trang nữa. Bộ vó ngon lắm”.
Jonas hướng mặt về phía camera với một cái cười nở rộng khiến Bridget những muốn tống khứ chàng ta đi.
“Trắng tuyệt”. Gil lẩm bẩm. “Mara, nép người vào Jonas đi”.
Cô người mẫu phụng phịu vui mừng tuân lệnh. Bridget chỉ có thể hào hứng khi tự nhắc nhở mình rằng sự quảng cáo sẽ rất thành công và đem lại thêm nhiều thu nhập cho những người đan len của nàng.
Mara ép phía cồm cộm của chiếc áo mình vào bộ ngực gồ ghề của Jonas, và Harry lia lịa chụp hình họ.
“Chà, hai người này có vẻ hợp nhau đấy”, Bridget nghe ông ta nói nhỏ một mình.
Dù vậy, khi nhìn về Jonas, Bridget thấy chàng ta đang nhìn mình, chứ không phải nhìn cô người mẫu tóc vàng quấn quít bên cạnh. Mara có thể chỉ là một đối tượng vô tri vô giác mà thôi.
“Nào, diễn đi!”, Gil nói lớn. “Lùi lại hai bước để cho hai người đứng ngay dưới nhành tầm gửi. Mara, tôi muốn cô luồn mấy ngón tay vào trong tóc Jonas và đặt một cái hôn thật nồng nàn lên má anh ta. Nhưng đừng có chạm vào và làm hỏng mất son môi của cô. Chúng ta bị muộn rồi đấy”.
Bridget thầm cám ơn. Mara cau mặt. Với sự mãn nguyện trong lòng, Bridget để ý thấy Jonas có vẻ khó chịu khi cặp môi mềm mại, nhầy nhụa và đầy son của Mara áp sát vào mặt chàng.
Harry nhìn vào trong ống kính lắc đầu. “Chậc. Không có hồn. Jonas cố gắng đừng có cái vẻ như đang chịu trận, được không?”.
Jonas đứng thẳng người hơn, và vẻ mặt Mara có phần chanh chua.
Harry lại lắc đầu. “Mara, cô có thể làm khá hơn thế”.
“Em mỏi môi rồi”, cô ta rền rĩ, không còn bận tậm đến việc làm ngây ngất Jonas nữa.
Đúng như Bridget đã nghĩ. Nụ hôn dưới một nhành cây tầm gửi giả không thể nào giống như thật được. Nhưng nó có thể trông có vẻ thật khi bài báo được đăng lên. Khoanh tay trước ngực, nàng nhìn Gil đang hò hét bên lề, còn nhà tạo mốt thì thực hiện những chỉnh sửa cuối cùng cho hợp với chiếc áo thun của Mara. Rồi màn kịch khó chịu lại bắt đầu.
Sau cùng, Harry nói rằng ông đã có được một vài tấm hình không tệ lắm, và Jonas bước ra khỏi vòng ôm của Mara với vẻ nhẹ nhõm.
“Không thích thú lắm như mình tưởng”, chàng nhếch môi nói nhỏ với Bridget.
Đáng cho anh đấy, nàng muốn nói thế.
“Tôi cởi ra được chưa?”, anh hỏi Gil.
“Được chứ”, đạo diễn nói một cách dễ dãi. “Nhưng đừng đi đâu xa. Chúng tôi có thể cần đến anh ở phần hậu cảnh”.
Jonas trông có vẻ hơi thất vọng.
Những người giúp việc bắt đầu chất đông những món quà Giáng sinh bọc trong giấy màu sặc sỡ dưới sự chỉ huy của Gil. Bridget hiểu rằng Mara có nhiệm vụ giả vờ mở một hay hai gói quà, hoặc ít ra là kéo một sợi dây buộc trông như sắp mở, bởi vì bên trong các hộp này chẳng có gì cả.
Gil bỗng vỗ trán. “Ồ không được. Chúng ta quên mất cây Giáng sinh rồi!”.
Các phụ tá nhìn nhau. Bridget không nghĩ là có một ai trong họ biết sẽ làm gì.
“Chúng ta cần có một cây thông cân đối cao khoảng hai mét... Tôi nghĩ là tôi đã thấy một cây nơi bãi cỏ của làng”. Giọng Gil sôi nổi, ánh mắt anh ta long lanh. “Chẳng ai biết đâu nếu như chúng ta...”.
Bridget bước tới ngăn lại. “Cây thông ấy là của thành phố. Đoàn Nữ Hướng đạo sinh đã trồng cây ấy. Hơn nữa, chúng ta không thể hễ thích cây nào thì chặt cây ấy được”.
Viên đạo diễn đưa mắt khinh thị nhìn nàng. “Cô có giải pháp nào hay hơn không?”.
“Có”, Bridget nói nhanh. “Chúng ta sẽ làm cây thông của riêng mình. Tôi có thể lấy giấy xanh cắt hình một cây thông - tôi có một tấm giấy xanh lớn đấy - rồi gắn một ngôi sao màu vàng trên chóp. Trông giống như của trẻ con vậy. Táo bạo nhưng đáng yêu”.
Gil đắn đo một lát rồi cuối cùng, ông ta nói “Tôi thấy hay đấy”.
Bridget ít nhiều mong đợi anh ta sẽ búng ngón tay và hô “Làm đi!” với nàng. Nhưng anh ta không làm thế.
“Để tôi đi lấy giấy”. Nàng bước vào nơi làm việc của mình để lấy kéo và tìm thấy tấm giấy lớn mà nàng vẫn để dành lại không biết cho mục đích gì, sau đó trải nó ra trên bàn làm việc của mình và ướm thử các góc cạnh bằng những viên đá mềm mà Molly đã nhặt ngoài suối mùa hè vừa rồi... Bridget nhanh chóng phác họa xong hình thù một cây Giáng sinh đơn giản, rồi cắt, cố không suy nghĩ về những gì mình đang làm. Thực ra, nàng muốn cho nó giống với tác phẩm của một đứa trẻ.
Sáng tạo là cứ để cho sự việc diễn ra, nàng nghĩ. Nhát kéo cũng nhanh như nét vẽ của nàng, cho đến khi một mảng được cắt ra uốn cong lên và cản trở đường cắt của nàng. Bàn tay to lớn, khỏe mạnh của Jonas đè phẳng chỗ cong xuống và chàng ta để nguyên bàn tay ở đấy, tựa nhẹ trên tờ giấy. Bridget liếc mắt lên, nhìn thẳng vào đôi mắt chàng.
Đây chính là sự nồng ấm... đã làm xiêu đổ lòng nàng. Chỉ với một cái nhìn, chàng đã có thể đưa nàng trở về một thời khi mà nàng còn rất ngây thơ - một thời mà nàng chỉ muốn nằm trong vòng tay của chàng mãi mãi. Thật vô lí là sự nhớ về chuyện ấy đã không gây một tổn thương nào. Nỗi ghen tương của Bridget với Mara, sự khó chịu của nàng đối với công việc làm người mẫu và với sự xâm nhập khó chịu của tốp phóng viên vào trong cửa hàng của nàng, tất cả đều đã biến mất vào thời khắc này.
“Chờ tí đã”, Gil vừa nói vừa đi tới nơi chiếc bàn làm việc và phá vỡ khoảnh khắc ngây ngất. “Đây có thể là một bức ảnh đẹp. Mara và Jonas thực ra không có sự thân mật, nhưng đôi này thì có đấy. Harry, anh có thấy điều tôi nói không?”.
Viên thợ chụp hình bước tới và lấy Jonas cùng Bridget vào trong khung hình rồi quan sát thật kỹ. “Phải, tôi thấy rồi”.
“Tôi đang suy nghĩ... một đôi bạn trẻ, mùa Giáng sinh đầu tiên, cùng vui vẻ... Còn anh thấy gì?”.
“Cũng giống như vậy”, Harry nói. “Ai đó hãy cho cô ta mặc một chiếc áo nịt len đi. Chúng ta phải làm cho xong hôm nay để ngày mai còn qua bên trang trại Pomfret”.
Gil búng ngón tay cho nhà tạo mốt, người này chọn một chiếc áo len nhẹ phù hợp với đôi mắt của Bridget.
Nàng đưa hai tay lên để xỏ chiếc áo vào, vừa kịp bắt gặp cái nhìn tán thưởng của Jonas trên bầu ngực mình. Nhà tạo mốt chọn một chiếc áo chẽn đan móc màu kem cho Jonas.
Chưa đầy hai phút, Bridget đã được đánh phấn hồng, tô bóng đôi môi, bôi đen mi mắt và xốc nhẹ mái tóc.
“Nhìn cô kìa”, Gil nói. “Một cô gái Mỹ chính hiệu. Với vài đốm tàn nhang nhỏ xíu xinh xinh”.
Bridget mong là lời khen này làm cho Mara phát điên lên. Tất nhiên, nàng không có được cặp xương gò má đầy quyến rũ như của Mara, nhưng nàng có hai nốt tàn nhang tuyệt đẹp mà thậm chí chính nàng cũng không biết mình có nữa.
Gil làm như đang cầm chiếc kéo trong tay. “Cắt đi. Cắt đi. Cả hai làm trở lại những gì mình vừa làm. Harry có thể tới sát bên các bạn, không sao đâu”.
Đỏ mặt thực sự sau lớp hóa trang của mình, Bridget trở lại việc cắt hình cái cây bằng giấy. Máy ảnh của Harry nhảy nhè nhẹ và liên tiếp nhiều lần. Thỉnh thoảng ông ta yêu cầu một hoặc hai người trong họ ngước cằm lên, hoặc nhìn vào người kia, hoặc làm bất cứ điều gì ông thấy làm cho kiểu chụp đẹp hơn. Jonas chẳng nói một lời nào. Chàng có vẻ bối rối như bị bắt gặp trong khi đang làm một điều gì sai trái.
“Bây giờ đến ngôi sao”, Gil thúc giục. Một nhân viên nhấc cái cây lên khỏi chiếc bàn và gắn nó lên tường bằng băng keo. “Hai người có thể thay nhau gắn ngôi sao lên trên cây. Chúng tôi sẽ xem kiểu nào đẹp”.
Bridget cắt hình một ngôi sao trên tấm giấy màu vàng rồi đưa cho Jonas. “Anh trước đi”, nàng nói khẽ.
Jonas nắm tay nàng bước tới cái cây, không cần phải với nhiều để đưa ngôi sao lên trên chóp đỉnh.
“Được đấy”, Gil nói. “Mỉm cười với cô nàng đi”.
Jonas đã mỉm cười trước rồi. Bridget mỉm cười đáp lại, vừa lúc ấy thì tiếng nói của Mara đã phá vỡ giây phút thân mật của họ.
“Ồ, tệ quá”, cô người mẫu nói giọng châm chọc. “Cô ta trông chẳng lộng lẫy gì cả”.
Harry từ nơi ống kính nhìn lên. “Mara, chúng tôi không cần những lời bình phẩm của cô đâu”.
Dù rằng viên thợ chụp hình chỉ muốn được yên, nhưng Bridget cũng thấy biết ơn ông ta. Nhà tạo mốt khéo léo làm xao lãng cô người mẫu bằng cách vẫy vẫy một chiếc áo trên móc. Mara bị lừa, vội vã đi về khu trang phục.
“Các bạn là đôi bạn trẻ đang yêu”. Gil rủ rỉ. “Đây là mùa Giáng sinh đầu tiên của các bạn. Là lá la la”.
Jonas mỉm cười với nàng một cách nồng nàn hơn, như thể chàng ta quên mất mình đang cầm một ngôi sao bằng giấy. Kiểu ảnh tuy rằng giả tạo, nhưng có sự xúc động thật sự trong đôi mắt chàng. Bridget biết rằng chàng đang nhớ lại dịp lễ Giáng sinh đầu tiên của hai người - nàng biết chắc như thế. Gil không phải là không tinh ý, nhưng vị đạo diễn này không thể nào biết được ngày vui ấy của họ ngày xưa như thế nào.
Jonas đã tặng nàng một cái trâm cài kiểu cổ mà chàng đã danh dụm tiền để mua và một thứ còn ý nghĩa nhiều hơn thế nữa: nụ hôn đầu tiên của nàng, ước gì ký ức ấy cứ mãi mãi nhạt phai... Mặc dù đang có nhiều người xung quanh Bridget cũng cảm thấy dòng lệ dâng trào trên đôi mắt mình và thầm cám ơn là mình đã không khóc òa lên.
“Đẹp đấy. Đôi mắt cô thực sự long lanh đó, Bridget”, Harry nói.
Jonas để rơi ngôi sao xuống và đưa một bàn tay vuốt má Bridget. Nàng sắp khóc lên. Nàng quay nhìn đi nơi khác. Chàng cũng vậy khi ngôi sao tụt xuống nhưng chàng đã kịp chụp lấy trước khi nó rơi.
Đôi mắt chàng ánh lên long lanh và chàng vội che giấu tình cảm của mình bằng cách ngân nga vài nốt nhạc. “Nhặt ánh sao rơi... bài hát cũ ấy là gì nhỉ?”.
“Anh nên dành bài hát ấy cho một ngày mưa”, nàng nói khe khẽ.
“Vâng, anh biết”, chàng thì thầm đáp lại.
Gil lại lớn tiếng ra lệnh. Các nhân viên xúm lại xung quanh. “Được rồi, bây giờ đến lượt cô Bridget cầm cái ngôi sao đặt vào chỗ ấy”, Gil nói. “Tôi thấy thích ý tưởng này. Harry, anh có thích không?”.
Người thợ chụp hình chỉ càu nhàu đáp lại.
“Jonas...”. Gil nhìn vào chàng trông đợi, và chàng trao cái ngôi sao cho Bridget.
Nàng làm điệu bộ theo sự chỉ dẫn của đạo diễn. Đứng thế này. Thế kia. Nhìn vào Jonas. Nhìn vào cái cây. Bridget chưa bao giờ hình dung được là một mảnh giấy có thể nặng như thế nào khi mình phải áp nó vào tường suốt gần một tiếng đồng hồ. Cánh tay nàng nhức buốt nhưng những gì họ làm đang tạo cho nàng một cái cớ để được ở gần bên chàng.
Nàng nghe nắm cửa khua lách cách và nhớ ra là mình đã khóa cửa.
“Mẹ... ơi, mẹ!”.
Molly đang ở bên kia cánh cửa kính.
“Tôi để cái này xuống được không?”, Bridget hỏi.
Gil nhìn quanh. “Con của cô đấy à?”.
“Phải, nó là Molly”.
“Harry, anh đã xong cảnh này chưa?”.
“Xong rồi. Bridget, Jonas nghỉ đi”. Harry mang máy ảnh đến cho Gil xem qua các hình trong bộ nhớ khi Bridget đi ra cửa. Molly áp mũi mình vào trong tấm kính tạo một bộ mặt khôi hài và xòe rộng hai bàn tay ra. Bridget phải bật cười.
Nàng cho Molly vào nhà và vẫy tay chào mẹ mình, bà đang ngồi trên xe nơi khúc quẹo để đi thăm một bà bạn dưới phố. Bridget không biết là Jonsas sẽ xuất hiện hay không, nhưng nàng mừng là mình không phải giải thích điều đó với mẹ.
Molly đeo một túi quần áo trên cánh tay, kéo lê trên sàn nhà và nói. “Con đem chiếc áo dài nhung và một vài thứ khác tới”.
Bridget cầm cái túi lên. “Khá đấy. Để mẹ đưa cho nhà tạo mốt xem thế nào nhé”.
“Vâng”. Molly nhìn kỹ trên mặt mẹ nó. “Trông mẹ đẹp quá. Ai trang điểm cho mẹ thế?”.
“Một bà tử tế tên là Felicia. Con có muốn gặp bà ấy không?”.
“Muốn chứ! Con trang điểm có được không?”.
“Một chút thôi”, Bridget nói.
“Con muốn cho thật đẹp cơ”, Molly mơ mộng.
Bridget mỉm cười và cùng với con mình đi ra phía sau cửa hàng. “Mẹ không biết chắc là thế nào, nhưng có thể là bà Felicia sẽ biết”.
Molly nhìn thấy Jonas và nhướng mày lên nhìn mẹ như sắp hỏi vài câu châm chọc.
“Không được làm thế bây giờ”, nàng nói dịu dàng nhưng cương quyết. “Chỉ chào thôi”.
Jonas cười tươi khi thấy hai mẹ con nàng nắm tay nhau đi về phía chàng. “Chào cháu, Molly”.
Molly hích mũi lên với vẻ cao ngạo ngây ngô. “Xin chào”. Nó đi ngang qua trước Jonas và chẳng nghĩ đến gì khác ngoài việc làm cho ra vẻ duyên dáng.
Bridget nháy mắt với Jonas. Với thái độ của Molly, nàng chỉ có thể làm như thế thôi. Đứa con gái nhỏ nào mà chẳng muốn trở thành ngôi sao trong khi chụp hình cho tạp chí và làm cho mình thật xinh đẹp?
Khoảng một giờ sau, Molly đã thấy quen với tất cả những chuyện ở đây. Nó chụp hình trong một chiếc áo dài len bóng với phần trên bằng nhung và không một chút phàn nàn về sợi ruy băng buộc chặt trên mái tóc mình. Nhưng Molly phản đối việc xới tung mái tóc của nó lên, khiến Bridget phải nhắc cho nó nhớ rằng việc này chẳng khác gì so với việc sửa soạn cho Satin, con ngựa của nó, khi đi trình diễn.
Bà Dutton tình nguyện cho mượn một đứa cháu trai năm tuổi, mặc bộ đồ nhung để chụp hình với Molly dưới nhành cây tầm gửi. Dù môi của Molly chẳng chạm đến má của nó nhưng thằng bé này, một diễn viên tồi, vẫn nhắm mắt lại và nhăn mặt một cách cau có.
Rồi thì đến lượt Bridget và Jonas. Nhân viên hóa trang tô lại son môi cho Bridget trong khi Molly đứng nhìn, bà ta tạo nên một màu sáng bóng trên đôi môi hé mở của nàng.
Molly không phải là người duy nhất ngắm nhìn. Bridget biết rằng Jonas đang ở cạnh đó, chàng đang nói chuyện với Harry nhưng đôi mắt luôn nhìn nàng. Nàng có thể cảm nhận điều đó.
“Đứng yên đã nào”, bà Felicia nói. “Ồ, hộp phấn hồng của tôi đâu rồi...”. Bà lục tìm trong túi của mình nhưng vẫn không thấy, và bỗng nhìn vào Bridget. “À, mà xem nào. Cô chẳng cần đâu. Cặp má cô đã hồng lắm rồi. Quả thực là thế”. Bà dùng một tay để quạt cho mình. “Mấy cái đèn này nóng quá, mình đi lại đây, Molly. Hãy lấy một chai nước mát và lên toa xe ngồi. Trong toa có điều hòa không khí đấy”.
Không phải ánh đèn đã khiến Bridget nóng bức và làm cho đôi má nàng đỏ hồng mà chính là Jonas. Harry đã bảo chàng đứng dưới nhành cây tầm gửi đọc sách, và.... chờ đợi nàng. Trong chiếc áo thun màu kem và chiếc quần jean sờn cũ, chàng trông hết sức nam tính và hấp dẫn hơn bất cứ người đàn ông nào khác. Chàng đã gây ấn tượng mạnh cho nàng. Bridget mừng thầm là con gái mình đã ra ngoài một lát cùng với bà Felicia. Nếu Harry bảo nàng hãy hôn Jonas, nàng không biết là mình sẽ làm gì.
“Diễn đi chứ!”, Gil nói lớn.
“Làm... gì?”, Bridget lắp bắp. “Anh nói làm gì ạ?”.
“Hôn người đàn ông ấy. Làm sao cô có thể cưỡng lại cho nổi?”.
Nàng đã không cưỡng lại nổi. Nàng thậm chí cũng không nghĩ ra một lý do gì để từ chối. Thế nên nàng bước tới và hôn chàng thật cẩn thận, cố ý giữ gìn lớp son môi của mình.
Nín thở, phần nào ngỡ ngàng, Jonas đưa hai tay ôm lấy eo nàng và cũng hôn lại thật say đắm.
Harry liên tục bấm máy và lẩm bẩm khen: “Tốt lắm. Đẹp rồi. Thêm một lần nữa. Được. Quay qua bên trái một chút, Jonas. Tuyệt rồi. Phải như thế chứ”. Anh ta ngưng bấm máy.
Bridget có cảm giác người thợ chụp ảnh đang nhìn trong ống kính, nhưng nàng không nhìn anh ta... Đôi mắt nàng nhắm nghiền. Jonas đang hôn nàng thực sự.
“Kìa, hai người”, Harry chọc ghẹo. “Đã ngưng rồi mà”.
***
Hai ngày sau...
Theo Jonas thấy thì ngôi nhà cũ kỹ của ông Hanson không có hư hại gì nhiều, ngoại trừ cái cổng vòm bị nghiêng. Jonas lùi lại ngắm nhìn, hai tay chống vào bên hông quần jean, và liệt kê trong trí những thứ linh tinh cần điều chỉnh. Phải cho chống đỡ mái cổng bằng hai con đội gia dụng, tháo bỏ những cây chông hư mục, thay nền nhà, thay ván sàn, và những rào chắn... thêm một cái đu hai người.
Cái hôn cháy bỏng của chàng với Bridget là điều mà chàng muốn lặp lại, nhưng không phải là khi có đứa con gái nhỏ nên cạnh, hay một anh thợ chụp hình và một đám đông xung quanh. Bà cụ Harrison sẽ giận điên lên nếu Gil Blanding quyết định sử dụng mấy tấm ảnh sau cùng mà Harry vừa chụp để minh họa cho bài báo sắp đăng. Nhưng Jonas không chắc là thế. Sống Đẹp vốn là một tạp chí gia đình.
Bridget đã tỏ ra ngúng nguẩy lúc đầu, nhưng điều đó có thể hiểu được. Chàng đã đến nhà nàng khi không được mời và bước vào trong cửa hàng lúc nàng không mong đợi. Nhưng một khi đã được hâm nóng thì nàng đáp ứng, cả xác lẫn hồn, một cách khiến chàng nghĩ là nàng thích chàng.
Chàng không biết lúc nào sẽ lại có được cái may mắn ấy lần nữa, nhưng chàng có thể chờ đợi. Và cũng cần nói là có một giới hạn cho những việc chàng có thể làm, với Molly bên cạnh. Ít ra cũng nên cám ơn bà Margaret Harrison. Bà chăm nom cho đứa cháu ngoại của bà, như vậy có nghĩa là Bridget sẽ thảnh thơi hơn vô số phụ nữ một mình nuôi con.
Mặc dù luôn bận rộn, thiếu ngủ và mệt đừ, nhưng chàng vẫn nhiều lần đi chơi với một vài bác sĩ nữ nội trú. Nhưng không thường xuyên, và quan hệ của họ chỉ là thể xác, chứ không phải tình cảm. Chẳng một ai bận tâm đến một kiểu quan hệ thực sự và làm hao tốn thời giờ. Trường y, cuộc sống nội trú, và sự huấn luyện lâm sàng đã không chừa chỗ cho một sinh hoạt xã hội.
Nhưng chàng không ngớt suy nghĩ về Bridget. Từ lâu rồi, nàng đã chiếm lấy trái tim chàng - và điều đó đã không hề thay đổi. Chàng biết rõ điều đó giây phút chàng nhìn thấy nàng trong gian hàng dưới phố. Họ cần ở bên nhau. Việc mua một ngôi nhà ở ngay bên nhà nàng là một sự bày tỏ mà nàng không thể không biết hoặc là gạt bỏ. Nó nói lên rằng chàng đã trở lại và chàng sẽ không rời xa nàng nữa.
Kiên tâm và trì chí thì sẽ thắng được nàng, dù có thế nào đi nữa.
Khi đi dạo trong phần còn lại của trang trại để đánh giá tình trạng các gian nhà phụ, chàng đâm ra tự hỏi không biết mình đã nghĩ như thế nào. Một số cấu trúc cũ kỹ thì được lắp ghép cẩu thả với nhau, còn một số thì được xây dựng bền chắc bởi các tay thợ cả. Nhưng chẳng có cái gì có thể chống chịu lâu dài nổi với sự khắc nghiệt của những mùa đông ở Vermont.
Kho thóc cần lợp lại mái - nhìn lên phía trên chàng thấy nhiều lỗ trống. Những con cú nhất định là đã làm tổ ở đây, cho phép chúng bay ra bay vào săn mồi trong các vùng xung quanh. Những tiếng chim cú kêu thất thanh đã khiến cho chàng thức giấc đêm qua.
Chàng nôn nóng thỏa thuận việc giải quyết mà không chú tâm nhiều đến sự giải thích những gì cần phải chữa ngay và những gì có thể chờ đợi của viên giám sát xây dựng, một ông già chu đáo với một giọng mũi New England khó nghe.
Jonas ước tính sơ bộ chi phí sửa chữa rồi sau đó tự bực bội với mình là trước đó đã không hề suy nghĩ về chuyện này. Thà đốt hết đi rồi cho làm lại có lẽ còn đỡ tốn hơn, nhưng chàng sẽ không bao giờ làm thế. Trang trại này đã hiện diện ở đây rất lâu, và chàng muốn chắc chắn là nó sẽ còn tồn tại nhiều trăm năm nữa. Chàng đi theo một con đường bọc quanh một vùng cây cối um tùm. Anh chàng máy kéo có nhiệm vụ dọn dẹp khu hoang dã này đã không làm tới. Bà vợ của ông Hanson mới mất vài năm trước đây sau khi hai người con trai của ông chuyển tới California, nên ông không duy trì nổi trang trại rộng lớn này. Jonas đã mua lại nó - nhà, kho, đồng ruộng và các nhà phụ - với một giá cả phải chăng.
Như vậy cũng tốt. Chàng không cần phải ghi thêm một khoản thế chấp khổng lồ nào vào trong danh sách các món tiền nợ của trường y mà chàng đang thanh toán. Và chàng dự định mở một phòng mạch ở vùng phụ cận Randolph - điều đó không phải là tốn ít tiền. Làm một bác sĩ gia đình, nhất là ở vùng nông thôn, chàng sẽ chẳng bao giờ giàu được, nhưng Jonas không bận tâm lắm về chuyện này. Chàng có nhiều người khách mà chàng đã chữa trị ở bệnh viện New York, và chàng thấy thích cái ý tưởng hành nghề ở một khu vực đang bị thiếu thốn về các dịch vụ y tế. Trên khắp nước Mỹ, có nhiều bác sĩ cao tuổi ở những thành phố nhỏ đang về hưu khiến cho cộng đồng phải gặp khó khăn trong việc tìm người thay thế. Chàng nghĩ là mình đang có một cơ hội tốt như bất cứ ai khác để sinh sống.
Nhưng... hãy giải quyết tuần tự, bắt đầu bằng cái mái nhà trên đầu chàng đây. Khi đã làm xong những sửa chữa cần thiết thì ngôi nhà cổ này sẽ trở nên hoàn hảo để xây dựng một gia đình. Với người phụ nữ duy nhất mà chàng thương yêu.
Một lần nữa Jonas nhìn cái cổng trước xập xệ và thở dài. Trước khi dắt ai kia qua ngưỡng cửa nhà mình, chàng phải thay thế cái cổng này đã.
***
Cả buổi chiều hôm ấy chàng cứ loay hoay ở ngoài vườn nhà mình, xem xét cái kho và một đống củi đã bị vơi đi một cách thảm hại. Số củi này được dùng để chất lên cái giá cất củi phía trên cổng vòm mà lâu nay chẳng được nạp vào. May thay, một người nào đó đã đổ một đống củi vào trong nhà kho để chờ cho khô ráo qua mùa đông - có lẽ là anh chàng làm vườn. Củi này đã sẵn sàng để chẻ ra, vì chúng đã được cưa thành những đoạn dài sáu tấc.
Jonas nghĩ là mình có thể bắt đầu với những cây củi này. Chàng có thể vận động, nhưng đã không chẻ củi từ lâu. Chàng bước vào trong kho, tìm một cái rìu, và thấy nhiều cái treo trên cây đà thấp. Các lưỡi kim loại cùn ánh lên trong bóng tối, chàng dùng một ngón tay để thử trên mép rìu.
Ồ. Bén lắm. Rõ ràng là ông lão Hanson đã chăm chuốt kỹ bộ dụng cụ của mình, cho dù ông chỉ sử dụng rất ít. Chàng nhặt ngẫu nhiên một chiếc rìu, dựng nó bên ngoài, rồi trở vào kho khuân ra thật nhiều củi.
Chàng đặt thanh củi đứng trên một đầu, nhấc cái rìu và vung lên, chẻ phăng thanh củi thành hai mảnh bằng một nhát rìu ngọt ngào với một tiếng chát sắc gọn và vui tai. Hà, chàng nở rộng nụ cười với chính mình.
Được chẻ làm đôi, rồi làm tư, những cây gỗ bốc mùi thơm thanh khiết và nhẹ nhàng như bầu không khí của Vermont. Chàng chất những cây củi chẻ thành một đống sơ sài để rồi xếp lại sau đó, chàng hân hoan với việc lao động chân tay, và mình chàng nhễ nhại mồ hôi.
Jonas dừng tay để kéo áo ra khỏi chiếc quần jean và cởi nút áo ra. Tệ quá, chàng chẳng có một chiếc khăn tay nào nhưng chàng có thể cởi chiếc áo ra để lau mặt. Chàng sẽ thấy ấm người lên nếu tiếp tục làm việc.
Chàng cởi áo, lau mồ hôi trên mặt, rồi treo trên một cành cây gần đấy. Sau đó chàng quay trở lại với công việc một cách đầy hăng say. Chàng không hề nghĩ là có người nào đó đang đứng nhìn mình.
***
Bridget đặt chiếc ống nhòm xuống, nàng cảm thấy vô cùng tội lỗi. Nàng ở cách xa Jonas hàng trăm thước, nhưng dù là thế - nàng biết rằng chàng không nghĩ là nàng đang có ở đấy.
Lúc đầu nàng đã không biết đến âm thanh ấy, tưởng rằng đó là một người làm vườn mà chủ đất thuê để trông chừng nơi này, đang cần cù làm việc. Nhưng âm thanh chẻ củi đều đặn thu hút sự chú ý của nàng và làm át tiếng chim hót. Nhìn chung quanh và hướng ống nhòm vào hướng tiếng động, nàng nhìn thấy Jonas... và không thể nhìn đi nơi khác được nữa. Một cái cây đổ đã tạo ra một đường nhìn trống trải tới trang trại của chàng và nơi chàng đang chẻ củi.
Với bộ ngực trần, chàng ta trông thật đẹp trai với vô số những cơ bắp rắn rỏi và gân guốc. Hai cánh tay chàng căng đầy do sự vung múa chiếc rìu, và tất cả những gì mà nàng có thể nghĩ tới là tuyệt vời làm sao khi được ôm vào trong hai cánh tay ấy và được chàng hôn. Nàng đã cảm nhận được sức mạnh nơi cái thân hình có trang phục của chàng, thậm chí nàng đã đánh bạo vuốt ve thân hình ấy đôi ba lần, nhưng được nhìn thấy chàng như thế này mới thật là choáng ngợp.
Jonas buông chiếc rìu xuống và bước tới cành cây nơi chàng treo chiếc áo, sau đó lấy chiếc áo lau mặt mình. Chàng lấy hai bàn tay ép mái tóc ướt mồ hôi về phía sau, làm hiện rõ khuôn hình của gương mặt gồ ghề, và chàng chống hai bàn tay lên hông đứng thở.
Bridget run lên nhưng không phải vì lạnh. Thật ra, nhìn thấy chàng như thế này đây cũng đủ khiến nàng run rẩy.
Chàng bước trở lại nơi gốc cây, cầm cái rìu lên và tiếp tục làm việc. Chát. Thịch. Chát. Thịch. Chàng chất mớ củi chẻ thành một đống càng lúc càng cao bên cạnh gốc cây. Mỗi lần chàng vung chiếc rìu lên qua khỏi đầu và các cơ bắp của chàng siết chặt lại cho một nhát chẻ trước khi hai tay giáng xuống, tim nàng như bị hẫng đi một nhịp.
Không phải là nàng chưa từng nhìn thấy một người đàn ông chẻ củi nhưng Jonas quả thật là gợi cảm trong khi làm công việc này. Nàng có thể nhìn thấy là chàng đang mệt - cái bụng thẳng cứng, hằn lên những thớ thịt, sự lõm vào và nẩy ra ngang chỗ thắt lưng của chiếc quần jean khi chàng thở mạnh hơn. Bầu không khí mát lạnh mùa xuân làm se chặt thêm bộ ngực đàn ông phẳng lì của chàng - và cuối cùng, dường như cái lạnh đã thắng.
Jonas lựa lấy một thanh củi cuối cùng - thanh to nhất - và chẻ nó với một nhát mạnh khiến cho hai mảnh văng trên đất. Chàng ngồi xuống trên gốc cây, thở một hơi dài mà nàng tưởng như có thể nghe được, rồi đứng lên và đi lấy chiếc áo của mình.
Bridget nhìn chàng cài nút áo, cảm thấy một sự trìu mến ở ngay nơi mình qua cái động tác giản đơn ấy. Nàng dễ dàng hình dung ra chàng cũng đang cài nút giống y như thế... sau một buổi chiều ân ái cùng nhau. Ôi chao, nàng rất khao khát điều này. Nàng bỏ rơi cái ống nhòm xuống nhưng sợi dây đeo vẫn còn vướng lại. Cái giật đột ngột ở đằng sau gáy kéo nàng tr
Vừa quẹo qua góc đường, nàng đã thấy họ sẵn sàng ở đấy. Có một xe tải ngoại cỡ đậu ở khúc cua, máy còn đang chạy không biết vì lý do gì, và có những người nàng không quen biết đi lui đi tới với những đèn chớp, tấm phản chiếu, và một lô thiết bị lạ mắt khác. Từ ngoài đường, nàng nhìn qua ô cửa kính trước khi vào nhà. Khoảng không gian trống trải đã giăng đầy những đèn chiếu đặt trên giá, và những người phụ tá khi bật khi tắt. Những tấm phản chiếu điều chỉnh được đặt rải rác đó đây. Bà Dutton đang được rọi sáng chói chang giữa tất cả những thứ này.
Bà Dotty Pomfret từ trong bước ra, gật đầu cảnh báo với Bridget. “Bọn xâm lăng đang kéo đến”.
“Trời ơi, thế à”.
“Họ đang xốc xáo mấy món đồ len của tôi. Rối tung hết cả”.
Bridget vỗ nhẹ trên cánh tay bà. “Rồi họ sẽ xếp dọn lại như cũ ấy mà”.
Bà cụ già thở dài lẩm bẩm: “Họ làm tôi phát điên. Họ còn tính kéo đến chụp hình trang trại của tôi ngày mai, như vậy có nghĩa là đàn cừu sẽ phải cuống lên. Mình đâu có thấy trước mấy chuyện này”.
“Nhất định là mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp mà. Bà đừng lo”.
Bà Dotty hừm một tiếng. “Cô ơi, cô chưa bao giờ thử trấn an một đàn cừu đấy. Một khi chúng đã phát hoảng thì rồi chúng cứ hoảng mãi”.
Bridget nhìn qua ô kính. Nàng nhận ra trong đám người này có vài người là những cộng tác viên chuyên viết bài trên tạp chí Sống Đẹp - như chàng thanh niên tóc đuôi ngựa kia đúng là Gil Blanding, giám đốc nghệ thuật. Dáng người cao to, mặc áo thun đen và quần jean, Gil đã chuyển dời các món hàng trên kệ, sửa cho tròn trịa các cuộn chỉ len và tạo nên một sự hỗn độn đầy nghệ thuật đối với mấy xấp vải đã được xếp gấp và phối hợp màu sắc công phu. Anh ta lùi lại để ngắm công trình của mình, nhíu mày rồi cầm một cuộn chỉ lên ngắm nghía thật kỹ.
Bridget chào bà Dotty rồi bước vào trong nhà, vỗ vai Gil.
Mắt anh ta rời cuộn chỉ để nhìn vào nàng. “À, xin chào. Chị là Bridget, phải không. Bà Dutton đã giới thiệu với tôi tất cả những tấm hình trên bảng quảng cáo. Cửa hàng thật dễ thương”. Anh ta kéo ra một đoạn ngăn ngắn trên cuộn chỉ rồi để nó lòng thòng như thế và đặt trở vào trên kệ. “Đấy. Đẹp tuyệt đấy, chị có đồng ý không?”.
“Tất nhiên rồi. Anh nói đẹp là đẹp mà”. Nàng không muốn tranh luận. Trong sự quảng cáo không tốn tiền này, họ có muốn quậy thế nào với mấy các kệ hàng của nàng cũng được cả.
Gil vỗ vỗ hai tay, nói với toán người của mình. “Được rồi, mọi người hãy nhanh nhanh lên. Không thể mất cả ngày được. Người mẫu đâu rồi? Ra đây, ra đây”.
Đi vào trong quầy nơi mà nàng và các nhân viên bán hàng thường ăn trưa, Bridget đảo mắt tìm bà Dutton và đặt cái túi bánh cam hương quế mà nàng đã mua trên đường đến đây xuống. Đám nhân viên và phụ tá chắc sẽ ngấu nghiến mấy cái bánh này, còn người mẫu thì hẳn là không. Thôi được. Có lẽ ai đó đã cung cấp đủ cà rốt và rau cần cho dịp cuối tuần rồi.
Nàng lấy ra nhiều mặt hàng đan tay của các nghệ nhân địa phương để Gil đánh giá, với hi vọng anh ta sẽ chọn một, hai món để đăng hình trong bài viết trên báo của anh - và kìa, anh ta đã chọn. Một người mẫu tóc vàng gầy guộc, chân dài, trong chiếc áo chẽn lạ mắt bằng loại len tốt nhất của bà Dotty từ phòng sau bước ra, đi theo đằng sau là một nghệ nhân hóa trang phẩy phẩy một chiếc chổi lông tơ chấm phấn thoa mặt.
“Mara, chưa xong mà. Đứng yên nào”.
Mara quắc mắt nhìn nhân viên hóa trang bằng cái nhìn bực bội. “Vâng, vâng. Nhưng tôi ngứa quá. Khi nào mới bỏ được chiếc áo này ra?”. Cô ta xắn tay áo lên và làm điệu, một chân gầy guộc chìa ra phía trước, hai tay chống nạnh.
“Tuyệt lắm, Mara”, đạo diễn suýt xoa. “Em đẹp bẩm sinh cơ mà”.
Mara mỉm cười tự mãn. Bridget muốn ném cho cô ta một cái bánh cam.
“Nhưng cô không thể cởi chiếc áo len ra được”, Gil nói. Ông chụp hình không thích màu nhạt”.
Một người đàn ông lớn tuổi với mái tóc muối tiêu, điều chỉnh bối cảnh trên chiếc máy chụp hình kỹ thuật số hiện đại, rồi nhìn lên nhưng không nhằm vào Mara. Thay vào đó, ông ta nhìn vào Bridget và nháy mắt chào nàng. Nàng mỉm cười chào lại, ngạc nhiên vì vẻ thân thiện trên gương mặt ông. Ông ta có vẻ không hoàn toàn giống dân New York như Gil, chiếc sơ mi vải mềm sờn rách và đôi giày cũ của ông cho thấy ông không bận tâm nhiều lắm đến chuyện thời trang.
“Ông gọi tôi là ông chụp hình hả?”, ông ta hỏi Gil với giọng nói khe khẽ, cười cợt.
“Thế ông muốn tôi gọi ông là gì?”, Gil hỏi.
“Gọi là Harry”.
“Xin lỗi, ông Harry”. Gil gật đầu lơ đãng, bước tới đứng sau Mara và bóp chặt cái eo áo chẽn của nàng. “Kim kẹp áo đâu!”, anh ta gọi. Một phụ tá và một nhà tạo mẫu ào tới với một túi phụ tùng, và họ kẹp chiếc áo len dọc theo cột sống người mẫu cho sát với thân hình mảnh mai của cô ta. Gil đi qua đi lại phía trước để ngắm và hài lòng ra mặt. “Thế đấy. Đẹp hơn rồi đấy, phải không Mara?”. Anh ta nắm vai cô người mẫu, đặt nàng đứng trước một tấm gương dài.
Mara bĩu môi. “Vẫn còn ngứa”.
Bridget không bận tâm. Chiếc áo len trông thật đẹp. Những người này không biết là họ đang làm gì, còn Gil là một chàng hề. Đạo diễn vỗ vỗ lên chóp mũi của người mẫu. “Bóng quá, bóng quá”. Rồi anh ta gọi kỹ thuật viên hóa trang “Felicia, làm ơn hoàn chỉnh gương mặt cô ta để bắt đầu nào”.
Felicia chạy vội sang và bôi phấn tới tấp khiến cho cô người mẫu hắt hơi. Bridget đứng kế bên bà Dutton trong lúc đám nhân viên đưa máy móc vào vị trí, sẵn sàng cho đợt chụp ảnh đầu tiên. Một nhân viên đứng nơi cửa để yêu cầu khách hàng lát nữa hãy quay lại, nhưng chẳng có ai ghé vào.
Tin tức về chuyện chụp hình có thể sẽ lan ra khắp phố chỉ trong vài phút nếu như có ai được biết. Công việc này khá lý thú, cho dù cô người mẫu là người phải thấy khó chịu nhất trên đời. Nhưng Mara chờ đợi khá kiên nhẫn trong lúc mái tóc cô được chăm chút kỹ một lần chót. Một thành viên trong đoàn bật chiếc quạt và ngước nó lên để làm mát người mẫu dưới ánh đèn và thổi bay mái tóc cô đôi chút. Mara có vẻ chuyên nghiệp nhưng buồn nản, cô chụp vài tấm ảnh trước các kệ hàng trong khi Harry quì đằng trước mình, chụp hết tấm ảnh này đến tấm ảnh khác.
Gil ra lệnh cho Mara làm theo. Bridget lấy một cái bánh cam vòng trong túi giấy ra và ăn nhồm nhoàm trong lúc đứng xem. Nàng chắc chắn là ánh mắt người mẫu đã sáng lên khi nhìn cảnh ấy.
“Tuyệt”, Gil hài lòng nói. “Chúng ta cần ánh mắt ấy. Tiếp tục đi”.
Bridget thấy mừng là nhiều bộ đồ thêu đan nữa đang được đem ra chụp hình. Nàng nghĩ là rất hay nếu như người thợ làm ra các sản phẩm ấy cũng được giới thiệu trong bài báo. Nàng lấy một mẩu giấy, cây bút chì và viết tên người thợ trong khi các mặt hàng khác nhau được Mara trình diễn, với sự trợ giúp của nhà tạo mẫu.
“Được rồi, chúng ta nghỉ để ăn trưa nhé”, sau cùng Gil nói. Anh ta biến mất phía sau quầy hàng trong khi các nhân viên bận rộn với các thiết bị. Mara cởi đến chiếc áo đan cuối cùng, để lộ ra chiếc áo cánh nhỏ xíu bên trong. Cô ta đưa chiếc áo đan cho nhà tạo mẫu và cào gãi hai cánh tay một cách thỏa thích.
Bridget thấy ái ngại. Mara có lẽ bị dị ứng với len. Và cô ta đã phải nhịn ăn. Lớp vải mỏng của chiếc áo cánh để lộ rõ những chiếc xương sườn.
“Đừng gãi cánh tay”, nhà tạo mốt nói khẽ. “Nếu phải mặc áo không tay thì làm sao?”.
“Chắc không đâu”, Mara đáp. “Đây là đề tài Giáng sinh mà, bà có nhớ không?”.
Đội chiếc nón Santa trên đầu, Gil từ đâu đó bước vào. Món phụ trang này không phù hợp với chỏm tóc đuôi ngựa thời trang của anh ta. “Ha ha ha. Mọi người ơi, thời tiết mùa đông thật tuyệt diệu. Albert ơi, hãy đập mấy cục đường phèn để giả làm tuyết nhé”.
Cậu nhân viên phụ tá, có vẻ là Albert, đi theo Gil ra trước cửa hàng, dốc ngược hai thùng hàng lớn bằng cỡ cái thúng, bên trong đựng những món đồ trang trí Giáng sinh, trong số đó có một cuộn tầm gửi nhân tạo quấn ruy băng. Bridget và bà Dutton nhìn nhau mỉm cười. Nhìn thấy mấy món này vào tháng năm thực buồn cười.
“Treo cái này lên được không ạ?”, cậu ta lễ phép hỏi.
“Được chứ”, Bridget nói. “Tôi sẵn sàng hợp tác mà”.
“Thật đáng mừng cho tôi”. Albert nói rồi đi ra phía sau mang tới một cái thang, đặt đằng trước quầy hàng.
Gil nghiên cứu cách trưng bày trong ô kính, không để ý đến vài người đi đường đang tò mò nhìn anh ta và những thiết bị bên trong gian hàng. Đây là chuyện lớn đối với thành phố bé nhỏ này, Bridget nghĩ và cười thầm. Nàng vẫy tay chào một phụ nữ quen, bà này đưa bàn tay che mắt và bước vào một lát, rồi đi ra.
“Có lẽ bây giờ cô nên khóa cửa lại”, Gil nói. “Ra vào tự do lộn xộn quá. Mình đều không muốn có ai đi lại trong này phải không?”.
“Có lẽ không”. Bridget khóa ô cửa kính lại và treo bảng “Đóng cửa”.
Albert ngước đầu nhìn lên. Thấy mấy thanh gỗ viền quanh ô kính, cậu ta nói “Dễ mà. Tôi sẽ dùng loại đinh nhỏ, sau khi tháo tất cả xuống thì sẽ không để lại dấu vết gì đâu”.
“Cám ơn”, Bridget nói.
Cậu ta leo lên cây thang, một thân hình rắn chắc bên trong một chiếc áo ca rô và một chiếc quần thô, mang theo một hộp đồ nghề gồm đinh và búa. Cậu ta ra hiệu nhờ Bridget đưa cho cậu ta một trong hai thùng đồ trang trí Giáng sinh để đặt nó trên giá treo của cái thang. Cái thùng lớn có đáy hẹp nhưng không để lọt vào giá thang. Tuy nhiên, theo Bridget được biết thì trong đó chẳng có gì nặng cả. Albert nhìn vào trong thùng rồi nhìn xuống sếp của mình.
“Ông muốn hình gì?”.
“Vẻ đẹp đồng quê. Làm cho giống thật”.
Albert lôi ra một vòng hoa man việt quất dài bằng ni lông, bắp rang bằng bột giấy, và những miếng bánh quy gừng bằng các tông.
“Tôi thấy giống thật lắm rồi”, Gil vui vẻ nói. “Hai người cứ làm đi. Tôi tin tưởng các bạn và tôi đói bụng rồi. Bridget ơi, có chỗ nào ở Randolph bán bánh su-si không?”.
“Không”, Bridget cười trả lời. “Nhưng anh có thể dùng hăm-bơ-gơ rất ngon”.
Đạo diễn lộ vẻ hơi thất vọng. “Tôi không ăn được thịt bò. Albert, cậu muốn ăn sandwich không?”.
“Lúc này thì tôi không ăn”.
Gil đi ra ngả sau, Mara nhanh chân chạy theo, rồi đến Harry và những người khác. Bà Dutton nhận lời cùng đi với nhà tạo mốt và cô thợ hóa trang và không ngớt ca ngợi món bánh pa-tê táo của tiệm To Go, quán ăn cách đấy ba dãy nhà.
Còn một mình Bridget ở lại với Albert, nàng vui mừng được dịp trang hoàng theo ý thích. Người mẫu và những thứ linh tinh khác không phải là lĩnh vực sở trường của nàng, nhưng nàng có một ý kiến rất dứt khoát về cách nàng muốn gian hàng của mình phải như thế nào, căn cứ vào bài viết sắp đăng trên báo.
Albert đóng nhiều cây đinh, sau đó Bridget đưa cái vòng hoa lên, bây giờ trông nó mới có vẻ như thật khi ở trên cao, thòng xuống theo hình bán nguyệt và lay động nhẹ nhàng trong làn gió hiu hiu do chiếc quạt máy tạo ra.
Thùng đồ đã trống trơn và Albert để cho nàng nhặt lấy những gì nàng thích. Cho lần trang trí sau cùng, Bridget chọn ra một đôi thiên thần bằng trái thông sơn trắng, đặt ở hai bên của một cái giá nhỏ treo mấy chiếc áo len trẻ con sọc trắng đỏ. Rất có không khí Giáng sinh.
“Đẹp đấy”, Albert tán thưởng. “Còn bây giờ đến cây tầm gửi”. Anh ta cúi xuống cái thùng nhưng rồi đứng thẳng người lên thật nhanh, thả rơi trở xuống cuộn dây tầm gửi xám xanh quấn ruy-băng. “Oi chao!”. Anh ta đặt một bàn tay lên lưng xoa xoa. “Tôi phải leo xuống. Đau lưng quá”.
“Để tôi treo cho”, Bridget đề nghị. “Anh phải nghỉ một lát. Nếu không thích sandwich thì anh có thể dùng một tí gì đó, chỉ để ngồi nghỉ thôi. Mà này, quán To Go thường có bán pa-tê táo vào lúc hai giờ đấy”.
Albert leo xuống một cách nặng nhọc. “Tôi có được nửa giờ nghỉ ngơi. Cô có muốn ăn gì không?”.
Chỉ một việc đối diện với cô người mẫu siêu mỏng cũng đủ khiến Bridget hết muốn ăn rồi. Và nàng cùng còn hai cái bánh cam. “Không. Lát nữa sẽ gặp anh”.
Albert trao cái búa cho nàng rồi khập khiễng đi. Nàng nghe tiếng cánh cửa sau đóng lại rồi cọt kẹt mở ra - lẽ thường nàng phải gài chốt cửa - trong lúc nàng kéo lê cái thang đi dưới chùm đèn Victoria, cẩn thận để không làm nghiêng hộp đồ trang trí treo trên giá thang. Hình chạm đầu mái nhà sẽ là một chỗ tốt để treo quả cầu buộc ruy-băng.
Nàng leo lên các bậc thang và quấn sợi dây kẽm nhỏ của quả cầu vào hình chạm, sau đó leo xuống và kéo cái thang qua một bên.
Bridget khoanh tay trước ngực, nghĩ rằng cây tầm gửi vào giữa tháng năm trông vừa ngô nghê vừa huyền kỳ. Giống như vòng hoa man việt quất và bắp rang, cuộn dây này chuyển động nhè nhẹ trong làn gió của cái quạt. Tiếng vù vù yếu ớt của cái quạt vang lên trong căn phòng yên tĩnh nên lúc đầu nàng không nghe được tiếng bước chân. Nhìn lên quả cầu tầm gửi, nàng cho rằng có lẽ Albert đang trở lại để lấy cái ví hoặc gì đó, hoặc một người nào trong đám nhân viên, cho nên nàng gần như giật nẩy người khi nhìn thấy Jonas bước vào phía trước cửa hàng.
“Anh làm gì ở đây thế?”, nàng nhận thấy câu hỏi của mình không thân thiện cho lắm nhưng vì chàng đã khiến cho nàng kinh ngạc.
“Anh nhìn vào trong quầy và thấy em đang làm việc hùng hục”. Chàng mỉm cười. “Cửa đã khóa và anh không muốn gõ cửa. Nhất là khi em đang ở trên cây thang”.
Nàng gật đầu, cảm thấy hơi ngớ ngẩn. “Đúng thế”.
Jonas thọc hai tay vào trong túi quần và nhìn xung quanh. “Đang làm gì vậy?”.
“Cửa hàng của em được giới thiệu trong số Giáng sinh của tạp chí Sống Đẹp. Trang trại của bà Dotty cũng thế. Ngày mai họ sẽ đến chụp hình trang trại của bà ấy”.
“Xem nào. Trông đẹp đấy”.
“Cám ơn anh”.
Nàng không rời mắt khỏi gương mặt chàng vì không muốn nhìn lên cây tầm gửi và hi vọng là chàng không để ý đến nó. Nhất định nàng sẽ không để cho chàng hôn mình dưới nhành cây này. Cho dù có hôn thì cái hôn ấy cũng không ý nghĩa gì. Cuộn cây kia chỉ là cây giả.
Jonas liếc nhìn lên cuộn tầm gửi mà chẳng nói gì, rồi chàng nhìn các phần trang trí khác với ánh mắt thích thú. “Trang hoàng nhà cửa chắc là vui lắm. Thế mọi người đi đâu hết rồi?”.
“Đi ăn trưa. Họ trở lại ngay bây giờ”.
“Ồ”.
Nàng có cảm giác như chàng ta muốn bước tới - phía nàng - nhưng chàng vẫn đứng nguyên ở đấy. Sự đứng gần của chàng khiến cho nàng thấy nghẹt thở và tim đập nhanh hơn. Phải rồi, cửa hàng của nàng đón nhận tất cả mọi người, và không có lý do gì mà chàng không thể, thế nhưng nàng vẫn muốn chàng đừng vào. Cái cảm giác có thể bị chàng nhấc bổng lên khỏi mặt đất khiến cho nàng thấy lúng túng. Bridget ngó quanh tìm một thứ gì có thể làm cho chàng xao lãng và nàng thấy cái túi giấy đựng bánh. Nàng có thể lợi dụng điều này để tạo cho mình một chút an toàn. Mẹ nàng vẫn nói rằng đàn ông chỉ là những sinh vật đơn giản, và thông thường có thể đánh lừa họ bằng thức ăn hay tình dục.
“Em đã ăn chưa?”, chàng hỏi đột ngột.
“Em ăn rồi”. Nàng sẽ không đi ăn với chàng được. Phải có người trông coi cửa hàng.
“Tiếc quá nhỉ. Anh chưa ăn”.
Chàng có thể ăn bất cứ thứ gì còn lại trong cái túi và giảm bớt calori cho nàng. “Có bánh cam vòng đấy”. Nàng chỉ vào cái túi. “Em đem đủ bánh cho mọi người”.
Jonas gật đầu. “Được. Anh sẽ ăn một cái bánh cam. Có cà phê không?”.
“Có đấy”. Sốt sắng muốn làm một điều gì đó - bất cứ điều gì - để giữ hai người khỏi ở trong cảnh lúng túng, Bridget đi đến quầy, bấm nút máy pha cà phê, và nàng quì gối nhìn vào trong cái tủ lạnh nhỏ nơi cất trữ những bữa ăn qua loa để tìm một món đi kèm với ly cà phê sữa mới pha.
Mùi thơm của cà phê đang pha làm tan biến đi cơn mơ mộng lông bông của nàng, và nàng thầm cảm ơn về điều này. Bridget đứng dậy, tay cầm bình cà phê đặt lên trên quầy, bên cạnh hộp đường gói. Nàng lấy ra hai gói nhỏ. “Cà phê sữa. Hai gói đường”.
Chàng gật đầu, một nụ cười hiện ra nơi góc môi. “Đúng là cách pha mà anh thích. Em vẫn còn nhớ”.
Không hiểu sao Bridget nghe thấy câu nói mới rồi khiến nàng lúng túng. “Phải. Nhưng nó chẳng có ý nghĩa gì đâu”.
“Anh có nói nó có ý nghĩa gì đâu. Anh chỉ nói em còn nhớ thôi”.
Không quên giữ ý cho dù Jonas có nói gì đi nữa, nàng lấy một cái ly và đặt trước chàng. “Đừng suy nghĩ gì nhiều, Jonas”.
Nụ cười của chàng ta nở rộng hơn. “Đừng lo”.
Chàng tự rót cho mình một ly và lần đầu tiên, nàng để ý thấy chàng đang mặc gì. Chiếc áo thun có tay màu trắng với một logo trường y bạc màu trên ngực phải. Ồ, bộ ngực. Nàng đã quên mất rằng chàng trông vẫn đẹp như thế nào khi mặc một thứ thông thường như chiếc áo thun. Chàng mặc quần jean bạc màu với những vạt cũ mòn màu trắng làm lộ rõ hệ cơ bắp. Nàng nhìn chàng từ đầu đến chân. Chàng có vẻ sẵn sàng cho mùa hè, và trẻ hơn dáng vẻ thường ngày với mái tóc nâu hơi bù xù.
Thái độ chàng thật ung dung khi lấy một cái ly, tự tay rót cà phê vào, cho thêm một vốc lớn sữa và kem, rồi với lấy hai gói đường trên mép quầy. Chàng xé mấy gói đường trút vào trong ly.
“Anh là bác sĩ. Anh không biết là đường và kem có hại thế nào với anh hay sao?”.
Jonas nhún vai, nhe răng cười. “Hì, anh thích đi ra ngoài khuôn khổ”.
Chàng nhấp ly cà phê, nhìn nàng qua phía trên vành ly cho đến khi nàng mỉm cười trở lại. Gần như bất giác, nàng cảm thấy thư giãn.
“Anh uống thêm chứ?”.
“Có lẽ anh uống thêm”. Nàng đi về phía quầy, chàng bước tránh sang một bên. Bridget vẫn giữ một giọng nói hoạt bát và từng trải trong khi mắt nhìn chăm chăm vào ly cà phê. “Em sẽ phải làm việc suốt cả ngày nay và em muốn mọi việc như ý của mình cho đến khi họ chụp hình xong”.
“Anh hiểu. Có vẻ như họ giành quyền kiểm soát đấy”.
Bridget gật đầu. “Cái tốt là họ đã giới thiệu những mặt hàng mà em muốn. Em còn đang hi vọng đưa tên của những người thợ đan vào trong bài báo. Mỗi một chút đều có lợi. Nền kinh tế của Randolph chưa phát triển lắm”.
“Chưa à? Em có vẻ như đang thành công đấy chứ”.
Bridget cho đường vào ly cà phê của mình và khuấy leng keng với chiếc muỗng. “Như thế là nhờ phần lớn công việc kinh doanh của em trên mạng”.
“Giỏi đấy”.
Nàng cảm thấy một thoáng ý nghĩa tự vệ, dù nàng biết chắc là chàng không có ý làm vẻ kẻ cả. Tất nhiên là nàng đã không học lên tới đại học, thậm chí cũng không mong gì nghĩ tới chuyện ấy với một đứa con phải nuôi -nhưng đây không hề là điều mà nàng muốn nói với chàng.
“Một khi đã mở trang web thì các đơn đặt hàng bắt đầu được gởi đến từ phía những người thêu đan và may mền từ khắp mọi nơi trong nước. Em có đăng quảng cáo nho nhỏ trên các tạp chí may mặc và thủ công, nhưng những lời truyền miệng đã thực sự đem đến cho em những khách hàng mới”.
Jonas gật đầu, đưa một tay chỉ mảng trưng bày những hình quảng cáo chăn mền cách đấy không xa. “Đây là những bộ mền may theo ý của khách hàng, phải không?”.
Có lẽ chàng đã xem các mẫu này trong lúc bước vào gian hàng. Bridget thấy nhẹ nhõm là chàng chỉ nhằm vào những câu hỏi an toàn. “Đúng thế. Các sách quảng cáo có những cuộc thi về sở thích, sự ưa chuộng màu sắc, thú nuôi, những thứ như thế - và sách quảng cáo trên mạng cũng giống vậy. Họ đăng ký, rồi sau đó em gởi e-mail cho từng khách hàng quan tâm một mẫu thu nhỏ của chiếc mền mà họ có thể làm, qua việc áp dụng những sở thích và mẫu thiết kế mà em tạo ra”.
“À, ý kiến thông minh đấy. Khái niệm ấy do em tự nghĩ ra, phải không?”.
“Phải”. Bridget cầm ly cà phê lên và chỉ vào chiếc máy vi tính. “Em sẽ cho anh thấy là em làm như thế nào”. Nàng bước tới ngồi xuống, chờ một phút cho màn hình hiện lên trong khi Jonas nhìn qua vai nàng.
Bridget mở một tập tin và nạp đầy khoảng trống của nó với một bàn tay gõ phím. “Ví dụ như một khách hàng thích làm vườn. Bà ta thích quần áo màu nhạt nhẹ. Và yêu mèo”. Bridget cho chuột di chuyển lui tới giữa chương trình các hình vẽ của mình và bảng yêu cầu mà nàng đang mở, chọn lấy những đóa hoa và con mèo cách điệu trong các màu hồng, lam và vàng.
“Tất cả những gì mình cần làm là ghép chung những yếu tố này lại với nhau, sử dụng những loạt mẫu mà mình tạo ra cho từng thể loại - công việc này mất khoảng năm phút. Sau đó em e-mail vài bản khác nhau cho khách hàng xem. Kiểu thiết kế được làm theo ý từng người, nhưng nó được dựa trên những yếu tố tiêu chuẩn mà mình không phải vẽ lại sau mỗi lần sử dụng”.
“Khỏe quá nhỉ. Và cũng rất thông minh. Nhưng em làm sao nếu có yêu cầu của một người thích mô tô, quần bò sờn rách, và chó bull?”.
Bridget cười lớn. “Em vẫn có thể giải quyết những đơn đặt hàng đặc biệt. Phải mất nhiều thời gian hơn một chút để có được những hình ảnh ấy, nên em tính tiền cao hơn. Chỉ có vậy thôi”.
Nàng mở một tập tin trong máy vi tính và một tập hợp các hình nghệ thuật hiện ra, từ những người cá hình xăm cho đến những hình chạm kỷ hà. Jonas tỏ vẻ thích thú thật sự và Bridget cũng say sưa với đề tài của mình. “Những mẫu này khó lắm. Phần nhiều người ta chỉ thích những thứ dễ làm như hoa cúc và ngôi sao. Nếu họ thích một phiên bản thu nhỏ và đặt làm một bộ, thì em vẽ đồ hình nhiều nhóm cho kiểu dáng họ chọn, thêm các chú giải, in tất cả ra và gởi đi. Họ thêu các hình ấy trên vải của họ, như thế có nghĩa là không cần nói đến vật liệu”.
“Đây là một kiểu kinh doanh của thiên niên kỷ mới”.
“Vâng”.
Jonas cười. “Em thật là kỳ tài. Anh phải phục đấy”.
Bridget hơi đỏ mặt. “Mỗi tháng em đều có thêm nhiều đơn đặt hàng. Như vậy có nghĩa là em có thể sống theo giờ giấc riêng của mình và ở lại Randolph này với bé Molly...”.
Nàng ngừng nói, cảm thấy cái nhìn tư lự của chàng đối với mình.
“Đúng đấy”.
“Sống ở đây thì không có nhiều công việc lớn”, nàng nói rõ. Jonas hẳn đã biết như thế, dù chàng đã sống khá lâu tại New York. “Không thể làm cho cửa hàng phát triển như thế này nếu chỉ bán hàng cho người địa phương. Còn về du khách... họ đến theo mùa. Khái niệm “tự thiết kế cho bộ mền của mình” thật sự thịnh hành trên mạng, và em cũng giới thiệu các mẫu thêu tay của em trên trang web nữa. Thế đấy, không có ai giàu nhưng mọi người đều sống được”.
“Ồ, thôi đi!”. Bridget cười với chàng, đồng thời tắt máy vi tính. Ở trong cửa hàng này, nàng cảm thấy yên tâm nhiều hơn là ở nhà. Và nói chuyện về công việc làm ăn có nghĩa là câu chuyện sẽ không bao giờ trở nên quá riêng tư. Nàng vui mừng nghe tiếng cửa sau đánh sầm nhiều lần cho biết là đám người đi ăn đã trở về và đang bắt đầu tràn vào trong quán.
Mara nhàn nhã đi sau cùng, cô ta nhìn Jonas một cách chăm chú, còn chàng thì chẳng mấy để ý đến cô. Cùng lúc ấy, Bridget cảm thấy bực bội. Gil vừa ăn xong một tô cơm không, mua từ một quán ăn Trung Hoa. Anh ta vẫy vẫy cái muỗng về phía Bridget vì miệng ngậm đầy không gọi chào được, trong lúc kiểm tra lại những sự trang trí được thực hiện khi anh ta vắng mặt, và gật đầu tán thành.
“Cô bận rộn quá nhỉ”, anh ta nói sau khi nuốt xong miếng cuối cùng và vứt tô, muỗng vào trong giỏ rác. “Đẹp đấy. Mara, cô đi mặc chiếc áo nịt len nổi hạt xinh xinh ấy vào. Chúng ta bắt tay vào nhanh đi thôi”.
“Chiếc áo nịt len nào cũng có hạt hết”, cô ta vừa cằn nhằn vừa ngúng nguẩy đi qua bên cạnh Jonas. “Tôi chán cái kiểu nổi hạt ấy quá”.
Bridget cau mày. Không biết là vì câu nói của Mara hay là vì cách cô ta muốn được Jonas để ý, nàng không thể nói.
“Suỵt, nào”. Gil nói với vẻ sốt ruột. Anh ta chăm chú nhìn Jonas. “Hừm. Chúng tôi có thể mời anh chụp hình không? Đây là bạn của Bridget, phải không?”.
Bị bối rối, Bridget phải mất vài giây mới trả lời được. “Anh ấy là láng giềng mới của tôi đấy”, cuối cùng nàng nói.
“Tôi là Jonas Concannon”, Jonas nói. “Còn anh là...?”.
Gil chìa bàn tay. “Gil Blanding, giám đốc nghệ thuật của tờ Sống Đẹp. Trước đây anh từng làm người mẫu chưa?”.
Đến lượt Jonas tỏ ra lúng túng. “Ồ, chưa”.
Gil chẳng hề tỏ chút quan tâm để xem Jonas hiện đang làm gì. Anh ta lấy một chiếc áo chui bằng len có sọc cỡ đàn ông trên kệ và áp vào người Jonas. “Chà, trông đẹp đấy. Gồ ghề nhưng trí thức. Harry, đến đây. Mặc chiếc áo này vào nhé, Jonas?”.
Mỉm cười với Bridget, Jonas tròng chiếc áo chui vào, và lùa bàn tay qua mái tóc rối để sửa cho ngay sau đó.
“Này, Harry, mình có thể cho anh ta đứng với Mara trong một màn hôn nhau...”
Phần còn lại trong ý tưởng lớn của Gil đã không được bàn trước với Bridget. Nàng rất nhiệt tình, thực sự nhiệt tình, nhưng không thể làm nhiều quá được. Mara đã từ hậu trường bước ra, chiếc áo chui có hạt đã thực sự làm cho cô ta có vẻ tròn trịa hơn. Nhưng dường như cũng hợp với kiểu cách của cô, vì Mara đang còn phụng phịu.
Vẻ mặt cô ta sáng hẳn lên khi nhìn thấy Jonas đang đứng đó với chiếc áo thun có sọc nổi, đóng vai người mẫu nam rất xứng.
Gil đưa một bàn tay cho Mara để kéo cô ta lại gần hơn - và cho cô đứng kế bên Jonas. “Anh thấy thế nào, Harry?”.
Harry có vẻ như chỉ nhìn đời qua cái kính nhòm. Ông ta nhìn vào trong đó một phút rồi trả lời. “Tôi thấy được đấy, Gil. Anh chàng này thậm chí chẳng cần hóa trang nữa. Bộ vó ngon lắm”.
Jonas hướng mặt về phía camera với một cái cười nở rộng khiến Bridget những muốn tống khứ chàng ta đi.
“Trắng tuyệt”. Gil lẩm bẩm. “Mara, nép người vào Jonas đi”.
Cô người mẫu phụng phịu vui mừng tuân lệnh. Bridget chỉ có thể hào hứng khi tự nhắc nhở mình rằng sự quảng cáo sẽ rất thành công và đem lại thêm nhiều thu nhập cho những người đan len của nàng.
Mara ép phía cồm cộm của chiếc áo mình vào bộ ngực gồ ghề của Jonas, và Harry lia lịa chụp hình họ.
“Chà, hai người này có vẻ hợp nhau đấy”, Bridget nghe ông ta nói nhỏ một mình.
Dù vậy, khi nhìn về Jonas, Bridget thấy chàng ta đang nhìn mình, chứ không phải nhìn cô người mẫu tóc vàng quấn quít bên cạnh. Mara có thể chỉ là một đối tượng vô tri vô giác mà thôi.
“Nào, diễn đi!”, Gil nói lớn. “Lùi lại hai bước để cho hai người đứng ngay dưới nhành tầm gửi. Mara, tôi muốn cô luồn mấy ngón tay vào trong tóc Jonas và đặt một cái hôn thật nồng nàn lên má anh ta. Nhưng đừng có chạm vào và làm hỏng mất son môi của cô. Chúng ta bị muộn rồi đấy”.
Bridget thầm cám ơn. Mara cau mặt. Với sự mãn nguyện trong lòng, Bridget để ý thấy Jonas có vẻ khó chịu khi cặp môi mềm mại, nhầy nhụa và đầy son của Mara áp sát vào mặt chàng.
Harry nhìn vào trong ống kính lắc đầu. “Chậc. Không có hồn. Jonas cố gắng đừng có cái vẻ như đang chịu trận, được không?”.
Jonas đứng thẳng người hơn, và vẻ mặt Mara có phần chanh chua.
Harry lại lắc đầu. “Mara, cô có thể làm khá hơn thế”.
“Em mỏi môi rồi”, cô ta rền rĩ, không còn bận tậm đến việc làm ngây ngất Jonas nữa.
Đúng như Bridget đã nghĩ. Nụ hôn dưới một nhành cây tầm gửi giả không thể nào giống như thật được. Nhưng nó có thể trông có vẻ thật khi bài báo được đăng lên. Khoanh tay trước ngực, nàng nhìn Gil đang hò hét bên lề, còn nhà tạo mốt thì thực hiện những chỉnh sửa cuối cùng cho hợp với chiếc áo thun của Mara. Rồi màn kịch khó chịu lại bắt đầu.
Sau cùng, Harry nói rằng ông đã có được một vài tấm hình không tệ lắm, và Jonas bước ra khỏi vòng ôm của Mara với vẻ nhẹ nhõm.
“Không thích thú lắm như mình tưởng”, chàng nhếch môi nói nhỏ với Bridget.
Đáng cho anh đấy, nàng muốn nói thế.
“Tôi cởi ra được chưa?”, anh hỏi Gil.
“Được chứ”, đạo diễn nói một cách dễ dãi. “Nhưng đừng đi đâu xa. Chúng tôi có thể cần đến anh ở phần hậu cảnh”.
Jonas trông có vẻ hơi thất vọng.
Những người giúp việc bắt đầu chất đông những món quà Giáng sinh bọc trong giấy màu sặc sỡ dưới sự chỉ huy của Gil. Bridget hiểu rằng Mara có nhiệm vụ giả vờ mở một hay hai gói quà, hoặc ít ra là kéo một sợi dây buộc trông như sắp mở, bởi vì bên trong các hộp này chẳng có gì cả.
Gil bỗng vỗ trán. “Ồ không được. Chúng ta quên mất cây Giáng sinh rồi!”.
Các phụ tá nhìn nhau. Bridget không nghĩ là có một ai trong họ biết sẽ làm gì.
“Chúng ta cần có một cây thông cân đối cao khoảng hai mét... Tôi nghĩ là tôi đã thấy một cây nơi bãi cỏ của làng”. Giọng Gil sôi nổi, ánh mắt anh ta long lanh. “Chẳng ai biết đâu nếu như chúng ta...”.
Bridget bước tới ngăn lại. “Cây thông ấy là của thành phố. Đoàn Nữ Hướng đạo sinh đã trồng cây ấy. Hơn nữa, chúng ta không thể hễ thích cây nào thì chặt cây ấy được”.
Viên đạo diễn đưa mắt khinh thị nhìn nàng. “Cô có giải pháp nào hay hơn không?”.
“Có”, Bridget nói nhanh. “Chúng ta sẽ làm cây thông của riêng mình. Tôi có thể lấy giấy xanh cắt hình một cây thông - tôi có một tấm giấy xanh lớn đấy - rồi gắn một ngôi sao màu vàng trên chóp. Trông giống như của trẻ con vậy. Táo bạo nhưng đáng yêu”.
Gil đắn đo một lát rồi cuối cùng, ông ta nói “Tôi thấy hay đấy”.
Bridget ít nhiều mong đợi anh ta sẽ búng ngón tay và hô “Làm đi!” với nàng. Nhưng anh ta không làm thế.
“Để tôi đi lấy giấy”. Nàng bước vào nơi làm việc của mình để lấy kéo và tìm thấy tấm giấy lớn mà nàng vẫn để dành lại không biết cho mục đích gì, sau đó trải nó ra trên bàn làm việc của mình và ướm thử các góc cạnh bằng những viên đá mềm mà Molly đã nhặt ngoài suối mùa hè vừa rồi... Bridget nhanh chóng phác họa xong hình thù một cây Giáng sinh đơn giản, rồi cắt, cố không suy nghĩ về những gì mình đang làm. Thực ra, nàng muốn cho nó giống với tác phẩm của một đứa trẻ.
Sáng tạo là cứ để cho sự việc diễn ra, nàng nghĩ. Nhát kéo cũng nhanh như nét vẽ của nàng, cho đến khi một mảng được cắt ra uốn cong lên và cản trở đường cắt của nàng. Bàn tay to lớn, khỏe mạnh của Jonas đè phẳng chỗ cong xuống và chàng ta để nguyên bàn tay ở đấy, tựa nhẹ trên tờ giấy. Bridget liếc mắt lên, nhìn thẳng vào đôi mắt chàng.
Đây chính là sự nồng ấm... đã làm xiêu đổ lòng nàng. Chỉ với một cái nhìn, chàng đã có thể đưa nàng trở về một thời khi mà nàng còn rất ngây thơ - một thời mà nàng chỉ muốn nằm trong vòng tay của chàng mãi mãi. Thật vô lí là sự nhớ về chuyện ấy đã không gây một tổn thương nào. Nỗi ghen tương của Bridget với Mara, sự khó chịu của nàng đối với công việc làm người mẫu và với sự xâm nhập khó chịu của tốp phóng viên vào trong cửa hàng của nàng, tất cả đều đã biến mất vào thời khắc này.
“Chờ tí đã”, Gil vừa nói vừa đi tới nơi chiếc bàn làm việc và phá vỡ khoảnh khắc ngây ngất. “Đây có thể là một bức ảnh đẹp. Mara và Jonas thực ra không có sự thân mật, nhưng đôi này thì có đấy. Harry, anh có thấy điều tôi nói không?”.
Viên thợ chụp hình bước tới và lấy Jonas cùng Bridget vào trong khung hình rồi quan sát thật kỹ. “Phải, tôi thấy rồi”.
“Tôi đang suy nghĩ... một đôi bạn trẻ, mùa Giáng sinh đầu tiên, cùng vui vẻ... Còn anh thấy gì?”.
“Cũng giống như vậy”, Harry nói. “Ai đó hãy cho cô ta mặc một chiếc áo nịt len đi. Chúng ta phải làm cho xong hôm nay để ngày mai còn qua bên trang trại Pomfret”.
Gil búng ngón tay cho nhà tạo mốt, người này chọn một chiếc áo len nhẹ phù hợp với đôi mắt của Bridget.
Nàng đưa hai tay lên để xỏ chiếc áo vào, vừa kịp bắt gặp cái nhìn tán thưởng của Jonas trên bầu ngực mình. Nhà tạo mốt chọn một chiếc áo chẽn đan móc màu kem cho Jonas.
Chưa đầy hai phút, Bridget đã được đánh phấn hồng, tô bóng đôi môi, bôi đen mi mắt và xốc nhẹ mái tóc.
“Nhìn cô kìa”, Gil nói. “Một cô gái Mỹ chính hiệu. Với vài đốm tàn nhang nhỏ xíu xinh xinh”.
Bridget mong là lời khen này làm cho Mara phát điên lên. Tất nhiên, nàng không có được cặp xương gò má đầy quyến rũ như của Mara, nhưng nàng có hai nốt tàn nhang tuyệt đẹp mà thậm chí chính nàng cũng không biết mình có nữa.
Gil làm như đang cầm chiếc kéo trong tay. “Cắt đi. Cắt đi. Cả hai làm trở lại những gì mình vừa làm. Harry có thể tới sát bên các bạn, không sao đâu”.
Đỏ mặt thực sự sau lớp hóa trang của mình, Bridget trở lại việc cắt hình cái cây bằng giấy. Máy ảnh của Harry nhảy nhè nhẹ và liên tiếp nhiều lần. Thỉnh thoảng ông ta yêu cầu một hoặc hai người trong họ ngước cằm lên, hoặc nhìn vào người kia, hoặc làm bất cứ điều gì ông thấy làm cho kiểu chụp đẹp hơn. Jonas chẳng nói một lời nào. Chàng có vẻ bối rối như bị bắt gặp trong khi đang làm một điều gì sai trái.
“Bây giờ đến ngôi sao”, Gil thúc giục. Một nhân viên nhấc cái cây lên khỏi chiếc bàn và gắn nó lên tường bằng băng keo. “Hai người có thể thay nhau gắn ngôi sao lên trên cây. Chúng tôi sẽ xem kiểu nào đẹp”.
Bridget cắt hình một ngôi sao trên tấm giấy màu vàng rồi đưa cho Jonas. “Anh trước đi”, nàng nói khẽ.
Jonas nắm tay nàng bước tới cái cây, không cần phải với nhiều để đưa ngôi sao lên trên chóp đỉnh.
“Được đấy”, Gil nói. “Mỉm cười với cô nàng đi”.
Jonas đã mỉm cười trước rồi. Bridget mỉm cười đáp lại, vừa lúc ấy thì tiếng nói của Mara đã phá vỡ giây phút thân mật của họ.
“Ồ, tệ quá”, cô người mẫu nói giọng châm chọc. “Cô ta trông chẳng lộng lẫy gì cả”.
Harry từ nơi ống kính nhìn lên. “Mara, chúng tôi không cần những lời bình phẩm của cô đâu”.
Dù rằng viên thợ chụp hình chỉ muốn được yên, nhưng Bridget cũng thấy biết ơn ông ta. Nhà tạo mốt khéo léo làm xao lãng cô người mẫu bằng cách vẫy vẫy một chiếc áo trên móc. Mara bị lừa, vội vã đi về khu trang phục.
“Các bạn là đôi bạn trẻ đang yêu”. Gil rủ rỉ. “Đây là mùa Giáng sinh đầu tiên của các bạn. Là lá la la”.
Jonas mỉm cười với nàng một cách nồng nàn hơn, như thể chàng ta quên mất mình đang cầm một ngôi sao bằng giấy. Kiểu ảnh tuy rằng giả tạo, nhưng có sự xúc động thật sự trong đôi mắt chàng. Bridget biết rằng chàng đang nhớ lại dịp lễ Giáng sinh đầu tiên của hai người - nàng biết chắc như thế. Gil không phải là không tinh ý, nhưng vị đạo diễn này không thể nào biết được ngày vui ấy của họ ngày xưa như thế nào.
Jonas đã tặng nàng một cái trâm cài kiểu cổ mà chàng đã danh dụm tiền để mua và một thứ còn ý nghĩa nhiều hơn thế nữa: nụ hôn đầu tiên của nàng, ước gì ký ức ấy cứ mãi mãi nhạt phai... Mặc dù đang có nhiều người xung quanh Bridget cũng cảm thấy dòng lệ dâng trào trên đôi mắt mình và thầm cám ơn là mình đã không khóc òa lên.
“Đẹp đấy. Đôi mắt cô thực sự long lanh đó, Bridget”, Harry nói.
Jonas để rơi ngôi sao xuống và đưa một bàn tay vuốt má Bridget. Nàng sắp khóc lên. Nàng quay nhìn đi nơi khác. Chàng cũng vậy khi ngôi sao tụt xuống nhưng chàng đã kịp chụp lấy trước khi nó rơi.
Đôi mắt chàng ánh lên long lanh và chàng vội che giấu tình cảm của mình bằng cách ngân nga vài nốt nhạc. “Nhặt ánh sao rơi... bài hát cũ ấy là gì nhỉ?”.
“Anh nên dành bài hát ấy cho một ngày mưa”, nàng nói khe khẽ.
“Vâng, anh biết”, chàng thì thầm đáp lại.
Gil lại lớn tiếng ra lệnh. Các nhân viên xúm lại xung quanh. “Được rồi, bây giờ đến lượt cô Bridget cầm cái ngôi sao đặt vào chỗ ấy”, Gil nói. “Tôi thấy thích ý tưởng này. Harry, anh có thích không?”.
Người thợ chụp hình chỉ càu nhàu đáp lại.
“Jonas...”. Gil nhìn vào chàng trông đợi, và chàng trao cái ngôi sao cho Bridget.
Nàng làm điệu bộ theo sự chỉ dẫn của đạo diễn. Đứng thế này. Thế kia. Nhìn vào Jonas. Nhìn vào cái cây. Bridget chưa bao giờ hình dung được là một mảnh giấy có thể nặng như thế nào khi mình phải áp nó vào tường suốt gần một tiếng đồng hồ. Cánh tay nàng nhức buốt nhưng những gì họ làm đang tạo cho nàng một cái cớ để được ở gần bên chàng.
Nàng nghe nắm cửa khua lách cách và nhớ ra là mình đã khóa cửa.
“Mẹ... ơi, mẹ!”.
Molly đang ở bên kia cánh cửa kính.
“Tôi để cái này xuống được không?”, Bridget hỏi.
Gil nhìn quanh. “Con của cô đấy à?”.
“Phải, nó là Molly”.
“Harry, anh đã xong cảnh này chưa?”.
“Xong rồi. Bridget, Jonas nghỉ đi”. Harry mang máy ảnh đến cho Gil xem qua các hình trong bộ nhớ khi Bridget đi ra cửa. Molly áp mũi mình vào trong tấm kính tạo một bộ mặt khôi hài và xòe rộng hai bàn tay ra. Bridget phải bật cười.
Nàng cho Molly vào nhà và vẫy tay chào mẹ mình, bà đang ngồi trên xe nơi khúc quẹo để đi thăm một bà bạn dưới phố. Bridget không biết là Jonsas sẽ xuất hiện hay không, nhưng nàng mừng là mình không phải giải thích điều đó với mẹ.
Molly đeo một túi quần áo trên cánh tay, kéo lê trên sàn nhà và nói. “Con đem chiếc áo dài nhung và một vài thứ khác tới”.
Bridget cầm cái túi lên. “Khá đấy. Để mẹ đưa cho nhà tạo mốt xem thế nào nhé”.
“Vâng”. Molly nhìn kỹ trên mặt mẹ nó. “Trông mẹ đẹp quá. Ai trang điểm cho mẹ thế?”.
“Một bà tử tế tên là Felicia. Con có muốn gặp bà ấy không?”.
“Muốn chứ! Con trang điểm có được không?”.
“Một chút thôi”, Bridget nói.
“Con muốn cho thật đẹp cơ”, Molly mơ mộng.
Bridget mỉm cười và cùng với con mình đi ra phía sau cửa hàng. “Mẹ không biết chắc là thế nào, nhưng có thể là bà Felicia sẽ biết”.
Molly nhìn thấy Jonas và nhướng mày lên nhìn mẹ như sắp hỏi vài câu châm chọc.
“Không được làm thế bây giờ”, nàng nói dịu dàng nhưng cương quyết. “Chỉ chào thôi”.
Jonas cười tươi khi thấy hai mẹ con nàng nắm tay nhau đi về phía chàng. “Chào cháu, Molly”.
Molly hích mũi lên với vẻ cao ngạo ngây ngô. “Xin chào”. Nó đi ngang qua trước Jonas và chẳng nghĩ đến gì khác ngoài việc làm cho ra vẻ duyên dáng.
Bridget nháy mắt với Jonas. Với thái độ của Molly, nàng chỉ có thể làm như thế thôi. Đứa con gái nhỏ nào mà chẳng muốn trở thành ngôi sao trong khi chụp hình cho tạp chí và làm cho mình thật xinh đẹp?
Khoảng một giờ sau, Molly đã thấy quen với tất cả những chuyện ở đây. Nó chụp hình trong một chiếc áo dài len bóng với phần trên bằng nhung và không một chút phàn nàn về sợi ruy băng buộc chặt trên mái tóc mình. Nhưng Molly phản đối việc xới tung mái tóc của nó lên, khiến Bridget phải nhắc cho nó nhớ rằng việc này chẳng khác gì so với việc sửa soạn cho Satin, con ngựa của nó, khi đi trình diễn.
Bà Dutton tình nguyện cho mượn một đứa cháu trai năm tuổi, mặc bộ đồ nhung để chụp hình với Molly dưới nhành cây tầm gửi. Dù môi của Molly chẳng chạm đến má của nó nhưng thằng bé này, một diễn viên tồi, vẫn nhắm mắt lại và nhăn mặt một cách cau có.
Rồi thì đến lượt Bridget và Jonas. Nhân viên hóa trang tô lại son môi cho Bridget trong khi Molly đứng nhìn, bà ta tạo nên một màu sáng bóng trên đôi môi hé mở của nàng.
Molly không phải là người duy nhất ngắm nhìn. Bridget biết rằng Jonas đang ở cạnh đó, chàng đang nói chuyện với Harry nhưng đôi mắt luôn nhìn nàng. Nàng có thể cảm nhận điều đó.
“Đứng yên đã nào”, bà Felicia nói. “Ồ, hộp phấn hồng của tôi đâu rồi...”. Bà lục tìm trong túi của mình nhưng vẫn không thấy, và bỗng nhìn vào Bridget. “À, mà xem nào. Cô chẳng cần đâu. Cặp má cô đã hồng lắm rồi. Quả thực là thế”. Bà dùng một tay để quạt cho mình. “Mấy cái đèn này nóng quá, mình đi lại đây, Molly. Hãy lấy một chai nước mát và lên toa xe ngồi. Trong toa có điều hòa không khí đấy”.
Không phải ánh đèn đã khiến Bridget nóng bức và làm cho đôi má nàng đỏ hồng mà chính là Jonas. Harry đã bảo chàng đứng dưới nhành cây tầm gửi đọc sách, và.... chờ đợi nàng. Trong chiếc áo thun màu kem và chiếc quần jean sờn cũ, chàng trông hết sức nam tính và hấp dẫn hơn bất cứ người đàn ông nào khác. Chàng đã gây ấn tượng mạnh cho nàng. Bridget mừng thầm là con gái mình đã ra ngoài một lát cùng với bà Felicia. Nếu Harry bảo nàng hãy hôn Jonas, nàng không biết là mình sẽ làm gì.
“Diễn đi chứ!”, Gil nói lớn.
“Làm... gì?”, Bridget lắp bắp. “Anh nói làm gì ạ?”.
“Hôn người đàn ông ấy. Làm sao cô có thể cưỡng lại cho nổi?”.
Nàng đã không cưỡng lại nổi. Nàng thậm chí cũng không nghĩ ra một lý do gì để từ chối. Thế nên nàng bước tới và hôn chàng thật cẩn thận, cố ý giữ gìn lớp son môi của mình.
Nín thở, phần nào ngỡ ngàng, Jonas đưa hai tay ôm lấy eo nàng và cũng hôn lại thật say đắm.
Harry liên tục bấm máy và lẩm bẩm khen: “Tốt lắm. Đẹp rồi. Thêm một lần nữa. Được. Quay qua bên trái một chút, Jonas. Tuyệt rồi. Phải như thế chứ”. Anh ta ngưng bấm máy.
Bridget có cảm giác người thợ chụp ảnh đang nhìn trong ống kính, nhưng nàng không nhìn anh ta... Đôi mắt nàng nhắm nghiền. Jonas đang hôn nàng thực sự.
“Kìa, hai người”, Harry chọc ghẹo. “Đã ngưng rồi mà”.
***
Hai ngày sau...
Theo Jonas thấy thì ngôi nhà cũ kỹ của ông Hanson không có hư hại gì nhiều, ngoại trừ cái cổng vòm bị nghiêng. Jonas lùi lại ngắm nhìn, hai tay chống vào bên hông quần jean, và liệt kê trong trí những thứ linh tinh cần điều chỉnh. Phải cho chống đỡ mái cổng bằng hai con đội gia dụng, tháo bỏ những cây chông hư mục, thay nền nhà, thay ván sàn, và những rào chắn... thêm một cái đu hai người.
Cái hôn cháy bỏng của chàng với Bridget là điều mà chàng muốn lặp lại, nhưng không phải là khi có đứa con gái nhỏ nên cạnh, hay một anh thợ chụp hình và một đám đông xung quanh. Bà cụ Harrison sẽ giận điên lên nếu Gil Blanding quyết định sử dụng mấy tấm ảnh sau cùng mà Harry vừa chụp để minh họa cho bài báo sắp đăng. Nhưng Jonas không chắc là thế. Sống Đẹp vốn là một tạp chí gia đình.
Bridget đã tỏ ra ngúng nguẩy lúc đầu, nhưng điều đó có thể hiểu được. Chàng đã đến nhà nàng khi không được mời và bước vào trong cửa hàng lúc nàng không mong đợi. Nhưng một khi đã được hâm nóng thì nàng đáp ứng, cả xác lẫn hồn, một cách khiến chàng nghĩ là nàng thích chàng.
Chàng không biết lúc nào sẽ lại có được cái may mắn ấy lần nữa, nhưng chàng có thể chờ đợi. Và cũng cần nói là có một giới hạn cho những việc chàng có thể làm, với Molly bên cạnh. Ít ra cũng nên cám ơn bà Margaret Harrison. Bà chăm nom cho đứa cháu ngoại của bà, như vậy có nghĩa là Bridget sẽ thảnh thơi hơn vô số phụ nữ một mình nuôi con.
Mặc dù luôn bận rộn, thiếu ngủ và mệt đừ, nhưng chàng vẫn nhiều lần đi chơi với một vài bác sĩ nữ nội trú. Nhưng không thường xuyên, và quan hệ của họ chỉ là thể xác, chứ không phải tình cảm. Chẳng một ai bận tâm đến một kiểu quan hệ thực sự và làm hao tốn thời giờ. Trường y, cuộc sống nội trú, và sự huấn luyện lâm sàng đã không chừa chỗ cho một sinh hoạt xã hội.
Nhưng chàng không ngớt suy nghĩ về Bridget. Từ lâu rồi, nàng đã chiếm lấy trái tim chàng - và điều đó đã không hề thay đổi. Chàng biết rõ điều đó giây phút chàng nhìn thấy nàng trong gian hàng dưới phố. Họ cần ở bên nhau. Việc mua một ngôi nhà ở ngay bên nhà nàng là một sự bày tỏ mà nàng không thể không biết hoặc là gạt bỏ. Nó nói lên rằng chàng đã trở lại và chàng sẽ không rời xa nàng nữa.
Kiên tâm và trì chí thì sẽ thắng được nàng, dù có thế nào đi nữa.
Khi đi dạo trong phần còn lại của trang trại để đánh giá tình trạng các gian nhà phụ, chàng đâm ra tự hỏi không biết mình đã nghĩ như thế nào. Một số cấu trúc cũ kỹ thì được lắp ghép cẩu thả với nhau, còn một số thì được xây dựng bền chắc bởi các tay thợ cả. Nhưng chẳng có cái gì có thể chống chịu lâu dài nổi với sự khắc nghiệt của những mùa đông ở Vermont.
Kho thóc cần lợp lại mái - nhìn lên phía trên chàng thấy nhiều lỗ trống. Những con cú nhất định là đã làm tổ ở đây, cho phép chúng bay ra bay vào săn mồi trong các vùng xung quanh. Những tiếng chim cú kêu thất thanh đã khiến cho chàng thức giấc đêm qua.
Chàng nôn nóng thỏa thuận việc giải quyết mà không chú tâm nhiều đến sự giải thích những gì cần phải chữa ngay và những gì có thể chờ đợi của viên giám sát xây dựng, một ông già chu đáo với một giọng mũi New England khó nghe.
Jonas ước tính sơ bộ chi phí sửa chữa rồi sau đó tự bực bội với mình là trước đó đã không hề suy nghĩ về chuyện này. Thà đốt hết đi rồi cho làm lại có lẽ còn đỡ tốn hơn, nhưng chàng sẽ không bao giờ làm thế. Trang trại này đã hiện diện ở đây rất lâu, và chàng muốn chắc chắn là nó sẽ còn tồn tại nhiều trăm năm nữa. Chàng đi theo một con đường bọc quanh một vùng cây cối um tùm. Anh chàng máy kéo có nhiệm vụ dọn dẹp khu hoang dã này đã không làm tới. Bà vợ của ông Hanson mới mất vài năm trước đây sau khi hai người con trai của ông chuyển tới California, nên ông không duy trì nổi trang trại rộng lớn này. Jonas đã mua lại nó - nhà, kho, đồng ruộng và các nhà phụ - với một giá cả phải chăng.
Như vậy cũng tốt. Chàng không cần phải ghi thêm một khoản thế chấp khổng lồ nào vào trong danh sách các món tiền nợ của trường y mà chàng đang thanh toán. Và chàng dự định mở một phòng mạch ở vùng phụ cận Randolph - điều đó không phải là tốn ít tiền. Làm một bác sĩ gia đình, nhất là ở vùng nông thôn, chàng sẽ chẳng bao giờ giàu được, nhưng Jonas không bận tâm lắm về chuyện này. Chàng có nhiều người khách mà chàng đã chữa trị ở bệnh viện New York, và chàng thấy thích cái ý tưởng hành nghề ở một khu vực đang bị thiếu thốn về các dịch vụ y tế. Trên khắp nước Mỹ, có nhiều bác sĩ cao tuổi ở những thành phố nhỏ đang về hưu khiến cho cộng đồng phải gặp khó khăn trong việc tìm người thay thế. Chàng nghĩ là mình đang có một cơ hội tốt như bất cứ ai khác để sinh sống.
Nhưng... hãy giải quyết tuần tự, bắt đầu bằng cái mái nhà trên đầu chàng đây. Khi đã làm xong những sửa chữa cần thiết thì ngôi nhà cổ này sẽ trở nên hoàn hảo để xây dựng một gia đình. Với người phụ nữ duy nhất mà chàng thương yêu.
Một lần nữa Jonas nhìn cái cổng trước xập xệ và thở dài. Trước khi dắt ai kia qua ngưỡng cửa nhà mình, chàng phải thay thế cái cổng này đã.
***
Cả buổi chiều hôm ấy chàng cứ loay hoay ở ngoài vườn nhà mình, xem xét cái kho và một đống củi đã bị vơi đi một cách thảm hại. Số củi này được dùng để chất lên cái giá cất củi phía trên cổng vòm mà lâu nay chẳng được nạp vào. May thay, một người nào đó đã đổ một đống củi vào trong nhà kho để chờ cho khô ráo qua mùa đông - có lẽ là anh chàng làm vườn. Củi này đã sẵn sàng để chẻ ra, vì chúng đã được cưa thành những đoạn dài sáu tấc.
Jonas nghĩ là mình có thể bắt đầu với những cây củi này. Chàng có thể vận động, nhưng đã không chẻ củi từ lâu. Chàng bước vào trong kho, tìm một cái rìu, và thấy nhiều cái treo trên cây đà thấp. Các lưỡi kim loại cùn ánh lên trong bóng tối, chàng dùng một ngón tay để thử trên mép rìu.
Ồ. Bén lắm. Rõ ràng là ông lão Hanson đã chăm chuốt kỹ bộ dụng cụ của mình, cho dù ông chỉ sử dụng rất ít. Chàng nhặt ngẫu nhiên một chiếc rìu, dựng nó bên ngoài, rồi trở vào kho khuân ra thật nhiều củi.
Chàng đặt thanh củi đứng trên một đầu, nhấc cái rìu và vung lên, chẻ phăng thanh củi thành hai mảnh bằng một nhát rìu ngọt ngào với một tiếng chát sắc gọn và vui tai. Hà, chàng nở rộng nụ cười với chính mình.
Được chẻ làm đôi, rồi làm tư, những cây gỗ bốc mùi thơm thanh khiết và nhẹ nhàng như bầu không khí của Vermont. Chàng chất những cây củi chẻ thành một đống sơ sài để rồi xếp lại sau đó, chàng hân hoan với việc lao động chân tay, và mình chàng nhễ nhại mồ hôi.
Jonas dừng tay để kéo áo ra khỏi chiếc quần jean và cởi nút áo ra. Tệ quá, chàng chẳng có một chiếc khăn tay nào nhưng chàng có thể cởi chiếc áo ra để lau mặt. Chàng sẽ thấy ấm người lên nếu tiếp tục làm việc.
Chàng cởi áo, lau mồ hôi trên mặt, rồi treo trên một cành cây gần đấy. Sau đó chàng quay trở lại với công việc một cách đầy hăng say. Chàng không hề nghĩ là có người nào đó đang đứng nhìn mình.
***
Bridget đặt chiếc ống nhòm xuống, nàng cảm thấy vô cùng tội lỗi. Nàng ở cách xa Jonas hàng trăm thước, nhưng dù là thế - nàng biết rằng chàng không nghĩ là nàng đang có ở đấy.
Lúc đầu nàng đã không biết đến âm thanh ấy, tưởng rằng đó là một người làm vườn mà chủ đất thuê để trông chừng nơi này, đang cần cù làm việc. Nhưng âm thanh chẻ củi đều đặn thu hút sự chú ý của nàng và làm át tiếng chim hót. Nhìn chung quanh và hướng ống nhòm vào hướng tiếng động, nàng nhìn thấy Jonas... và không thể nhìn đi nơi khác được nữa. Một cái cây đổ đã tạo ra một đường nhìn trống trải tới trang trại của chàng và nơi chàng đang chẻ củi.
Với bộ ngực trần, chàng ta trông thật đẹp trai với vô số những cơ bắp rắn rỏi và gân guốc. Hai cánh tay chàng căng đầy do sự vung múa chiếc rìu, và tất cả những gì mà nàng có thể nghĩ tới là tuyệt vời làm sao khi được ôm vào trong hai cánh tay ấy và được chàng hôn. Nàng đã cảm nhận được sức mạnh nơi cái thân hình có trang phục của chàng, thậm chí nàng đã đánh bạo vuốt ve thân hình ấy đôi ba lần, nhưng được nhìn thấy chàng như thế này mới thật là choáng ngợp.
Jonas buông chiếc rìu xuống và bước tới cành cây nơi chàng treo chiếc áo, sau đó lấy chiếc áo lau mặt mình. Chàng lấy hai bàn tay ép mái tóc ướt mồ hôi về phía sau, làm hiện rõ khuôn hình của gương mặt gồ ghề, và chàng chống hai bàn tay lên hông đứng thở.
Bridget run lên nhưng không phải vì lạnh. Thật ra, nhìn thấy chàng như thế này đây cũng đủ khiến nàng run rẩy.
Chàng bước trở lại nơi gốc cây, cầm cái rìu lên và tiếp tục làm việc. Chát. Thịch. Chát. Thịch. Chàng chất mớ củi chẻ thành một đống càng lúc càng cao bên cạnh gốc cây. Mỗi lần chàng vung chiếc rìu lên qua khỏi đầu và các cơ bắp của chàng siết chặt lại cho một nhát chẻ trước khi hai tay giáng xuống, tim nàng như bị hẫng đi một nhịp.
Không phải là nàng chưa từng nhìn thấy một người đàn ông chẻ củi nhưng Jonas quả thật là gợi cảm trong khi làm công việc này. Nàng có thể nhìn thấy là chàng đang mệt - cái bụng thẳng cứng, hằn lên những thớ thịt, sự lõm vào và nẩy ra ngang chỗ thắt lưng của chiếc quần jean khi chàng thở mạnh hơn. Bầu không khí mát lạnh mùa xuân làm se chặt thêm bộ ngực đàn ông phẳng lì của chàng - và cuối cùng, dường như cái lạnh đã thắng.
Jonas lựa lấy một thanh củi cuối cùng - thanh to nhất - và chẻ nó với một nhát mạnh khiến cho hai mảnh văng trên đất. Chàng ngồi xuống trên gốc cây, thở một hơi dài mà nàng tưởng như có thể nghe được, rồi đứng lên và đi lấy chiếc áo của mình.
Bridget nhìn chàng cài nút áo, cảm thấy một sự trìu mến ở ngay nơi mình qua cái động tác giản đơn ấy. Nàng dễ dàng hình dung ra chàng cũng đang cài nút giống y như thế... sau một buổi chiều ân ái cùng nhau. Ôi chao, nàng rất khao khát điều này. Nàng bỏ rơi cái ống nhòm xuống nhưng sợi dây đeo vẫn còn vướng lại. Cái giật đột ngột ở đằng sau gáy kéo nàng tr
Tác giả :
Janet Dailey