Chuyện Ở Nông Trại (Animal Farm)
Chương 8
Mấy ngày sau, khi ấn tượng kinh hoàng từ buổi hành quyết đã lắng xuông, có vài con vật nhớ ra, hay nghĩ là mình nhớ ra, luật đã định trong Điều Răn Thứ Sáu: “Không con vật nào được giết con vật khác”. Và dù không ai dám nhắc lại quanh đàn lợn hay chó, cảm giác chung vẫn là cảnh giết chóc mới đây không khớp với luật này. Cỏ Ba Lá nhờ Benjamin đọc Điều Răn Thứ Sáu cho mình nghe, nhưng Benjamin từ chối như thường lệ, nói không muốn dây vào mấy vụ này, nó liền quay sang Muriel. Muriel đọc thành tiếng cho nó. Điều Răn Thứ Sáu là : “Không con vật nào được giết con vật khác vô cớ.” Không hiểu vì sao mà hai chữ cuối lọt khỏi trí nhớ các con vật. Nhưng giờ thì chúng thấy không phải Điều Răn bị vi phạm, vì rõ ràng là có lý do chính đáng khi xử tử những kẻ phản bội về hùa với Tuyết Cầu.
Suốt năm ấy, lũ súc vật làm lụng cực nhọc còn hơn năm trước nữa. Xây lại cối xay gió, cho tường đắp dày gấp đôi trước, mà vẫn phải hoàn thành đúng hạn đã định, cộng thêm việc nông trại thường ngày, thật là một núi việc khổng lồ. Có những lúc lũ súc vật cảm giác giờ làm viẹc đã dài hơn, mà ăn uống cũng chẳng khá hơn thời còn Jones. Mỗi sáng Chủ nhật, móng cầm một dải giấy dài, Mồm Loa lại đọc cho chúng hàng loạt số liệu chứng tỏ sản lượng tất cả mọi hạng thực phẩm đã tăng gấp hai trăm phần trăm, ba trăm phần trăm, thậm chí có loại còn tới năm trăm phần trăm. Lũ súc vật không thấy cớ gì phải nghi ngờ, nhất là vì không còn ai thật nhớ rõ tình trạng trước Khởi nghĩa ra sao. Tuy thế, vẫn có những ngày chúng cảm tháy giá số liệu bớt mà tăng miếng bỏ bụng thì hay hơn.
Bây giờ mọi chỉ thị đều truyền lại qua Mồm Loa hay một con lợn khác. Bản thân Nã Phá Luân không mấy khi ra đến ngoài, có những đợt cả nửa tháng không thấy mặt. Mỗi lần xuất hiện, đi kèm nó không chỉ có đoàn chó hộ vệ mà còn một con gà trống lông đen đi phía trước với phận sự lính kèn, hễ Nã Phá Luân sắp phát biểu thì lại dõng dạc “ò ó o o” báo hiệu. Ngay cả trong nhà chủ, nghe nói thế, Nã Phá Luân cũng sống tách riêng các lợn khác. Nó ăn một mình, có đôi chó đứng chực bên cạnh, và lúc nào cũng dùng bộ đồ sứ Crowm Derby trước vẫn bày trong tủ kính phòng khách. Rồi có tuyên bố từ nay hằng năm sẽ bắn súng mừng sinh nhật Nã Phá Luân, như vẫn bắn trong hai ngày kỷ niệm kia.
Bây giờ không còn ai gọi Nã Phá Luân đơn thuần là “Nã Phá Luân”. Lúc nào nó cũng được long trọng xưng tụng là “Lãnh tụ chúng ta, Đồng chí Nã Phá Luân”, đàn lợn còn thích đặt cho nó những danh hiệu như Cha Già Muôn Thú, Ác Thần Diệt Người, Vị Đỡ Đầu Cừu, Bạn Thân Vịt Nhỏ, vân vân và vân vân. Mỗi lần phát biểu, Mồm Loa nước mắt ròng ròng má, ca ngợi trí tuệ thiên tài Nã Phá Luân, trái tim nhân ái, tình thương bao la dành cho muôn loài súc vật khắp nơi nơi, kể cả - và nhất là – những con vật không may vẫn còn sống cảnh tăm tối và nô lệ trong các trại khác. Nay đã thành lệ, mọi thành tự đạt được hay mọi may mắn gặp phải đều được cho là nhờ Nã Phá Luân mà có. Thường nghe một gà mái kể với gà bạn, “Dưới sự lãnh đạo của Lãnh tụ chúng ta, Đồng chí Nã Phá Luân, tôi đã đẻ sáu ngày được năm trứng”, hay hai chị bò ra hồ uống nước thốt lên, “Có Đồng chí Nã Phá Luân chèo lái, nước này mới ngon ghê cơ!” Tình cảm chung của trại được thể hiện trong bài thơ nhan đề Đồng chí Nã Phá Luân do Út Em soạn, toàn văn như sau:
Đồng chí Nã Phá Luân ôi!
Người là hạnh phúc trên đời chẳng sai!
Người là bạn kẻ mồ côi
Người ban cám bã ở nơi máng thùng
Hồn tôi thiêu đốt bừng bừng
Khi tôi nhìn sững vào trong mắt người
Uy nghiêm mà vẫn thảnh thơi
Như vầng dương đó trên trời bao la!
Người là đấng vẫ ban quà
Mà súc sinh cứ mãi là mong thôi:
Ngày ăn hai bữa rốn lồi
Đi nằm thì có rơm tươi rúc vào!
Trẻ già lớn bé thế nào
Vào chuồng yên ấm chiêm bao giấc nồng
Nã Phá Luân chẳng mơ mòng
Đồng chí thao thức giằng trông muôn loài
Con tôi lợn sữa thơ ngây
Còn bú chán mới đến ngày bằng ai
Dẫu còn nhở tựa cái chai
Hay chày lăn bột quẳng nơi xó nhà
Với Người, con học thật thà
Một lòng tin tưởng bao giờ cho nguôi!
Tiếng đầu con éc trên môi:
“Nã Phá Luân!” Chính tên người chứ ai!
Nã Phá Luân khen ngợi bài thơ, cho viết lên tường nhà kho lớn, đối diện bức tường viết Bảy Điều Răn. Bên trên bài thơ là chân dung Nã Phá Luân nhìn nghiêng, do Mồm Loa thực hiện bằng sơn trắng.
Trong lúc đó, qua Whymper mối lái, Nã Phá Luân đang thương thảo hết sức lằng nhằng với cả Frederick lẫn Pilkington. Đống gỗ sồi vẫn chưa muốn cho ai. Giữa hai người thì Frederick sốt sắng muốn mua hơn, nhưng không chịu ra giá thỏa đáng. Cùng lúc lại ầm lên lời đồn Frederick cùng người làm đang âm mưu tấn công Trại Súc Vật, đập đỗ cối xay gió, bởi hắn ta ganh ghét cái cối xay đã lâu rồi. Tuyết Cầu nghe nói vẫn lẫn trong trại Đồng Chôm. Giữa mùa hè, lũ súc vật hoảng kinh nghe tin ba gà mái vừa bước ra thú nhận rằng theo xúi giục của Tuyết Cầu, chúng đã tham dự một kế hoạch ám sát Nã Phá Luân. Cả ba bị xử tử tức khắc, và những biện pháp phòng ngừa mới được áp dụng ngay để bảo vệ Nã Phá Luân an toàn. Giường của nó được cắt bốn con chó gác đêm, mỗi con một góc, lại một con lợn tên là Mắt Đỏ được cử nếm trước mọi món ăn của nó, phòng khi thức ăn bị bỏ độc.
Cũng vào độ đó, thông tin cho biết Nã Phá Luân đã đồng ý bán khối gỗ cho ông Pilkington, lại sắp bắt tay thỏa thuận thường kỳ trao đổi một số sản phẩm giữa Trại Súc Vật và Rừng Cáo. Quan hệ giữa Nã Phá Luân và Pilkington, dù chỉ qua trung gian Whymper, giờ đã gần như thân thiện. Lũ súc vật gờm tránh Pilkington vì là giống người, nhưng nói chung vẫn ưa ông ta hơn Frederick, gã này thì chúng vừa sợ vừa ghét. Mùa hè trôi đi, cối xay gió sắp sửa hoàn thành, tin đồ về vụ tấn công phản phúc đáng sợ lan ra càng thêm mạnh. Theo đồn đãi, Frederick định dắt theo cả hai chục người, kẻ nào cũng có súng; lại nữa, hắn đã kịp đấm móm đám quan tòa và cảnh sát vùng, để sau này khi hắn nắm được văn tự Trại Súc Vật rồi thì bọn họ ngoảnh mặt làm ngơ cho. Đã thế, từ Đồng Chôm còn rò rỉ sang đủ thứ chuyện khủng khiếp về việc Frederick ngược đãi gia súc trại mình. Hắn ta đã quật roi đến một con ngựa già, hắn bỏ đói đàn bò sữa, hắn giết một con chó bằng cách ném vào lò lửa, và tối tối hắn mua vui bằng cách buộc mảnh dao cạo gãy vào cựa gà rồi thả cho chúng chọi nhau. Mỗi con vật đều uất trào máu khi nghe cảnh hành hạ đồng chí mình, đôi lúc chúng còn sôi lên đòi ban lệnh cho kéo cả đàn sang tấn công Trại Đồng Chôm, đuổi cổ hết bọn người, giải phóng toàn thể gia súc. Nhưng Mồm Loa khuyên nhủ chúng hết sức tránh manh động, đặt lòng tin vào chiến lược của Đồng chí Nã Phá Luân.
Tuy thế, lòng căm hận Frederick vẫn ngùn ngụt. Một sáng Chủ nhật, Nã Phá Luân xuất hiện trong nhà kho, giải thích rằng nó chưa bao giờ tính bán gỗ cho Frederick cả; nó nói thật mất phẩm giá nếu đi giao dịch với hạng lưu manh cỡ ấy. Đàn bồ câu vẫn được phái đi loan tuyền tin tức về Khời nghĩabij cấm không được đặt chân xuống Rừng Cáo, lại được chỉ thị bỏ khẩu hiệ cũ “Đả đảo loài Người” và chuyển sang “Đả đảo Frederick”. Cuối hè, thêm một mưu mô nữa của Tuyết Cầubij vạch trần. Lúa mì gặt về toàn cỏ dại, bấy giừo mới phát hiện ra Tuyết Cầu trong một chuyến đột nhập đêm đã trộn hạt cỏ vào hạt giống. Một ngỗng đực đồng lõa trong mưu đồ ấy đã thú tội với Mồm Loa, sau đó lập tức tự vẫn bằng cách nuốt cả độc dược. Lũ súc vật lúc này còn được biết thêm rằng chưa bao giờ - trái với nhiều kẻ vẫn tin – Tuyết Cầu được nhận Huân chương Thú Hùng hạng nhất cả. Đấy chỉ là chuyện hão, do chính Tuyết Cầu vung tin ít lâu sau Trận Chuồng Bò. Không được trao thưởng thì chớ, hắn còn bị quở trách vì hành vi hèn nhát trong trận đánh. Lần này nữa, vài con vật nghe tin này thì sửng sốt trông thấy, nhưng Mồm Loa chẳng mấy đã thuyết phục được chúng rằng đấy là do trí nhớ của chúng bị nhầm lẫn.
Đến mùa thu, sau những nổ lực phi thường kiệt lực – vì vụ gặt cũng phải tiến hành gần như cùng lúc – cái cối xay đã hoàn thành. Máy móc vẫn còn chưa lắp được, Whymper cũng đang điều đình đặt mua, nhưng phần kiến trúc chính đã xong rồi. Vật lộn với muôn vàn khó khăn, vượt qua kinh nghiệm non kém, dụng cụ thô sơ, đủ chuyện không may rồi còn bị Tuyết Cầu phản trắc, công việc vẫn hoàn thành chính xác từng ngày! Mệt lử nhưng hãnh diện, các con vật đi vòng quanh đại kiệt tác, trong mắt chúng nay còn đẹp gấp ngàn vạn lần xây trước. Hơn nữa lần này tường dày gấp đôi trước kia. Phi thuốc nổ thì đó có gì đánh sập cho được! Và khi chúng nghĩ về phần công sức đã bỏ ra, về những trở ngại đã khắc phục, vể cuộc đời sẽ lột xác hoàn toàn khi mai đây cánh quạt quay, máy phát chạy – khi chúng nghĩ về tất cả những thứ đó, bao mệt mỏi bỗng như biến đâu mất, chúng nhảy múa quanh cối xay và reo hò những tiếng vui mừng. Đích thân Nã Phá Luân, có bầy chó và gà trống xung quanh, cũng xuống thị sát công trình đã hoàn thành; nó trực tiếp chúc mừng lũ súc vật đã hoàn thành kế hoạch thắng lợi và tuyên bố đặt tên đây là cối xay Nã Phá Luân.
Hay ngày sau, lũ súc vật được triệu đến buổi họp đột xuất trong nhà kho. Tất cả ngớ người nghe Nã Phá Luân thông báo bán đống gỗ cho Frederick. Ngày mai Frederick sẽ cho xe thồ tới chở hết đi. Suốt thời kỳ vờ làm thân với Pilkington, Nã Phá Luân đã bí mật gật đầu với Frederick.
Mọi qua lại với trại Rừng Cáo đều cẳt đứt, thư từ lăng mạ được gửi đến Pilkington. Bồ câu được dặn tránh xa Trại Đồng Chôm, cũng như đổi khẩu hiệu từ “Đả đảo Frederick” chuyển sang “Đả đảo Pilkington”. Cùng lúc, Nã Phá Luân vỗ về các con vật rằng lời đồn Trại Súc Vật sắp bị tấn công hoàn toàn là nhảm nhí hết, những tin đồn Frederick tàn bạo với gia súc cũng chẳng qua là thổi phồng quá quắt. Tin đồn kiểu ấy ắt là do miệng lưỡi Tuyết Cầu cùng bè lũ tay chân. Bây giờ, rốt cuộc, xem ra chẳng phải Tuyết Cầu chẳng phải đang trú ở Trại Đồng Chôm nữa, thực ra là cả đời hắn chưa từng đặt chân đến đó: hắn ta đang sống, nghe nói như vậy, trong cảnh phong lưu rất mực ở Rừng Cáo, thực tế là hắn đã được Pilkington chu cấp nhiều năm nay rồi.
Đàn lợn vui sướng như điên trước mưu chước khôn khéo của Nã Phá Luân. Làm ra vẻ hữu hảo với Pilkington, nó đã ép Frederick phải nâng giá thêm mười hai bảng. Nhưng trí tuệ siêu việt của Nã Phá Luân, Mồm Loa bảo, là ở chỗ nó không tin bất kỳ ai, ngay cả Frederick, Frederick đã định thanh toabằng một thứ gọi là séc, hình như là một tờ giấy ghi lời hứa sẽ trả tiền. Nhưng Nã Phá Luân dễ gì mắc lừa. Nó đã đòi phải trả bằng toàn tiền mặt năm bảng, tiền chưa trao thì gỗ chưa giao. Frederick đã trả xong, và só tiền đó vừa đủ mua máy móc cho cối xay gió.
Trong lúc đó thì gỗ được vùn vụt chở đi. Khi gỗ đã đi hết, trong nhà kho lại mở cuộc họp đặc biệt cho súc vật cả trại chiểm ngưỡng những tờ tiền của Frederick. Mỉm cười phúc đức, cổ đeo cả hai huân chương, Nã Phá Luân ngả mình trong ổ rơm trên bục cao, tiền đặt bên cạnh, xếp một chồng gọn gang trên đĩa sứ lấy trong bếp nhà chủ cũ. Lũ súc vật nối đuôi nhau từ tốn bước qua, con nào con nấy nhìn cho đã mắt. Đấu Sĩ còn ghé mũi ngửi xấp tiền, mấy tờ trắng mỏng mảh khẽ sột soạt trong luồng thở.
Ba ngày sau đã thấy một cảnh cuống quýt tanh bành hết cả. Mặt trắng bệch, Whymper lao xe đạp ầm ầm trên đường mòn, vứt xe xuống sân rồi chạy bổ vào nhà chủ. Một phút sau có tiếng gầm uất nghẹn từ phòng Nã Phá Luân. Tin tức lan nhanh như đám cháy rừng khắp trang trại. Tiền đó toàn là giả!
Nã Phá Luân lập tức triệu tập cả trại, bằng một giọng khủng khiếp tuyên bố án tử cho Frederick. Khi bắt được, nó nói, tên Frederick sẽ bị luộc sống. Cùng lúc ấy, nó cảnh báo cả trại, sau hành vi đê hạ này sẽ phải chuẩn bị đối phó với tình huống xấu nhất. Vụ tấn công dự tính từ lâu của Frederick cùng đám người làm có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Lính gác được cắt đặt mọi ngả vào trại. Thêm vào đó, bốn con bồ câu được phái mang thông điệp dàn hòa tới Rừng Cáo, hy vọng thiết lập lại quan hệ hữu hảo với Pilkington.
Vụ tấn công nổ ra ngay sáng hôm sau. Lũ súc vật còn đang ăn sáng thì đội gác chạy ùa vào, báo tin Frederick và đồng bọn đã vượt qua cái cổng gỗ. Súc vật cả trại can đảm xông ra nghênh chiến nhưng lần này chiến thắng không dễ dàng như Trận Chuồng Bò. Quân địch có mười lăm người, súng cũng có đến nửa tá, và còn cách năm mươi thước chúng đã nổ súng. Trước những tiếng nổ kinh người cùng những viên đạn xé thịt, lũ súc vật không đủ sức dàn mặt, Nã Phá Luân cùng Đấu Sĩ có cố gắng hô hào bao nhiêu chúng cũng nhanh chóng bị đẩy lùi. Một vài con đã bị thương. Chúng trốn vào các chuồng, thận trọng ngó ra từ các khe kẽ. Toàn bộ bãi cỏ chăn, kể cả gò cối xay, đã lọt vào tay địch. Thời điểm ấy ngay cả Nã Phá Luân trông cũng hoang mang. Nó bước tới bước lui không nói gì, cái duôi cứng đơ giật giật, ánh mắt chốc chốc lại liếc về phía Rừng Cáo mong ngóng. Nếu Pilkington và người làm chịu hỗ trợ, vẫn còn có cơ may chuyển bại thành thắng. Nhưng đúng lúc ấy bốn con bồ câu phái đi từ hôm qua đã trở lại, một con mang theo mẫu giấy của Pilkington. Trên đó chỉ vạch mấy chữ chì: “Đáng đời mày.”
Lúc đó, Frederick cùng chân tay đã dừng lại quanh cối xay gió. Lũ súc vật dõi nhìn, tiếng lầm rầm lo âu nổi lên. Hai trong số đám người đã rút ra xà beng và búa tạ. Bọn họ định phá đổ cối xay.
“Đừng hòng nhé!” Nã Phá Luân kêu lên, “Chúng ta đã xây tường cực dày chắc. Chắp chúng đập cả tuần cũng không đổ. Vững lòng lên, các đồng chí!”
Nhưng Benjamin chăm chú theo dõi hành động của mấy người kia. Hai kẻ cầm xà beng búa tạ đang khoét lỗ gần chân cối xay. Chầm chậm, vẻ gần như thích thú, Benjamin gật gật cái mõm.
“Biết ngay mà,” nó nói. “Các anh không thấy chúng đang làm gì à? Một chút nữa chúng sẽ nhồi thuốc nổ vào trong lỗ.”
Lũ súc vật kinh hãi đợi. Giờ thì chẳng con nào dám ló ra khỏi chỗ núp trong các chuồng nữa. Sau vài phút, chúng thấy mấy người kia chạy tản ra. Rồi một tiếng nổ inh tai nhức óc. Lũ bồ câu liệng bắn lên không, toàn bộ súc vạt trừ Nã Phá Luân nằm bẹp ôm đầu úp mặt xuống sàn. Khi chúng đứng dậy, một đám khói lớn đen sì đã trùm lên trên chỗ cối xay gió. Dần dà gió xua khói bạt đi. Cối xay gió không còn nữa!
Chứng kiến cảnh ấy, lòng can trường trở lại với các con vật. Nỗi sợ hãi tuyệt vọng phút trước nay đã chìm trong cơn phẫn nộ điên cuồng trước hành vi tồi tàn đáng nguyền rủa ấy. Một tiếng thét kinh thiên đòi rửa hận vang lên, chẳng đợi lệnh chúng đã ào ào xông tới một loạt thẳng về phía kẻ thù. Lần này chẳng ai thềm sợ những viên đạn độc ác vãi vèo vèo như mưa đá nữa. Một trận chiến diễn ra man dại và khốc liệt. Đám người khong ngơi tay bắn, và khi lũ súc vật tiến lại gần, họ giơ gậy quật và dùng ủng đạp. Một bò cái, ba cừu cùng hai ngỗng tử nạn, gần như tất cả còn lại đều bị thương. Ngay cả Nã Phá Luân đứng hậu tuyến chỉ huy các hướng tấn công cũng bị đạn bắn sứt chót đuôi. Nhưng đám người cũng không lành lặn vô sự. Ba kẻ vỡ đầu dưới vó Đấu Sĩ, một gã khác trúng sừng bò lòi ruột, một tên suýt bị Jessie và Hoa Chuông xé toạc quần. Và khi chín con chó vệ sĩ riêng của Nã Phá Luân, trước đó đã được lện chạy vòng sau bờ giậu, thình lình hiện ra đánh kẹp sườn đoàn người bắt đầu hoảng loạn. Bọn họ nhận ra nguy cơ bị bao vây tứ phía. Frederick hét bảo đám người chạy ngay khi vẫn còn có lối rút, chỉ một nhoáng sau toán quân thù hèn nhát đã ba chân bốn cẳng tháo thân. Lũ súc vật đuổi theo bọn họ đến tận cuối ruộng, và vẫn còn kịp giáng vài cú đá khi đám người lách qua rào gai.
Chúng đã thắng, nhưng thắng tả tưoi và thương tích. Chậm chạp, cà nhắc, tất cả quay lại trại. Nhìn thấy các đồng chí tử trận nằm ngổn ngang trên cỏ, nhiều con vật ứa nước mắt. Rồi chúng đứng hồi lâu trong đau xót và trầm mặc ở nơi trước đây từng là cối xay gió. Thôi, nó mất, gần như mọi dấu vết còn lại của công lao khó nhọc bấy nay đã mất rồi! Ngay móng cối cũng bị phá hủy một phần. Mà muốn xây lại, lần này chúng cũng không lợi dụng đá rơi được nữa. Giờ thì đến đá cũng không còn. Vụ nổ đã ném đá văng xa hàng trăm thước. Cứ như thể cái cối xay chưa từng có ở trên đời.
Khi chúng quay lại trại thì Mồm Loa, suốt trận đánh vắng mặt không rõ nguyên do, đang chạy loi choi lại phía chúng, đuôi phất phất, tươi roi rói rất thỏa mãn. Và lũ súc vật nghe, từ phía khu chuồng trại, tiếng súng nổ trang nghiêm.
“Nổ súng làm cái gì thế?” Đấu Sĩ hỏi.
“Ăn mừng chiến thắng của chúng ta!” Mồm Loa léo xéo nói.
“Chiến thắng nào?” Đấu Sĩ hỏi. Đầu gối nó còn đang chảy máu, một móng sắt sút mất khiến móng toạc làm đôi, cẳng chân sau găm cả tá đạn.
“Sao lại chiến thắng nào, đồng chí? Chẳng phải chúng ta vừa tống cổ quân thù khỏi đất này – mảnh đất thiêng của Trại Súc Vật ư?”
“Nhưng chúng đã phá mất cối xay gió. Mà chúng ta đã mất công vào đó suốt hai năm!”
“Thì có làm sao? Chúng ta sẽ xây cái khác. Chúng ta sẽ xây cả sáu cái nếu chúng ta muốn. Các đồng chí, các đồng chí không hiểu hết chiến công vĩ đại mà chúng ta vừa giành được. Quân địch vừa mới chiếm đống chính mảnh đất ta đang đứng lúc này đây. Và bây giờ - nhờ sự lãnh đạo của Đồng chí Nã Phá Luân – chúng ta đã giành lại từng tấc một!”
“Vậy là ta chỉ giành lại những gì ta đã có.” Đấu Sĩ nói.
“Đó chính là chiến thắng của ta đấy.” Mồm Loa đáp.
Tất cả khập khểnh đi vào sân. Đạn cắm trong thịt làm chân Đấu Sĩ nhức nhối. Nó thấy trước mắt là công việc nặng nhọc, xây lại cối xay gió từ móng lên, và trong đầu nó đã chuẩn bị tinh thần lao vào việc. Nhưng lần đầu tiên, nó sực nhận ra mình đã mười một tuổi, những cơ bắp vạm vỡ có lẽ đã không còn được dẻo dai như trước.
Nhưng khi nhìn lá cờ xanh vẫy gió, nghe tiếng súng nổ vang lần nữa – bảy lần tất cả - và nghe bài phát biểu của Nã Phá Luân, chúc mừng tinh thần dũng cảm của toàn trại, lũ súc vật cũng nhận thấy có lẽ đúng là chúng vừa thagnws trận giòn giã. Những con vật ngã xuống trong trận đánh được tổ chức tang lễ trọng thể. Đấu Sĩ và Cỏ Ba Lá kéo xe thùng bốn bánh dùng làm xe tang, Nã Phá Luân đích thân đi đầu đám viếng. Hai ngày liền được dành ra ăn mừng chiến thắng. Nào là ca hát, diễn thuyết, súng bắn mấy lần, con vật nào cũng được trao quà đặc biệt là một trái táo, gia cầm được nửa lạng ngũ cốc, còn chó được ba cái bánh quy. Theo tuyên bố, trận đánh này sẽ đặt tên là Trận Cối Xay, còn Nã Phá Luân đã phê chuẩn thêm một danh hiệu mới, Huân chương Cờ Xanh, để trao cho chính mình. Trong không khí náo nức chung, nỗi thất vọng từ vụ mấy tờ bạc bị quên khuấy đi.
Sau chuyện đó vài ngày, đàn lợn bắt được một két uýt ky dưới hầm nhà chủ. Không ai để ý thấy nó hôm đầu tiên vào chiếm nhà. Đêm đó, từ phía nhà chủ vọng ra tiếng hát hò ầm ĩ, trong đó lẫn cả vài câu nhạc Súc vật Anh quốc khiến ai nấy đều ngạc nhiên. Độ chín rưỡi tối, còn thấy Nã Phá Luân đội cái mũ quả dưa cũ của ông Jones từ cửa sau chui ra, chạy đùng đùng quanh sân rồi lại chui vào nhà. Nhưng sáng ra, cảnh im lặng nặng nề trùm lên ngôi nhà chủ. Dường như không con lợn nào còn nhúc nhắc. Gần chín giờ mới thấy Mồm Loa, bước chân chậm chạp thiểu não, mắt lờ đờ, đuôi oặt sau lưng, trông dáng vẻ rõ là đang ốm nặng. Nó gọi mọi con vật lại, thông báo một tin khủng khiếp. Đồng chí Nã Phá Luân đang hấp hối!
Tiếng than khóc vang lên. Rơm trải ngoài cửa nhà chủ, mỗi con vật đều đi lại rón rén. Mắt nhòa lệ, chúng hỏi nhau phải làm gì đây nếu Lãnh tụ của chúng bị trời cướp mất. Lại có tin đồn, rốt cuộc Tuyết Cầu đã tìm ra cách đánh thuốc độc thức ăn của Nã Phá Luân. Đến mười một giờ, Mồm Loa lại ra ngoài truyền tin. Hành động cuối cùng để lại cho đời của Đồng chí Nã Phá Luân là một sắc lệnh nghiêm ngặt: ai uống bia rượu sẽ bị xử tử hình.
Tuy thế, đến chiều tối, Nã Phá Luân lại có vẻ khá hơn đôi chút, và tới sáng hôm sau Mồm Loa đã tự tin thông báo rằng Nã Phá Luân đang dần bình phục. Tối hôm ấy Nã Phá Luân đã trở lại làm việc, ngày hôm sau tất cả được biết nó đã sai Whymper đi Willingdon mua về mấy cuốn sách hướng dẫn chưng cất và ủ men. Một tuần sau, Nã Phá Luân ra lệnh rằng bãi rào nhỏ sau vườn quả, trước định dành riêng làm bãi gặm cỏ cho những con vật quá tuổi làm việc, nay sẽ được cuốc lên. Lý do là cỏ đã trụi hết nên cần gieo lại: nhưng chẳng mấy chốc xung quanh đã biết rằng Nã Phá Luân định gieo đại mạch.
Vào quãng thời gian đó chợt xảy ra sự lạ không mấy ai hiểu nổi. Một đêm, chừng mười hai giờ, có tiếng đổ vỡ ầm ầm trong sân, tất cả súc vật đổ xô khỏi chuồng. Đêm ấy trăng sáng. Dưới chân bức tường cuối nhà kho lớn, nơi viết Bảy Điều Răn, một cái thang nằm gãy đôi. Mồm Loa đang nằm sóng soài bất tỉnh hồi lâu, ngay gần đó có cái đèn bão, chổi sơn và bình sơn trắng úp ngược. Lũ chó lập tức đến vây quanh Mồm Loa, và ngay khi nó đi được là chúng hộ tống nó về nhà chủ. Các con vật không con nào hiểu nổi thế là thế nào, trừ Benjamin, nó không ngớt gục gặc cái mõm ra vẻ biết tỏng, nhưng chẳng buồn nói.
Nhưng mấy ngày sau, khi Muriel đọc nhẩm lại Bảy Điều Răn, nó nhận ra lại còn một câu nữa các con vật nhớ nhầm. Chúng cứ tưởng Điều Thứ Năm là “Không con vật nào được uống bia rượu”, nhưng có hai chữ chúng đã quên mất. Điều Thứ Năm thực sự là: “Không con vật nào được uống bia rượu quá độ.”
Suốt năm ấy, lũ súc vật làm lụng cực nhọc còn hơn năm trước nữa. Xây lại cối xay gió, cho tường đắp dày gấp đôi trước, mà vẫn phải hoàn thành đúng hạn đã định, cộng thêm việc nông trại thường ngày, thật là một núi việc khổng lồ. Có những lúc lũ súc vật cảm giác giờ làm viẹc đã dài hơn, mà ăn uống cũng chẳng khá hơn thời còn Jones. Mỗi sáng Chủ nhật, móng cầm một dải giấy dài, Mồm Loa lại đọc cho chúng hàng loạt số liệu chứng tỏ sản lượng tất cả mọi hạng thực phẩm đã tăng gấp hai trăm phần trăm, ba trăm phần trăm, thậm chí có loại còn tới năm trăm phần trăm. Lũ súc vật không thấy cớ gì phải nghi ngờ, nhất là vì không còn ai thật nhớ rõ tình trạng trước Khởi nghĩa ra sao. Tuy thế, vẫn có những ngày chúng cảm tháy giá số liệu bớt mà tăng miếng bỏ bụng thì hay hơn.
Bây giờ mọi chỉ thị đều truyền lại qua Mồm Loa hay một con lợn khác. Bản thân Nã Phá Luân không mấy khi ra đến ngoài, có những đợt cả nửa tháng không thấy mặt. Mỗi lần xuất hiện, đi kèm nó không chỉ có đoàn chó hộ vệ mà còn một con gà trống lông đen đi phía trước với phận sự lính kèn, hễ Nã Phá Luân sắp phát biểu thì lại dõng dạc “ò ó o o” báo hiệu. Ngay cả trong nhà chủ, nghe nói thế, Nã Phá Luân cũng sống tách riêng các lợn khác. Nó ăn một mình, có đôi chó đứng chực bên cạnh, và lúc nào cũng dùng bộ đồ sứ Crowm Derby trước vẫn bày trong tủ kính phòng khách. Rồi có tuyên bố từ nay hằng năm sẽ bắn súng mừng sinh nhật Nã Phá Luân, như vẫn bắn trong hai ngày kỷ niệm kia.
Bây giờ không còn ai gọi Nã Phá Luân đơn thuần là “Nã Phá Luân”. Lúc nào nó cũng được long trọng xưng tụng là “Lãnh tụ chúng ta, Đồng chí Nã Phá Luân”, đàn lợn còn thích đặt cho nó những danh hiệu như Cha Già Muôn Thú, Ác Thần Diệt Người, Vị Đỡ Đầu Cừu, Bạn Thân Vịt Nhỏ, vân vân và vân vân. Mỗi lần phát biểu, Mồm Loa nước mắt ròng ròng má, ca ngợi trí tuệ thiên tài Nã Phá Luân, trái tim nhân ái, tình thương bao la dành cho muôn loài súc vật khắp nơi nơi, kể cả - và nhất là – những con vật không may vẫn còn sống cảnh tăm tối và nô lệ trong các trại khác. Nay đã thành lệ, mọi thành tự đạt được hay mọi may mắn gặp phải đều được cho là nhờ Nã Phá Luân mà có. Thường nghe một gà mái kể với gà bạn, “Dưới sự lãnh đạo của Lãnh tụ chúng ta, Đồng chí Nã Phá Luân, tôi đã đẻ sáu ngày được năm trứng”, hay hai chị bò ra hồ uống nước thốt lên, “Có Đồng chí Nã Phá Luân chèo lái, nước này mới ngon ghê cơ!” Tình cảm chung của trại được thể hiện trong bài thơ nhan đề Đồng chí Nã Phá Luân do Út Em soạn, toàn văn như sau:
Đồng chí Nã Phá Luân ôi!
Người là hạnh phúc trên đời chẳng sai!
Người là bạn kẻ mồ côi
Người ban cám bã ở nơi máng thùng
Hồn tôi thiêu đốt bừng bừng
Khi tôi nhìn sững vào trong mắt người
Uy nghiêm mà vẫn thảnh thơi
Như vầng dương đó trên trời bao la!
Người là đấng vẫ ban quà
Mà súc sinh cứ mãi là mong thôi:
Ngày ăn hai bữa rốn lồi
Đi nằm thì có rơm tươi rúc vào!
Trẻ già lớn bé thế nào
Vào chuồng yên ấm chiêm bao giấc nồng
Nã Phá Luân chẳng mơ mòng
Đồng chí thao thức giằng trông muôn loài
Con tôi lợn sữa thơ ngây
Còn bú chán mới đến ngày bằng ai
Dẫu còn nhở tựa cái chai
Hay chày lăn bột quẳng nơi xó nhà
Với Người, con học thật thà
Một lòng tin tưởng bao giờ cho nguôi!
Tiếng đầu con éc trên môi:
“Nã Phá Luân!” Chính tên người chứ ai!
Nã Phá Luân khen ngợi bài thơ, cho viết lên tường nhà kho lớn, đối diện bức tường viết Bảy Điều Răn. Bên trên bài thơ là chân dung Nã Phá Luân nhìn nghiêng, do Mồm Loa thực hiện bằng sơn trắng.
Trong lúc đó, qua Whymper mối lái, Nã Phá Luân đang thương thảo hết sức lằng nhằng với cả Frederick lẫn Pilkington. Đống gỗ sồi vẫn chưa muốn cho ai. Giữa hai người thì Frederick sốt sắng muốn mua hơn, nhưng không chịu ra giá thỏa đáng. Cùng lúc lại ầm lên lời đồn Frederick cùng người làm đang âm mưu tấn công Trại Súc Vật, đập đỗ cối xay gió, bởi hắn ta ganh ghét cái cối xay đã lâu rồi. Tuyết Cầu nghe nói vẫn lẫn trong trại Đồng Chôm. Giữa mùa hè, lũ súc vật hoảng kinh nghe tin ba gà mái vừa bước ra thú nhận rằng theo xúi giục của Tuyết Cầu, chúng đã tham dự một kế hoạch ám sát Nã Phá Luân. Cả ba bị xử tử tức khắc, và những biện pháp phòng ngừa mới được áp dụng ngay để bảo vệ Nã Phá Luân an toàn. Giường của nó được cắt bốn con chó gác đêm, mỗi con một góc, lại một con lợn tên là Mắt Đỏ được cử nếm trước mọi món ăn của nó, phòng khi thức ăn bị bỏ độc.
Cũng vào độ đó, thông tin cho biết Nã Phá Luân đã đồng ý bán khối gỗ cho ông Pilkington, lại sắp bắt tay thỏa thuận thường kỳ trao đổi một số sản phẩm giữa Trại Súc Vật và Rừng Cáo. Quan hệ giữa Nã Phá Luân và Pilkington, dù chỉ qua trung gian Whymper, giờ đã gần như thân thiện. Lũ súc vật gờm tránh Pilkington vì là giống người, nhưng nói chung vẫn ưa ông ta hơn Frederick, gã này thì chúng vừa sợ vừa ghét. Mùa hè trôi đi, cối xay gió sắp sửa hoàn thành, tin đồ về vụ tấn công phản phúc đáng sợ lan ra càng thêm mạnh. Theo đồn đãi, Frederick định dắt theo cả hai chục người, kẻ nào cũng có súng; lại nữa, hắn đã kịp đấm móm đám quan tòa và cảnh sát vùng, để sau này khi hắn nắm được văn tự Trại Súc Vật rồi thì bọn họ ngoảnh mặt làm ngơ cho. Đã thế, từ Đồng Chôm còn rò rỉ sang đủ thứ chuyện khủng khiếp về việc Frederick ngược đãi gia súc trại mình. Hắn ta đã quật roi đến một con ngựa già, hắn bỏ đói đàn bò sữa, hắn giết một con chó bằng cách ném vào lò lửa, và tối tối hắn mua vui bằng cách buộc mảnh dao cạo gãy vào cựa gà rồi thả cho chúng chọi nhau. Mỗi con vật đều uất trào máu khi nghe cảnh hành hạ đồng chí mình, đôi lúc chúng còn sôi lên đòi ban lệnh cho kéo cả đàn sang tấn công Trại Đồng Chôm, đuổi cổ hết bọn người, giải phóng toàn thể gia súc. Nhưng Mồm Loa khuyên nhủ chúng hết sức tránh manh động, đặt lòng tin vào chiến lược của Đồng chí Nã Phá Luân.
Tuy thế, lòng căm hận Frederick vẫn ngùn ngụt. Một sáng Chủ nhật, Nã Phá Luân xuất hiện trong nhà kho, giải thích rằng nó chưa bao giờ tính bán gỗ cho Frederick cả; nó nói thật mất phẩm giá nếu đi giao dịch với hạng lưu manh cỡ ấy. Đàn bồ câu vẫn được phái đi loan tuyền tin tức về Khời nghĩabij cấm không được đặt chân xuống Rừng Cáo, lại được chỉ thị bỏ khẩu hiệ cũ “Đả đảo loài Người” và chuyển sang “Đả đảo Frederick”. Cuối hè, thêm một mưu mô nữa của Tuyết Cầubij vạch trần. Lúa mì gặt về toàn cỏ dại, bấy giừo mới phát hiện ra Tuyết Cầu trong một chuyến đột nhập đêm đã trộn hạt cỏ vào hạt giống. Một ngỗng đực đồng lõa trong mưu đồ ấy đã thú tội với Mồm Loa, sau đó lập tức tự vẫn bằng cách nuốt cả độc dược. Lũ súc vật lúc này còn được biết thêm rằng chưa bao giờ - trái với nhiều kẻ vẫn tin – Tuyết Cầu được nhận Huân chương Thú Hùng hạng nhất cả. Đấy chỉ là chuyện hão, do chính Tuyết Cầu vung tin ít lâu sau Trận Chuồng Bò. Không được trao thưởng thì chớ, hắn còn bị quở trách vì hành vi hèn nhát trong trận đánh. Lần này nữa, vài con vật nghe tin này thì sửng sốt trông thấy, nhưng Mồm Loa chẳng mấy đã thuyết phục được chúng rằng đấy là do trí nhớ của chúng bị nhầm lẫn.
Đến mùa thu, sau những nổ lực phi thường kiệt lực – vì vụ gặt cũng phải tiến hành gần như cùng lúc – cái cối xay đã hoàn thành. Máy móc vẫn còn chưa lắp được, Whymper cũng đang điều đình đặt mua, nhưng phần kiến trúc chính đã xong rồi. Vật lộn với muôn vàn khó khăn, vượt qua kinh nghiệm non kém, dụng cụ thô sơ, đủ chuyện không may rồi còn bị Tuyết Cầu phản trắc, công việc vẫn hoàn thành chính xác từng ngày! Mệt lử nhưng hãnh diện, các con vật đi vòng quanh đại kiệt tác, trong mắt chúng nay còn đẹp gấp ngàn vạn lần xây trước. Hơn nữa lần này tường dày gấp đôi trước kia. Phi thuốc nổ thì đó có gì đánh sập cho được! Và khi chúng nghĩ về phần công sức đã bỏ ra, về những trở ngại đã khắc phục, vể cuộc đời sẽ lột xác hoàn toàn khi mai đây cánh quạt quay, máy phát chạy – khi chúng nghĩ về tất cả những thứ đó, bao mệt mỏi bỗng như biến đâu mất, chúng nhảy múa quanh cối xay và reo hò những tiếng vui mừng. Đích thân Nã Phá Luân, có bầy chó và gà trống xung quanh, cũng xuống thị sát công trình đã hoàn thành; nó trực tiếp chúc mừng lũ súc vật đã hoàn thành kế hoạch thắng lợi và tuyên bố đặt tên đây là cối xay Nã Phá Luân.
Hay ngày sau, lũ súc vật được triệu đến buổi họp đột xuất trong nhà kho. Tất cả ngớ người nghe Nã Phá Luân thông báo bán đống gỗ cho Frederick. Ngày mai Frederick sẽ cho xe thồ tới chở hết đi. Suốt thời kỳ vờ làm thân với Pilkington, Nã Phá Luân đã bí mật gật đầu với Frederick.
Mọi qua lại với trại Rừng Cáo đều cẳt đứt, thư từ lăng mạ được gửi đến Pilkington. Bồ câu được dặn tránh xa Trại Đồng Chôm, cũng như đổi khẩu hiệu từ “Đả đảo Frederick” chuyển sang “Đả đảo Pilkington”. Cùng lúc, Nã Phá Luân vỗ về các con vật rằng lời đồn Trại Súc Vật sắp bị tấn công hoàn toàn là nhảm nhí hết, những tin đồn Frederick tàn bạo với gia súc cũng chẳng qua là thổi phồng quá quắt. Tin đồn kiểu ấy ắt là do miệng lưỡi Tuyết Cầu cùng bè lũ tay chân. Bây giờ, rốt cuộc, xem ra chẳng phải Tuyết Cầu chẳng phải đang trú ở Trại Đồng Chôm nữa, thực ra là cả đời hắn chưa từng đặt chân đến đó: hắn ta đang sống, nghe nói như vậy, trong cảnh phong lưu rất mực ở Rừng Cáo, thực tế là hắn đã được Pilkington chu cấp nhiều năm nay rồi.
Đàn lợn vui sướng như điên trước mưu chước khôn khéo của Nã Phá Luân. Làm ra vẻ hữu hảo với Pilkington, nó đã ép Frederick phải nâng giá thêm mười hai bảng. Nhưng trí tuệ siêu việt của Nã Phá Luân, Mồm Loa bảo, là ở chỗ nó không tin bất kỳ ai, ngay cả Frederick, Frederick đã định thanh toabằng một thứ gọi là séc, hình như là một tờ giấy ghi lời hứa sẽ trả tiền. Nhưng Nã Phá Luân dễ gì mắc lừa. Nó đã đòi phải trả bằng toàn tiền mặt năm bảng, tiền chưa trao thì gỗ chưa giao. Frederick đã trả xong, và só tiền đó vừa đủ mua máy móc cho cối xay gió.
Trong lúc đó thì gỗ được vùn vụt chở đi. Khi gỗ đã đi hết, trong nhà kho lại mở cuộc họp đặc biệt cho súc vật cả trại chiểm ngưỡng những tờ tiền của Frederick. Mỉm cười phúc đức, cổ đeo cả hai huân chương, Nã Phá Luân ngả mình trong ổ rơm trên bục cao, tiền đặt bên cạnh, xếp một chồng gọn gang trên đĩa sứ lấy trong bếp nhà chủ cũ. Lũ súc vật nối đuôi nhau từ tốn bước qua, con nào con nấy nhìn cho đã mắt. Đấu Sĩ còn ghé mũi ngửi xấp tiền, mấy tờ trắng mỏng mảh khẽ sột soạt trong luồng thở.
Ba ngày sau đã thấy một cảnh cuống quýt tanh bành hết cả. Mặt trắng bệch, Whymper lao xe đạp ầm ầm trên đường mòn, vứt xe xuống sân rồi chạy bổ vào nhà chủ. Một phút sau có tiếng gầm uất nghẹn từ phòng Nã Phá Luân. Tin tức lan nhanh như đám cháy rừng khắp trang trại. Tiền đó toàn là giả!
Nã Phá Luân lập tức triệu tập cả trại, bằng một giọng khủng khiếp tuyên bố án tử cho Frederick. Khi bắt được, nó nói, tên Frederick sẽ bị luộc sống. Cùng lúc ấy, nó cảnh báo cả trại, sau hành vi đê hạ này sẽ phải chuẩn bị đối phó với tình huống xấu nhất. Vụ tấn công dự tính từ lâu của Frederick cùng đám người làm có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Lính gác được cắt đặt mọi ngả vào trại. Thêm vào đó, bốn con bồ câu được phái mang thông điệp dàn hòa tới Rừng Cáo, hy vọng thiết lập lại quan hệ hữu hảo với Pilkington.
Vụ tấn công nổ ra ngay sáng hôm sau. Lũ súc vật còn đang ăn sáng thì đội gác chạy ùa vào, báo tin Frederick và đồng bọn đã vượt qua cái cổng gỗ. Súc vật cả trại can đảm xông ra nghênh chiến nhưng lần này chiến thắng không dễ dàng như Trận Chuồng Bò. Quân địch có mười lăm người, súng cũng có đến nửa tá, và còn cách năm mươi thước chúng đã nổ súng. Trước những tiếng nổ kinh người cùng những viên đạn xé thịt, lũ súc vật không đủ sức dàn mặt, Nã Phá Luân cùng Đấu Sĩ có cố gắng hô hào bao nhiêu chúng cũng nhanh chóng bị đẩy lùi. Một vài con đã bị thương. Chúng trốn vào các chuồng, thận trọng ngó ra từ các khe kẽ. Toàn bộ bãi cỏ chăn, kể cả gò cối xay, đã lọt vào tay địch. Thời điểm ấy ngay cả Nã Phá Luân trông cũng hoang mang. Nó bước tới bước lui không nói gì, cái duôi cứng đơ giật giật, ánh mắt chốc chốc lại liếc về phía Rừng Cáo mong ngóng. Nếu Pilkington và người làm chịu hỗ trợ, vẫn còn có cơ may chuyển bại thành thắng. Nhưng đúng lúc ấy bốn con bồ câu phái đi từ hôm qua đã trở lại, một con mang theo mẫu giấy của Pilkington. Trên đó chỉ vạch mấy chữ chì: “Đáng đời mày.”
Lúc đó, Frederick cùng chân tay đã dừng lại quanh cối xay gió. Lũ súc vật dõi nhìn, tiếng lầm rầm lo âu nổi lên. Hai trong số đám người đã rút ra xà beng và búa tạ. Bọn họ định phá đổ cối xay.
“Đừng hòng nhé!” Nã Phá Luân kêu lên, “Chúng ta đã xây tường cực dày chắc. Chắp chúng đập cả tuần cũng không đổ. Vững lòng lên, các đồng chí!”
Nhưng Benjamin chăm chú theo dõi hành động của mấy người kia. Hai kẻ cầm xà beng búa tạ đang khoét lỗ gần chân cối xay. Chầm chậm, vẻ gần như thích thú, Benjamin gật gật cái mõm.
“Biết ngay mà,” nó nói. “Các anh không thấy chúng đang làm gì à? Một chút nữa chúng sẽ nhồi thuốc nổ vào trong lỗ.”
Lũ súc vật kinh hãi đợi. Giờ thì chẳng con nào dám ló ra khỏi chỗ núp trong các chuồng nữa. Sau vài phút, chúng thấy mấy người kia chạy tản ra. Rồi một tiếng nổ inh tai nhức óc. Lũ bồ câu liệng bắn lên không, toàn bộ súc vạt trừ Nã Phá Luân nằm bẹp ôm đầu úp mặt xuống sàn. Khi chúng đứng dậy, một đám khói lớn đen sì đã trùm lên trên chỗ cối xay gió. Dần dà gió xua khói bạt đi. Cối xay gió không còn nữa!
Chứng kiến cảnh ấy, lòng can trường trở lại với các con vật. Nỗi sợ hãi tuyệt vọng phút trước nay đã chìm trong cơn phẫn nộ điên cuồng trước hành vi tồi tàn đáng nguyền rủa ấy. Một tiếng thét kinh thiên đòi rửa hận vang lên, chẳng đợi lệnh chúng đã ào ào xông tới một loạt thẳng về phía kẻ thù. Lần này chẳng ai thềm sợ những viên đạn độc ác vãi vèo vèo như mưa đá nữa. Một trận chiến diễn ra man dại và khốc liệt. Đám người khong ngơi tay bắn, và khi lũ súc vật tiến lại gần, họ giơ gậy quật và dùng ủng đạp. Một bò cái, ba cừu cùng hai ngỗng tử nạn, gần như tất cả còn lại đều bị thương. Ngay cả Nã Phá Luân đứng hậu tuyến chỉ huy các hướng tấn công cũng bị đạn bắn sứt chót đuôi. Nhưng đám người cũng không lành lặn vô sự. Ba kẻ vỡ đầu dưới vó Đấu Sĩ, một gã khác trúng sừng bò lòi ruột, một tên suýt bị Jessie và Hoa Chuông xé toạc quần. Và khi chín con chó vệ sĩ riêng của Nã Phá Luân, trước đó đã được lện chạy vòng sau bờ giậu, thình lình hiện ra đánh kẹp sườn đoàn người bắt đầu hoảng loạn. Bọn họ nhận ra nguy cơ bị bao vây tứ phía. Frederick hét bảo đám người chạy ngay khi vẫn còn có lối rút, chỉ một nhoáng sau toán quân thù hèn nhát đã ba chân bốn cẳng tháo thân. Lũ súc vật đuổi theo bọn họ đến tận cuối ruộng, và vẫn còn kịp giáng vài cú đá khi đám người lách qua rào gai.
Chúng đã thắng, nhưng thắng tả tưoi và thương tích. Chậm chạp, cà nhắc, tất cả quay lại trại. Nhìn thấy các đồng chí tử trận nằm ngổn ngang trên cỏ, nhiều con vật ứa nước mắt. Rồi chúng đứng hồi lâu trong đau xót và trầm mặc ở nơi trước đây từng là cối xay gió. Thôi, nó mất, gần như mọi dấu vết còn lại của công lao khó nhọc bấy nay đã mất rồi! Ngay móng cối cũng bị phá hủy một phần. Mà muốn xây lại, lần này chúng cũng không lợi dụng đá rơi được nữa. Giờ thì đến đá cũng không còn. Vụ nổ đã ném đá văng xa hàng trăm thước. Cứ như thể cái cối xay chưa từng có ở trên đời.
Khi chúng quay lại trại thì Mồm Loa, suốt trận đánh vắng mặt không rõ nguyên do, đang chạy loi choi lại phía chúng, đuôi phất phất, tươi roi rói rất thỏa mãn. Và lũ súc vật nghe, từ phía khu chuồng trại, tiếng súng nổ trang nghiêm.
“Nổ súng làm cái gì thế?” Đấu Sĩ hỏi.
“Ăn mừng chiến thắng của chúng ta!” Mồm Loa léo xéo nói.
“Chiến thắng nào?” Đấu Sĩ hỏi. Đầu gối nó còn đang chảy máu, một móng sắt sút mất khiến móng toạc làm đôi, cẳng chân sau găm cả tá đạn.
“Sao lại chiến thắng nào, đồng chí? Chẳng phải chúng ta vừa tống cổ quân thù khỏi đất này – mảnh đất thiêng của Trại Súc Vật ư?”
“Nhưng chúng đã phá mất cối xay gió. Mà chúng ta đã mất công vào đó suốt hai năm!”
“Thì có làm sao? Chúng ta sẽ xây cái khác. Chúng ta sẽ xây cả sáu cái nếu chúng ta muốn. Các đồng chí, các đồng chí không hiểu hết chiến công vĩ đại mà chúng ta vừa giành được. Quân địch vừa mới chiếm đống chính mảnh đất ta đang đứng lúc này đây. Và bây giờ - nhờ sự lãnh đạo của Đồng chí Nã Phá Luân – chúng ta đã giành lại từng tấc một!”
“Vậy là ta chỉ giành lại những gì ta đã có.” Đấu Sĩ nói.
“Đó chính là chiến thắng của ta đấy.” Mồm Loa đáp.
Tất cả khập khểnh đi vào sân. Đạn cắm trong thịt làm chân Đấu Sĩ nhức nhối. Nó thấy trước mắt là công việc nặng nhọc, xây lại cối xay gió từ móng lên, và trong đầu nó đã chuẩn bị tinh thần lao vào việc. Nhưng lần đầu tiên, nó sực nhận ra mình đã mười một tuổi, những cơ bắp vạm vỡ có lẽ đã không còn được dẻo dai như trước.
Nhưng khi nhìn lá cờ xanh vẫy gió, nghe tiếng súng nổ vang lần nữa – bảy lần tất cả - và nghe bài phát biểu của Nã Phá Luân, chúc mừng tinh thần dũng cảm của toàn trại, lũ súc vật cũng nhận thấy có lẽ đúng là chúng vừa thagnws trận giòn giã. Những con vật ngã xuống trong trận đánh được tổ chức tang lễ trọng thể. Đấu Sĩ và Cỏ Ba Lá kéo xe thùng bốn bánh dùng làm xe tang, Nã Phá Luân đích thân đi đầu đám viếng. Hai ngày liền được dành ra ăn mừng chiến thắng. Nào là ca hát, diễn thuyết, súng bắn mấy lần, con vật nào cũng được trao quà đặc biệt là một trái táo, gia cầm được nửa lạng ngũ cốc, còn chó được ba cái bánh quy. Theo tuyên bố, trận đánh này sẽ đặt tên là Trận Cối Xay, còn Nã Phá Luân đã phê chuẩn thêm một danh hiệu mới, Huân chương Cờ Xanh, để trao cho chính mình. Trong không khí náo nức chung, nỗi thất vọng từ vụ mấy tờ bạc bị quên khuấy đi.
Sau chuyện đó vài ngày, đàn lợn bắt được một két uýt ky dưới hầm nhà chủ. Không ai để ý thấy nó hôm đầu tiên vào chiếm nhà. Đêm đó, từ phía nhà chủ vọng ra tiếng hát hò ầm ĩ, trong đó lẫn cả vài câu nhạc Súc vật Anh quốc khiến ai nấy đều ngạc nhiên. Độ chín rưỡi tối, còn thấy Nã Phá Luân đội cái mũ quả dưa cũ của ông Jones từ cửa sau chui ra, chạy đùng đùng quanh sân rồi lại chui vào nhà. Nhưng sáng ra, cảnh im lặng nặng nề trùm lên ngôi nhà chủ. Dường như không con lợn nào còn nhúc nhắc. Gần chín giờ mới thấy Mồm Loa, bước chân chậm chạp thiểu não, mắt lờ đờ, đuôi oặt sau lưng, trông dáng vẻ rõ là đang ốm nặng. Nó gọi mọi con vật lại, thông báo một tin khủng khiếp. Đồng chí Nã Phá Luân đang hấp hối!
Tiếng than khóc vang lên. Rơm trải ngoài cửa nhà chủ, mỗi con vật đều đi lại rón rén. Mắt nhòa lệ, chúng hỏi nhau phải làm gì đây nếu Lãnh tụ của chúng bị trời cướp mất. Lại có tin đồn, rốt cuộc Tuyết Cầu đã tìm ra cách đánh thuốc độc thức ăn của Nã Phá Luân. Đến mười một giờ, Mồm Loa lại ra ngoài truyền tin. Hành động cuối cùng để lại cho đời của Đồng chí Nã Phá Luân là một sắc lệnh nghiêm ngặt: ai uống bia rượu sẽ bị xử tử hình.
Tuy thế, đến chiều tối, Nã Phá Luân lại có vẻ khá hơn đôi chút, và tới sáng hôm sau Mồm Loa đã tự tin thông báo rằng Nã Phá Luân đang dần bình phục. Tối hôm ấy Nã Phá Luân đã trở lại làm việc, ngày hôm sau tất cả được biết nó đã sai Whymper đi Willingdon mua về mấy cuốn sách hướng dẫn chưng cất và ủ men. Một tuần sau, Nã Phá Luân ra lệnh rằng bãi rào nhỏ sau vườn quả, trước định dành riêng làm bãi gặm cỏ cho những con vật quá tuổi làm việc, nay sẽ được cuốc lên. Lý do là cỏ đã trụi hết nên cần gieo lại: nhưng chẳng mấy chốc xung quanh đã biết rằng Nã Phá Luân định gieo đại mạch.
Vào quãng thời gian đó chợt xảy ra sự lạ không mấy ai hiểu nổi. Một đêm, chừng mười hai giờ, có tiếng đổ vỡ ầm ầm trong sân, tất cả súc vật đổ xô khỏi chuồng. Đêm ấy trăng sáng. Dưới chân bức tường cuối nhà kho lớn, nơi viết Bảy Điều Răn, một cái thang nằm gãy đôi. Mồm Loa đang nằm sóng soài bất tỉnh hồi lâu, ngay gần đó có cái đèn bão, chổi sơn và bình sơn trắng úp ngược. Lũ chó lập tức đến vây quanh Mồm Loa, và ngay khi nó đi được là chúng hộ tống nó về nhà chủ. Các con vật không con nào hiểu nổi thế là thế nào, trừ Benjamin, nó không ngớt gục gặc cái mõm ra vẻ biết tỏng, nhưng chẳng buồn nói.
Nhưng mấy ngày sau, khi Muriel đọc nhẩm lại Bảy Điều Răn, nó nhận ra lại còn một câu nữa các con vật nhớ nhầm. Chúng cứ tưởng Điều Thứ Năm là “Không con vật nào được uống bia rượu”, nhưng có hai chữ chúng đã quên mất. Điều Thứ Năm thực sự là: “Không con vật nào được uống bia rượu quá độ.”
Tác giả :
George Orwell