Chết Trước Hoàng Hôn
Chương 2
SÁNG HÔM SAU TÔI DẬY RẤT MUỘN, MỘT chuyện cũng chẳng quá bất ngờ. Lúc tôi về thì bà đã ngủ rồi, ơn trời, và tôi có thể trèo lên giường mà không đánh thức bà dậy. TÔI ĐANG UỐNG cà phê ở bàn bếp còn bà đang lau dọn chạn bát đĩa thì điện thoại reo. Bà thả người xuống chiếc ghế đẩu cạnh quầy bếp, vị trí quen thuộc của bà khi cần tán chuyện, và nhấc máy.
“A lô,” bà nói. Vì một lý do nào đó, giọng trả lời điện thoại của bà luôn có vẻ cấm cảu, như thể bà không muốn nhận bất cứ cuộc điện thoại nào cả. Nhưng tôi biết thực ra không phải vậy.
“Chào Everlee. Không, đang ngồi nói chuyện với Sookie thôi, con bé vừa dậy. Không, hôm nay tôi chưa nghe tin gì hết. Không, chưa ai gọi cho tôi. Sao? Lốc xoáy nào? Hôm qua trời quang mà. Góc đường Four Tracks ư? Thế à? Không! Không, không hề! Thật sao? Cả hai vợ chồng à? ừm, ừm, ừm. Thế Mike Spencer nói sao?” Mike Spencer là nhân viên điều tra những cái chết bất đắc kỳ tử ở khu vực này. Tôi bắt đầu thấy sởn tóc gáy. Tôi uống nốt tách cà phê và rót thêm một cốc khác. Tôi nghĩ mình rồi sẽ cần đến nó.
Bà dập máy một phút sau đó.
“Sookie này, con sẽ không tin nổi đã có chuyện gì đâu!”
Tôi sẵn sàng cá là mình chắc chắn sẽ tin.
“Chuyện gì ạ?” tôi hỏi lại, cố không toát lên vẻ tội lỗi.
“Dù tối qua trời có quang đến mấy thì chắc chắn vẫn có lốc xoáy ở góc đường Four Tracks! Nó lật nhào chiếc xe moóc ở khoảng rừng thưa chỗ đó. Trong xe vẫn còn một đôi vợ chồng, cả hai đều thiệt mạng, chẳng hiểu sao họ lại mắc kẹt dưới chiếc xe và bị nghiền nát cả. Mike nói ông ta chưa từng chứng kiến chuyện nào tương tự.
“Ông ta sẽ đưa mấy cái xác đi khám nghiệm tử thi chứ ạ?”
“Ồ, chắc thế, mặc dù theo Stella thì nguyên nhân tử vong đã rõ rành rành rồi. Cái xe moóc bị lật nghiêng, xe hơi của họ thì chênh vênh ở trên, cây cối xung quanh bị nhổ bật cả gốc.”
“Chúa ơi,” tôi thì thầm, nghĩ đến sức mạnh cần thiết để tạo dựng nên cái hiện trường đó.
“Cưng à, con vẫn chưa nói cho bà biết tối qua anh bạn ma cà rồng của con có đến hay không?”
Tôi giật bắn người vì cảm giác tội lỗi cho tới khi nhận ra bà đang nghĩ gì, bà muốn thay đổi chủ đề. Suốt mấy hôm nay bà đều hỏi tôi có gặp Bill không, và giờ thì cuối cùng tôi đã có thể trả lời bà là có - nhưng với một trái tim nặng trĩu phiền muộn.
Không ngoài dự đoán của tôi, bà phấn khích đến độ không kiềm chế nổi. Bà lướt quanh gian bếp như thể thái tử Charles sắp đến vậy.
“Tối mai à. Vậy mấy giờ anh ta đến?” bà hỏi.
“Sau hoàng hôn. Con đoán sớm nhất là khoảng đó.”
“Vậy thì ta có thể chuẩn bị vào ban ngày, chúng ta còn ít thời gian quá.” Bà ngẫm nghĩ. “Được rồi, ta sẽ có thời gian ăn tối và thu dọn bàn ăn. Và ta có cả ngày mai để dọn dẹp nhà cửa. Bà cá là tấm thảm trải sàn chẳng được để mắt tới cả năm nay rồi?
“Bà ơi, chúng ta đang nói đến một anh chàng ngủ trong lòng đất cả ngày đấy,” tôi nhắc bà. “Con nghĩ là anh ấy chẳng bao giờ để mắt đến thảm trải sàn đâu.”
“Thôi được, nếu không làm vì anh ta thì là vì bà vậy, để bà còn được tự hào chứ,” giọng bà chắc nịch. “Thêm nữa, cô gái à, làm sao con biết anh ta ngủ ở đâu chứ?”
“Câu hỏi hay lắm bà. Con không biết. Nhưng anh ấy không được ra ngoài ánh sáng nên con đoán vậy thôi.” Chẳng mất nhiều thời gian để tôi nhận ra rằng không gì có thể ngăn bà tôi chìm đắm trong khát khao được thể hiện niềm tự hào về nhà cửa. Khi tôi chuẩn bị đi làm, bà đã đến tiệm tạp hóa, thuê một chiếc máy hút bụi rồi bắt tay vào việc dọn dẹp.
Trên đường đến quán Merlotte, tôi đi vòng sang phía Bắc và lái xe qua góc đường Four Tracks. Đó là một ngã tư có từ rất lâu rồi. Giờ nó đã được chính thức hóa bằng những tấm biển chỉ đường và vỉa hè, còn dân địa phương thì bảo đây là giao lộ của hai đường mòn dẫn đến các bãi săn. Tôi đoán sớm muộn gì ở chỗ này cũng sẽ mọc lên các khu nhà trại và trung tâm mua sắm, nhưng giờ nó vẫn là rừng và theo Jason thì chỗ đó vẫn đầy nhóc thú để săn.
Vì chẳng bị thứ rào chắn nào ngăn cản, tôi lái xe vào con đường mòn dẫn đến bãi đất nơi nhà Rattray đỗ chiếc xe moóc đi thuê của mình. Tôi dừng lại và nhìn chằm chằm qua cửa kính chắn gió, kinh hãi. Chiếc xe moóc nhỏ cũ rích nằm bẹp gí cách vị trí ban đầu gần ba mét. Chiếc xe con màu đỏ lồi lõm của vợ chồng Rattray vẫn còn bám vào mép ngôi nhà di động dúm dó. Cây bụi và những mảnh vỡ nằm rải rác quanh khu đất trống, còn khu rừng phía sau xe moóc trông rõ là đã bị một sức mạnh cực lớn quét qua; các nhánh cây rơi vương vãi, trên một ngọn thông treo lủng lẳng đủ thứ hầm bà lằng. Trên cành cây vắt vẻo cả quần áo lẫn một chiếc chảo rán.
Tôi từ từ bước ra khỏi xe và đảo mắt nhìn xung quanh. Sự tàn phá thật quá mức tưởng tượng, nhất là khi tôi biết rõ nguyên nhân không phải do cơn lốc; chàng ma cà rồng Bill đã dàn dựng hiện trường này để giải thích cho cái chết của nhà Rattray. Một chiếc Jeep cũ kỹ lao trên con đường mòn, dừng lại ngay cạnh tôi. “Này, Sookie Stackhouse!” Mike Spencer gọi. “Làm gì ở đây thế, cô gái? Không phải đi làm à?”
“Có chứ ạ. Cháu có quen gia đình Chuột - ý cháu là nhà Rattray. Chuyện này thật khủng khiếp.” Tôi nghĩ câu nói đó đã đủ độ mơ hồ rồi. Giờ tôi đã thấy cảnh sát trưởng đi cùng Mike.
“Thật khủng khiếp. Quả thế,” cảnh sát trưởng Bud Dearborn nói trong lúc bước xuống chiếc Jeep. “Ta nghe nói tuần trước cháu có va chạm với Denise và Mack ở bãi đậu xe quán Merlotte.”
Tôi cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi hai người đàn ông bước đến đứng trước tôi.
Mike Spencer là giám đốc một trong hai nhà tang lễ ở Bon Temps. Mặc dù Mike luôn chỉ ra một cách nhanh chóng và rõ ràng rằng nếu muốn, bất cứ ai cũng đều có thể được chôn cất ở nhà tang lễ Cha Con Spencer nhưng dường như chỉ người da trắng là tỏ ra hứng thú. Tương tự thế, chỉ người da màu mới chọn cách yên nghỉ tại Sweet Rest. Mike là một người đàn ông trung niên nặng nề với râu tóc màu trà loãng, thích giày cao bồi cùng cà vạt dây, những thứ ông ta không thể mang khi làm việc ở Cha Con Spencer. Lúc này ông đang mặc cả hai.
Cảnh sát trưởng Dearborn, vốn nổi tiếng là người tử tế, lớn tuổi hơn Mike một chút, nhưng từ mái tóc xám dày đến đôi giày nặng trịch đều toát lên vẻ gọn gàng cứng rắn. Ông có gương mặt khắc khổ và cặp mắt nâu tinh anh. Ông là bạn thân của bố tôi hồi trước.
“Vâng ạ, bọn cháu có chút bất đồng,” tôi thú thực bằng giọng nhã nhặn nhất.
“Cháu có muốn kể ta nghe không?” Cảnh sát trưởng rút điếu Marlboro ra và châm thuốc với chiếc bật lửa trơn bằng kim loại.
Và tôi đã phạm phải một sai lầm. Đáng ra tôi nên kể cho ông. Tôi vốn bị cho là điên, cũng có vài người nghĩ tôi ngốc nghếch. Nhưng tôi thấy mình chẳng việc gì phải thanh minh với Bud Dearborn phải giải thích với Bud Dearborn. Chẳng có lý do nào cả, trừ vấn đề tình cảm.
“Tại sao ạ?” tôi hỏi lại.
Đôi mắt nhỏ màu nâu của ông đột nhiên sáng lên sắc lẻm, không khí dễ chịu tan biến ngay tức thì.
“Sookie,” ông nói, giọng đầy thất vọng. Tôi mất cả phút mới hiểu ra vấn đề.
“Cháu không làm chuyện này,” tôi nói, vẫy tay về phía cảnh tan hoang. “Không, tất nhiên là cháu không làm,” ông đồng tình. “Nhưng dù sao đi nữa, vừa tuần trước gây gổ với người ta thì tuần này họ chết, và ta thấy cần hỏi han một chút.”
Tôi cân nhắc khả năng nhìn chằm chằm trả lại khiến ông phải cụp mắt xuống. Làm được thế hẳn sẽ dễ chịu lắm, nhưng tôi không cho là cảm giác dễ chịu ấy sẽ đáng đồng tiền bát gạo. Tôi dần ý thức được rõ ràng rằng đôi khi mang tiếng là ngốc nghếch cũng có cái lợi của nó.
Tôi có thể không được học hành đến nơi đến chốn và hơi xa rời thực tế, nhưng tôi không ngốc nghếch hay dốt nát.
“Thật ra thì, chúng đã làm hại bạn cháu,” tôi thú nhận, cúi gằm đầu xuống dán mắt vào đôi giày của mình.
“Có phải là anh chàng ma cà rồng sống ở ngôi nhà cổ của gia đình Compton không?” Mike Spencer và Bud Dearborn đánh mắt sang nhau. “Vâng ạ.” Tôi hơi bất ngờ khi biết Bill đang sống ở đâu, nhưng họ không nhận ra. Hàng năm trời cố gắng không phản ứng trước những điều không muốn nghe mà vẫn phải nghe đã giúp tôi điều khiển được khá tốt nét mặt của mình. Ngôi nhà cũ của gia đình Compton nằm ngay phía bên kia cánh đồng đối diện với nhà tôi, trên cùng một bên đường. Hai ngôi nhà chỉ bị ngăn cách bởi cánh rừng và nghĩa trang. Thật tiện cho Bill, tôi nghĩ thầm, và mỉm cười. “Sookie Stackhouse, bà cháu có cho cháu giao du với tay ma cà rồng đấy không?” Mike hỏi chẳng hề giữ kẽ. “Chú cứ việc hỏi bà cháu thoải mái,” tôi đáp với giọng ác ý, nóng lòng muốn biết bà sẽ nói sao khi có người cho rằng bà không quan tâm đến tôi. “Chú biết không, vợ chồng Rattray đã cố rút máu Bill.”
“Vậy ra tay ma cà rồng đó bị vợ chồng Rattray rút máu à? Và cháu đã ngăn chúng lại?” cảnh sát trưởng ngắt lời tôi.
“Vâng,” tôi đáp, cố tỏ vẻ cương quyết.
“Rút máu ma cà rồng là phạm pháp,” ông đăm chiêu.
“Nếu giết một ma cà rồng không có ý làm hại mình thì có tính vào tội sát nhân không ạ?” tôi hỏi.
Có lẽ tôi đã tỏ ra ngây thơ hơi thái quá.
“Cháu biết thừa câu trả lời là có mà, mặc dù ta không đồng tình với cái luật đó. Đó là luật, và ta phải tuân theo,” viên cảnh sát trưởng nói, giọng kiên quyết.
“Vậy tay ma cà rồng đó để mặc họ đi mà không đe dọa trả thù à? Không nói gì đại loại như chỉ muốn họ chết quách đi cho xong sao?” Mike Spencer quả là ngu ngốc.
“Đúng thế.” Tôi mỉm cười với cả hai người họ rồi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Tôi nhớ lại vệt máu trên mặt đồng hồ, máu của tôi khi chịu đòn của vợ chồng Rattray. Tôi phải nhìn xuyên qua vệt máu đó để xem giờ. “Thứ lỗi cho cháu, cháu phải đi làm,” tôi nói. “Tạm biệt chú Spencer, tạm biệt bác cảnh sát trưởng.”
“Chào cháu, Sookie,” cảnh sát trưởng Dearborn đáp. Dường như ông vẫn muốn hỏi tôi nữa nhưng chưa nghĩ ra cách nói sao cho phải. Tôi có thể nhận thấy ông vẫn chưa thỏa mãn với những gì nhìn thấy ở hiện trường, và tôi ngờ rằng hệ thống ra đa chẳng phát hiện ra cơn lốc nào cả. Tuy nhiên, chiếc xe moóc vẫn lù lù ra đấy, lại cả chiếc xe hơi và cây cối, còn vợ chồng nhà Rattray thì nằm chết dưới đống đổ nát. Nếu không phải do cơn lốc xoáy thì ông ta nghĩ còn có thứ gì khác đã gây ra tất cả chứ? Tôi đoán những cái xác đã được đưa đi khám nghiệm, nhưng chắc cũng chẳng có kết luận nào khác trong trường hợp này.
Trí óc con người thật kỳ diệu. Cảnh sát trưởng Dearborn hẳn phải biết ma cà rồng rất khỏe. Nhưng ông lại chẳng thể tưởng tượng chính xác họ khỏe thế nào: khỏe đến độ lật đổ một chiếc xe moóc và nghiền nát nó.
Ngay cả tôi cũng thấy khó mà hiểu được, trong khi tôi rõ ràng đã biết là chẳng có cơn lốc nào ở góc đường Four Tracks cả.
Cả quán rộn rạo tin tức về những cái chết. Việc Maudette bị ám hại đã thêm mắm thêm muối cho cái chết của Denise và Mack. Tôi bắt gặp Sam nhìn mình vài lần, và tôi thầm nghĩ về chuyện tối qua, băn khoăn tự hỏi anh biết được đến đâu. Nhưng tôi không dám hỏi vì biết đâu anh chẳng biết gì cả. Tôi biết là đêm hôm trước đã xảy ra những chuyện mà tôi chưa thể tự mình giải thích được, nhưng tôi quá hạnh phúc vì mình vẫn còn sống nên quyết định không nghĩ ngợi lung tung nữa.
Tôi chưa bao giờ mỉm cười nhiều đến thế khi rót rượu, cũng chưa bao giờ mang đồ ra nhanh hay chạy bàn hiệu quả như thế. Kể cả Rene tóc-rối-bù cũng chẳng thể làm tôi chậm lại được, mặc dù anh ta cứ nhất định kéo bằng được tôi vào những cuộc trò chuyện tràng giang đại hải của anh ta mỗi khi tôi đến gần chiếc bàn anh ta đang ngồi cùng Hoyt và mấy thằng cha khác.
Đôi lúc Rene lại giở cái giọng Cajun điên khùng của anh ta ra, mặc dù tất cả mọi người đều biết giọng Cajun đó không phải là giọng thật. Di sản họ hàng anh ta để lại chẳng nhiều nhặn gì cho cam. Mọi phụ nữ anh ta cưới đều sống bất cần và vất vả. Cuộc tình ngắn ngủi của anh ta và Arlene xảy ra khi chị còn quá trẻ và dại dột, chị đã rất nhiều lần kể với tôi là hồi đó chị đã làm nhiều chuyện mà đến bây giờ nghĩ lại chị vẫn còn sởn tóc gáy. Kể từ đó, chị đã trưởng thành hơn rất nhiều, nhưng Rene thì không. Và tôi ngạc nhiên khi thấy Arlene vẫn còn khoái anh ta đến vậy.
Tối đó mọi người trong quán đều hết sức hưng phấn trước những sự kiện bất thường ở Bon Temps. Một phụ nữ bị giết hại, và đó là một bí ẩn; thông thường những vụ giết người ở Bon Temps đều được giải quyết dễ dàng. Cả chuyện một đôi vợ chồng bị thiên nhiên quái ác giết chết một cách tàn nhẫn nữa. Và đến lượt tôi đổ thêm dầu vào ngọn lửa phấn khích đó. Đây là một quán bar ở khu dân cư nhỏ, vài dân thị trấn vẫn thường xuyên ghé qua, vậy nên tôi chưa bao giờ vướng phải những sự quan tâm không mong muốn. Nhưng tối đó, một gã tóc vàng to xác khuôn mặt to bành đỏ au trong đám đàn ông ngồi cạnh bàn của Rene và Hoyt đã vuốt tay lên đùi tôi khi tôi mang bia đến.
Chuyện này không được chấp nhận ở quán Merlotte.
Tôi đang định đập cái khay vào đầu hắn thì cảm thấy bàn tay ấy đã rời khỏi đùi tôi. Tôi nhận ra có người đang đứng ngay sau mình. Khi quay lại, tôi nhìn thấy Rene, anh ta đã đứng dậy khỏi bàn từ lúc nào không rõ. Tôi đưa mắt theo tay anh ta và nhận ra nó đang siết chặt bàn tay của gã tóc vàng. Gương mặt đỏ au của gã tóc vàng trở nên tím tái.
“Này, bỏ ra!” gã tóc vàng phản kháng. “Tao chẳng có ý gì cả.”
“Mày không được đụng vào bất cứ ai làm việc ở đây. Đó là luật.” Rene có thể thấp và nhỏ người thật, nhưng bất cứ ai trong quán cũng sẵn sàng đặt cược vào anh chàng người nhà này thay vì gã khách to bự kia.
“Được rồi, được rồi.”
“Xin lỗi cô ấy đi.”
“Xin lỗi Sookie Khùng hả?” Giọng hắn thoáng ngờ vực. Chắc hắn cũng đến đây vài lần rồi.
Hẳn bàn tay Rene đã xiết chặt hơn. Tôi có thể nhìn thấy khóe mắt gã tóc vàng ngân ngấn nước.
“Tôi xin lỗi, Sookie, được chưa?”
Tôi gật đầu theo cách bề trên hết mức. Rene đột ngột bỏ bàn tay gã tóc vàng ra rồi ra dấu cho cả bọn cuốn xéo khỏi đây. Gã tóc vàng ngay lập tức lao về phía cửa. Lũ bạn của hắn theo sau.
“Rene à, đáng lẽ anh phải để em tự lo,” tôi nói nhỏ với anh ta khi cả quán bắt đầu quay lại với những cuộc trò chuyện của mình. Chúng tôi đã cho họ đủ vốn liếng để buôn chuyện ít nhất là trong vài ba ngày nữa. “Nhưng cũng cảm ơn anh vì đã bảo vệ em.”
“Anh không muốn bất cứ ai gây phiền hà cho bạn của Arlene,” Rene nói với vẻ hiển nhiên. “Quán Merlotte là một nơi rất tuyệt; tất cả chúng ta đều muốn giữ gìn vẻ đẹp cho nó. Thêm nữa, đôi lúc em làm anh nhớ đến Cindy, em biết thế phải không?” Cindy là em của Rene. Cô đã chuyển đến Baton Rouge một hai năm trước. Cindy có mái tóc vàng và đôi mắt xanh: ngoài hai điều đó ra thì tôi chẳng thấy còn nét gì chung giữa tôi và cô nữa. “Anh có gặp Cindy thường không?” tôi hỏi. Hoyt và mấy người khác quanh bàn đang trao đổi về điểm số và chiến thuật của đội Shreveport Captains.
“Cũng thỉnh thoảng,” Rene đáp, lắc đầu như muốn nói anh ta muốn gặp em gái mình nhiều hơn. “Con bé làm ở căn tin bệnh viện.”
Tôi vỗ vai anh ta. “Em phải làm việc đây.”
Khi tôi quay lại quầy để lấy đồ cho khách, Sam nhướng mày lên với ý dò hỏi. Tôi mở to mắt để chứng tỏ mình kinh ngạc đến thế nào trước sự can thiệp của Rene, vậy là Sam khẽ nhún vai, cứ như thể muốn nói còn lâu mới giải thích được thái độ của con người.
Nhưng khi ra phía sau quầy để lấy thêm giấy ăn, tôi để ý thấy anh đã lôi chiếc gậy bóng chày thường được sử dụng trong trường hợp nguy cấp ra.
BÀ KHIẾN TÔI bận rộn cả ngày hôm sau. Bà lau chùi và hút bụi còn tôi chà rửa phòng tắm - ma cà rồng có cần sử dụng phòng tắm không nhỉ? Tôi tự hỏi trong lúc chà bàn chải quanh bồn cầu. Bà bắt tôi hút hết lông mèo ở ghế bành. Tôi dọn sạch chỗ rác tồn đọng. Tôi cọ bóng loáng các mặt bàn. Tôi còn lau cả máy rửa bát và máy sấy nữa, Chúa ơi!
Khi bà thúc tôi đi tắm và thay quần áo, tôi nhận ra bà coi chàng ma cà rồng Bill là bạn trai của tôi. Điều này làm tôi có cảm giác hơi kỳ cục. Thứ nhất, bà đã quá tuyệt vọng trước cuộc sống xã hội của tôi đến nỗi ngay cả ma cà rồng cũng đủ tư cách để nhận được sự chú ý của tôi; thứ hai, tôi có một vài cảm nhận củng cố cho ý kiến này; thứ ba, rất có thể Bill cũng nhận ra điều này; và thứ tư, ma cà rồng có thể làm chuyện đó như người bình thường được không nhỉ?
Tôi đi tắm, trang điểm rồi mặc váy vì biết chắc bà sẽ bực mình nếu tôi không làm vậy. Đó là một chiếc váy màu xanh dương bằng sợi cotton in đầy những bông cúc nhỏ tí xíu, nó vừa bó hơn so với mức bà muốn lại vừa ngắn hơn so với những gì Jason cho là phù hợp với em gái mình. Tôi đã nghe hai người nói thế khi tôi mặc nó lần đầu. Tôi đeo thêm đôi khuyên tai có hình viên bi nhỏ màu vàng và vấn tóc lên với một chiếc kẹp dọc vàng ruộm.
Bà nhìn tôi với ánh mắt lạ lùng mà tôi chẳng thể dịch nghĩa được. Chỉ cần lắng nghe là tôi có thể dễ dàng khám phá ra bà nghĩ gì, nhưng thật khủng khiếp nếu làm thế với người sống cùng mình, nên tôi sẽ cẩn thận để không làm vậy. Bà mặc chân váy và áo cánh như những lúc tham gia buổi gặp mặt của Hậu Duệ Của Những Người Hy Sinh Vinh Quang, không đủ trang trọng cho buổi lễ ở nhà thờ nhưng cũng không đơn giản như đồ mặc hàng ngày.
Tôi đang quét sân trước, việc mà hai bà cháu quên khuấy đi mất, thì anh đến. Anh đến đúng theo kiểu ma cà rồng, vừa phút trước chưa có ai phút sau đã thấy người xuất hiện, đứng ngay dưới bậc thềm, ngước mắt lên nhìn tôi.
Tôi cười toe. “Không làm em sợ được đâu,” tôi nói.
Anh có vẻ hơi xấu hổ. “Tôi quen xuất hiện thế này rồi,” anh đáp. “Tôi vốn không gây ra quá nhiều tiếng động.”
Tôi mở cửa. “Anh vào đi,” tôi mời, và anh bước lên bậc thềm, mắt nhìn quanh.
“Tôi vẫn nhớ chỗ này,” anh nói. “Nhưng nó không lớn đến thế này.”
“Anh nhớ ngôi nhà này ư? Bà hẳn sẽ thích lắm đấy.” Tôi dẫn anh vào phòng khách, vừa đi vừa gọi bà.
Bà tôi bước vào phòng khách với dáng điệu nghiêm trang, và tôi nhận ra rằng lần đầu tiên bà đã dám hy sinh mái tóc dày mềm mượt trắng như cước của mình cho một kiểu đầu mới, cuốn tóc quanh đầu thành một búi phức tạp. Bà cũng thoa son nữa.
Bill tỏ ra thành thạo các phương thức giao tiếp xã hội không kém gì bà. Họ chào nhau, cảm ơn, khen ngợi và cuối cùng Bill ngồi xuống chiếc ghế băng còn bà ngồi ở cái ghế mây sau khi mang ra chiếc khay đựng ba tách trà đào, vậy là hiển nhiên tôi sẽ ngồi cạnh Bill. Chẳng biết thoái thác bằng cách nào cho lịch sự, tôi đành ngồi cạnh anh, nhưng nhích ra tận mép ghế, ra vẻ như bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng lao đi để rót thêm nước vào cốc trà lạnh ngắt tượng trưng của anh.
Anh lịch sự chạm môi vào miệng cốc rồi ngồi xuống. Bà và tôi lo lắng uống một ngụm lớn.
Bà khai mào bằng một chủ đề không thích hợp chút nào. Bà nói, “Chắc anh đã nghe nói về cơn lốc kỳ lạ đó.”
“Bà cứ kể đi ạ,” Bill nói, giọng êm như nhung. Tôi không dám nhìn anh mà cứ ngồi yên đó, dán mắt vào hai bàn tay đang chắp lại.
Vậy là bà kể cho anh nghe về cơn lốc xoáy kỳ quái và cái chết của nhà Chuột. Bà kể toàn bộ câu chuyện nghe có vẻ kinh hoàng đó, nhưng chẳng có chi tiết mới mẻ nào cả, và tôi cho là Bill đã cảm thấy thoải mái hơn chút xíu.
“Hôm qua con có ghé vào trên đường đi làm,” tôi nói, vẫn không hề ngước mắt lên. “Chỗ chiếc xe moóc.”
“Thế chúng có giống với hình dung của em không?” Bill hỏi, trong giọng nói chỉ toát lên vẻ tò mò.
“Không,” tôi đáp. “Nó không hề giống với hình dung của em. Em thật sự... ngạc nhiên.”
“Sookie, hồi trước con từng chứng kiến những thiệt hại do lốc xoáy gây ra rồi mà,” bà kinh ngạc nói.
Tôi bèn đổi chủ đề. “Bill này, anh mua áo sơ mi ở đâu thế? Trông đẹp quá.” Anh đang mặc quần kaki hiệu Dockers và áo chơi gôn sọc xanh nâu, đôi giày lười bóng loáng đi kèm tất mỏng màu nâu.
“Ở hiệu Dilliard,” anh đáp, vậy là tôi cố tưởng tượng ra hình ảnh anh tại trung tâm thương mại ở Monroe, giữa những con người có lẽ đều quay nhìn sinh vật kỳ lạ với làn da óng ánh và đôi mắt tuyệt đẹp này. Anh kiếm đâu ra tiền để mua chúng nhỉ? Anh giặt quần áo bằng cách nào? Lúc nằm trong quan tài có phải anh không mặc gì không? Anh có xe hơi không hay cứ muốn đến đâu là lướt tới đó?
Bà có vẻ hài lòng với thói quen mua sắm khá bình thường của Bill. Tôi lại thấy nhói đau khi chứng kiến bà vui đến thế nào vì được đón tiếp trong phòng khách nhà mình người được cho là bạn trai tôi, kể cả khi (theo văn học bình dân) anh ta đã bị nhiễm một loại virus gây ra cái chết lâm sàng.
Bà hỏi Bill đủ mọi chuyện. Anh trả lời hết sức nhẹ nhàng nhã nhặn. Thôi được, anh là một xác chết hết sức lịch sự.
“Vậy gia đình anh cũng là người vùng này à?” bà hỏi.
“Họ của bố tôi là Compton, của mẹ là Loudermilk,” Bill đáp nhanh chóng. Anh có vẻ khá thoải mái.
“Còn rất nhiều người nhà Loudermilk ở đây,” bà vui vẻ nói. “Nhưng ta e rằng ông Jessie Compton đã qua đời năm ngoái rồi.”
“Tôi biết,” Bill đáp nhẹ nhàng. “Vì thế tôi mới quay lại. Mảnh đất đó được để lại cho tôi, và vì nền văn hóa của chúng ta đã có nhiều thay đổi đối với giống loài đặc biệt của tôi nên tôi quyết định sẽ xác nhận quyền sở hữu đó.”
“Anh biết dòng họ Stackhouse chứ? Nghe Sookie nói thì anh sống cũng khá lâu rồi.” Tôi nghĩ bà hỏi thật khéo. Tôi mỉm cười nhìn đôi tay mình.
“Tôi vẫn nhớ Jonas Stackhouse,” Bill đáp lại trước sự thích thú của bà.
“Họ hàng tôi đã ở đây từ hồi Bon Temps chỉ là một chốn hoang vu. Jonas Stackhouse chuyển đến đây cùng vợ và bốn người con lúc tôi mười sáu tuổi. Có phải căn nhà này do ông ấy xây không, ít nhất là một phần?”
Tôi để ý thấy khi Bill nghĩ về quá khứ, anh dùng một hệ thống từ ngữ và nhip điệu hoàn toàn khác. Tôi tự hỏi không biết tiếng Anh của anh đã thay đổi nhiều như thế nào trong suốt cả thập kỷ qua.
Dĩ nhiên bà đang đắm chìm trong nỗi háo hức tìm hiểu về phả hệ. Bà muốn biết tất cả mọi điều về Jonas, cụ cố tổ của ông tôi. “ông ấy có sở hữu nô lệ không?” bà hỏi.
“Thưa bà, nếu tôi nhớ chính xác thì ông ấy có một nô lệ làm việc nhà và một nô lệ ở bãi rào. Người nô lệ làm việc nhà là một phụ nữ trung niên còn người ở bãi rào là một thanh niên lực lưỡng, khỏe mạnh tên là Minas. Nhưng nhà Stackhouses tự làm hầu hết công việc đồng áng, giống như gia đình tôi.”
“Ôi, đó chính xác là điều mà câu lạc bộ nhỏ của ta muốn nghe đấy! Sookie có kể với anh...” Bà và Bill, sau đủ mọi trao đổi lịch sự, đã ấn định được thời gian Bill đến tham gia buổi gặp mặt của hội Hậu Duệ.
“Và bây giờ, nếu bà không phiền, tôi muốn mời Sookie đi dạo một lúc. Đêm nay đẹp quá.” Một cách chậm rãi, để tôi có thể nhận ra được, anh bước lại gần và nắm tay tôi, đỡ tôi đứng dậy. Tay anh cứng lạnh và trơn nhẵn. Bill không phải đang xin phép bà, nhưng cũng không hẳn là không.
“Ôi, cả hai cứ đi đi,” bà đáp hết sức vui vẻ. “Ta còn nhiều thứ phải tra cứu lắm. Anh sẽ phải kể cho ta tên tất cả những người dân địa phương anh nhớ được từ hồi là...” Bà bỏ dở câu, không muốn nói điều gì có thể gây tổn thương.
“Một cư dân ở Bon Temps,” tôi giúp bà.
“Tất nhiên rồi,” chàng ma cà rồng nói, và dựa vào đôi môi đang mím chặt lại của anh, tôi biết anh đang cố nhịn cười.
Chẳng hiểu bằng cách nào mà chúng tôi đã đứng ở cửa, nhưng tôi biết Bill đã bế tôi đi thật nhanh. Tôi mỉm cười, thực lòng cảm thấy vui. Tôi thích những điều bất ngờ.
“Bọn con về ngay thôi,” tôi nói với bà. Tôi không biết bà có để ý đến cách thức di chuyển kỳ quái của tôi không, vì bà vẫn đang thu dọn mấy tách trà.
“Ồ, cả hai không cần lo cho ta đâu,” bà đáp. “Ta sẽ ổn thôi mà.”
Bên ngoài, cóc nhái sâu bọ đang cùng ca vang một bản hòa âm giữa đêm khuya nơi thôn dã. Bill nắm tay tôi bước vào sân nhà tràn ngập mùi cỏ mới cắt và hoa mới nở. Cô mèo của tôi, Tina, bước ra khỏi bóng tối đòi được vuốt ve, vậy là tôi cúi xuống gãi đầu cho cô nàng. Tôi ngạc nhiên thấy con mèo dụi đầu vào chân Bill, và anh chẳng có vẻ gì là phật ý cả. “Em thích con vật này à?” anh hỏi bằng giọng trung tính.
“Nó là mèo của em,” tôi đáp. “Tên nó là Tina, và em rất yêu nó.”
Chẳng nhận xét gì thêm, Bill đứng nguyên đó cho đến khi Tina bỏ đi về phía bóng tối ngoài tầm chiếu sáng của chiếc đèn nơi hiên nhà.
“Anh thích ngồi ở xích đu, ghế ngoài vườn hay đi dạo?” tôi hỏi, cảm thấy giờ mình đang là chủ nhà.
“Đi dạo một chút đi. Tôi cần giãn gân giãn cốt.”
Câu nói chẳng hiểu sao làm tôi hơi lúng túng, nhưng tôi cũng bắt đầu thả bước dọc lối đi dài thông với con phố hai làn chạy phía trước nhà của cả hai chúng tôi.
“Chuyện cái xe moóc có làm em lo lắng không?”
Tôi cố nghĩ cách trả lời sao cho phù hợp.
“Em cảm thấy... ừm. Yếu ớt. Khi nghĩ về chiếc xe đấy.”
“Em biết tôi rất khỏe mà.”
Tôi nghiêng đầu sang hai bên, ngẫm nghĩ. “Phải, nhưng em không ý thức được đầy đủ về sức mạnh của anh,” tôi nói với anh. “Hay trí tưởng tượng của anh nữa.”
“Qua bao nhiêu năm, bọn tôi đã trở nên rất giỏi che giấu những việc mình làm.”
“Vậy, em đoán chắc hẳn anh cũng giết cả đống người rồi.”
“Một vài,” giọng anh đầy ẩn ý.
Tôi chắp tay ra sau lưng. “Thời gian đầu bị biến đổi thành ma cà rồng, anh có thấy đói hơn không? Chuyện xảy ra như thế nào?”
Anh không ngờ đến câu hỏi đó. Anh nhìn tôi. Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt anh ngay cả khi cả hai đang ở trong bóng tối. Khu rừng bao bọc chúng tôi. Hai đôi chân bước lạo xạo trên mặt đường rải sỏi.
“Việc tôi trở thành ma cà rồng là một câu chuyện rất dài,” anh nói. “Nhưng quả vậy, hồi còn trẻ - một vài lần - tôi đã vô ý giết người. Tôi không bao giờ biết chắc khi nào mình lại được ăn, em hiểu chứ? Bọn tôi luôn đi săn, theo bản năng, và thời đó làm gì có những thứ như máu nhân tạo đâu. Và con người cũng ít hơn bây giờ. Nhưng hồi còn sống tôi vốn là người tốt - ý tôi là, trước khi bị nhiễm virus. Vậy nên tôi cố sống cho văn minh, luôn chọn kẻ ác làm con mồi, không bao giờ lấy trẻ con làm thức ăn. Ít nhất tôi cũng cố hết sức để không bao giờ giết một đứa trẻ. Bây giờ thì khác rồi. Giờ tôi có thể ghé qua bất cứ phòng khám thâu đêm ở bất kỳ thành phố nào để mua máu nhân tạo, mặc dù mùi vị của chúng rất kinh tởm. Hay tôi có thể trả tiền cho một ả bán hoa để kiếm đủ máu cho vài ngày. Hay có thể quyến rũ ai đó, để họ cho tôi cắn yêu và sau đó quên hết mọi chuyện. Giờ tôi cũng không cần nhiều lắm.”
“Hoặc anh có thể gặp gỡ một cô nàng có vấn đề về đầu óc,” tôi nói. “Ôi, em chỉ là món tráng miệng thôi. Nhà Rattray mới là bữa chính.”
Ôi trời.
“Ái chà,” tôi thốt lên, cảm thấy nghẹt thở. “Cho em một phút nhé.”
Và anh làm theo thật. Có mò mẫm trong cả triệu người đàn ông thì cũng sẽ chẳng tìm ra được một ai sẵn lòng cho tôi từng đấy thời gian im lặng.
Tôi mở tâm trí, tháo dỡ hoàn toàn sự phòng bị của mình và thư giãn. Sự im lặng của anh tràn khắp tâm trí tôi. Tôi đứng đó, nhắm nghiền mắt, rồi thở ra với một cảm giác nhẹ nhõm quá sâu sắc đến nỗi không nói được thành lời.
“Bây giờ em vui rồi chứ?” anh hỏi, cứ như thể anh đoán được vậy.
“Vâng,” tôi thở phào. Ngay trong giây phút đó, tôi cảm thấy rõ rệt rằng cho dù sinh vật đang đứng bên tôi đây có làm gì đi nữa, thì sự bình yên này vẫn thật vô giá, sau cả một khoảng thời gian dài không ngừng nghe thấy những suy nghĩ của kẻ khác rên rỉ trong đầu mình.
“Tôi cũng thấy thoải mái,” anh nói, làm tôi bất ngờ.
“Sao lại thế?” tôi hỏi bằng giọng mơ màng chậm rãi.
“Không sợ hãi, không sốt ruột, không chỉ trích. Tôi không cần phải vận đến sức mê hoặc của mình để bắt em em đứng yên và nói chuyện với tôi.”
“Sức mê hoặc?”
“Giống như thôi miên,” anh giải thích. “Dù nhiều hay ít thì mọi ma cà rồng đều sử dụng nó. Vì trước khi người ta phát minh ra máu nhân tạo, muốn thỏa mãn được cơn đói, bọn tôi phải thuyết phục người khác rằng mình vô hại... hoặc làm họ tưởng là bọn tôi không có ở đó... hoặc đánh lừa để họ nghĩ rằng họ đang nhìn thấy một thứ khác.”
“Có hiệu quả với em không?”
“Tất nhiên,” anh đáp, giọng có vẻ kinh ngạc.
“Được rồi, anh thử đi.”
“Nhìn tôi đi.”
“Trời tối mà.”
“Không sao. Cứ nhìn vào mặt tôi đi.” Và anh bước đến trước mặt tôi, đặt hờ tay lên vai tôi và nhìn xuống. Tôi có thể thấy ánh sáng mờ mờ phát ra từ làn da và đôi mắt anh, và tôi ngước lên, băn khoăn không biết mình có tự dưng quàng quạc như gà hay lột hết quần áo ra không.
Nhưng chuyện xảy ra là... chẳng có gì cả. Tôi chỉ nhận thấy một cảm giác thoải mái như đang dùng thuốc an thần vì được ở bên anh.
“Em có cảm thấy tác động của tôi không?” anh hỏi. Giọng anh có phần hụt hơi.
“Không hề, em rất tiếc,” tôi nhún nhường đáp. “Em chỉ thấy anh phát sáng thôi.”
“Em thấy được à?” Anh lại có vẻ bị bất ngờ.
“Tất nhiên. Những người khác không thấy à?”
“Không. Lạ thật đấy, Sookie.”
“Nếu anh đã nói vậy. Mà anh bay lên cho em nhìn được không?”
“Ngay ở đây à?” Bill có vẻ thích thú.
“Đúng vậy, sao lại không chứ? Trừ phi có lý do nào đó?”
“Không, chẳng có lý do gì cả.” Anh buông tay tôi ra và bắt đầu bay lên. Tôi thở dài sung sướng. Anh bay lên giữa trời đêm, sáng lấp lánh như phiến đá cẩm thạch trắng dưới ánh trăng. Khi nâng người lên gần một mét, anh bắt đầu trôi lơ lửng. Tôi nghĩ anh đang mỉm cười với tôi.
“Mọi ma cà rồng đều có thể làm vậy à?” tôi hỏi.
“Em hát được không?”
“Không, chẳng cất nổi giai điệu nào cả.”
“Vậy đấy, không phải tất cả chúng tôi đều có những khả năng giống nhau.” Bill hạ dần xuống và nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất. “Mọi người đều quá hà khắc với ma cà rồng. Còn em thì có vẻ không như vậy,” anh bình luận. Tôi nhún vai. Tôi là ai mà có thể hà khắc với những gì bất bình thường được chứ? Anh có vẻ hiểu, bởi vì sau một lúc chúng tôi cùng rảo bước trong im lặng, Bill hỏi, “Nó luôn khiến em thấy nặng nề à?”
“Vâng, luôn luôn.” Tôi chẳng nói khác được, mặc dù không hề muốn kêu ca. “Hồi em còn nhỏ là quãng thời gian tệ hại nhất, vì em chưa biết cách dựng lên rào cản tâm trí nên đành phải nghe cả những suy nghĩ mà đáng ra em không nên nghe, và tất nhiên, em lặp lại nó như bất kỳ đứa trẻ nào khác. Ba mẹ không biết phải làm gì với em. Đặc biệt, chuyện đó làm ba em xấu hổ. Mẹ cuối cùng cũng quyết định đưa em đến bác sĩ tâm lý, những người biết chắc chắn em là ai, nhưng mẹ không chấp nhận điều đó và cứ nói đi nói lại với họ hàng là do em biết đọc ngôn ngữ cơ thể và rất giỏi quan sát nên em cứ tưởng là mình có thể nghe được tâm trí của người khác. Tất nhiên, bà chẳng đời nào thừa nhận là em nghe được tâm trí của người khác theo đúng nghĩa đen, bởi vì điều đó không phù hợp với thế giới của bà. “Và kết quả học tập của em rất kém vì em chẳng thể tập trung gì được khi những đứa khác hầu hết đều xao nhãng. Nhưng khi kiểm tra, điểm số của em rất cao vì những học sinh khác cũng đều tập trung làm bài... điều đó giúp em thoải mái phần nào. Do kết quả học tập không mấy khả quan nên đôi khi gia đình em vẫn cho rằng em lười biếng. Thầy cô giáo thì nghĩ em chậm hiểu; ôi, anh không tin được những giả thuyết này đâu. Cứ hai tháng một lần em lại phải đi khám mắt khám tai, chụp não, kiểu thế... Chúa ơi. Gia đình nghèo túng của em đã phải tiêu tốn cả đống tiền cho những chuyện đó. Nhưng họ không bao giờ có thể chấp nhận một sự thật đơn giản. Ít nhất thì cũng là ở bề ngoài, anh hiểu không?”
“Nhưng trong thâm tâm, họ vẫn biết.”
“Phải. Có một lần, ba em đang rất băn khoăn không biết có nên hậu thuẫn cho một ông bạn mở cửa hàng phụ tùng ô tô không, ba gọi em vào ngồi cùng khi ông bạn kia đến nhà. Sau khi ông ta đi rồi, ba đưa em ra ngoài, nhìn ra chỗ khác và hỏi em, ‘Sookie này, ông ta có nói thật không?’ Đó là khoảnh khắc kỳ lạ nhất.”
“Lúc đó em bao nhiêu tuổi?”
“Chắc chưa đến bảy tuổi vì ba mẹ mất hồi em lớp hai.”
“Như thế nào?”
“Lũ quét. Cuốn họ đi ngay chỗ cây cầu phía Tây đằng kia.”
Bill không bình luận gì. Dĩ nhiên, anh đã chứng kiến quá nhiều cái chết rồi. “Người đàn ông đó có nói dối không?” anh hỏi sau vài giây.
“Ồ, có. Ông ta định cuỗm hết tiền của ba rồi bỏ trốn.”
“Em có một món quà trời cho.”
“Món quà. Đúng vậy.” Tôi có thể cảm thấy khóe miệng mình trễ xuống. “Điều đó làm em khác với những con người khác.”
“Đúng thế thật.” Chúng tôi im lặng đi thêm một lúc nữa. “Vậy anh hoàn toàn không coi mình là người sao?”
“Tôi không là người từ rất lâu rồi.”
“Anh có thực sự tin rằng mình đã mất linh hồn rồi không?” Đó là điều Giáo hội Thiên chúa vẫn rao giảng về ma cà rồng.
“Tôi không cách nào biết chắc được,” Bill đáp, hầu như chẳng để tâm. Có vẻ như anh đã nghiền ngẫm về điều này quá nhiều đến nỗi nó đã trở nên quá tầm thường. “Cá nhân mà nói, tôi không nghĩ vậy. Có một phần con người tôi không hề độc ác, không hề tàn nhẫn, kể cả sau bao nhiêu năm tháng ấy. Tuy nhiên tôi cũng hoàn toàn có thể trở thành như thế.”
“Bị nhiễm virus đâu phải lỗi của anh.”
Bill khịt mũi, cố gắng sao cho âm thanh phát ra thật nhã nhặn. “Chừng nào còn ma cà rồng thì chừng đó vẫn còn các giả thuyết. Có khi giả thuyết đó đúng đấy.” Rồi anh nhìn tôi như thể rất tiếc vì đã nói thế. “Nếu do virus mà con người trở thành ma cà rồng,” anh nói tiếp với giọng thoải mái hơn, “thì đó là loại virus được tuyển lựa rất kỹ càng đấy.”
“Làm sao mà anh trở thành ma cà rồng?” Tôi đã đọc đủ loại giả thuyết, nhưng đây là câu trả lời trực tiếp từ người thật việc thật.
“Tôi sẽ phải rút máu em, một, hai hay ba ngày một lần, đến khi em sắp chết thì cho em máu của mình. Em sẽ nằm như một cái xác trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, đôi khi đến tận ba ngày, rồi tỉnh lại và lang thang trong đêm. Rồi em sẽ đói.”
Cách anh nói từ “đói” làm tôi rùng mình.
“Không còn cách nào khác sao?”
“Các ma cà rồng khác có kể cho tôi là những người bị họ cắn thường xuyên, hết ngày này sang ngày khác, có thể bất ngờ trở thành ma cà rồng. Nhưng những lần cắn đó phải sâu, liên tục và khiến họ no nê. Những người khác, trong hoàn cảnh tương tự, sẽ chỉ đơn thuần trở nên thiếu máu trầm trọng. Mặt khác, khi người ta cận kề cái chết vì lý do nào đó, có khi là một vụ tai nạn ô tô hay dùng ma túy quá liều, quá trình biến đổi có thể... đi theo chiều hướng tệ hại.”
Tôi bắt đầu cảm thấy sởn cả gai ốc. “Đến lúc đổi đề tài rồi. Anh định làm gì với mảnh đất nhà Compton?”
“Tôi định sống ở đó, càng lâu càng tốt. Tôi chán cái cảnh phải lang thang từ thành phố này sang thành phố khác rồi. Tôi sinh trưởng ở vùng nông thôn. Bây giờ khi đã có quyền tồn tại hợp pháp, khi đã có thể đến Monroe, Shreveport hoặc New Orleans để mua máu nhân tạo hoặc tìm gái bán hoa chuyên phục vụ những kẻ như tôi, tôi muốn ở lại đây. Ít nhất cũng để xem có được không. Tôi đã lang thang nay đây mai đó hàng bao nhiêu thập kỷ rồi.”
“Tình trạng căn nhà thế nào?”
“Khá tệ,” anh thừa nhận. “Tôi đang cố dọn dẹp sạch sẽ. Tôi có thể làm chuyện này vào ban đêm. Nhưng có một số vấn đề tôi cần phải thuê thợ. Tôi làm mộc không tồi, nhưng lại chẳng biết gì về điện đóm cả.”
Tất nhiên là anh không biết rồi.
“Có vẻ như ngôi nhà cần được mắc lại dây điện,” Bill tiếp tục, nghe giống hệt mọi gia chủ háo hức muốn tân trang nhà cửa khác.
“Anh có điện thoại không?”
“Tất nhiên rồi,” anh nói, có vẻ bất ngờ.
“Thế thì chuyện thuê thợ có vấn đề gì chứ?”
“Rất khó liên lạc với họ vào ban đêm và cũng rất khó thuyết phục họ gặp tôi để trao đổi những chuyện cần thiết. Họ sợ, hoặc họ nghĩ đó chỉ là cú điện thoại phá rối thôi.” Giọng Bill lộ rõ sự thất vọng, dù anh đã tránh quay mặt về phía tôi.
Tôi bật cười. “Nếu anh muốn thì để em gọi họ cho,” tôi đề nghị. “Họ biết em mà. Cho dù mọi người đều nghĩ em điên nhưng họ vẫn biết em là người trung thực.”
“Thế thì thật tuyệt,” Bill đáp, sau một lúc chần chừ. “Họ có thể làm vào ban ngày, sau khi tôi đã gặp họ để trao đổi về công việc và giá thành.”
“Không được ra ngoài vào ban ngày chắc bất tiện lắm nhỉ,” tôi vô tư nói. Tôi thật tình chẳng cân nhắc gì cả. Giọng Bill khô khốc. “Chắc chắn rồi.”
“Và phải che giấu nơi nghỉ ngơi của mình nữa,” tôi nói tiếp mà không suy nghĩ.
Khi nhận ra sự im lặng của Bill, tôi vội xin lỗi.
“Em xin lỗi,” tôi nói. Nếu trời không tối thế này, anh chắc sẽ thấy mặt tôi đang đỏ bừng.
“Nơi nghỉ ngơi vào ban ngày của mỗi ma cà rồng là bí mật cần phải được anh ta giữ gìn cẩn thận nhất,” Bill nói khô khốc.
“Em xin lỗi.”
“Lời xin lỗi được chấp nhận,” anh đáp sau vài giây im lặng nặng nề. Chúng tôi đã ra đến đường cái và nhìn trước nhìn sau như thể đang đón taxi. Giờ khi cả hai đã ra khỏi hàng cây, tôi có thể nhìn rõ anh dưới ánh trăng. Anh cũng có thể nhìn thấy tôi. Anh nhìn khắp người tôi.
“Bộ váy hợp với màu mắt em.”
“Cảm ơn anh.” Tôi chắc chắn không thể nhìn thấy anh rõ đến mức đấy. “Mặc dù nó hơi thiếu vải.”
“Xin lỗi?”
“Tôi vẫn thấy khó mà quen được với cách ăn mặc mát mẻ của các thiếu nữ bây giờ,” Bill nói.
“Vài chục năm nữa là anh quen ngay mà,” tôi nói vẻ chanh chua. “Thôi nào, Bill! Người ta mặc váy ngắn bốn chục năm nay rồi!”
“Tôi vẫn thích váy dài hơn,” anh nói với vẻ lưu luyến. “Tôi thích những bộ váy lót phụ nữ thường mặc. Những chiếc váy lót dài.”
Tôi bật ra một âm thanh thô lỗ.
“Mà em có mặc váy lót dài không thế?” anh hỏi.
“Em mặc một chiếc quần lót nylon màu be có đăng ten rất đẹp,” tôi nói với vẻ bị xúc phạm. “Nếu anh là con người, em sẽ nghĩ anh đang lái câu chuyện về đồ lót của em đấy!”
Anh bật cười, tiếng cười khùng khục trầm trầm không tự nhiên đã tác động đến tôi một cách mãnh liệt. “Em có mặc chiếc quần trong đó đàng hoàng không thế, Sookie?”
Tôi lè lưỡi về phía anh vì tôi biết anh có thể nhìn thấy tôi. Rồi tôi vén mép váy lên, để lộ dải đăng ten của chiếc quần lót và vài phân của vòng hông mình.
“Anh vừa lòng chưa?” tôi hỏi.
“Em có đôi chân rất đẹp, nhưng tôi vẫn thích váy dài hơn.”
“Đồ ương bướng,” tôi nói với anh.
“Vợ tôi cũng thường nói tôi như vậy.”
“Anh đã kết hôn rồi à?”
“Ừ, tôi trở thành ma cà rồng khi ba mươi tuổi. Tôi đã có vợ và hai con. Em gái tôi, Sarah, sống cùng gia đình tôi. Con bé chẳng bao giờ lập gia đình. Người yêu của con bé đã chết trong Cuộc chiến.”
“Cuộc nội chiến.”
“Phải. Tôi đã trở về từ chiến trường. Tôi là một trong số những người may mắn. Ít nhất thì lúc đó tôi cũng nghĩ vậy.”
“Anh thuộc phe miền Nam,” tôi nói với vẻ ngạc nhiên. “Nếu anh còn giữ bộ quân phục và mặc nó đến buổi họp mặt thì các bà ở câu lạc bộ đó sẽ ngất vì sung sướng mất.”
“Cuối cuộc chiến thì tôi chẳng còn quân phục nữa,” anh u sầu nói. “Chúng tôi ai nấy đều quần áo rách bươm còn bụng thì đói meo.” Anh có vẻ xúc động mạnh. “Nhưng điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa sau khi tôi trở thành ma cà rồng,” Bill nói, giọng anh lại trở nên lạnh lùng lạnh nhạt.
“Em đã khơi lại chuyện buồn của anh rồi,” tôi nói. “Em xin lỗi. Chúng ta nên nói chuyện gì bây giờ?” Chúng tôi quay lại và bắt đầu rảo bước về nhà.
“Cuộc sống của em,” anh nói. “Kể cho tôi nghe mỗi sáng thức dậy em làm gì.”
“Em ra khỏi giường. Rồi em dọn giường ngay lập tức. Em ăn sáng. Bánh mì nướng, đôi khi là ngũ cốc, đôi khi là trứng, và cà phê - sau đó em đánh răng, tắm rồi thay quần áo. Thi thoảng em phải cạo lông chân, anh biết đấy. Nếu là ngày phải làm việc thì em đi làm. Nếu không phải làm ca ngày thì em có thể đi mua sắm, đưa bà đến cửa hàng, thuê phim về xem hoặc tắm nắng. Em cũng đọc rất nhiều sách. May cho em là bà vẫn còn nhanh nhẹn hoạt bát. Bà giặt giũ, là ủi và đảm nhiệm phần lớn việc nấu nướng.”
“Thế chuyện hẹn hò thì sao?”
“Ồ, em nói anh rồi mà. Chuyện đó không thể được.”
“Vậy em sẽ làm gì, Sookie?” anh hỏi nhẹ nhàng.
“Già đi rồi chết.” Giọng tôi cụt ngủn. Anh đã động chạm đến những đề tài nhạy cảm của tôi quá thường xuyên. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Bill giơ tay ra nắm lấy tay tôi. Bây giờ, khi cả hai đều đã gây khó chịu cho nhau một chút, đều đã động đến một số vấn đề dễ chạm lòng nhau, bầu không khí dường như dễ chịu hơn phần nào. Trong màn đêm tĩnh lặng, một cơn gió nhẹ thổi mái tóc tôi lòa xòa khắp mặt.
“Em tháo kẹp tóc ra chứ?” Bill hỏi. Chẳng có lý do gì để không làm thế cả. Tôi rút tay lại rồi gỡ chiếc kẹp ra. Tôi lắc đầu để mái tóc xõa xuống. Tôi nhét chiếc kẹp tóc vào túi áo anh, vì chẳng biết để ở đâu khác cả. Cứ như thể đang làm một việc hết sức bình thường, Bill luồn tay vào tóc tôi, chải mái tóc chảy trên hai vai tôi.
Tôi chạm vào tóc mai anh, vì có vẻ như bây giờ hành động đó hoàn toàn được phép. “Chúng dài quá,” tôi nhận xét.
“Kiểu này từng là mốt đấy,” anh nói. “May mà tôi không để râu như nhiều người khác, chứ không tôi phải để râu cả đời rồi.”
“Anh không bao giờ phải cạo râu sao?”
“Không, may mà hồi trước tôi đã cạo rồi.” Anh có vẻ rất thích thú với mái tóc của tôi. “Dưới ánh trăng, chúng trông như dải bạc vậy,” anh nói khẽ.
“Chà. Còn sở thích của anh thì sao?” Tôi có thể thấy thấp thoáng nụ cười trong bóng tối.
“Tôi cũng thích đọc sách.” Anh trầm ngâm. “Tôi thích xem phim... tất nhiên, tôi đã theo dõi toàn bộ quá trình khởi đầu của điện ảnh. Tôi thích giao lưu với những con người có cuộc sống bình thường. Đôi khi, tôi cũng khao khát được bầu bạn với những ma cà rồng khác, mặc dù cuộc sống của họ khác xa của tôi.” Chúng tôi im lặng một lúc.
“Anh có thích xem ti vi không?”
“Thỉnh thoảng,” anh thú nhận. “Có một thời gian ngắn tôi thường thu lại các bộ phim truyền hình để xem vào buổi tối vì tôi sợ mình có thể quên mất cuộc sống con người. Sau đó thì tôi dừng lại, bởi vì qua những gì tôi xem được trên các chương trình đó thì quên được cuộc sống con người cũng là một điều hay.”
Tôi bật cười. Chúng tôi bước vào vùng ánh sáng bao quanh ngôi nhà. Tôi phần nào hy vọng bà đang ngồi trên xích đu đợi hai chúng tôi, nhưng bà không ở đó. Chỉ có một bóng đèn mờ sáng trong phòng khách. Tôi nghĩ quả thật bà đang trầm trọng hóa tình hình.
Chuyện này cũng chỉ giống như việc được một anh chàng mới quen đưa về nhà sau buổi hẹn hò đầu tiên thôi mà. Thật ra tôi đang băn khoăn không hiểu anh có định hôn tôi không. Với quan điểm của anh về chuyện váy áo thì chắc hẳn anh sẽ cho rằng hành động đó là rất không phù hợp. Nhưng cũng ngu ngốc không kém việc hôn ma cà rồng, tôi nhận ra mình thật sự muốn được làm thế, hơn bất kỳ thứ gì khác.
Ngực tôi thắt lại với cảm giác cay đắng vì một điều nữa mà mình không được nhận. Và rồi tôi nghĩ, sao lại không cơ chứ?
Tôi kéo nhẹ tay anh để anh dừng lại. Tôi rướn người đặt môi lên gò má mờ sáng của anh. Tôi hít thật sâu mùi da thịt anh, không có gì đặc biệt nhưng hơi mằn mặn. Anh thoang thoảng mùi nước hoa.
Tôi cảm thấy anh rùng mình. Anh quay đầu lại để môi anh chạm vào môi tôi. Sau một thoáng, tôi vòng tay qua cổ anh. Nụ hôn của anh sâu hơn, và tôi tách khóe môi mình ra.
Tôi chưa bao giờ được hôn như vậy. Nụ hôn cứ kéo dài mãi, dài mãi cho đến khi tôi tưởng như cả thế giới nằm trọn trong nụ hôn này, trong sự hòa quyện giữa môi chàng ma cà rồng và môi tôi. Tôi có thể cảm nhận được nhịp thở của mình trở nên gấp gáp hơn, và tôi bắt đầu muốn những chuyện khác nữa.
Bill đột nhiên lùi lại. Anh hình như hơi run rẩy, và tôi vô cùng hài lòng vì điều đó. “Chúc em ngủ ngon, Sookie,” Anh nói, vuốt tóc tôi lần cuối.
“Anh cũng ngủ ngon nhé, Bill,” tôi đáp. Giọng tôi cũng có vẻ run rẩy. “Mai em sẽ cố liên lạc với mấy tay thợ điện. Em sẽ báo lại cho anh sau.”
“Tối mai em qua nhà anh nhé - nếu em không phải đi làm?”
“Vâng,” tôi nói. Tôi vẫn đang cố định thần.
“Gặp lại sau nhé. Cảm ơn em, Sookie.” Và anh quay đi, băng qua cánh rừng để về nhà mình. Một khi đã bước vào bóng tối, anh trở nên hoàn toàn vô hình.
Tôi cứ đứng đó, nhìn chằm chằm như một con ngốc cho đến khi giật mình tỉnh lại và bước vào nhà để lên giường đi ngủ.
Tôi không biết mình đã nằm thao thức bao lâu, băn khoăn không biết giống người bất tử ấy có thật sự làm được... chuyện ấy không. Tôi cũng đắn đo không hiểu mình có thể trao đổi thẳng thắn với Bill về vấn đề này hay không. Đôi khi anh có vẻ hơi quá cổ hủ, nhưng cũng có lúc lại dường như bình thường như bất cứ anh chàng hàng xóm nào khác. Thực ra thì không hẳn là bình thường, nhưng cũng phần nào như vậy.
Mọi chuyện có vẻ vừa tuyệt vời vừa thảm hại khi sau từng đấy năm, người đàn ông đầu tiên tôi muốn làm tình lại không hẳn là con người. Khả năng ngoại cảm đã hạn chế rất khắt khe những lựa chọn của tôi. Nếu làm tình chỉ để cho có thì chắc chắn chẳng thành vấn đề với tôi; nhưng tôi đã chờ đợi rất lâu để có một lần ân ái thật sự khiến tôi hạnh phúc.
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi ân ái, và rồi sau bao nhiêu tháng năm chờ đợi, tôi phát hiện ra mình không có khả năng làm chuyện đó? Hay biết đâu cảm giác cũng chẳng tuyệt vời gì cho cam. Có thể tất cả những bộ phim những cuốn sách đó chỉ nói quá lên mà thôi. Kể cả Arlene nữa, chị dường như chẳng bao giờ hiểu được rằng tôi không có hứng thú gì với việc nghe chị kể về đời sống chăn gối của chị.
Cuối cùng tôi cũng chìm vào giấc ngủ, với những giấc mơ dài u ám.
Buổi sáng hôm sau, chen giữa những câu hỏi của bà về chuyến đi dạo với Bill và chuyện tương lai của hai đứa, tôi gọi vài cuộc điện thoại.
Tôi tìm được hai thợ điện, một thợ sửa ống nước và vài người làm dịch vụ cho tôi số điện thoại để liên lạc vào ban đêm, và tôi nhắc để họ biết rằng một cuộc điện thoại từ Bill Compton không phải là trò chơi khăm.
Cuối cùng, khi tôi đang nằm tắm nắng thì bà mang điện thoại ra cho tôi.
“Sếp của con,” bà nói. Bà thích Sam, và anh ấy hẳn vừa nói điều gì đó làm bà rất vui vì bà đang cười tươi như mèo Cheshire[2] vậy.
[2] Chú mèo nổi tiếng với nụ cười quái dị trong câu chuyện bất hủ “Alice lạc vào xứ sớ thần tiên”.
“Chào anh, Sam,” tôi trả lời điện thoại, giọng không mấy vui vẻ vì biết chắc quán hẳn đang có chuyện. “Dawn không đến được, cô gái thân mến.” anh nói.
“Ôi... chết tiệt,” tôi bật thốt, biết rõ mình sẽ phải đến làm thế. “Em cũng có kế hoạch mà, Sam.” Đó là màn phủ đầu. “Anh cần em khi nào?”
“Em làm từ năm đến chín giờ được không? Thế thì đỡ cho anh quá.”
“Rồi em có được nghỉ bù buổi khác không?”
“Dawn sẽ chia ca với em một buổi tối nào đó nhé?”
Tôi văng vài lời tục tĩu, trong khi bà đứng ngay cạnh với vẻ mặt nghiêm nghị. Tôi biết thừa lát nữa mình sẽ nhận được một bài giáo huấn đây. “Ôi, được rồi,” tôi miễn cưỡng đáp. “Vậy gặp lại anh lúc năm giờ.”
“Cảm ơn em, Sookie,” anh nói. “Anh biết có thể trông cậy vào em mà.”
Tôi cố vui với câu khen của anh. Nó có vẻ là ưu điểm chẳng mấy tích cực. Bạn luôn có thể nhờ Sookie giúp đỡ vì cô ấy không có cuộc sống riêng!
Tất nhiên, đến chỗ Bill sau chín giờ cũng chẳng vấn đề gì. Dù sao thì anh cũng thức cả đêm mà.
Công việc chưa bao giờ có vẻ chậm chạp như thế. Tôi không tài nào tập trung đủ độ để có thể giữ vững rào cản tâm trí của mình vì tôi không ngừng nghĩ về Bill. May là không có quá nhiều khách hàng, nếu không thì có khi tôi đã buộc phải nghe đủ thứ rác rưởi rồi. Dù sao thì, tôi đã phát hiện ra Arlene bị chậm kinh, và chị sợ mình đã có mang, vậy là trước khi có thể kiềm chế được, tôi đã ôm chị thật chặt. Chị nhìn tôi với ánh mắt dò hỏi, và rồi mặt chị đỏ bừng lên.
“Em đọc tâm trí chị đấy à, Sookie?” chị hỏi bằng giọng cảnh cáo. Arlene là một trong số ít người đơn giản chấp nhận khả năng của tôi mà chẳng cần một lời giải thích và cũng không xếp tôi vào loại gàn dở vì đã sở hữu một khả năng như thế. Chị cũng không thường nói về chuyện ấy.
“Em xin lỗi, em không cố tình,” tôi xin lỗi. “Hôm nay em không tập trung lắm.”
“Được rồi. Nhưng từ giờ đừng có làm thế nữa nhé.” Arlene lúc lắc ngón tay trước mặt tôi, những búp tóc đỏ rực của chị ôm lấy hai gò má. Tôi những muốn òa khóc.
“Em xin lỗi,” tôi nói lần nữa, rồi lao vào kho để cố trấn tĩnh lại. Tôi phải giữ bộ mặt bình thường và kìm nén những giọt nước mắt sắp trào ra.
Tôi nghe thấy tiếng cửa mở đằng sau mình.
“Em nói em xin lỗi rồi mà, Arlene!” tôi cáu bẳn gắt, chỉ muốn được ở một mình. Đôi lúc Arlene không phân biệt được khả năng ngoại cảm với năng lực siêu linh. Tôi sợ chị sẽ hỏi tôi xem liệu chị có mang thực hay không. Tốt hơn hết là chị ấy nên sớm mua một bộ thử thai.
“Sookie.” Đó là Sam. Anh đặt tay lên vai tôi, xoay tôi lại. “Có chuyện gì thế?”
Giọng anh thật dịu dàng, và lại càng làm tôi muốn khóc hơn.
“Anh nên nói bằng giọng thật tàn nhẫn vào, để em không khóc!” tôi đáp.
Anh cười, không phải cười phá lên mà chỉ khe khẽ thôi. Rồi anh vòng tay qua người tôi.
“Có chuyện gì thế?” Anh chắc chắn sẽ không bỏ cuộc mà đi chỗ khác. “Ôi, em...” Và rồi tôi ngưng bặt. Tôi không bao giờ, chưa bao giờ nói một cách thẳng thắn về vấn đề của mình (đó là cách tôi nghĩ về chuyện này đấy) với Sam hay bất kỳ ai khác. Mọi người ở Bon Temps đều biết những chuyện đồn đại về lý do tôi kỳ lạ đến thế, nhưng chẳng ai có vẻ nhận ra rằng dù muốn hay không tôi vẫn không ngừng phải nghe tâm trí họ huyên thiên đủ chuyện - ngày nào cũng vậy, tiếng rên rỉ rên rỉ rên rỉ... “Em nghe thấy chuyện gì làm em buồn à?” Giọng anh nhẹ nhàng như thể mọi-thứ-đương-nhiên-là-thế. Anh chạm tay vào giữa trán tôi, ra dấu anh biết chính xác
“A lô,” bà nói. Vì một lý do nào đó, giọng trả lời điện thoại của bà luôn có vẻ cấm cảu, như thể bà không muốn nhận bất cứ cuộc điện thoại nào cả. Nhưng tôi biết thực ra không phải vậy.
“Chào Everlee. Không, đang ngồi nói chuyện với Sookie thôi, con bé vừa dậy. Không, hôm nay tôi chưa nghe tin gì hết. Không, chưa ai gọi cho tôi. Sao? Lốc xoáy nào? Hôm qua trời quang mà. Góc đường Four Tracks ư? Thế à? Không! Không, không hề! Thật sao? Cả hai vợ chồng à? ừm, ừm, ừm. Thế Mike Spencer nói sao?” Mike Spencer là nhân viên điều tra những cái chết bất đắc kỳ tử ở khu vực này. Tôi bắt đầu thấy sởn tóc gáy. Tôi uống nốt tách cà phê và rót thêm một cốc khác. Tôi nghĩ mình rồi sẽ cần đến nó.
Bà dập máy một phút sau đó.
“Sookie này, con sẽ không tin nổi đã có chuyện gì đâu!”
Tôi sẵn sàng cá là mình chắc chắn sẽ tin.
“Chuyện gì ạ?” tôi hỏi lại, cố không toát lên vẻ tội lỗi.
“Dù tối qua trời có quang đến mấy thì chắc chắn vẫn có lốc xoáy ở góc đường Four Tracks! Nó lật nhào chiếc xe moóc ở khoảng rừng thưa chỗ đó. Trong xe vẫn còn một đôi vợ chồng, cả hai đều thiệt mạng, chẳng hiểu sao họ lại mắc kẹt dưới chiếc xe và bị nghiền nát cả. Mike nói ông ta chưa từng chứng kiến chuyện nào tương tự.
“Ông ta sẽ đưa mấy cái xác đi khám nghiệm tử thi chứ ạ?”
“Ồ, chắc thế, mặc dù theo Stella thì nguyên nhân tử vong đã rõ rành rành rồi. Cái xe moóc bị lật nghiêng, xe hơi của họ thì chênh vênh ở trên, cây cối xung quanh bị nhổ bật cả gốc.”
“Chúa ơi,” tôi thì thầm, nghĩ đến sức mạnh cần thiết để tạo dựng nên cái hiện trường đó.
“Cưng à, con vẫn chưa nói cho bà biết tối qua anh bạn ma cà rồng của con có đến hay không?”
Tôi giật bắn người vì cảm giác tội lỗi cho tới khi nhận ra bà đang nghĩ gì, bà muốn thay đổi chủ đề. Suốt mấy hôm nay bà đều hỏi tôi có gặp Bill không, và giờ thì cuối cùng tôi đã có thể trả lời bà là có - nhưng với một trái tim nặng trĩu phiền muộn.
Không ngoài dự đoán của tôi, bà phấn khích đến độ không kiềm chế nổi. Bà lướt quanh gian bếp như thể thái tử Charles sắp đến vậy.
“Tối mai à. Vậy mấy giờ anh ta đến?” bà hỏi.
“Sau hoàng hôn. Con đoán sớm nhất là khoảng đó.”
“Vậy thì ta có thể chuẩn bị vào ban ngày, chúng ta còn ít thời gian quá.” Bà ngẫm nghĩ. “Được rồi, ta sẽ có thời gian ăn tối và thu dọn bàn ăn. Và ta có cả ngày mai để dọn dẹp nhà cửa. Bà cá là tấm thảm trải sàn chẳng được để mắt tới cả năm nay rồi?
“Bà ơi, chúng ta đang nói đến một anh chàng ngủ trong lòng đất cả ngày đấy,” tôi nhắc bà. “Con nghĩ là anh ấy chẳng bao giờ để mắt đến thảm trải sàn đâu.”
“Thôi được, nếu không làm vì anh ta thì là vì bà vậy, để bà còn được tự hào chứ,” giọng bà chắc nịch. “Thêm nữa, cô gái à, làm sao con biết anh ta ngủ ở đâu chứ?”
“Câu hỏi hay lắm bà. Con không biết. Nhưng anh ấy không được ra ngoài ánh sáng nên con đoán vậy thôi.” Chẳng mất nhiều thời gian để tôi nhận ra rằng không gì có thể ngăn bà tôi chìm đắm trong khát khao được thể hiện niềm tự hào về nhà cửa. Khi tôi chuẩn bị đi làm, bà đã đến tiệm tạp hóa, thuê một chiếc máy hút bụi rồi bắt tay vào việc dọn dẹp.
Trên đường đến quán Merlotte, tôi đi vòng sang phía Bắc và lái xe qua góc đường Four Tracks. Đó là một ngã tư có từ rất lâu rồi. Giờ nó đã được chính thức hóa bằng những tấm biển chỉ đường và vỉa hè, còn dân địa phương thì bảo đây là giao lộ của hai đường mòn dẫn đến các bãi săn. Tôi đoán sớm muộn gì ở chỗ này cũng sẽ mọc lên các khu nhà trại và trung tâm mua sắm, nhưng giờ nó vẫn là rừng và theo Jason thì chỗ đó vẫn đầy nhóc thú để săn.
Vì chẳng bị thứ rào chắn nào ngăn cản, tôi lái xe vào con đường mòn dẫn đến bãi đất nơi nhà Rattray đỗ chiếc xe moóc đi thuê của mình. Tôi dừng lại và nhìn chằm chằm qua cửa kính chắn gió, kinh hãi. Chiếc xe moóc nhỏ cũ rích nằm bẹp gí cách vị trí ban đầu gần ba mét. Chiếc xe con màu đỏ lồi lõm của vợ chồng Rattray vẫn còn bám vào mép ngôi nhà di động dúm dó. Cây bụi và những mảnh vỡ nằm rải rác quanh khu đất trống, còn khu rừng phía sau xe moóc trông rõ là đã bị một sức mạnh cực lớn quét qua; các nhánh cây rơi vương vãi, trên một ngọn thông treo lủng lẳng đủ thứ hầm bà lằng. Trên cành cây vắt vẻo cả quần áo lẫn một chiếc chảo rán.
Tôi từ từ bước ra khỏi xe và đảo mắt nhìn xung quanh. Sự tàn phá thật quá mức tưởng tượng, nhất là khi tôi biết rõ nguyên nhân không phải do cơn lốc; chàng ma cà rồng Bill đã dàn dựng hiện trường này để giải thích cho cái chết của nhà Rattray. Một chiếc Jeep cũ kỹ lao trên con đường mòn, dừng lại ngay cạnh tôi. “Này, Sookie Stackhouse!” Mike Spencer gọi. “Làm gì ở đây thế, cô gái? Không phải đi làm à?”
“Có chứ ạ. Cháu có quen gia đình Chuột - ý cháu là nhà Rattray. Chuyện này thật khủng khiếp.” Tôi nghĩ câu nói đó đã đủ độ mơ hồ rồi. Giờ tôi đã thấy cảnh sát trưởng đi cùng Mike.
“Thật khủng khiếp. Quả thế,” cảnh sát trưởng Bud Dearborn nói trong lúc bước xuống chiếc Jeep. “Ta nghe nói tuần trước cháu có va chạm với Denise và Mack ở bãi đậu xe quán Merlotte.”
Tôi cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi hai người đàn ông bước đến đứng trước tôi.
Mike Spencer là giám đốc một trong hai nhà tang lễ ở Bon Temps. Mặc dù Mike luôn chỉ ra một cách nhanh chóng và rõ ràng rằng nếu muốn, bất cứ ai cũng đều có thể được chôn cất ở nhà tang lễ Cha Con Spencer nhưng dường như chỉ người da trắng là tỏ ra hứng thú. Tương tự thế, chỉ người da màu mới chọn cách yên nghỉ tại Sweet Rest. Mike là một người đàn ông trung niên nặng nề với râu tóc màu trà loãng, thích giày cao bồi cùng cà vạt dây, những thứ ông ta không thể mang khi làm việc ở Cha Con Spencer. Lúc này ông đang mặc cả hai.
Cảnh sát trưởng Dearborn, vốn nổi tiếng là người tử tế, lớn tuổi hơn Mike một chút, nhưng từ mái tóc xám dày đến đôi giày nặng trịch đều toát lên vẻ gọn gàng cứng rắn. Ông có gương mặt khắc khổ và cặp mắt nâu tinh anh. Ông là bạn thân của bố tôi hồi trước.
“Vâng ạ, bọn cháu có chút bất đồng,” tôi thú thực bằng giọng nhã nhặn nhất.
“Cháu có muốn kể ta nghe không?” Cảnh sát trưởng rút điếu Marlboro ra và châm thuốc với chiếc bật lửa trơn bằng kim loại.
Và tôi đã phạm phải một sai lầm. Đáng ra tôi nên kể cho ông. Tôi vốn bị cho là điên, cũng có vài người nghĩ tôi ngốc nghếch. Nhưng tôi thấy mình chẳng việc gì phải thanh minh với Bud Dearborn phải giải thích với Bud Dearborn. Chẳng có lý do nào cả, trừ vấn đề tình cảm.
“Tại sao ạ?” tôi hỏi lại.
Đôi mắt nhỏ màu nâu của ông đột nhiên sáng lên sắc lẻm, không khí dễ chịu tan biến ngay tức thì.
“Sookie,” ông nói, giọng đầy thất vọng. Tôi mất cả phút mới hiểu ra vấn đề.
“Cháu không làm chuyện này,” tôi nói, vẫy tay về phía cảnh tan hoang. “Không, tất nhiên là cháu không làm,” ông đồng tình. “Nhưng dù sao đi nữa, vừa tuần trước gây gổ với người ta thì tuần này họ chết, và ta thấy cần hỏi han một chút.”
Tôi cân nhắc khả năng nhìn chằm chằm trả lại khiến ông phải cụp mắt xuống. Làm được thế hẳn sẽ dễ chịu lắm, nhưng tôi không cho là cảm giác dễ chịu ấy sẽ đáng đồng tiền bát gạo. Tôi dần ý thức được rõ ràng rằng đôi khi mang tiếng là ngốc nghếch cũng có cái lợi của nó.
Tôi có thể không được học hành đến nơi đến chốn và hơi xa rời thực tế, nhưng tôi không ngốc nghếch hay dốt nát.
“Thật ra thì, chúng đã làm hại bạn cháu,” tôi thú nhận, cúi gằm đầu xuống dán mắt vào đôi giày của mình.
“Có phải là anh chàng ma cà rồng sống ở ngôi nhà cổ của gia đình Compton không?” Mike Spencer và Bud Dearborn đánh mắt sang nhau. “Vâng ạ.” Tôi hơi bất ngờ khi biết Bill đang sống ở đâu, nhưng họ không nhận ra. Hàng năm trời cố gắng không phản ứng trước những điều không muốn nghe mà vẫn phải nghe đã giúp tôi điều khiển được khá tốt nét mặt của mình. Ngôi nhà cũ của gia đình Compton nằm ngay phía bên kia cánh đồng đối diện với nhà tôi, trên cùng một bên đường. Hai ngôi nhà chỉ bị ngăn cách bởi cánh rừng và nghĩa trang. Thật tiện cho Bill, tôi nghĩ thầm, và mỉm cười. “Sookie Stackhouse, bà cháu có cho cháu giao du với tay ma cà rồng đấy không?” Mike hỏi chẳng hề giữ kẽ. “Chú cứ việc hỏi bà cháu thoải mái,” tôi đáp với giọng ác ý, nóng lòng muốn biết bà sẽ nói sao khi có người cho rằng bà không quan tâm đến tôi. “Chú biết không, vợ chồng Rattray đã cố rút máu Bill.”
“Vậy ra tay ma cà rồng đó bị vợ chồng Rattray rút máu à? Và cháu đã ngăn chúng lại?” cảnh sát trưởng ngắt lời tôi.
“Vâng,” tôi đáp, cố tỏ vẻ cương quyết.
“Rút máu ma cà rồng là phạm pháp,” ông đăm chiêu.
“Nếu giết một ma cà rồng không có ý làm hại mình thì có tính vào tội sát nhân không ạ?” tôi hỏi.
Có lẽ tôi đã tỏ ra ngây thơ hơi thái quá.
“Cháu biết thừa câu trả lời là có mà, mặc dù ta không đồng tình với cái luật đó. Đó là luật, và ta phải tuân theo,” viên cảnh sát trưởng nói, giọng kiên quyết.
“Vậy tay ma cà rồng đó để mặc họ đi mà không đe dọa trả thù à? Không nói gì đại loại như chỉ muốn họ chết quách đi cho xong sao?” Mike Spencer quả là ngu ngốc.
“Đúng thế.” Tôi mỉm cười với cả hai người họ rồi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Tôi nhớ lại vệt máu trên mặt đồng hồ, máu của tôi khi chịu đòn của vợ chồng Rattray. Tôi phải nhìn xuyên qua vệt máu đó để xem giờ. “Thứ lỗi cho cháu, cháu phải đi làm,” tôi nói. “Tạm biệt chú Spencer, tạm biệt bác cảnh sát trưởng.”
“Chào cháu, Sookie,” cảnh sát trưởng Dearborn đáp. Dường như ông vẫn muốn hỏi tôi nữa nhưng chưa nghĩ ra cách nói sao cho phải. Tôi có thể nhận thấy ông vẫn chưa thỏa mãn với những gì nhìn thấy ở hiện trường, và tôi ngờ rằng hệ thống ra đa chẳng phát hiện ra cơn lốc nào cả. Tuy nhiên, chiếc xe moóc vẫn lù lù ra đấy, lại cả chiếc xe hơi và cây cối, còn vợ chồng nhà Rattray thì nằm chết dưới đống đổ nát. Nếu không phải do cơn lốc xoáy thì ông ta nghĩ còn có thứ gì khác đã gây ra tất cả chứ? Tôi đoán những cái xác đã được đưa đi khám nghiệm, nhưng chắc cũng chẳng có kết luận nào khác trong trường hợp này.
Trí óc con người thật kỳ diệu. Cảnh sát trưởng Dearborn hẳn phải biết ma cà rồng rất khỏe. Nhưng ông lại chẳng thể tưởng tượng chính xác họ khỏe thế nào: khỏe đến độ lật đổ một chiếc xe moóc và nghiền nát nó.
Ngay cả tôi cũng thấy khó mà hiểu được, trong khi tôi rõ ràng đã biết là chẳng có cơn lốc nào ở góc đường Four Tracks cả.
Cả quán rộn rạo tin tức về những cái chết. Việc Maudette bị ám hại đã thêm mắm thêm muối cho cái chết của Denise và Mack. Tôi bắt gặp Sam nhìn mình vài lần, và tôi thầm nghĩ về chuyện tối qua, băn khoăn tự hỏi anh biết được đến đâu. Nhưng tôi không dám hỏi vì biết đâu anh chẳng biết gì cả. Tôi biết là đêm hôm trước đã xảy ra những chuyện mà tôi chưa thể tự mình giải thích được, nhưng tôi quá hạnh phúc vì mình vẫn còn sống nên quyết định không nghĩ ngợi lung tung nữa.
Tôi chưa bao giờ mỉm cười nhiều đến thế khi rót rượu, cũng chưa bao giờ mang đồ ra nhanh hay chạy bàn hiệu quả như thế. Kể cả Rene tóc-rối-bù cũng chẳng thể làm tôi chậm lại được, mặc dù anh ta cứ nhất định kéo bằng được tôi vào những cuộc trò chuyện tràng giang đại hải của anh ta mỗi khi tôi đến gần chiếc bàn anh ta đang ngồi cùng Hoyt và mấy thằng cha khác.
Đôi lúc Rene lại giở cái giọng Cajun điên khùng của anh ta ra, mặc dù tất cả mọi người đều biết giọng Cajun đó không phải là giọng thật. Di sản họ hàng anh ta để lại chẳng nhiều nhặn gì cho cam. Mọi phụ nữ anh ta cưới đều sống bất cần và vất vả. Cuộc tình ngắn ngủi của anh ta và Arlene xảy ra khi chị còn quá trẻ và dại dột, chị đã rất nhiều lần kể với tôi là hồi đó chị đã làm nhiều chuyện mà đến bây giờ nghĩ lại chị vẫn còn sởn tóc gáy. Kể từ đó, chị đã trưởng thành hơn rất nhiều, nhưng Rene thì không. Và tôi ngạc nhiên khi thấy Arlene vẫn còn khoái anh ta đến vậy.
Tối đó mọi người trong quán đều hết sức hưng phấn trước những sự kiện bất thường ở Bon Temps. Một phụ nữ bị giết hại, và đó là một bí ẩn; thông thường những vụ giết người ở Bon Temps đều được giải quyết dễ dàng. Cả chuyện một đôi vợ chồng bị thiên nhiên quái ác giết chết một cách tàn nhẫn nữa. Và đến lượt tôi đổ thêm dầu vào ngọn lửa phấn khích đó. Đây là một quán bar ở khu dân cư nhỏ, vài dân thị trấn vẫn thường xuyên ghé qua, vậy nên tôi chưa bao giờ vướng phải những sự quan tâm không mong muốn. Nhưng tối đó, một gã tóc vàng to xác khuôn mặt to bành đỏ au trong đám đàn ông ngồi cạnh bàn của Rene và Hoyt đã vuốt tay lên đùi tôi khi tôi mang bia đến.
Chuyện này không được chấp nhận ở quán Merlotte.
Tôi đang định đập cái khay vào đầu hắn thì cảm thấy bàn tay ấy đã rời khỏi đùi tôi. Tôi nhận ra có người đang đứng ngay sau mình. Khi quay lại, tôi nhìn thấy Rene, anh ta đã đứng dậy khỏi bàn từ lúc nào không rõ. Tôi đưa mắt theo tay anh ta và nhận ra nó đang siết chặt bàn tay của gã tóc vàng. Gương mặt đỏ au của gã tóc vàng trở nên tím tái.
“Này, bỏ ra!” gã tóc vàng phản kháng. “Tao chẳng có ý gì cả.”
“Mày không được đụng vào bất cứ ai làm việc ở đây. Đó là luật.” Rene có thể thấp và nhỏ người thật, nhưng bất cứ ai trong quán cũng sẵn sàng đặt cược vào anh chàng người nhà này thay vì gã khách to bự kia.
“Được rồi, được rồi.”
“Xin lỗi cô ấy đi.”
“Xin lỗi Sookie Khùng hả?” Giọng hắn thoáng ngờ vực. Chắc hắn cũng đến đây vài lần rồi.
Hẳn bàn tay Rene đã xiết chặt hơn. Tôi có thể nhìn thấy khóe mắt gã tóc vàng ngân ngấn nước.
“Tôi xin lỗi, Sookie, được chưa?”
Tôi gật đầu theo cách bề trên hết mức. Rene đột ngột bỏ bàn tay gã tóc vàng ra rồi ra dấu cho cả bọn cuốn xéo khỏi đây. Gã tóc vàng ngay lập tức lao về phía cửa. Lũ bạn của hắn theo sau.
“Rene à, đáng lẽ anh phải để em tự lo,” tôi nói nhỏ với anh ta khi cả quán bắt đầu quay lại với những cuộc trò chuyện của mình. Chúng tôi đã cho họ đủ vốn liếng để buôn chuyện ít nhất là trong vài ba ngày nữa. “Nhưng cũng cảm ơn anh vì đã bảo vệ em.”
“Anh không muốn bất cứ ai gây phiền hà cho bạn của Arlene,” Rene nói với vẻ hiển nhiên. “Quán Merlotte là một nơi rất tuyệt; tất cả chúng ta đều muốn giữ gìn vẻ đẹp cho nó. Thêm nữa, đôi lúc em làm anh nhớ đến Cindy, em biết thế phải không?” Cindy là em của Rene. Cô đã chuyển đến Baton Rouge một hai năm trước. Cindy có mái tóc vàng và đôi mắt xanh: ngoài hai điều đó ra thì tôi chẳng thấy còn nét gì chung giữa tôi và cô nữa. “Anh có gặp Cindy thường không?” tôi hỏi. Hoyt và mấy người khác quanh bàn đang trao đổi về điểm số và chiến thuật của đội Shreveport Captains.
“Cũng thỉnh thoảng,” Rene đáp, lắc đầu như muốn nói anh ta muốn gặp em gái mình nhiều hơn. “Con bé làm ở căn tin bệnh viện.”
Tôi vỗ vai anh ta. “Em phải làm việc đây.”
Khi tôi quay lại quầy để lấy đồ cho khách, Sam nhướng mày lên với ý dò hỏi. Tôi mở to mắt để chứng tỏ mình kinh ngạc đến thế nào trước sự can thiệp của Rene, vậy là Sam khẽ nhún vai, cứ như thể muốn nói còn lâu mới giải thích được thái độ của con người.
Nhưng khi ra phía sau quầy để lấy thêm giấy ăn, tôi để ý thấy anh đã lôi chiếc gậy bóng chày thường được sử dụng trong trường hợp nguy cấp ra.
BÀ KHIẾN TÔI bận rộn cả ngày hôm sau. Bà lau chùi và hút bụi còn tôi chà rửa phòng tắm - ma cà rồng có cần sử dụng phòng tắm không nhỉ? Tôi tự hỏi trong lúc chà bàn chải quanh bồn cầu. Bà bắt tôi hút hết lông mèo ở ghế bành. Tôi dọn sạch chỗ rác tồn đọng. Tôi cọ bóng loáng các mặt bàn. Tôi còn lau cả máy rửa bát và máy sấy nữa, Chúa ơi!
Khi bà thúc tôi đi tắm và thay quần áo, tôi nhận ra bà coi chàng ma cà rồng Bill là bạn trai của tôi. Điều này làm tôi có cảm giác hơi kỳ cục. Thứ nhất, bà đã quá tuyệt vọng trước cuộc sống xã hội của tôi đến nỗi ngay cả ma cà rồng cũng đủ tư cách để nhận được sự chú ý của tôi; thứ hai, tôi có một vài cảm nhận củng cố cho ý kiến này; thứ ba, rất có thể Bill cũng nhận ra điều này; và thứ tư, ma cà rồng có thể làm chuyện đó như người bình thường được không nhỉ?
Tôi đi tắm, trang điểm rồi mặc váy vì biết chắc bà sẽ bực mình nếu tôi không làm vậy. Đó là một chiếc váy màu xanh dương bằng sợi cotton in đầy những bông cúc nhỏ tí xíu, nó vừa bó hơn so với mức bà muốn lại vừa ngắn hơn so với những gì Jason cho là phù hợp với em gái mình. Tôi đã nghe hai người nói thế khi tôi mặc nó lần đầu. Tôi đeo thêm đôi khuyên tai có hình viên bi nhỏ màu vàng và vấn tóc lên với một chiếc kẹp dọc vàng ruộm.
Bà nhìn tôi với ánh mắt lạ lùng mà tôi chẳng thể dịch nghĩa được. Chỉ cần lắng nghe là tôi có thể dễ dàng khám phá ra bà nghĩ gì, nhưng thật khủng khiếp nếu làm thế với người sống cùng mình, nên tôi sẽ cẩn thận để không làm vậy. Bà mặc chân váy và áo cánh như những lúc tham gia buổi gặp mặt của Hậu Duệ Của Những Người Hy Sinh Vinh Quang, không đủ trang trọng cho buổi lễ ở nhà thờ nhưng cũng không đơn giản như đồ mặc hàng ngày.
Tôi đang quét sân trước, việc mà hai bà cháu quên khuấy đi mất, thì anh đến. Anh đến đúng theo kiểu ma cà rồng, vừa phút trước chưa có ai phút sau đã thấy người xuất hiện, đứng ngay dưới bậc thềm, ngước mắt lên nhìn tôi.
Tôi cười toe. “Không làm em sợ được đâu,” tôi nói.
Anh có vẻ hơi xấu hổ. “Tôi quen xuất hiện thế này rồi,” anh đáp. “Tôi vốn không gây ra quá nhiều tiếng động.”
Tôi mở cửa. “Anh vào đi,” tôi mời, và anh bước lên bậc thềm, mắt nhìn quanh.
“Tôi vẫn nhớ chỗ này,” anh nói. “Nhưng nó không lớn đến thế này.”
“Anh nhớ ngôi nhà này ư? Bà hẳn sẽ thích lắm đấy.” Tôi dẫn anh vào phòng khách, vừa đi vừa gọi bà.
Bà tôi bước vào phòng khách với dáng điệu nghiêm trang, và tôi nhận ra rằng lần đầu tiên bà đã dám hy sinh mái tóc dày mềm mượt trắng như cước của mình cho một kiểu đầu mới, cuốn tóc quanh đầu thành một búi phức tạp. Bà cũng thoa son nữa.
Bill tỏ ra thành thạo các phương thức giao tiếp xã hội không kém gì bà. Họ chào nhau, cảm ơn, khen ngợi và cuối cùng Bill ngồi xuống chiếc ghế băng còn bà ngồi ở cái ghế mây sau khi mang ra chiếc khay đựng ba tách trà đào, vậy là hiển nhiên tôi sẽ ngồi cạnh Bill. Chẳng biết thoái thác bằng cách nào cho lịch sự, tôi đành ngồi cạnh anh, nhưng nhích ra tận mép ghế, ra vẻ như bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng lao đi để rót thêm nước vào cốc trà lạnh ngắt tượng trưng của anh.
Anh lịch sự chạm môi vào miệng cốc rồi ngồi xuống. Bà và tôi lo lắng uống một ngụm lớn.
Bà khai mào bằng một chủ đề không thích hợp chút nào. Bà nói, “Chắc anh đã nghe nói về cơn lốc kỳ lạ đó.”
“Bà cứ kể đi ạ,” Bill nói, giọng êm như nhung. Tôi không dám nhìn anh mà cứ ngồi yên đó, dán mắt vào hai bàn tay đang chắp lại.
Vậy là bà kể cho anh nghe về cơn lốc xoáy kỳ quái và cái chết của nhà Chuột. Bà kể toàn bộ câu chuyện nghe có vẻ kinh hoàng đó, nhưng chẳng có chi tiết mới mẻ nào cả, và tôi cho là Bill đã cảm thấy thoải mái hơn chút xíu.
“Hôm qua con có ghé vào trên đường đi làm,” tôi nói, vẫn không hề ngước mắt lên. “Chỗ chiếc xe moóc.”
“Thế chúng có giống với hình dung của em không?” Bill hỏi, trong giọng nói chỉ toát lên vẻ tò mò.
“Không,” tôi đáp. “Nó không hề giống với hình dung của em. Em thật sự... ngạc nhiên.”
“Sookie, hồi trước con từng chứng kiến những thiệt hại do lốc xoáy gây ra rồi mà,” bà kinh ngạc nói.
Tôi bèn đổi chủ đề. “Bill này, anh mua áo sơ mi ở đâu thế? Trông đẹp quá.” Anh đang mặc quần kaki hiệu Dockers và áo chơi gôn sọc xanh nâu, đôi giày lười bóng loáng đi kèm tất mỏng màu nâu.
“Ở hiệu Dilliard,” anh đáp, vậy là tôi cố tưởng tượng ra hình ảnh anh tại trung tâm thương mại ở Monroe, giữa những con người có lẽ đều quay nhìn sinh vật kỳ lạ với làn da óng ánh và đôi mắt tuyệt đẹp này. Anh kiếm đâu ra tiền để mua chúng nhỉ? Anh giặt quần áo bằng cách nào? Lúc nằm trong quan tài có phải anh không mặc gì không? Anh có xe hơi không hay cứ muốn đến đâu là lướt tới đó?
Bà có vẻ hài lòng với thói quen mua sắm khá bình thường của Bill. Tôi lại thấy nhói đau khi chứng kiến bà vui đến thế nào vì được đón tiếp trong phòng khách nhà mình người được cho là bạn trai tôi, kể cả khi (theo văn học bình dân) anh ta đã bị nhiễm một loại virus gây ra cái chết lâm sàng.
Bà hỏi Bill đủ mọi chuyện. Anh trả lời hết sức nhẹ nhàng nhã nhặn. Thôi được, anh là một xác chết hết sức lịch sự.
“Vậy gia đình anh cũng là người vùng này à?” bà hỏi.
“Họ của bố tôi là Compton, của mẹ là Loudermilk,” Bill đáp nhanh chóng. Anh có vẻ khá thoải mái.
“Còn rất nhiều người nhà Loudermilk ở đây,” bà vui vẻ nói. “Nhưng ta e rằng ông Jessie Compton đã qua đời năm ngoái rồi.”
“Tôi biết,” Bill đáp nhẹ nhàng. “Vì thế tôi mới quay lại. Mảnh đất đó được để lại cho tôi, và vì nền văn hóa của chúng ta đã có nhiều thay đổi đối với giống loài đặc biệt của tôi nên tôi quyết định sẽ xác nhận quyền sở hữu đó.”
“Anh biết dòng họ Stackhouse chứ? Nghe Sookie nói thì anh sống cũng khá lâu rồi.” Tôi nghĩ bà hỏi thật khéo. Tôi mỉm cười nhìn đôi tay mình.
“Tôi vẫn nhớ Jonas Stackhouse,” Bill đáp lại trước sự thích thú của bà.
“Họ hàng tôi đã ở đây từ hồi Bon Temps chỉ là một chốn hoang vu. Jonas Stackhouse chuyển đến đây cùng vợ và bốn người con lúc tôi mười sáu tuổi. Có phải căn nhà này do ông ấy xây không, ít nhất là một phần?”
Tôi để ý thấy khi Bill nghĩ về quá khứ, anh dùng một hệ thống từ ngữ và nhip điệu hoàn toàn khác. Tôi tự hỏi không biết tiếng Anh của anh đã thay đổi nhiều như thế nào trong suốt cả thập kỷ qua.
Dĩ nhiên bà đang đắm chìm trong nỗi háo hức tìm hiểu về phả hệ. Bà muốn biết tất cả mọi điều về Jonas, cụ cố tổ của ông tôi. “ông ấy có sở hữu nô lệ không?” bà hỏi.
“Thưa bà, nếu tôi nhớ chính xác thì ông ấy có một nô lệ làm việc nhà và một nô lệ ở bãi rào. Người nô lệ làm việc nhà là một phụ nữ trung niên còn người ở bãi rào là một thanh niên lực lưỡng, khỏe mạnh tên là Minas. Nhưng nhà Stackhouses tự làm hầu hết công việc đồng áng, giống như gia đình tôi.”
“Ôi, đó chính xác là điều mà câu lạc bộ nhỏ của ta muốn nghe đấy! Sookie có kể với anh...” Bà và Bill, sau đủ mọi trao đổi lịch sự, đã ấn định được thời gian Bill đến tham gia buổi gặp mặt của hội Hậu Duệ.
“Và bây giờ, nếu bà không phiền, tôi muốn mời Sookie đi dạo một lúc. Đêm nay đẹp quá.” Một cách chậm rãi, để tôi có thể nhận ra được, anh bước lại gần và nắm tay tôi, đỡ tôi đứng dậy. Tay anh cứng lạnh và trơn nhẵn. Bill không phải đang xin phép bà, nhưng cũng không hẳn là không.
“Ôi, cả hai cứ đi đi,” bà đáp hết sức vui vẻ. “Ta còn nhiều thứ phải tra cứu lắm. Anh sẽ phải kể cho ta tên tất cả những người dân địa phương anh nhớ được từ hồi là...” Bà bỏ dở câu, không muốn nói điều gì có thể gây tổn thương.
“Một cư dân ở Bon Temps,” tôi giúp bà.
“Tất nhiên rồi,” chàng ma cà rồng nói, và dựa vào đôi môi đang mím chặt lại của anh, tôi biết anh đang cố nhịn cười.
Chẳng hiểu bằng cách nào mà chúng tôi đã đứng ở cửa, nhưng tôi biết Bill đã bế tôi đi thật nhanh. Tôi mỉm cười, thực lòng cảm thấy vui. Tôi thích những điều bất ngờ.
“Bọn con về ngay thôi,” tôi nói với bà. Tôi không biết bà có để ý đến cách thức di chuyển kỳ quái của tôi không, vì bà vẫn đang thu dọn mấy tách trà.
“Ồ, cả hai không cần lo cho ta đâu,” bà đáp. “Ta sẽ ổn thôi mà.”
Bên ngoài, cóc nhái sâu bọ đang cùng ca vang một bản hòa âm giữa đêm khuya nơi thôn dã. Bill nắm tay tôi bước vào sân nhà tràn ngập mùi cỏ mới cắt và hoa mới nở. Cô mèo của tôi, Tina, bước ra khỏi bóng tối đòi được vuốt ve, vậy là tôi cúi xuống gãi đầu cho cô nàng. Tôi ngạc nhiên thấy con mèo dụi đầu vào chân Bill, và anh chẳng có vẻ gì là phật ý cả. “Em thích con vật này à?” anh hỏi bằng giọng trung tính.
“Nó là mèo của em,” tôi đáp. “Tên nó là Tina, và em rất yêu nó.”
Chẳng nhận xét gì thêm, Bill đứng nguyên đó cho đến khi Tina bỏ đi về phía bóng tối ngoài tầm chiếu sáng của chiếc đèn nơi hiên nhà.
“Anh thích ngồi ở xích đu, ghế ngoài vườn hay đi dạo?” tôi hỏi, cảm thấy giờ mình đang là chủ nhà.
“Đi dạo một chút đi. Tôi cần giãn gân giãn cốt.”
Câu nói chẳng hiểu sao làm tôi hơi lúng túng, nhưng tôi cũng bắt đầu thả bước dọc lối đi dài thông với con phố hai làn chạy phía trước nhà của cả hai chúng tôi.
“Chuyện cái xe moóc có làm em lo lắng không?”
Tôi cố nghĩ cách trả lời sao cho phù hợp.
“Em cảm thấy... ừm. Yếu ớt. Khi nghĩ về chiếc xe đấy.”
“Em biết tôi rất khỏe mà.”
Tôi nghiêng đầu sang hai bên, ngẫm nghĩ. “Phải, nhưng em không ý thức được đầy đủ về sức mạnh của anh,” tôi nói với anh. “Hay trí tưởng tượng của anh nữa.”
“Qua bao nhiêu năm, bọn tôi đã trở nên rất giỏi che giấu những việc mình làm.”
“Vậy, em đoán chắc hẳn anh cũng giết cả đống người rồi.”
“Một vài,” giọng anh đầy ẩn ý.
Tôi chắp tay ra sau lưng. “Thời gian đầu bị biến đổi thành ma cà rồng, anh có thấy đói hơn không? Chuyện xảy ra như thế nào?”
Anh không ngờ đến câu hỏi đó. Anh nhìn tôi. Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt anh ngay cả khi cả hai đang ở trong bóng tối. Khu rừng bao bọc chúng tôi. Hai đôi chân bước lạo xạo trên mặt đường rải sỏi.
“Việc tôi trở thành ma cà rồng là một câu chuyện rất dài,” anh nói. “Nhưng quả vậy, hồi còn trẻ - một vài lần - tôi đã vô ý giết người. Tôi không bao giờ biết chắc khi nào mình lại được ăn, em hiểu chứ? Bọn tôi luôn đi săn, theo bản năng, và thời đó làm gì có những thứ như máu nhân tạo đâu. Và con người cũng ít hơn bây giờ. Nhưng hồi còn sống tôi vốn là người tốt - ý tôi là, trước khi bị nhiễm virus. Vậy nên tôi cố sống cho văn minh, luôn chọn kẻ ác làm con mồi, không bao giờ lấy trẻ con làm thức ăn. Ít nhất tôi cũng cố hết sức để không bao giờ giết một đứa trẻ. Bây giờ thì khác rồi. Giờ tôi có thể ghé qua bất cứ phòng khám thâu đêm ở bất kỳ thành phố nào để mua máu nhân tạo, mặc dù mùi vị của chúng rất kinh tởm. Hay tôi có thể trả tiền cho một ả bán hoa để kiếm đủ máu cho vài ngày. Hay có thể quyến rũ ai đó, để họ cho tôi cắn yêu và sau đó quên hết mọi chuyện. Giờ tôi cũng không cần nhiều lắm.”
“Hoặc anh có thể gặp gỡ một cô nàng có vấn đề về đầu óc,” tôi nói. “Ôi, em chỉ là món tráng miệng thôi. Nhà Rattray mới là bữa chính.”
Ôi trời.
“Ái chà,” tôi thốt lên, cảm thấy nghẹt thở. “Cho em một phút nhé.”
Và anh làm theo thật. Có mò mẫm trong cả triệu người đàn ông thì cũng sẽ chẳng tìm ra được một ai sẵn lòng cho tôi từng đấy thời gian im lặng.
Tôi mở tâm trí, tháo dỡ hoàn toàn sự phòng bị của mình và thư giãn. Sự im lặng của anh tràn khắp tâm trí tôi. Tôi đứng đó, nhắm nghiền mắt, rồi thở ra với một cảm giác nhẹ nhõm quá sâu sắc đến nỗi không nói được thành lời.
“Bây giờ em vui rồi chứ?” anh hỏi, cứ như thể anh đoán được vậy.
“Vâng,” tôi thở phào. Ngay trong giây phút đó, tôi cảm thấy rõ rệt rằng cho dù sinh vật đang đứng bên tôi đây có làm gì đi nữa, thì sự bình yên này vẫn thật vô giá, sau cả một khoảng thời gian dài không ngừng nghe thấy những suy nghĩ của kẻ khác rên rỉ trong đầu mình.
“Tôi cũng thấy thoải mái,” anh nói, làm tôi bất ngờ.
“Sao lại thế?” tôi hỏi bằng giọng mơ màng chậm rãi.
“Không sợ hãi, không sốt ruột, không chỉ trích. Tôi không cần phải vận đến sức mê hoặc của mình để bắt em em đứng yên và nói chuyện với tôi.”
“Sức mê hoặc?”
“Giống như thôi miên,” anh giải thích. “Dù nhiều hay ít thì mọi ma cà rồng đều sử dụng nó. Vì trước khi người ta phát minh ra máu nhân tạo, muốn thỏa mãn được cơn đói, bọn tôi phải thuyết phục người khác rằng mình vô hại... hoặc làm họ tưởng là bọn tôi không có ở đó... hoặc đánh lừa để họ nghĩ rằng họ đang nhìn thấy một thứ khác.”
“Có hiệu quả với em không?”
“Tất nhiên,” anh đáp, giọng có vẻ kinh ngạc.
“Được rồi, anh thử đi.”
“Nhìn tôi đi.”
“Trời tối mà.”
“Không sao. Cứ nhìn vào mặt tôi đi.” Và anh bước đến trước mặt tôi, đặt hờ tay lên vai tôi và nhìn xuống. Tôi có thể thấy ánh sáng mờ mờ phát ra từ làn da và đôi mắt anh, và tôi ngước lên, băn khoăn không biết mình có tự dưng quàng quạc như gà hay lột hết quần áo ra không.
Nhưng chuyện xảy ra là... chẳng có gì cả. Tôi chỉ nhận thấy một cảm giác thoải mái như đang dùng thuốc an thần vì được ở bên anh.
“Em có cảm thấy tác động của tôi không?” anh hỏi. Giọng anh có phần hụt hơi.
“Không hề, em rất tiếc,” tôi nhún nhường đáp. “Em chỉ thấy anh phát sáng thôi.”
“Em thấy được à?” Anh lại có vẻ bị bất ngờ.
“Tất nhiên. Những người khác không thấy à?”
“Không. Lạ thật đấy, Sookie.”
“Nếu anh đã nói vậy. Mà anh bay lên cho em nhìn được không?”
“Ngay ở đây à?” Bill có vẻ thích thú.
“Đúng vậy, sao lại không chứ? Trừ phi có lý do nào đó?”
“Không, chẳng có lý do gì cả.” Anh buông tay tôi ra và bắt đầu bay lên. Tôi thở dài sung sướng. Anh bay lên giữa trời đêm, sáng lấp lánh như phiến đá cẩm thạch trắng dưới ánh trăng. Khi nâng người lên gần một mét, anh bắt đầu trôi lơ lửng. Tôi nghĩ anh đang mỉm cười với tôi.
“Mọi ma cà rồng đều có thể làm vậy à?” tôi hỏi.
“Em hát được không?”
“Không, chẳng cất nổi giai điệu nào cả.”
“Vậy đấy, không phải tất cả chúng tôi đều có những khả năng giống nhau.” Bill hạ dần xuống và nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất. “Mọi người đều quá hà khắc với ma cà rồng. Còn em thì có vẻ không như vậy,” anh bình luận. Tôi nhún vai. Tôi là ai mà có thể hà khắc với những gì bất bình thường được chứ? Anh có vẻ hiểu, bởi vì sau một lúc chúng tôi cùng rảo bước trong im lặng, Bill hỏi, “Nó luôn khiến em thấy nặng nề à?”
“Vâng, luôn luôn.” Tôi chẳng nói khác được, mặc dù không hề muốn kêu ca. “Hồi em còn nhỏ là quãng thời gian tệ hại nhất, vì em chưa biết cách dựng lên rào cản tâm trí nên đành phải nghe cả những suy nghĩ mà đáng ra em không nên nghe, và tất nhiên, em lặp lại nó như bất kỳ đứa trẻ nào khác. Ba mẹ không biết phải làm gì với em. Đặc biệt, chuyện đó làm ba em xấu hổ. Mẹ cuối cùng cũng quyết định đưa em đến bác sĩ tâm lý, những người biết chắc chắn em là ai, nhưng mẹ không chấp nhận điều đó và cứ nói đi nói lại với họ hàng là do em biết đọc ngôn ngữ cơ thể và rất giỏi quan sát nên em cứ tưởng là mình có thể nghe được tâm trí của người khác. Tất nhiên, bà chẳng đời nào thừa nhận là em nghe được tâm trí của người khác theo đúng nghĩa đen, bởi vì điều đó không phù hợp với thế giới của bà. “Và kết quả học tập của em rất kém vì em chẳng thể tập trung gì được khi những đứa khác hầu hết đều xao nhãng. Nhưng khi kiểm tra, điểm số của em rất cao vì những học sinh khác cũng đều tập trung làm bài... điều đó giúp em thoải mái phần nào. Do kết quả học tập không mấy khả quan nên đôi khi gia đình em vẫn cho rằng em lười biếng. Thầy cô giáo thì nghĩ em chậm hiểu; ôi, anh không tin được những giả thuyết này đâu. Cứ hai tháng một lần em lại phải đi khám mắt khám tai, chụp não, kiểu thế... Chúa ơi. Gia đình nghèo túng của em đã phải tiêu tốn cả đống tiền cho những chuyện đó. Nhưng họ không bao giờ có thể chấp nhận một sự thật đơn giản. Ít nhất thì cũng là ở bề ngoài, anh hiểu không?”
“Nhưng trong thâm tâm, họ vẫn biết.”
“Phải. Có một lần, ba em đang rất băn khoăn không biết có nên hậu thuẫn cho một ông bạn mở cửa hàng phụ tùng ô tô không, ba gọi em vào ngồi cùng khi ông bạn kia đến nhà. Sau khi ông ta đi rồi, ba đưa em ra ngoài, nhìn ra chỗ khác và hỏi em, ‘Sookie này, ông ta có nói thật không?’ Đó là khoảnh khắc kỳ lạ nhất.”
“Lúc đó em bao nhiêu tuổi?”
“Chắc chưa đến bảy tuổi vì ba mẹ mất hồi em lớp hai.”
“Như thế nào?”
“Lũ quét. Cuốn họ đi ngay chỗ cây cầu phía Tây đằng kia.”
Bill không bình luận gì. Dĩ nhiên, anh đã chứng kiến quá nhiều cái chết rồi. “Người đàn ông đó có nói dối không?” anh hỏi sau vài giây.
“Ồ, có. Ông ta định cuỗm hết tiền của ba rồi bỏ trốn.”
“Em có một món quà trời cho.”
“Món quà. Đúng vậy.” Tôi có thể cảm thấy khóe miệng mình trễ xuống. “Điều đó làm em khác với những con người khác.”
“Đúng thế thật.” Chúng tôi im lặng đi thêm một lúc nữa. “Vậy anh hoàn toàn không coi mình là người sao?”
“Tôi không là người từ rất lâu rồi.”
“Anh có thực sự tin rằng mình đã mất linh hồn rồi không?” Đó là điều Giáo hội Thiên chúa vẫn rao giảng về ma cà rồng.
“Tôi không cách nào biết chắc được,” Bill đáp, hầu như chẳng để tâm. Có vẻ như anh đã nghiền ngẫm về điều này quá nhiều đến nỗi nó đã trở nên quá tầm thường. “Cá nhân mà nói, tôi không nghĩ vậy. Có một phần con người tôi không hề độc ác, không hề tàn nhẫn, kể cả sau bao nhiêu năm tháng ấy. Tuy nhiên tôi cũng hoàn toàn có thể trở thành như thế.”
“Bị nhiễm virus đâu phải lỗi của anh.”
Bill khịt mũi, cố gắng sao cho âm thanh phát ra thật nhã nhặn. “Chừng nào còn ma cà rồng thì chừng đó vẫn còn các giả thuyết. Có khi giả thuyết đó đúng đấy.” Rồi anh nhìn tôi như thể rất tiếc vì đã nói thế. “Nếu do virus mà con người trở thành ma cà rồng,” anh nói tiếp với giọng thoải mái hơn, “thì đó là loại virus được tuyển lựa rất kỹ càng đấy.”
“Làm sao mà anh trở thành ma cà rồng?” Tôi đã đọc đủ loại giả thuyết, nhưng đây là câu trả lời trực tiếp từ người thật việc thật.
“Tôi sẽ phải rút máu em, một, hai hay ba ngày một lần, đến khi em sắp chết thì cho em máu của mình. Em sẽ nằm như một cái xác trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, đôi khi đến tận ba ngày, rồi tỉnh lại và lang thang trong đêm. Rồi em sẽ đói.”
Cách anh nói từ “đói” làm tôi rùng mình.
“Không còn cách nào khác sao?”
“Các ma cà rồng khác có kể cho tôi là những người bị họ cắn thường xuyên, hết ngày này sang ngày khác, có thể bất ngờ trở thành ma cà rồng. Nhưng những lần cắn đó phải sâu, liên tục và khiến họ no nê. Những người khác, trong hoàn cảnh tương tự, sẽ chỉ đơn thuần trở nên thiếu máu trầm trọng. Mặt khác, khi người ta cận kề cái chết vì lý do nào đó, có khi là một vụ tai nạn ô tô hay dùng ma túy quá liều, quá trình biến đổi có thể... đi theo chiều hướng tệ hại.”
Tôi bắt đầu cảm thấy sởn cả gai ốc. “Đến lúc đổi đề tài rồi. Anh định làm gì với mảnh đất nhà Compton?”
“Tôi định sống ở đó, càng lâu càng tốt. Tôi chán cái cảnh phải lang thang từ thành phố này sang thành phố khác rồi. Tôi sinh trưởng ở vùng nông thôn. Bây giờ khi đã có quyền tồn tại hợp pháp, khi đã có thể đến Monroe, Shreveport hoặc New Orleans để mua máu nhân tạo hoặc tìm gái bán hoa chuyên phục vụ những kẻ như tôi, tôi muốn ở lại đây. Ít nhất cũng để xem có được không. Tôi đã lang thang nay đây mai đó hàng bao nhiêu thập kỷ rồi.”
“Tình trạng căn nhà thế nào?”
“Khá tệ,” anh thừa nhận. “Tôi đang cố dọn dẹp sạch sẽ. Tôi có thể làm chuyện này vào ban đêm. Nhưng có một số vấn đề tôi cần phải thuê thợ. Tôi làm mộc không tồi, nhưng lại chẳng biết gì về điện đóm cả.”
Tất nhiên là anh không biết rồi.
“Có vẻ như ngôi nhà cần được mắc lại dây điện,” Bill tiếp tục, nghe giống hệt mọi gia chủ háo hức muốn tân trang nhà cửa khác.
“Anh có điện thoại không?”
“Tất nhiên rồi,” anh nói, có vẻ bất ngờ.
“Thế thì chuyện thuê thợ có vấn đề gì chứ?”
“Rất khó liên lạc với họ vào ban đêm và cũng rất khó thuyết phục họ gặp tôi để trao đổi những chuyện cần thiết. Họ sợ, hoặc họ nghĩ đó chỉ là cú điện thoại phá rối thôi.” Giọng Bill lộ rõ sự thất vọng, dù anh đã tránh quay mặt về phía tôi.
Tôi bật cười. “Nếu anh muốn thì để em gọi họ cho,” tôi đề nghị. “Họ biết em mà. Cho dù mọi người đều nghĩ em điên nhưng họ vẫn biết em là người trung thực.”
“Thế thì thật tuyệt,” Bill đáp, sau một lúc chần chừ. “Họ có thể làm vào ban ngày, sau khi tôi đã gặp họ để trao đổi về công việc và giá thành.”
“Không được ra ngoài vào ban ngày chắc bất tiện lắm nhỉ,” tôi vô tư nói. Tôi thật tình chẳng cân nhắc gì cả. Giọng Bill khô khốc. “Chắc chắn rồi.”
“Và phải che giấu nơi nghỉ ngơi của mình nữa,” tôi nói tiếp mà không suy nghĩ.
Khi nhận ra sự im lặng của Bill, tôi vội xin lỗi.
“Em xin lỗi,” tôi nói. Nếu trời không tối thế này, anh chắc sẽ thấy mặt tôi đang đỏ bừng.
“Nơi nghỉ ngơi vào ban ngày của mỗi ma cà rồng là bí mật cần phải được anh ta giữ gìn cẩn thận nhất,” Bill nói khô khốc.
“Em xin lỗi.”
“Lời xin lỗi được chấp nhận,” anh đáp sau vài giây im lặng nặng nề. Chúng tôi đã ra đến đường cái và nhìn trước nhìn sau như thể đang đón taxi. Giờ khi cả hai đã ra khỏi hàng cây, tôi có thể nhìn rõ anh dưới ánh trăng. Anh cũng có thể nhìn thấy tôi. Anh nhìn khắp người tôi.
“Bộ váy hợp với màu mắt em.”
“Cảm ơn anh.” Tôi chắc chắn không thể nhìn thấy anh rõ đến mức đấy. “Mặc dù nó hơi thiếu vải.”
“Xin lỗi?”
“Tôi vẫn thấy khó mà quen được với cách ăn mặc mát mẻ của các thiếu nữ bây giờ,” Bill nói.
“Vài chục năm nữa là anh quen ngay mà,” tôi nói vẻ chanh chua. “Thôi nào, Bill! Người ta mặc váy ngắn bốn chục năm nay rồi!”
“Tôi vẫn thích váy dài hơn,” anh nói với vẻ lưu luyến. “Tôi thích những bộ váy lót phụ nữ thường mặc. Những chiếc váy lót dài.”
Tôi bật ra một âm thanh thô lỗ.
“Mà em có mặc váy lót dài không thế?” anh hỏi.
“Em mặc một chiếc quần lót nylon màu be có đăng ten rất đẹp,” tôi nói với vẻ bị xúc phạm. “Nếu anh là con người, em sẽ nghĩ anh đang lái câu chuyện về đồ lót của em đấy!”
Anh bật cười, tiếng cười khùng khục trầm trầm không tự nhiên đã tác động đến tôi một cách mãnh liệt. “Em có mặc chiếc quần trong đó đàng hoàng không thế, Sookie?”
Tôi lè lưỡi về phía anh vì tôi biết anh có thể nhìn thấy tôi. Rồi tôi vén mép váy lên, để lộ dải đăng ten của chiếc quần lót và vài phân của vòng hông mình.
“Anh vừa lòng chưa?” tôi hỏi.
“Em có đôi chân rất đẹp, nhưng tôi vẫn thích váy dài hơn.”
“Đồ ương bướng,” tôi nói với anh.
“Vợ tôi cũng thường nói tôi như vậy.”
“Anh đã kết hôn rồi à?”
“Ừ, tôi trở thành ma cà rồng khi ba mươi tuổi. Tôi đã có vợ và hai con. Em gái tôi, Sarah, sống cùng gia đình tôi. Con bé chẳng bao giờ lập gia đình. Người yêu của con bé đã chết trong Cuộc chiến.”
“Cuộc nội chiến.”
“Phải. Tôi đã trở về từ chiến trường. Tôi là một trong số những người may mắn. Ít nhất thì lúc đó tôi cũng nghĩ vậy.”
“Anh thuộc phe miền Nam,” tôi nói với vẻ ngạc nhiên. “Nếu anh còn giữ bộ quân phục và mặc nó đến buổi họp mặt thì các bà ở câu lạc bộ đó sẽ ngất vì sung sướng mất.”
“Cuối cuộc chiến thì tôi chẳng còn quân phục nữa,” anh u sầu nói. “Chúng tôi ai nấy đều quần áo rách bươm còn bụng thì đói meo.” Anh có vẻ xúc động mạnh. “Nhưng điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa sau khi tôi trở thành ma cà rồng,” Bill nói, giọng anh lại trở nên lạnh lùng lạnh nhạt.
“Em đã khơi lại chuyện buồn của anh rồi,” tôi nói. “Em xin lỗi. Chúng ta nên nói chuyện gì bây giờ?” Chúng tôi quay lại và bắt đầu rảo bước về nhà.
“Cuộc sống của em,” anh nói. “Kể cho tôi nghe mỗi sáng thức dậy em làm gì.”
“Em ra khỏi giường. Rồi em dọn giường ngay lập tức. Em ăn sáng. Bánh mì nướng, đôi khi là ngũ cốc, đôi khi là trứng, và cà phê - sau đó em đánh răng, tắm rồi thay quần áo. Thi thoảng em phải cạo lông chân, anh biết đấy. Nếu là ngày phải làm việc thì em đi làm. Nếu không phải làm ca ngày thì em có thể đi mua sắm, đưa bà đến cửa hàng, thuê phim về xem hoặc tắm nắng. Em cũng đọc rất nhiều sách. May cho em là bà vẫn còn nhanh nhẹn hoạt bát. Bà giặt giũ, là ủi và đảm nhiệm phần lớn việc nấu nướng.”
“Thế chuyện hẹn hò thì sao?”
“Ồ, em nói anh rồi mà. Chuyện đó không thể được.”
“Vậy em sẽ làm gì, Sookie?” anh hỏi nhẹ nhàng.
“Già đi rồi chết.” Giọng tôi cụt ngủn. Anh đã động chạm đến những đề tài nhạy cảm của tôi quá thường xuyên. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Bill giơ tay ra nắm lấy tay tôi. Bây giờ, khi cả hai đều đã gây khó chịu cho nhau một chút, đều đã động đến một số vấn đề dễ chạm lòng nhau, bầu không khí dường như dễ chịu hơn phần nào. Trong màn đêm tĩnh lặng, một cơn gió nhẹ thổi mái tóc tôi lòa xòa khắp mặt.
“Em tháo kẹp tóc ra chứ?” Bill hỏi. Chẳng có lý do gì để không làm thế cả. Tôi rút tay lại rồi gỡ chiếc kẹp ra. Tôi lắc đầu để mái tóc xõa xuống. Tôi nhét chiếc kẹp tóc vào túi áo anh, vì chẳng biết để ở đâu khác cả. Cứ như thể đang làm một việc hết sức bình thường, Bill luồn tay vào tóc tôi, chải mái tóc chảy trên hai vai tôi.
Tôi chạm vào tóc mai anh, vì có vẻ như bây giờ hành động đó hoàn toàn được phép. “Chúng dài quá,” tôi nhận xét.
“Kiểu này từng là mốt đấy,” anh nói. “May mà tôi không để râu như nhiều người khác, chứ không tôi phải để râu cả đời rồi.”
“Anh không bao giờ phải cạo râu sao?”
“Không, may mà hồi trước tôi đã cạo rồi.” Anh có vẻ rất thích thú với mái tóc của tôi. “Dưới ánh trăng, chúng trông như dải bạc vậy,” anh nói khẽ.
“Chà. Còn sở thích của anh thì sao?” Tôi có thể thấy thấp thoáng nụ cười trong bóng tối.
“Tôi cũng thích đọc sách.” Anh trầm ngâm. “Tôi thích xem phim... tất nhiên, tôi đã theo dõi toàn bộ quá trình khởi đầu của điện ảnh. Tôi thích giao lưu với những con người có cuộc sống bình thường. Đôi khi, tôi cũng khao khát được bầu bạn với những ma cà rồng khác, mặc dù cuộc sống của họ khác xa của tôi.” Chúng tôi im lặng một lúc.
“Anh có thích xem ti vi không?”
“Thỉnh thoảng,” anh thú nhận. “Có một thời gian ngắn tôi thường thu lại các bộ phim truyền hình để xem vào buổi tối vì tôi sợ mình có thể quên mất cuộc sống con người. Sau đó thì tôi dừng lại, bởi vì qua những gì tôi xem được trên các chương trình đó thì quên được cuộc sống con người cũng là một điều hay.”
Tôi bật cười. Chúng tôi bước vào vùng ánh sáng bao quanh ngôi nhà. Tôi phần nào hy vọng bà đang ngồi trên xích đu đợi hai chúng tôi, nhưng bà không ở đó. Chỉ có một bóng đèn mờ sáng trong phòng khách. Tôi nghĩ quả thật bà đang trầm trọng hóa tình hình.
Chuyện này cũng chỉ giống như việc được một anh chàng mới quen đưa về nhà sau buổi hẹn hò đầu tiên thôi mà. Thật ra tôi đang băn khoăn không hiểu anh có định hôn tôi không. Với quan điểm của anh về chuyện váy áo thì chắc hẳn anh sẽ cho rằng hành động đó là rất không phù hợp. Nhưng cũng ngu ngốc không kém việc hôn ma cà rồng, tôi nhận ra mình thật sự muốn được làm thế, hơn bất kỳ thứ gì khác.
Ngực tôi thắt lại với cảm giác cay đắng vì một điều nữa mà mình không được nhận. Và rồi tôi nghĩ, sao lại không cơ chứ?
Tôi kéo nhẹ tay anh để anh dừng lại. Tôi rướn người đặt môi lên gò má mờ sáng của anh. Tôi hít thật sâu mùi da thịt anh, không có gì đặc biệt nhưng hơi mằn mặn. Anh thoang thoảng mùi nước hoa.
Tôi cảm thấy anh rùng mình. Anh quay đầu lại để môi anh chạm vào môi tôi. Sau một thoáng, tôi vòng tay qua cổ anh. Nụ hôn của anh sâu hơn, và tôi tách khóe môi mình ra.
Tôi chưa bao giờ được hôn như vậy. Nụ hôn cứ kéo dài mãi, dài mãi cho đến khi tôi tưởng như cả thế giới nằm trọn trong nụ hôn này, trong sự hòa quyện giữa môi chàng ma cà rồng và môi tôi. Tôi có thể cảm nhận được nhịp thở của mình trở nên gấp gáp hơn, và tôi bắt đầu muốn những chuyện khác nữa.
Bill đột nhiên lùi lại. Anh hình như hơi run rẩy, và tôi vô cùng hài lòng vì điều đó. “Chúc em ngủ ngon, Sookie,” Anh nói, vuốt tóc tôi lần cuối.
“Anh cũng ngủ ngon nhé, Bill,” tôi đáp. Giọng tôi cũng có vẻ run rẩy. “Mai em sẽ cố liên lạc với mấy tay thợ điện. Em sẽ báo lại cho anh sau.”
“Tối mai em qua nhà anh nhé - nếu em không phải đi làm?”
“Vâng,” tôi nói. Tôi vẫn đang cố định thần.
“Gặp lại sau nhé. Cảm ơn em, Sookie.” Và anh quay đi, băng qua cánh rừng để về nhà mình. Một khi đã bước vào bóng tối, anh trở nên hoàn toàn vô hình.
Tôi cứ đứng đó, nhìn chằm chằm như một con ngốc cho đến khi giật mình tỉnh lại và bước vào nhà để lên giường đi ngủ.
Tôi không biết mình đã nằm thao thức bao lâu, băn khoăn không biết giống người bất tử ấy có thật sự làm được... chuyện ấy không. Tôi cũng đắn đo không hiểu mình có thể trao đổi thẳng thắn với Bill về vấn đề này hay không. Đôi khi anh có vẻ hơi quá cổ hủ, nhưng cũng có lúc lại dường như bình thường như bất cứ anh chàng hàng xóm nào khác. Thực ra thì không hẳn là bình thường, nhưng cũng phần nào như vậy.
Mọi chuyện có vẻ vừa tuyệt vời vừa thảm hại khi sau từng đấy năm, người đàn ông đầu tiên tôi muốn làm tình lại không hẳn là con người. Khả năng ngoại cảm đã hạn chế rất khắt khe những lựa chọn của tôi. Nếu làm tình chỉ để cho có thì chắc chắn chẳng thành vấn đề với tôi; nhưng tôi đã chờ đợi rất lâu để có một lần ân ái thật sự khiến tôi hạnh phúc.
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi ân ái, và rồi sau bao nhiêu tháng năm chờ đợi, tôi phát hiện ra mình không có khả năng làm chuyện đó? Hay biết đâu cảm giác cũng chẳng tuyệt vời gì cho cam. Có thể tất cả những bộ phim những cuốn sách đó chỉ nói quá lên mà thôi. Kể cả Arlene nữa, chị dường như chẳng bao giờ hiểu được rằng tôi không có hứng thú gì với việc nghe chị kể về đời sống chăn gối của chị.
Cuối cùng tôi cũng chìm vào giấc ngủ, với những giấc mơ dài u ám.
Buổi sáng hôm sau, chen giữa những câu hỏi của bà về chuyến đi dạo với Bill và chuyện tương lai của hai đứa, tôi gọi vài cuộc điện thoại.
Tôi tìm được hai thợ điện, một thợ sửa ống nước và vài người làm dịch vụ cho tôi số điện thoại để liên lạc vào ban đêm, và tôi nhắc để họ biết rằng một cuộc điện thoại từ Bill Compton không phải là trò chơi khăm.
Cuối cùng, khi tôi đang nằm tắm nắng thì bà mang điện thoại ra cho tôi.
“Sếp của con,” bà nói. Bà thích Sam, và anh ấy hẳn vừa nói điều gì đó làm bà rất vui vì bà đang cười tươi như mèo Cheshire[2] vậy.
[2] Chú mèo nổi tiếng với nụ cười quái dị trong câu chuyện bất hủ “Alice lạc vào xứ sớ thần tiên”.
“Chào anh, Sam,” tôi trả lời điện thoại, giọng không mấy vui vẻ vì biết chắc quán hẳn đang có chuyện. “Dawn không đến được, cô gái thân mến.” anh nói.
“Ôi... chết tiệt,” tôi bật thốt, biết rõ mình sẽ phải đến làm thế. “Em cũng có kế hoạch mà, Sam.” Đó là màn phủ đầu. “Anh cần em khi nào?”
“Em làm từ năm đến chín giờ được không? Thế thì đỡ cho anh quá.”
“Rồi em có được nghỉ bù buổi khác không?”
“Dawn sẽ chia ca với em một buổi tối nào đó nhé?”
Tôi văng vài lời tục tĩu, trong khi bà đứng ngay cạnh với vẻ mặt nghiêm nghị. Tôi biết thừa lát nữa mình sẽ nhận được một bài giáo huấn đây. “Ôi, được rồi,” tôi miễn cưỡng đáp. “Vậy gặp lại anh lúc năm giờ.”
“Cảm ơn em, Sookie,” anh nói. “Anh biết có thể trông cậy vào em mà.”
Tôi cố vui với câu khen của anh. Nó có vẻ là ưu điểm chẳng mấy tích cực. Bạn luôn có thể nhờ Sookie giúp đỡ vì cô ấy không có cuộc sống riêng!
Tất nhiên, đến chỗ Bill sau chín giờ cũng chẳng vấn đề gì. Dù sao thì anh cũng thức cả đêm mà.
Công việc chưa bao giờ có vẻ chậm chạp như thế. Tôi không tài nào tập trung đủ độ để có thể giữ vững rào cản tâm trí của mình vì tôi không ngừng nghĩ về Bill. May là không có quá nhiều khách hàng, nếu không thì có khi tôi đã buộc phải nghe đủ thứ rác rưởi rồi. Dù sao thì, tôi đã phát hiện ra Arlene bị chậm kinh, và chị sợ mình đã có mang, vậy là trước khi có thể kiềm chế được, tôi đã ôm chị thật chặt. Chị nhìn tôi với ánh mắt dò hỏi, và rồi mặt chị đỏ bừng lên.
“Em đọc tâm trí chị đấy à, Sookie?” chị hỏi bằng giọng cảnh cáo. Arlene là một trong số ít người đơn giản chấp nhận khả năng của tôi mà chẳng cần một lời giải thích và cũng không xếp tôi vào loại gàn dở vì đã sở hữu một khả năng như thế. Chị cũng không thường nói về chuyện ấy.
“Em xin lỗi, em không cố tình,” tôi xin lỗi. “Hôm nay em không tập trung lắm.”
“Được rồi. Nhưng từ giờ đừng có làm thế nữa nhé.” Arlene lúc lắc ngón tay trước mặt tôi, những búp tóc đỏ rực của chị ôm lấy hai gò má. Tôi những muốn òa khóc.
“Em xin lỗi,” tôi nói lần nữa, rồi lao vào kho để cố trấn tĩnh lại. Tôi phải giữ bộ mặt bình thường và kìm nén những giọt nước mắt sắp trào ra.
Tôi nghe thấy tiếng cửa mở đằng sau mình.
“Em nói em xin lỗi rồi mà, Arlene!” tôi cáu bẳn gắt, chỉ muốn được ở một mình. Đôi lúc Arlene không phân biệt được khả năng ngoại cảm với năng lực siêu linh. Tôi sợ chị sẽ hỏi tôi xem liệu chị có mang thực hay không. Tốt hơn hết là chị ấy nên sớm mua một bộ thử thai.
“Sookie.” Đó là Sam. Anh đặt tay lên vai tôi, xoay tôi lại. “Có chuyện gì thế?”
Giọng anh thật dịu dàng, và lại càng làm tôi muốn khóc hơn.
“Anh nên nói bằng giọng thật tàn nhẫn vào, để em không khóc!” tôi đáp.
Anh cười, không phải cười phá lên mà chỉ khe khẽ thôi. Rồi anh vòng tay qua người tôi.
“Có chuyện gì thế?” Anh chắc chắn sẽ không bỏ cuộc mà đi chỗ khác. “Ôi, em...” Và rồi tôi ngưng bặt. Tôi không bao giờ, chưa bao giờ nói một cách thẳng thắn về vấn đề của mình (đó là cách tôi nghĩ về chuyện này đấy) với Sam hay bất kỳ ai khác. Mọi người ở Bon Temps đều biết những chuyện đồn đại về lý do tôi kỳ lạ đến thế, nhưng chẳng ai có vẻ nhận ra rằng dù muốn hay không tôi vẫn không ngừng phải nghe tâm trí họ huyên thiên đủ chuyện - ngày nào cũng vậy, tiếng rên rỉ rên rỉ rên rỉ... “Em nghe thấy chuyện gì làm em buồn à?” Giọng anh nhẹ nhàng như thể mọi-thứ-đương-nhiên-là-thế. Anh chạm tay vào giữa trán tôi, ra dấu anh biết chính xác
Tác giả :
Charlaine Harris