Chạy Trốn (Đào Chi Yêu Yêu)
Quyển 1 - Chương 16
Để không làm tổn hại tới mộ thất, ban nãy Nam Cung Cẩu Thặng cho nổ phía trên đạo động, mọi người xuống đạo động, lại bị cửa sắt ngoài mộ ngăn lại.(đạo động: đường vào mộ)
Dư Ngư bực mình đạp vào cổng mộ, Tiểu Kiều cuống quít ngăn lại: “Đừng phá hỏng văn vật!”
Nói tới bản lĩnh phá khóa, ba đệ tử của Nam Cung Cẩu Thặng đều lĩnh hội ít nhiều, nhưng cổng mộ này đã hơn một ngàn năm tuổi, mắt khóa đã sớm bị gỉ sét.
Đồng chí Cẩu Thặng nhìn về phía Kiều Du, Kiều Du nói: “Nếu quả thật là mộ Tây Hạ, trải qua hơn ngàn năm, khẳng định phía sau cánh cửa cũng đã bị bùn lắng che lấp. Để không phá hỏng văn vật, chỉ có cách tháo toàn bộ cánh cổng ra.”
Đồng chí Cẩu Thặng cười nói: “Tiểu đồng chí làm khảo cổ đúng là hưng sư động chúng, đến cổng mộ cũng không tha. Tam Cẩu, con nói xem làm sao?” (hưng sư động chúng: việc nhỏ cũng kêu gọi mọi người làm)
Lý Yêu Yêu nghe theo liếc nhìn nói: “Cho nổ đạo động nữa đi, nổ phía trên mặt mộ thất.”
Dư Ngư xì một tiếng đầy khinh thường: “Cứ cho nổ tung là được.”
Kiều Du sợ đến trố mắt nhìn.
Cẩu Thặng cười cười, lấy mấy cọng sắt siêu nhỏ, cẩn thận làm thông mắt khóa, sau đó chọc ngoáy vài cái, khóa mở ra. Từ đầu tới cuối chưa tới mười phút.
Kiều Du há hốc miệng mở to mắt nhìn, ánh mắt anh nhìn Nam Cung Cẩu Thặng không thể dùng từ ‘sùng bái’ để hình dung, mà là như nhìn thấy người sao hỏa.
Mọi người dùng một vật dụng có hình như đao kiếm chọc qua khe cửa, xẻ lớp bùn bịt sau cánh cửa, cuối cùng cổng mộ cũng được mở ra, sau đó tiến vào mộ thất.
Gian mộ chính rộng chừng năm mươi mét vuông, sâu trong đó nối liền với một gian mộ khác nhỏ hơn. Giữa mộ thất có đặt một chiếc quan tài có trang trí hoa văn, bốn phía xung quanh là tường gạch sống, trên gạch có sơn vôi, vẽ hình các võ sĩ. Gian mộ chính trước rộng sau hẹp, gian mộ nhỏ cũng tương tự.
Kì lạ là, dưới đây chỉ có có hai gian mộ, bên cạnh không có gian chứa đồ bồi táng nào.
Kiều Du thấp thỏm hít sâu vài cái, bật đèn pin lên kiểm tra mộ thất.
Rất may là dưới đây không có dấu vết bị đạo nhiễu, có lẽ sáu người Cẩu Thặng là toán khách đầu tiên tới đây trong suốt ngàn năm qua.
Đồ bồi táng bốn phía xung quanh mộ không ít cũng chẳng nhiều, không có gì ngoài tửu khí, đao kiếm, những thứ như tiền, ngoài ra còn có rất nhiều tượng đá khắc hình người, trâu đồng, ngựa đá,.. những thứ họ đã thấy qua trong khi thăm quan vương lăng Tây Hạ. (tửu khí: đồ uống rượu)
Kiều Du nhặt một bức tượng Ca Lăng Tần Già lên, lẩm bẩm nói: “Đây là mộ Tây Hạ thật… chủ mộ là ai…” Nhìn khổ mộ thất, nếu không phải vương hầu thì cũng là quý tộc.
Tô Di nhặt một vật kết tủa màu trắng lên: “Đây là gì vậy?”
Nam Cung Cẩu Thặng cũng nhặt một ít, vân vê trong lòng bàn tay: “Chắc đây là muối!”
Lý Yêu Yêu tiến lên trước, liếm tay Tô Di một cái, chép miệng: “Mặn.”
Tô Di sợ hãi, vội vàng dùng lực vỗ lưng hắn: “Sao có thể ăn được! Cũng đã một ngàn năm rồi!”
Lý Yêu Yêu ghé vào tai anh nói gì đó, có lẽ là mấy lời thô bỉ, đột nhiên Tô Di đỏ mặt, hai người ầm ĩ nháo hết lên.
Kiều Du lặng lẽ quay đầu, tiếp tục xem bích họa.
Nam Cung Cẩu Thặng cũng không bỏ lỡ thời cơ mà dán tới: “Tiểu Kiều à, sao ở đây lại có muối vậy? Chẳng lẽ là để tuẫn táng cùng? Hay là nước mặn ngấm vào?”
Kiều Du đẩy gọng kính, nói: “Nông nghiệp Tây Hạ tương đối lạc hậu, nguồn kinh tế chủ yếu là làm muối ăn từ các hồ chứa nước mặn. Để đả kích Tây Hạ, hoàng đế triều Tống từng ra lệnh “cấm muối”, không cho Tây Hạ đưa muối vào quốc nội triều Tống. Việc này với Tây Hạ mà nói là đả kích không nhỏ, có thể thấy được tầm quan trọng của muối với Tây Hạ. Dùng muối để tuẫn táng cũng không có gì ngạc nhiên.
Đồng chí Cẩu Thặng giả vờ bừng hiểu: Ra là thế.
Kiều Du ngại ngùng cười: “Hoa Mã Trì là hồ nước mặn lớn nhất ở đây, lát nữa ra ngoài qua đó xem một chút.”
Cẩu Thặng vỗ tay, không thành vấn đề.
Dư Ngư không chờ được vội đi lục xem tửu khí, Xa Xà tỉ mỉ tra xét hoa văn trên cổ kiếm, Lý Yêu Yêu thì trực tiếp bỏ vòng ngọc vào túi. Nam Cung Cẩu Thắng lớn tiếng nói: “Này, đồng chí Tiểu Kiều đã nói không được làm loạn lấy trộm đồ ở đây!” Sau đó lại ghé tới bên tai các đồ đệ nhỏ giọng nói: “Thích cái gì thì lén lấy thôi, đừng để cậu ta thấy.”
Ba người lấy tay ra dấu đã hiểu.
Kiều Du quan sát tranh vẽ trên tường, lại xem hình dáng cấu tạo mộ và các đồ bồi táng. Tô Di thì lại ngồi dưới đất, đèn pin đặt bên cạnh, nhanh chóng vẽ lại hình võ sĩ trên tường mộ.
Một lát sau, Nam Cung Cẩu Thặng hỏi Kiều Du: “Khai quan được chưa?” (Khai quan: mở quan tài)
Kiều Du có vẻ như đang đấu tranh nội tâm dữ lắm, mấy lời từ chối chính ngôn lên tới miệng lại không nói được ra, cuối cùng ngượng ngùng nói: “Đi sang gian mộ khác nhìn trước đã.”
Một thất nhỏ hơn cũng ít đồ tuẫn táng hơn, lại không có các đồ tửu khí, binh khí.
Xem xong hai gian mộ rồi, Kiều Du không tìm được bất cứ thứ gì có thể nói rõ thân phận chủ mộ, trên tiền có khắc số niên kỉ, có thể biết chủ mộ sống trong những năm đầu Tây Hạ. Nam Cung Cẩu Thặng hỏi mấy lần, cuối cùng Kiều Du cũng không nhịn được tò mò, đành phải nói: “Khai quan đi..”
Thế là Nam Cung Cẩu Thặng lấy một cái xẻng ra, lèn vào khe hở ở nắp quan tài, Kiều Du nhìn thấy liền hối hận: “Ây, khoan đã!”
“Bịch!” Một mảnh gỗ được cạy ra, Nam Cung Cẩu Thặng vô tội chớp mắt: “Cậu nói chậm quá!”
Kiều Du: “….”
Đã đến nước này rồi, Kiều Du cũng không đấu tranh tư tưởng nữa, trơ mắt nhìn Cẩu Thặng cậy từng tấm quách ra, lộ ra quan tài bên trong. (Chú thích tác giả: Quách là vỏ ngoài quan tài)
Quan tài dùng gỗ lim tốt nhất, lại một lần nữa chứng minh thân phận chủ mộ rất cao quý. Kiều Du chỉ thấy tim đập nhanh vô cùng, tuy là trước đây từng theo đội khảo cổ khai quật mồ mả, nhưng chưa bao giờ anh thấy kích động căng thẳng như vậy. Có thể nói hành vi trộm mộ cấm kị này khiến anh càng thêm sục sôi nhiệt huyết.
Nắp quan tài được phong kín chặt chẽ bị cạy ra, Dư Ngư là người đầu tiên nhào tới, chỉ thấy trong quan tài để rất nhiều đồ bồi táng khiến người ta nhìn vào hoa cả mắt. Anh tiện tay gạt mấy cái ra, ngạc nhiên nói: “Không có thi cốt?”
Chỉ thấy trong chỗ đồ bồi táng xa hoa có một bình gốm mộc mạc, Dư Ngư tò mò đỡ nó ra: “Đây là gì vậy?”
Nam Cung Cẩu Thặng nheo mắt lại mỉm cười: “Vậy là đúng rồi.”
Kiều Du ngạc nhiên nói: “Đúng cái gì?”
Dư Ngư tiện tay mở nắp đậy bình gốm ra, bên trong tối om cái gì cũng không thấy. Anh vói tay vào lục lọi một hồi, lấy ra được một thứ màu trắng, quơ quơ mấy cái, khinh thường ném đi: “Xì, hóa ra là xương.”
“A!!!!”
Cái thứ trắng lòa kia đập trúng gáy Kiều Du, chỉ thấy anh hét một tiếng chói tai, khiến mọi người không khỏi giật mình.
Nam Cung Cẩu Thặng vỗ ngực cho hoàn hồn lại, nhặt thứ đồ Dư Ngư vừa ném đi lên, cầm trong tay nhìn một chút, cười híp mắt đi tới trước mặt Kiều Du: “Không phải xương đâu. Thằng bé gạt cậu đấy.”
Kiều Du tập trung nhìn kỹ, chỉ thấy Nam Cung Cẩu Thặng cầm thứ kia lên hé ra đóng lại, sau đó đột nhiên đi tới trước mặt Kiều Du, kẹp vào mũi anh một cái, làm Kiều Du sợ đến run lẩy bẩy.
“Rõ ràng là hàm mà.”
Kiều Du bớt sợ hãi hơn một chút, nuốt nước miếng, đưa tay ra cầm lấy hàm. Mặc dù trước đây anh nhìn thứ này nhiều rồi, nhưng nơi địa cung âm u, hàm răng có tuổi thọ từ ngàn năm trước khiến người nhìn không khỏi sợ hãi.
“Người này là đàn ông.” Kiều Du nói. Hàm của đàn ông vuông, còn hàm của phụ nữ có độ cong nhất định.
Trong số đồ bồi táng trong quan tài có kiếm, chỉ mộ của nam giới mới có kiếm, điều này cũng nói lên giới tính của chủ mộ.
Kiều Du và Tô Di lục tìm đồ trong quan tài, vẫn như trước không tìm được đồ chứng minh thân phận của chủ mộ.
Nam Cung Cẩu Thặng hỏi: “Còn một quan tài nữa có mở không?”
Kiều Du nhìn về phía Tô Di, Tô Di không câu nệ mất tự nhiên như anh, trái lại tỏ ra vô cùng chờ mong. Kiều Du cắn răng: “Mở.”
Thế là mọi người mở quan tài ở trong mộ thất thứ hai ra, cũng giống như quan tài đầu, trong quan tài này chỉ có một đống đồ bồi táng và một bình gốm. lần này trong bình là thi cốt của phụ nữ.
Lý Yêu Yêu ngạc nhiên nói: “Phu thê hợp táng?” (Mộ vợ chồng chôn chung)
Nét mặt Nam Cung Cẩu Thặng hận rèn sắt không thành thép: “Không nghĩ khác đi được à? Cứ một nam một nữ chôn chung thì là phu thê hợp táng hả?”
Lý Yêu Yêu ngượng ngùng gãi đầu, nhỏ giọng thầm thì: “Thế còn có thể là gì nữa…”
Kiều Du lục lọi trong số vật bồi táng, vẫn như trước không tìm thấy vật gì có thể chứng minh thân phận, lẩm bẩm nói: “Đựng thi cốt trong bình gốm… đây là thiên táng? Chủ mộ chết oan uổng sao?” (thiên táng: mộ đã được di dời)
Anh muốn tìm một người phù hợp, nhưng lịch sử Tây Hạ anh không nắm rõ như lòng bàn tay, hỏi Tô Di, Tô Di cũng nghĩ mãi không ra.
Rõ ràng Nam Cung Cẩu Thặng đã biết cái gì đó, nhưng khi Kiều Du hỏi, chỉ cười ha ha nói “Không rõ lắm”, “Tôi cũng không chắc nữa”, “Xem các thứ khác đi”…
Mọi người quay trở lại mộ chính, Nam Cung Cẩu Thặng cầm xẻng sắt trong tay, không ngừng gõ xẻng vào vách tường.
Kiều Du thấy thế dán tới hỏi: “Anh đang làm gì vậy?”
Cẩu Thặng nói: “Tìm nhĩ thất.” (Chú thích tác giả: nhĩ thất là phòng chuyên để vật bồi táng)
Mắt Kiều Du sáng lên: “Có nhĩ thất sao?”
Cẩu Thặng cười nói, không có nhĩ thất thì không hợp lý, nhất định là để bảo vệ nên đã giấu kín.
Quả nhiên, phía sau tường có tiếng vọng lại, nói rõ phía sau có không gian trống.
Cẩu Thặng xắn tay áo: “Mấy đứa, bắt tay vào làm đi.”
Ba người Dư Xà Lý dốc lòng xông lên, cầm đồ trong tay, choang, ầm, bịch, mà bắt đầu đục. Tô Di nhìn mãi thành quen nhún nhún vai, chỉ có Kiều Du là giương mắt đờ đẫn không nói nên lời.
Chốc lát sau, trên vách mộ thất được mọi người đục thành một thông đạo nhỏ, đủ để một người chui qua.
Dư Ngư và Lý Yêu Yêu đồng thời ném xẻng sang một bên, dán đầu tới, đầu hai người cùng lúc chui vào lỗ hổng nhỏ.
“Anh mày trước!” “Dựa vào cái gì?! Tôi trước!” “Anh mày là lão đại!! Kính trên đi!” “Tôi là út! Nhường dưới đi!!”
Xa Xà đá bay từng người một ra: “Tôi trước!”
Hai người bĩu môi phủi mông, chỉ biết nhìn Xa Xà cầm đầu khéo léo chui qua lỗ hổng, sau đó oẳn tù tì để quyết định, từng người một chui qua.
Đường nối vào nhĩ thất dài chừng hơn mười thước, trong nhĩ thất đựng đầy những vật bồi táng xa hoa, còn có rất nhiều bức tượng đá thay thế người sống chôn cùng mộ.
Lúc Kiều Du tiến vào, ba người Dư Xà Lý đã thuận tay vơ vét đồ xong xuôi. Trong đũng quần Dư Ngư có ba chén ngọc lưu ly, trong ống quần Xa Xà cắm hai thanh đoản kiếm, trong quần áo Lý Yêu Yêu giấu một bảo thạch, đến Nam Cung Cẩu Thặng cũng không nhịn được thuận tay cầm một khối ngọc bích.
Kiều Du vào nhĩ thất, không để ý tới đồ bồi táng mà bật đèn pin tỉ mỉ quan sát bích họa trên tường đầu tiên.
Trên bức tường đối diện đường vào mộ vẽ rất nhiều bức tượng Phật, Kiều Du tới gần, thấy trên vách tường có khắc một hàng chữ nhỏ bằng chữ Tây Hạ.
“Xin Phật tổ tha thứ cho những tội nghiệt của người này!” Kiều Du đọc lên.
Nhìn hai mặt tường bên cạnh, trên tường có các bích họa, một bên vẽ một người đàn ông đang quỳ gối trước một người đàn ông khác, hai người đều cạo đầu, hiển nhiên đều là người Tây Hạ. Khiến Kiều Du ngạc nhiên là, người đàn ông được quỳ lạy mặc hoàng bào Tây Hạ, còn người quỳ trên mặt đất kia mặc trang phục của hoàng tử.
Tô Di nhịn không được lẩm bẩm nói: “Liệu có phải người trong tranh là chủ mộ?”
Kiều Du chiếu đèn pin vào bức tường bên phải, phát hiện trên tường vẽ một loạt người Tây Hạ đang quỳ, nữ có nam có. Những người này, có người đầu đã rơi xuống đất, mực đỏ vẽ máu đến nay vẫn đỏ tươi; có người nọ vẻ mặt kinh hoàng, bên cạnh có một đao phủ vạm vỡ đang quơ đao về phía người kia toan chặt đầu. Hình ảnh bích họa vô cùng sống động, khiến lông tơ trên người dựng hết lên.
“Đám người này là ai vậy?” Kiều Du nhíu mày.
Vẻ mặt Nam Cung Cẩu Thặng càng thêm chắc chắn, nhưng gã không nói gì, ôm vai Kiều Du nói: “Thấy đủ rồi thì chúng ta đi, dưới này không khí loãng. Tim của lão già này không chịu nổi.”
Thật ra mộ này được xây dựng đối xứng, nếu phía đông có nhĩ thất thì hẳn phía tây cũng có. Chỉ là những thứ Nam Cung Cẩu Thặng muốn biết đều đã biết, các đồ đệ cũng thu hoạch được tương đối, gặt hái đủ rồi thì gọi mọi người quay về.
Nam Cung Cẩu Thặng là người đầu tiên bò ra khỏi đạo động, người thứ hai là Kiều Du.
Cẩu Thặng quỳ gối bên miệng động, đưa tay cho Kiều Du, hô: “Nào nào, tôi kéo cậu ra.”
Gã nắm bàn tay mềm mại của Kiều Du, có chút nhộn nhạo mà ngắt nhéo hai cái, nửa người Kiều Du ló ra khỏi đạo động, vẻ mặt đột nhiên kinh hãi.
Nam Cung Cẩu Thặng đang lấy làm kì lạ, chợt cảm thấy bên ót mình có một vật lạnh lẽo.
—— Một họng súng đen ngòm chĩa vào đầu gã.
“Vương Lão Cẩu, đã lâu không gặp.” Người đàn ông có một cái bớt dài bên mắt trái cười lạnh nói.
Dư Ngư bực mình đạp vào cổng mộ, Tiểu Kiều cuống quít ngăn lại: “Đừng phá hỏng văn vật!”
Nói tới bản lĩnh phá khóa, ba đệ tử của Nam Cung Cẩu Thặng đều lĩnh hội ít nhiều, nhưng cổng mộ này đã hơn một ngàn năm tuổi, mắt khóa đã sớm bị gỉ sét.
Đồng chí Cẩu Thặng nhìn về phía Kiều Du, Kiều Du nói: “Nếu quả thật là mộ Tây Hạ, trải qua hơn ngàn năm, khẳng định phía sau cánh cửa cũng đã bị bùn lắng che lấp. Để không phá hỏng văn vật, chỉ có cách tháo toàn bộ cánh cổng ra.”
Đồng chí Cẩu Thặng cười nói: “Tiểu đồng chí làm khảo cổ đúng là hưng sư động chúng, đến cổng mộ cũng không tha. Tam Cẩu, con nói xem làm sao?” (hưng sư động chúng: việc nhỏ cũng kêu gọi mọi người làm)
Lý Yêu Yêu nghe theo liếc nhìn nói: “Cho nổ đạo động nữa đi, nổ phía trên mặt mộ thất.”
Dư Ngư xì một tiếng đầy khinh thường: “Cứ cho nổ tung là được.”
Kiều Du sợ đến trố mắt nhìn.
Cẩu Thặng cười cười, lấy mấy cọng sắt siêu nhỏ, cẩn thận làm thông mắt khóa, sau đó chọc ngoáy vài cái, khóa mở ra. Từ đầu tới cuối chưa tới mười phút.
Kiều Du há hốc miệng mở to mắt nhìn, ánh mắt anh nhìn Nam Cung Cẩu Thặng không thể dùng từ ‘sùng bái’ để hình dung, mà là như nhìn thấy người sao hỏa.
Mọi người dùng một vật dụng có hình như đao kiếm chọc qua khe cửa, xẻ lớp bùn bịt sau cánh cửa, cuối cùng cổng mộ cũng được mở ra, sau đó tiến vào mộ thất.
Gian mộ chính rộng chừng năm mươi mét vuông, sâu trong đó nối liền với một gian mộ khác nhỏ hơn. Giữa mộ thất có đặt một chiếc quan tài có trang trí hoa văn, bốn phía xung quanh là tường gạch sống, trên gạch có sơn vôi, vẽ hình các võ sĩ. Gian mộ chính trước rộng sau hẹp, gian mộ nhỏ cũng tương tự.
Kì lạ là, dưới đây chỉ có có hai gian mộ, bên cạnh không có gian chứa đồ bồi táng nào.
Kiều Du thấp thỏm hít sâu vài cái, bật đèn pin lên kiểm tra mộ thất.
Rất may là dưới đây không có dấu vết bị đạo nhiễu, có lẽ sáu người Cẩu Thặng là toán khách đầu tiên tới đây trong suốt ngàn năm qua.
Đồ bồi táng bốn phía xung quanh mộ không ít cũng chẳng nhiều, không có gì ngoài tửu khí, đao kiếm, những thứ như tiền, ngoài ra còn có rất nhiều tượng đá khắc hình người, trâu đồng, ngựa đá,.. những thứ họ đã thấy qua trong khi thăm quan vương lăng Tây Hạ. (tửu khí: đồ uống rượu)
Kiều Du nhặt một bức tượng Ca Lăng Tần Già lên, lẩm bẩm nói: “Đây là mộ Tây Hạ thật… chủ mộ là ai…” Nhìn khổ mộ thất, nếu không phải vương hầu thì cũng là quý tộc.
Tô Di nhặt một vật kết tủa màu trắng lên: “Đây là gì vậy?”
Nam Cung Cẩu Thặng cũng nhặt một ít, vân vê trong lòng bàn tay: “Chắc đây là muối!”
Lý Yêu Yêu tiến lên trước, liếm tay Tô Di một cái, chép miệng: “Mặn.”
Tô Di sợ hãi, vội vàng dùng lực vỗ lưng hắn: “Sao có thể ăn được! Cũng đã một ngàn năm rồi!”
Lý Yêu Yêu ghé vào tai anh nói gì đó, có lẽ là mấy lời thô bỉ, đột nhiên Tô Di đỏ mặt, hai người ầm ĩ nháo hết lên.
Kiều Du lặng lẽ quay đầu, tiếp tục xem bích họa.
Nam Cung Cẩu Thặng cũng không bỏ lỡ thời cơ mà dán tới: “Tiểu Kiều à, sao ở đây lại có muối vậy? Chẳng lẽ là để tuẫn táng cùng? Hay là nước mặn ngấm vào?”
Kiều Du đẩy gọng kính, nói: “Nông nghiệp Tây Hạ tương đối lạc hậu, nguồn kinh tế chủ yếu là làm muối ăn từ các hồ chứa nước mặn. Để đả kích Tây Hạ, hoàng đế triều Tống từng ra lệnh “cấm muối”, không cho Tây Hạ đưa muối vào quốc nội triều Tống. Việc này với Tây Hạ mà nói là đả kích không nhỏ, có thể thấy được tầm quan trọng của muối với Tây Hạ. Dùng muối để tuẫn táng cũng không có gì ngạc nhiên.
Đồng chí Cẩu Thặng giả vờ bừng hiểu: Ra là thế.
Kiều Du ngại ngùng cười: “Hoa Mã Trì là hồ nước mặn lớn nhất ở đây, lát nữa ra ngoài qua đó xem một chút.”
Cẩu Thặng vỗ tay, không thành vấn đề.
Dư Ngư không chờ được vội đi lục xem tửu khí, Xa Xà tỉ mỉ tra xét hoa văn trên cổ kiếm, Lý Yêu Yêu thì trực tiếp bỏ vòng ngọc vào túi. Nam Cung Cẩu Thắng lớn tiếng nói: “Này, đồng chí Tiểu Kiều đã nói không được làm loạn lấy trộm đồ ở đây!” Sau đó lại ghé tới bên tai các đồ đệ nhỏ giọng nói: “Thích cái gì thì lén lấy thôi, đừng để cậu ta thấy.”
Ba người lấy tay ra dấu đã hiểu.
Kiều Du quan sát tranh vẽ trên tường, lại xem hình dáng cấu tạo mộ và các đồ bồi táng. Tô Di thì lại ngồi dưới đất, đèn pin đặt bên cạnh, nhanh chóng vẽ lại hình võ sĩ trên tường mộ.
Một lát sau, Nam Cung Cẩu Thặng hỏi Kiều Du: “Khai quan được chưa?” (Khai quan: mở quan tài)
Kiều Du có vẻ như đang đấu tranh nội tâm dữ lắm, mấy lời từ chối chính ngôn lên tới miệng lại không nói được ra, cuối cùng ngượng ngùng nói: “Đi sang gian mộ khác nhìn trước đã.”
Một thất nhỏ hơn cũng ít đồ tuẫn táng hơn, lại không có các đồ tửu khí, binh khí.
Xem xong hai gian mộ rồi, Kiều Du không tìm được bất cứ thứ gì có thể nói rõ thân phận chủ mộ, trên tiền có khắc số niên kỉ, có thể biết chủ mộ sống trong những năm đầu Tây Hạ. Nam Cung Cẩu Thặng hỏi mấy lần, cuối cùng Kiều Du cũng không nhịn được tò mò, đành phải nói: “Khai quan đi..”
Thế là Nam Cung Cẩu Thặng lấy một cái xẻng ra, lèn vào khe hở ở nắp quan tài, Kiều Du nhìn thấy liền hối hận: “Ây, khoan đã!”
“Bịch!” Một mảnh gỗ được cạy ra, Nam Cung Cẩu Thặng vô tội chớp mắt: “Cậu nói chậm quá!”
Kiều Du: “….”
Đã đến nước này rồi, Kiều Du cũng không đấu tranh tư tưởng nữa, trơ mắt nhìn Cẩu Thặng cậy từng tấm quách ra, lộ ra quan tài bên trong. (Chú thích tác giả: Quách là vỏ ngoài quan tài)
Quan tài dùng gỗ lim tốt nhất, lại một lần nữa chứng minh thân phận chủ mộ rất cao quý. Kiều Du chỉ thấy tim đập nhanh vô cùng, tuy là trước đây từng theo đội khảo cổ khai quật mồ mả, nhưng chưa bao giờ anh thấy kích động căng thẳng như vậy. Có thể nói hành vi trộm mộ cấm kị này khiến anh càng thêm sục sôi nhiệt huyết.
Nắp quan tài được phong kín chặt chẽ bị cạy ra, Dư Ngư là người đầu tiên nhào tới, chỉ thấy trong quan tài để rất nhiều đồ bồi táng khiến người ta nhìn vào hoa cả mắt. Anh tiện tay gạt mấy cái ra, ngạc nhiên nói: “Không có thi cốt?”
Chỉ thấy trong chỗ đồ bồi táng xa hoa có một bình gốm mộc mạc, Dư Ngư tò mò đỡ nó ra: “Đây là gì vậy?”
Nam Cung Cẩu Thặng nheo mắt lại mỉm cười: “Vậy là đúng rồi.”
Kiều Du ngạc nhiên nói: “Đúng cái gì?”
Dư Ngư tiện tay mở nắp đậy bình gốm ra, bên trong tối om cái gì cũng không thấy. Anh vói tay vào lục lọi một hồi, lấy ra được một thứ màu trắng, quơ quơ mấy cái, khinh thường ném đi: “Xì, hóa ra là xương.”
“A!!!!”
Cái thứ trắng lòa kia đập trúng gáy Kiều Du, chỉ thấy anh hét một tiếng chói tai, khiến mọi người không khỏi giật mình.
Nam Cung Cẩu Thặng vỗ ngực cho hoàn hồn lại, nhặt thứ đồ Dư Ngư vừa ném đi lên, cầm trong tay nhìn một chút, cười híp mắt đi tới trước mặt Kiều Du: “Không phải xương đâu. Thằng bé gạt cậu đấy.”
Kiều Du tập trung nhìn kỹ, chỉ thấy Nam Cung Cẩu Thặng cầm thứ kia lên hé ra đóng lại, sau đó đột nhiên đi tới trước mặt Kiều Du, kẹp vào mũi anh một cái, làm Kiều Du sợ đến run lẩy bẩy.
“Rõ ràng là hàm mà.”
Kiều Du bớt sợ hãi hơn một chút, nuốt nước miếng, đưa tay ra cầm lấy hàm. Mặc dù trước đây anh nhìn thứ này nhiều rồi, nhưng nơi địa cung âm u, hàm răng có tuổi thọ từ ngàn năm trước khiến người nhìn không khỏi sợ hãi.
“Người này là đàn ông.” Kiều Du nói. Hàm của đàn ông vuông, còn hàm của phụ nữ có độ cong nhất định.
Trong số đồ bồi táng trong quan tài có kiếm, chỉ mộ của nam giới mới có kiếm, điều này cũng nói lên giới tính của chủ mộ.
Kiều Du và Tô Di lục tìm đồ trong quan tài, vẫn như trước không tìm được đồ chứng minh thân phận của chủ mộ.
Nam Cung Cẩu Thặng hỏi: “Còn một quan tài nữa có mở không?”
Kiều Du nhìn về phía Tô Di, Tô Di không câu nệ mất tự nhiên như anh, trái lại tỏ ra vô cùng chờ mong. Kiều Du cắn răng: “Mở.”
Thế là mọi người mở quan tài ở trong mộ thất thứ hai ra, cũng giống như quan tài đầu, trong quan tài này chỉ có một đống đồ bồi táng và một bình gốm. lần này trong bình là thi cốt của phụ nữ.
Lý Yêu Yêu ngạc nhiên nói: “Phu thê hợp táng?” (Mộ vợ chồng chôn chung)
Nét mặt Nam Cung Cẩu Thặng hận rèn sắt không thành thép: “Không nghĩ khác đi được à? Cứ một nam một nữ chôn chung thì là phu thê hợp táng hả?”
Lý Yêu Yêu ngượng ngùng gãi đầu, nhỏ giọng thầm thì: “Thế còn có thể là gì nữa…”
Kiều Du lục lọi trong số vật bồi táng, vẫn như trước không tìm thấy vật gì có thể chứng minh thân phận, lẩm bẩm nói: “Đựng thi cốt trong bình gốm… đây là thiên táng? Chủ mộ chết oan uổng sao?” (thiên táng: mộ đã được di dời)
Anh muốn tìm một người phù hợp, nhưng lịch sử Tây Hạ anh không nắm rõ như lòng bàn tay, hỏi Tô Di, Tô Di cũng nghĩ mãi không ra.
Rõ ràng Nam Cung Cẩu Thặng đã biết cái gì đó, nhưng khi Kiều Du hỏi, chỉ cười ha ha nói “Không rõ lắm”, “Tôi cũng không chắc nữa”, “Xem các thứ khác đi”…
Mọi người quay trở lại mộ chính, Nam Cung Cẩu Thặng cầm xẻng sắt trong tay, không ngừng gõ xẻng vào vách tường.
Kiều Du thấy thế dán tới hỏi: “Anh đang làm gì vậy?”
Cẩu Thặng nói: “Tìm nhĩ thất.” (Chú thích tác giả: nhĩ thất là phòng chuyên để vật bồi táng)
Mắt Kiều Du sáng lên: “Có nhĩ thất sao?”
Cẩu Thặng cười nói, không có nhĩ thất thì không hợp lý, nhất định là để bảo vệ nên đã giấu kín.
Quả nhiên, phía sau tường có tiếng vọng lại, nói rõ phía sau có không gian trống.
Cẩu Thặng xắn tay áo: “Mấy đứa, bắt tay vào làm đi.”
Ba người Dư Xà Lý dốc lòng xông lên, cầm đồ trong tay, choang, ầm, bịch, mà bắt đầu đục. Tô Di nhìn mãi thành quen nhún nhún vai, chỉ có Kiều Du là giương mắt đờ đẫn không nói nên lời.
Chốc lát sau, trên vách mộ thất được mọi người đục thành một thông đạo nhỏ, đủ để một người chui qua.
Dư Ngư và Lý Yêu Yêu đồng thời ném xẻng sang một bên, dán đầu tới, đầu hai người cùng lúc chui vào lỗ hổng nhỏ.
“Anh mày trước!” “Dựa vào cái gì?! Tôi trước!” “Anh mày là lão đại!! Kính trên đi!” “Tôi là út! Nhường dưới đi!!”
Xa Xà đá bay từng người một ra: “Tôi trước!”
Hai người bĩu môi phủi mông, chỉ biết nhìn Xa Xà cầm đầu khéo léo chui qua lỗ hổng, sau đó oẳn tù tì để quyết định, từng người một chui qua.
Đường nối vào nhĩ thất dài chừng hơn mười thước, trong nhĩ thất đựng đầy những vật bồi táng xa hoa, còn có rất nhiều bức tượng đá thay thế người sống chôn cùng mộ.
Lúc Kiều Du tiến vào, ba người Dư Xà Lý đã thuận tay vơ vét đồ xong xuôi. Trong đũng quần Dư Ngư có ba chén ngọc lưu ly, trong ống quần Xa Xà cắm hai thanh đoản kiếm, trong quần áo Lý Yêu Yêu giấu một bảo thạch, đến Nam Cung Cẩu Thặng cũng không nhịn được thuận tay cầm một khối ngọc bích.
Kiều Du vào nhĩ thất, không để ý tới đồ bồi táng mà bật đèn pin tỉ mỉ quan sát bích họa trên tường đầu tiên.
Trên bức tường đối diện đường vào mộ vẽ rất nhiều bức tượng Phật, Kiều Du tới gần, thấy trên vách tường có khắc một hàng chữ nhỏ bằng chữ Tây Hạ.
“Xin Phật tổ tha thứ cho những tội nghiệt của người này!” Kiều Du đọc lên.
Nhìn hai mặt tường bên cạnh, trên tường có các bích họa, một bên vẽ một người đàn ông đang quỳ gối trước một người đàn ông khác, hai người đều cạo đầu, hiển nhiên đều là người Tây Hạ. Khiến Kiều Du ngạc nhiên là, người đàn ông được quỳ lạy mặc hoàng bào Tây Hạ, còn người quỳ trên mặt đất kia mặc trang phục của hoàng tử.
Tô Di nhịn không được lẩm bẩm nói: “Liệu có phải người trong tranh là chủ mộ?”
Kiều Du chiếu đèn pin vào bức tường bên phải, phát hiện trên tường vẽ một loạt người Tây Hạ đang quỳ, nữ có nam có. Những người này, có người đầu đã rơi xuống đất, mực đỏ vẽ máu đến nay vẫn đỏ tươi; có người nọ vẻ mặt kinh hoàng, bên cạnh có một đao phủ vạm vỡ đang quơ đao về phía người kia toan chặt đầu. Hình ảnh bích họa vô cùng sống động, khiến lông tơ trên người dựng hết lên.
“Đám người này là ai vậy?” Kiều Du nhíu mày.
Vẻ mặt Nam Cung Cẩu Thặng càng thêm chắc chắn, nhưng gã không nói gì, ôm vai Kiều Du nói: “Thấy đủ rồi thì chúng ta đi, dưới này không khí loãng. Tim của lão già này không chịu nổi.”
Thật ra mộ này được xây dựng đối xứng, nếu phía đông có nhĩ thất thì hẳn phía tây cũng có. Chỉ là những thứ Nam Cung Cẩu Thặng muốn biết đều đã biết, các đồ đệ cũng thu hoạch được tương đối, gặt hái đủ rồi thì gọi mọi người quay về.
Nam Cung Cẩu Thặng là người đầu tiên bò ra khỏi đạo động, người thứ hai là Kiều Du.
Cẩu Thặng quỳ gối bên miệng động, đưa tay cho Kiều Du, hô: “Nào nào, tôi kéo cậu ra.”
Gã nắm bàn tay mềm mại của Kiều Du, có chút nhộn nhạo mà ngắt nhéo hai cái, nửa người Kiều Du ló ra khỏi đạo động, vẻ mặt đột nhiên kinh hãi.
Nam Cung Cẩu Thặng đang lấy làm kì lạ, chợt cảm thấy bên ót mình có một vật lạnh lẽo.
—— Một họng súng đen ngòm chĩa vào đầu gã.
“Vương Lão Cẩu, đã lâu không gặp.” Người đàn ông có một cái bớt dài bên mắt trái cười lạnh nói.
Tác giả :
Chung Hiểu Sinh