Charlie Bone 5: Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình
Chương 13: Nhật ký ông Bartholomew
Ông cậu Paton kiên quyết đi theo tuyến đường có thể tránh mọi trạm đèn giao thông. Biết bao lần rồi, chỉ một cái liếc mắt vào đèn đỏ thì kết quả đã là một cơn mưa thủy tinh.
Charlie thấy khó mà kiên nhẫn được, cứ liên tục quăng những câu hỏi về phía ông cậu, người xem ra không có câu trả lời, mặc dù ông biết rõ thư mời cô Amy là từ cái cửa hàng Vương Quốc đã cung cấp những con tôm he chết người kia.
“Không chừng họ muốn bồi thường cho mẹ cháu về tại nạn của ngoại Maisie”, Charlie nói.
Ông cậu Paton lắc đầu, “Vụ rắc rối của ngoại Maisie không phải là tai nạn. Nó có chủ ý nhằm loại ta ra khỏi vòng chiến. Và hành vi của mẹ mày những ngày gần đây khiến ta tin rằng lời mời đó với mẹ mày có ý nghĩa hơn nhiều một chuyện bồi thường đơn thuần. Cô ấy cứ gọi là tươi rói.”
“Tươi rói?” Charlie chưa bao giờ nghe từ này dùng cho mẹ mình.
“Một phút nữa thôi mày sẽ thấy ta muốn nói gì.” Ông cậu Paton dừng xe lại bên ngoài nhà số 9. “Hôm nay mẹ mày không đi làm.”
Charlie ra khỏi xe và lao lên bậc cấp trước khi Ông cậu nó rút chìa khóa xe. Vừa xông vào trong hành lang, Charlie đã gọi toáng lên hết cỡ “Mẹ! Mẹ ơi!”
Nội Bone bật ra khỏi nhà bếp và quát ầm cả lên, “Im! Mày lớn tướng rồi không còn nhỏ nhít gì mà gọi mẹ cái kiểu ấy.”
“Cháu muốn cho mẹ biết cháu đã về,” Charlie nói, bay vọt lên lầu trước khi bà nội kịp ngăn nó lại.
Nó tìm thấy mẹ trong căn phòng nhỏ của mẹ ở tầng trên cùng ngôi nhà. Bộ đầm dạ hội là vật đầu tiên nó trông thấy khi mở cửa ra. Chiếc váy treo trên tủ đứng, màu xanh nước biển đậm, sáng bóng, có những sợi dây thanh mảnh, vòng eo thắt nhỏ và phần váy dài xòe rộng.
“Con thích nó không, Charlie?” Cô Amy Bone ngước lên khỏi bàn trang điểm. Tóc cô cũng khác. Bóng mướt và suôn thẳng với những dải tóc vàng cùng sáng màu hơn.
“Mẹ, tại sao mẹ đi dạ hội này?” Charlie hỏi.
“Charlie, đừng nghiêm trọng thế con.” Gương mặt mới mẻ tươi rói của cô Amy Bone mỉm cười với nó trong gương. “Mẹ muốn hưởng chút thú vui. Mẹ lại muốn đi chơi và lại bừng sáng.” Trông cô rực rỡ, lộng lẫy, không còn là chính cô chút nào.
Charlie nuốt nước miếng khó nhọc và hỏi, “Mẹ sẽ đi với ai?”
“Ngài Noble. Đó là người quản lý mới của Vương Quốc. Một người đàn ông dễ thương. Con sẽ thích ngài ấy cho mà xem, Charlie.”
“Thích ông ấy? Tại sao con phải thích?”
“Ngài ấy tốt với mẹ, Charlie. Chả nhẽ điều đó không có ý nghĩa gì với con sao? Ngài ấy làm mẹ cảm thấy mình rất đặc biệt,” giọng cô trôi mơ màng. “Ngài ấy nói toàn những lời tuyệt diệu.”
Charlie đi tới cái váy đầm xanh nước biển và sờ vào mình vải trơn bóng, có cảm giác như bị bỏ bùa. “Có phải bà cô Venetia may cái áo đầm này không, mẹ?”
“Ồ, Charlie, không phải đâu. Mẹ mua nó ở Vương Quốc đấy. Chính mắt mẹ nhìn cô gái gói hàng.”
“Chắc giá nó bằng một quả bom quá,” Charlie lầm bầm.
“Đó là một món quà,” mẹ nó nói, hơi hơi mắc cỡ.
Một cái bẫy thì giống hơn, Charlie nghĩ thầm. “Mẹ không thể để ngoại Maisie một mình,” nó vuột miệng. “Đang đông cứng như thế mà. Chính mẹ đã bảo là không thể mà.”
“Thôi đừng ngốc ạ, Charlie. Ông cậu Paton sẽ lên đây nếu ngoại Maisie... tan băng. Nếu con không thể nói được câu nào cho dễ nghe thì tốt hơn con nên đi đi.”
Bàn tay Charlie buông thong xuống. Nó cảm thấy mình đã bại trận. Nó không biết phải sử dụng vũ khí nào để chống lại gã đàn ông đang đánh cắp mẹ nó bằng những lời đường mật. Nó lủi thủi ra khỏi phòng mẹ và đóng cửa lại.
Trên đường xuống lầu, Charlie ghé vào thăm ngoại Maisie. Bà vẫn nằm trong bồn tắm. Ai đó đã đeo mặt nạ ngủ lên mắt bà, như thế khiến bà trông giống một tên trộm hơn là một bà ngoại bị đông cứng. Ngoại trừ cái áo lạnh màu hồng.
“Mày đói chứ gì,” nội Bone nói khi Charlie ló vào nhà bếp.
“Không cảm ơn, cháu ăn trưa rồi,” Charlie nói.
“Ta đâu có mời, ta chỉ hỏi thôi,” bà nội nó nói, không nhìn lên khỏi tờ báo.
Charlie thở dài. “Giỏ đồ ăn có tới không ạ?” Nó hỏi.
“Tới chứ. Ông cậu Paton không đụng tới thứ nào, đồ khờ. Ngon thế còn đòi,” nội Bone chẹp môi.
“Vậy là không còn gì ạ?”
“Một mẩu vụn cũng không”.
Charlie lại thở dài. Nó đi lên lầu và gõ cửa phòng Ông cậu.
“Vào đây, thằng cháu cưng, vào đây,” Ông cậu Paton gọi vọng ra.
Charlie đi vào và ngồi lên mép giường bừa bộn kinh hồn của Ông cậu, trong khi Ông cậu Paton cố ấn vài tờ báo vào trong một ngăn kéo bàn viết.
“Ông nói đúng, Ông cậu ạ,” Charlie âu sầu. “Mẹ con còn hơn cả tươi rói nữa. Mà con nghĩ hình như mẹ bị bỏ bùa rồi hay sao ấy.”
“Ta cũng nghĩ vậy!” Ông cậu Paton xoay chiếc ghế lại và nhìn chong chong vào Charlie. “Nhưng mà nhìn này, không phải tất cả đều thê thảm và u ám đâu. Chúng ta có tin mới cho con đây.”
“Tin tốt chứ ạ?” Charlie khấp khởi hy vọng.
“Thú vị, ít nhất là vậy,” Ông cậu bảo nó. “Trong khi các quý bà giỏi giang của chúng ta đi dự Đại Dạ Vũ, cô Ingledew sẽ đến đây dùng bữa tối với chúng ta. Còn Emma chắc sẽ ở gia đình Vertigo. Julia có một gói quà bộ hấp dẫn nhất cho con, và cả hai ta đều đang phát sốt lên muốn biết trong đó có gì.”
“Cho con á?” Charlie hoang mang. Ông cậu không thể nói gì thêm với nó, vì vậy nó đi về phòng mình và dỡ giỏ xách ra. Con bướm trắng từ rèm cửa sổ bay xuống đậu lên vai nó. Charlie cảm thấy đó là cách cây gậy phép đón mừng mình.
Thời gian lờ đờ trôi qua, Charlie nghĩ đến việc qua thăm Benllamin, nhưng nó cảm thấy ngài ngại nhà số 12, vì biết cô chú Brown là gián điệp. Chắc rồi Benjamin sẽ sang với nó thôi.
Vào lúc bảy giờ, cánh cửa phòng nội Bone bật mở và bà ta loạt soạt xuống cầu thang. Cửa trước đóng cái rầm và Charlie nhìn ra cửa sổ phòng nó. Bên dưới đường, bội Bone và hai bà cô của Charlie, bà Venetia và bà Eustacia, đang đứng chum chụm, thì thà thì thầm. Tất cả họ đều diện áo choàng da màu đen, dài thượt, nhưng bà cô Venetia trông đặc biệt trơn nhẫy hơn cả. Óng a óng ánh như vệt nhớt ốc sên.
Ba bà cô chui vào xe hơi của cô Eustacia, và ngay phút sau chiếc xe đã gầm rú điên cuồng, chồm một phát tới tận cuối đường Filbert. Vài giây sau, có tiếng lụa sột soạt bên ngoài phòng Charlie. Cánh cửa phòng nó mở ra và một một phụ nữ bước vào. Charlie gần như không nhận ra. Lẽ nào người phụ nữ xinh đẹp váy xanh da trời này là mẹ mình sao?
“Trông mẹ thế nào?” Cô hỏi.
Ánh mắt Charlie rà xuống cánh tay trần xanh xao của mẹ. Một cái lắc bạc rộng bao quanh cổ tay trái, nhưng chiếc nhẫn kim cương đã không còn. Charlie rùng mình. Nó chưa bao giờ thấy mẹ không đeo nhẫn cả. Không bao giờ.
“Nhẫn của mẹ đâu?” Charlie nhìn vào mặt cô Amy.
“Nhẫn của mẹ à? Ồ, mẹ tháo nó ra rồi. Mẹ không muốn tỏa sáng quá, phải không nào?” Rồi mẹ nó cười nhếch một cái ngớ ngẩn.
“Nhưng mà mẹ...”
“Chúc ngủ ngon, Charlie,” mẹ nó bất ngờ cúi xuống hôn lên má nó, và Charlie bị phủ trùm trong một luồng hương lạ vô cùng. Mất vài phút, nó đứng đực ra, rồi mới chạy bổ xuống cầu thang đuổi theo mẹ. Có người đã nhấn chuông và cô Amy Bone rời căn nhà mà không ngoái lại lần nào. Một người đàn ông mặc đồng phục đen đóng cánh cửa sau lưng cô lại.
“Mẹ!” Charlie giật cửa mở ra, đúng lúc thấy mẹ nó chui vào ghế sau một chiếc limousine dài, vàng chóe. Cửa sổ xe mờ hơi sương nên nó không thể nhìn qua được. Người đàn ông mặc đồng phục đen, không nghi ngờ gì là tài xế riêng, liếc Charlie một cái rợn người, rồi ngồi vào ghế gành cho tài xế. Chiếc limousine lướt đi, nhẹ ru như một con rắn.
“Đừng đứng ngay trời lạnh nữa, cưng,” Ông cậu Paton đến đằng sau Charlie.
“Ông cậu Paton, ông có thấy mẹ con không?”
“Không. Rất tiếc. Ta bỏ lỡ rồi. Cô ấy đẹp lắm nhỉ?” Ông cậu Paton lôi Charlie qua bên và đóng cửa lại.
“Vâng,” Charlie thẫn thờ. “Nhưng mẹ đã tháo chiếc nhẫn ra rồi.”
“Hừm. Điều đó biểu thị cái gì, ta tự hỏi? Ồ mau lên, giúp ta dọn bàn đón cô Julia đi. Cô ấy đến đây không biết lúc nào đấy.”
Họ đi vào nhà bếp, ở đó Ông cậu Paton đã thắp nến lên tất cả chỗ nào có thể cắm nến được. Charlie sắp dao, nĩa, thìa trong khi Ông cậu lấy ly. Có mùi thơm phức phả ra từ lò nướng, và đến khi cô Ingledew tới thì Charlie đói bụng đến nỗi đã xơi tái ba chiếc bánh quy ưa thích của nội Bone.
Cái gói giấy màu nâu mà cô Ingledew đem tới trông quả là mời gọi. Nó được buộc dây kỹ lưỡng và đóng rất nhiều xi niêm phong. Charlie không biết phải bắt đầu tháo ra từ đâu. Tên của Charlie được ghi bằng nét chữ in to ở phía trên địa chỉ của cô Ingledew.
“Được gởi tới tận nơi nhé,” cô Ingledew bảo với Charlie,” do một phụ nữ lớn tuổi người Trung Hoa, trông rụt rè.”
“Bà Meng!” Charlie suýt đánh rơi cái gói.
“Meng?” Ông cậu nó hỏi. “Cháu biết người phụ nữ Trung Hoa này à?”
Charlie lưỡng lự. Khi buột miệng thốt ra tên của bà Meng, nó đã phá vỡ một nửa lời hứa với ông Bartholomew. Nhưng chắc chắn, trong tất cả những người có trên đời này, Ông cậu Paton và cô Ingledew là người đáng tin cậy nhất. Vì vậy nó ngồi xuống, đặt cái gói lên đùi và kể cho họ nghe tất cả về chuyến đi tới đồng hoang, và cẩn trọng thuật lại thêm những gì nó đã nghe được trong suốt Tiệc Chiêu Đãi Một Trăm Vị Hiệu Trưởng.
“Cô không thích vụ này tí nào,” cô Ingledew nói. “Cô sợ tất cả các cháu rồi sẽ rơi vào tay của những kẻ khủng khiếp.”
Ông cậu Paton dường như không lo đến mức ấy. “Vậy là cha của tiến sĩ Bloor đã trở lại,” ông bật ra. “Ừm, ta không bao giờ ngờ tới.”
“Cháu đã hứa với ông ấy là sẽ không nói gì hết,” Charlie tần ngần, xé mảnh giấy màu nâu. “Ông ấy không muốn bất cứ ai biết chuyện cả.”
“Ta không trách ông ấy. Ông ấy vốn vẫn xung khắc với lão Ezekiel, cha của ông ấy, và cũng chưa bao giờ thuận hòa được với con trai mình. Thế rồi Mary chết,” Ông cậu Paton lắc đầu, “Tôi nghiệp Barty.” [Barty là tên thân mật của ông Bartholomew. (ND)]
“Ông ấy biết cha con,” Charlie nói.
“Đúng vậy,” Ông cậu Paton đưa cho Charlie một con dao xắt thịt bò. “Họ thường đi leo núi với nhau, chỉ một năm trước khi Lyell... biến mất.”
Charlie dùng con dao cắt sợi dây cuối cùng và tờ giấy màu nâu bung rơi xuống sàn, cùng với vài quyển sách nhỏ. Charlie nhặt chúng lên. Quăn queo và bạc màu sương gió, mỗi quyển được cột lại bằng một sợi dây da mỏng để giữ những trang giấy xộc xệch và quăn mép lại với nhau.
“Nhật ký,” cô Ingledew thốt lên. “Coi này, tất cả đều có in năm ở ngoài bìa. Mỗi quyển là năm năm. Tuyệt quá đi mất.”
“Nhật ký à?” Charlie nói. “Tại sao ông ấy lại gởi nhật ký đến cho con?”
Ông cậu Paton khuyên hãy ăn bữa tối do ông đặc biệt chuẩn bị đã rồi hẵng xem chồng nhật ký của ông Bartholomew. Vịt rô-ti, củ cải hầm, khoai tây, cà rốt và đậu nhanh chóng xuất hiện trên bàn, tiếp nữa là một ổ bánh pudding dứa tan chảy trong miệng. Ông cậy Paton rõ ràng là đã cố gắng hết sức để tạo ấn tượng với khách.
Ngay khi chén dĩa được dọn đi, Charlie đặt chồng nhật ký lên bàn và mở sợi dây da đầu tiên ra. Khi mở quyển sách ra, nó thấy một lá thư kẹp bên trong.
“Charlie thân mến,” nó đọc, “ta nghĩ cháu cần phải biết cháu đang phải chống lại thế lực nào. Cháu có nói đến “cái bóng” và cuối cùng ta đã nhớ ra tên của hắn. Trong những cuốn sổ nhật lý này, ta đã đánh dấu các nơi mà hắn được nhắc tới. Cháu đọc rồi sẽ thấy, ta đã đi chu du đó đây rất nhiều trước khi an cư lạc nghiệp ở Trung Hoa. Tại mỗi quốc gia ta tới, ta đều nghe được những câu chuyện về Vua Đỏ. Và ta đã ghi lại tất cả, và một ngày nào đó, cháu sẽ có thời gian để đọc lại tất cả. Nhưng bây giờ cháu cần phải tập trung vào những gì liên quan tới ‘cái bóng’ đáng sợ kia. Hắn ta được biết đến dưới rất nhiều tên khác nhau, nhưng ở đây, ở châu Âu này, hắn là bá tước Harken Badlock.
Khi cháu chắp nối những thông tin có thật về cái bóng đó, cháu sẽ biết hắn ta là một kẻ săn người và giết người. hắn ăn cắp linh hồn và làm tan vỡ những trái tim. Sinh vật nào rơi trúng hắn đều phải hứng chịu điều đó. Đâu đó trong những quyển nhật ký này có một câu thần chú có thể đánh bại hắn. Ta đã chép lại nguyên văn bằng ngôn ngữ của người đã tạo ra nó, và ta tin rằng nó sẽ dẫn cháu tới Vua Đỏ. Nhưng có lẽ cháu cần có sự giúp đỡ mới hiểu nó được.
“Hãy bảo trọng. bạn của ta, đừng sợ.
Bartholomew.”
Cô Ingledew chụp lấy lá thư khi nó vuột ra khỏi tay Charlie. “Lẽ ra ông ấy không nên viết những lời lẽ như thế,” cô gay gắt, “nó làm Charlie sợ chết khiếp mất.”
“Cháu cần phải biết,” Charlie nói.
Ông cậu Paton gãi đầu, “Để xem nào.” Ông cầm chồng nhật ký lên. Quyển nào cũng có vài tấm thẻ đánh dấu bằng da mỏng nhô ra. “Bắt đầu từ năm 1965 nào.”
Một cơn mưa tuyết đột ngột cuốn qua cửa sổ và cô Ingledew đóng rèm lại. Ông cậu Paton mang thêm một cây nến nữa lên bàn và họ kéo xích ghế lại gần nhau, để tất cả đều có thể đọc được nét chữ loằng ngoằng, phai màu phiêu du của ông Bartholomew Bloor.
Hầu như không ai thốt ra được lời nào. Họ chỉ nhắc nhau khi nào phải lật qua trang mới, hay bộc lộ cảm xúc trước một tội ác nào đó không tin nổi. Đêm trở lạnh hơn và nến lụi dần, cho đến khi chúng chỉ còn là những mẩu sáp nhập nhòe. Ông cậu Paton đứng lên và lấy những cây nến mới từ ngăn kéo ra.
Họ đọc mãi. Cả ba người giờ đã bị hút hồn vào những cuộc phiêu lưu từng dẫn ông Bartholomew tới việc khám phá ra những câu chuyện về “cái bóng”. Dường như ông đã đi qua hầu như mọi quốc gia châu Âu, châu Á, châu Phi. Nhưng chính từ cuộc hành trình tới nước Ý mà ông đã khám phá ra sự thật về nguồn gốc của bức chân dung Vua Đỏ.
Một người tên là Luigi Salutati được thừa kế tấm áo choàng màu đỏ của Vua Đỏ từ tổ tiên mình là công chúa Guanhamara. Luigi là một họa sĩ, và không rõ lúc nào, vào thế kỷ thứ 15, ông đã tới Venice để thọ giáo họa sĩ vĩ đại Jacopo Bellini. Một đêm nọ, một mình trong xưởng vẽ, Luigi quàn chiếc áo lên vai cho ấm. Ngay khi vừa choàng chiếc áo vào người, ông liền bị chế ngự bởi niềm khao khát phải vẽ chân dung một người đàn ông hay đến thăm mình trong những giấc mơ. Gương mặt đó giờ đây trở nên rõ rang đối với ông như thể họ cùng ở trong một căn phòng. Nhận ra đây chắc hẳn là tổ tiên mình, vị Vua Đỏ huyền thoại, và Luigi bắt đầu vẽ ngài. Nhưng trong khi vẽ, Luigi nhận thấy có một thế lực thù địch hiện hữu trong phòng, một cái bóng cứ nhất mực đòi đi vào chân dung. Cho dù cố hết sức, Luigi vẫn không thể ngăn được nét cọ của mình trệch ra, ngay chỗ một bóng đen bắt đầu hình thành đằng sau dáng hình của Vua Đỏ, Luigi thú thật là mình đã rơi vào quyền năng của một thầy bùa ác tâm nào đó, kẻ nhất quyết phải ám ảnh cho được ký ức về Vua Đỏ.
Bức tranh đã ở lại Venice suốt cho đến khi những hậu duệ của Luigi đem nó qua nước Anh vào thế kỷ 16. Đây cũng chính là thời gian mà họ đổi họ của mình thành Silk.
“Gabriel!” Charlie thốt lên. “Gia đình Gabriel là chủ nhân của bức chân dung Vua Đỏ.”
“Giờ thì không còn nữa,” Ông cậu Paton rà ngón tay xuống trang giấy. “Ở đây viết rõ là bức chân dung đã bị mua từ nhà Silk bằng những thủ đoạn lừa bịp và hiện đang treo ở Học viện Bloor.”
Charlie dụi mắt. Đọc sách dưới ánh nến thật chẳng dễ dàng gì, nhất là khi nó bắt đầu gà gật. “Dối trá,” Charlie nói. “Tất cả những gì con đã nghe về bá tước Harken Badlock khi con chui dưới gầm bàn đều là dối trá. Họ bảo hắn đã đến để bảo vệ những người con của nhà vua, nhưng thật ra hắn chỉ muốn gây rối loạn mà thôi. Hắn dạy họ cách giết chóc và tra tấn; săn thú đến tuyệt chủng, như ông Bartholomew đã nói đây.”
“Thế là quá nhiều cho sách của chúng ta, Julia à,” Ông cậu Paton nhận xét. “Anh chưa bao giờ tìm thấy một dòng tham khảo nào về con người này trong thư viện của anh.”
“Em cũng không có,” cô Julia nói, “Nhưng chắc rồi cũng đến lúc người ta không còn thiện cảm lắm cho nhưng người như gã bá tước đây. Con cháu của năm người con đi theo hắn một cách mù quáng chắc hẳn đã quyết định cắt đứt hắn khỏi tiểu sử của mình.”
“Trừ cô Chrystal,” Charlie lầm bầm trong một cái ngáp. “Cô ta đã chọn một cái họ khiến người ta liên tưởng về cái gì đó xinh đẹp và tốt bụng. Trong khi họ thật cô ta là Tilpin.” Nó lại ngáp một cái hoành tráng nữa. “Cháu tự hỏi trước khi lấy chồng thì cô ta họ gì.”
“Tới lúc ngủ rồi, Charlie Bone,” ông cậu nó bảo. “Chúng ta đã đọc hết những phần ông Bartholomew đánh dấu cho chúng ta rồi, giờ ngủ đi thôi. Đêm nay chúng ta chẳng thể làm thêm được gì nữa đâu.”
Charlie thở phào khi bị xua đi ngủ. Mắt nó đã díp ríp lại. Để chồng nhật ký đó cho ông cậu và cô Ingledew, nó lờ phờ chúc họ ngủ ngon và đi về giường mình.
Lúc đi ngang qua phòng tắm, nó thấy con bướm trắng bay phấp phới bên ngoài cánh cửa đóng. Sao mình vô tâm quá! Con bướm đó là cây gậy phép. Mà cây gậy phép có thể giúp mình. Mở cửa ra, nó bước vào trong. Phải chăng nó tưởng tượng, hay là ngoại Maisir đã lậm vào giai đoạn đông cứng sâu hơn? Charlie kéo chiếc mặt nạ lên trán bà và thấy mắt bà đã nhắm.
“Ở lại với tụi con đi, ngoại Maisie,” nó thì thầm. “Cố lên. Níu chắc nhé. Chúng con sẽ giúp ngoại.”
Con bướm trắng bay luần quần quanh bóng đèn, và Charlie vội tắt đèn đi. Giờ chỉ còn ánh sáng tỏa ra từ đôi cánh bạc trắng lấp lóa của con bướm. Sinh vật nhỏ đậu lên bàn chân của ngoại Maisie và bò từ từ về phía mặt bà. Lên tới cằm bà, nó bay vụt lên không và lượn lờ quanh đôi mắt nhắm nghiền của ngoại Maisie. Thỉnh lình, mắt ngoại mở ra.
“Ngoại Maisie!” Charlie reo to. “Ngoại Maisie, ngoại Maisie, trở lại đi. Con đây, Charlie nè!”
Dường như ngoại có trông thấy nó và môi bà hơi nhích một tí ti. Con bướm trắng bay xuống và đậu lên mái tóc xám quăn của bà. Một mảng ửng hồng hiện ngang má ngoại Maisie, nhưng rồi thình lình, mắt bà mờ đi và một nét kinh hoàng xuất hiên trên gương mặt. Mí mắt sụp xuống và trông ngoại Maisie bị đông cứng hơn bao giờ hết. Kẻ đã làm đông cứng ngoại Maisie có lẽ muốn chứng tỏ hắn mạnh hơn cả Charlie và cây gậy phép của nó cộng lại.
Charlie thấy thểu trở lại giường cùng với con bướm trắng đậu trên vai. Dẫu mệt đứ đừ nhưng nó biết mình sẽ không thể ngủ được.
***
Billy Raven đang quỳ gối nơi chiếu nghỉ ngay trên đại sảnh. May Phúc ngồi tùm hụp bên cạnh nó. Hai cánh cổng chính để mở toang và từng tràng mưa tuyết theo chân khách khứa thổi vào. Billy chưa bao giờ trông thấy trong cùng một lúc có nhiều người trang phục là lượt đẹp đến thế. Đặc biệt là những phụ nữ, trông như thể họ bước ra từ những câu chuyện cổ tích. Màu sắc những bộ đầm dạ hội sao mà hấp dẫn. Ngay cả các bà cô già khọm của Charlie trông cũng rất ra dáng.
Đột nhiên tiếng chuyện trò lắng xuống. Các vị hiệu trưởng quay đầu về phía cửa và một đôi bước vào. Billy bấu chắc lấy con tiện cầu thang. Người phụ nữ đó là mẹ của Charlie, cô Bone. Cô Bone mà Billy chưa từng thấy bao giờ. Xiêm y xanh da trời bập bềnh, nhìn cô như một nữ thần sáng chói.
Một tiếng gừ đặc nghẹt trong cổ họng May Phúc. Con chó lùi sững lại, tru lên và run cầm cập.
“May Phúc, gì vậy?” Billy nhẹ nhàng ngâm nga.
“Xanh lá cây... người đàn ông... cái bóng,” May Phúc tru lên.
“Người đàn ông xanh lá cây?” Billy ngó xuống tiền sảnh. Mẹ của Charlie đang vịn cánh tay của người đàn ông mặc com-lê nhung xanh lá cây. Ông ta có mái tóc rậm dày nhuộm màu vàng kim và cái mũi diều hâu.
Billy dịch ra khỏi chỗ có ánh sáng đèn. “Cái bóng!” Nó nín thở. “Tao phải nói cho anh Charlie mới được.”
May Phúc gục gặc, “Đi mau đi.”
“Phải, phải đó, tao đi đây.”
Billy vừa lảo đảo đứng lên thì một giọng quát, “Mày làm gì ở đây?” Và Manfred từ hành lang xồ ra.
“Em... em chỉ đang nhìn thôi, thưa ngài,” Billy lắp bắp.
“Trông mày giống gián điệp hơn,” Manfred nói lạnh băng.
“Không. Không phải gián điệp. Thật mà.”
“Tiếc là mày không làm do thám cho tao nữa,” đôi mắt đen tàn bạo của Manfred găm vào mắt Billy và nhìn trừng trừng vào đó.
Đôi mắt bạch tạng màu đỏ của Billy luôn luôn cưỡng lại được luồng thôi miên của Manfred, nhưng tối nay Billy cảm thấy Manfred có gì đó khang khác. Ánh mắt hắn đã mất đi sức mạnh từng có. Có điều gì đó đã thay đổi.
“Đừng có đứng đó mà trơ mắt ra nhìn,” Manfred nạt nộ. “Đi ngủ mau. Đem cả con chó ghẻ này xuống nhà bếp.”
Nhưng Billy vẫn đang ngớ ra nhìn Manfred, cố đoán xem chuyện gì đã xảy ra với hắn.
“Tao bảo gì hả?” Manfred thộp lấy cổ tay Billy, và một ánh chớp xẹt ra khi những ngón tay nghều ngào của hắn ấn vào da thịt Billy. Thằng nhỏ cảm thấy như nguyên cánh tay mình bốc cháy.
“Ối!” Billy rú lên.
Nhiều vị khách ngước nhìn lên, nhưng Manfred đã lôi Billy đi khỏi chiếu nghỉ vào hành lang. “Đi ngủ,” hắn rít lên.
Cánh tay Billy được buông ra, và con trai ông hiệu trưởng ngoắt đầu bỏ đi. Một lúc sau là tiếng những bước chân đi xuống cầu thang.
Khóc thút thít vì đau đớn, Billy chạy ù trở về phòng ngủ chung. Nó giơ cánh tay ra dưới vòi nước lạnh nhưng cơn đau vẫn cứ dai dẳng. Có bốn lằn sâu đỏ tấy phía trên cổ tay nó, và một vệt bên dưới, chỗ ngón cái cắm vào da thịt nó. Lực thôi miên của Manfred đã được thay thế bằng một cái gì đó còn ghê gớm hơn nữa.
Billy nằm trên giường, giữ cánh tay bị thương vắt qua người. May Phúc nhảy lên và định liếm tay nó, nhưng Billy đẩy con chó đi. “Vô ích,” nó lẩm bẩm. “Xin lỗi, May Phúc.”
“Xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi,” con chó già tru lên.
Ánh sáng chói lói trong phòng ngủ chung bắt đầu làm Billy nhức đầu. Nó cần được vỗ về. Bò ra khỏi giường, nó tắt đèn đi và đặt cả năm ngọn nến người người giám họ cho mình lên bậu cửa sổ. Một đốm sáng nhỏ xíu xuất hiện trên đầu mỗi ngọn nến và tất cả gộp thành một thứ ánh sáng thanh dịu.
Billy bắt đầu thở dễ hơn. Đầu nó nhẹ đi và cánh tay nó thôi không buốt thốn nữa. Một lát sau những mảng đỏ sưng tấy hoàn toàn lặn mất.
Charlie nghe thấy tiếng động cơ rồ nhẹ dưới đường. Nó lăn khỏi giường và chạy ra cửa sổ.
Chiếc limousine vàng chóe đậu bên ngoài căn nhà số 9. Một người đàn ông bận com-lê nhung xanh lá cây bước vòng ra sau xe và mở cánh cửa gần lề đường. Mẹ của Charlie bước ra: bộ đầm xanh da trời của mẹ lấp lánh trong ánh đèn đường. Họ bước về phía ngôi nhà, cánh tay của người đàn ông choàng qua vai cô Amy.
“Mẹ, đừng để hắn hôn mẹ.” Charlie khẩn cầu.
Khi cặp đôi gần đến bậc cấp, người đàn ông cúi đầu xuống và hôn vào môi Amy. Charlie cảm thấy như thể mọi hơi thở đã bị tống ra khỏi người mình. Khi mẹ nó bước lên cửa trước, người đàn ông ngó lên và trông thấy Charlie ở cửa sổ. Hắn mỉm cười. Và ngay khoảnh khắc đó, Charlie biết rằng mẹ mình đã bị một thầy bùa hôn phải.
Charlie thấy khó mà kiên nhẫn được, cứ liên tục quăng những câu hỏi về phía ông cậu, người xem ra không có câu trả lời, mặc dù ông biết rõ thư mời cô Amy là từ cái cửa hàng Vương Quốc đã cung cấp những con tôm he chết người kia.
“Không chừng họ muốn bồi thường cho mẹ cháu về tại nạn của ngoại Maisie”, Charlie nói.
Ông cậu Paton lắc đầu, “Vụ rắc rối của ngoại Maisie không phải là tai nạn. Nó có chủ ý nhằm loại ta ra khỏi vòng chiến. Và hành vi của mẹ mày những ngày gần đây khiến ta tin rằng lời mời đó với mẹ mày có ý nghĩa hơn nhiều một chuyện bồi thường đơn thuần. Cô ấy cứ gọi là tươi rói.”
“Tươi rói?” Charlie chưa bao giờ nghe từ này dùng cho mẹ mình.
“Một phút nữa thôi mày sẽ thấy ta muốn nói gì.” Ông cậu Paton dừng xe lại bên ngoài nhà số 9. “Hôm nay mẹ mày không đi làm.”
Charlie ra khỏi xe và lao lên bậc cấp trước khi Ông cậu nó rút chìa khóa xe. Vừa xông vào trong hành lang, Charlie đã gọi toáng lên hết cỡ “Mẹ! Mẹ ơi!”
Nội Bone bật ra khỏi nhà bếp và quát ầm cả lên, “Im! Mày lớn tướng rồi không còn nhỏ nhít gì mà gọi mẹ cái kiểu ấy.”
“Cháu muốn cho mẹ biết cháu đã về,” Charlie nói, bay vọt lên lầu trước khi bà nội kịp ngăn nó lại.
Nó tìm thấy mẹ trong căn phòng nhỏ của mẹ ở tầng trên cùng ngôi nhà. Bộ đầm dạ hội là vật đầu tiên nó trông thấy khi mở cửa ra. Chiếc váy treo trên tủ đứng, màu xanh nước biển đậm, sáng bóng, có những sợi dây thanh mảnh, vòng eo thắt nhỏ và phần váy dài xòe rộng.
“Con thích nó không, Charlie?” Cô Amy Bone ngước lên khỏi bàn trang điểm. Tóc cô cũng khác. Bóng mướt và suôn thẳng với những dải tóc vàng cùng sáng màu hơn.
“Mẹ, tại sao mẹ đi dạ hội này?” Charlie hỏi.
“Charlie, đừng nghiêm trọng thế con.” Gương mặt mới mẻ tươi rói của cô Amy Bone mỉm cười với nó trong gương. “Mẹ muốn hưởng chút thú vui. Mẹ lại muốn đi chơi và lại bừng sáng.” Trông cô rực rỡ, lộng lẫy, không còn là chính cô chút nào.
Charlie nuốt nước miếng khó nhọc và hỏi, “Mẹ sẽ đi với ai?”
“Ngài Noble. Đó là người quản lý mới của Vương Quốc. Một người đàn ông dễ thương. Con sẽ thích ngài ấy cho mà xem, Charlie.”
“Thích ông ấy? Tại sao con phải thích?”
“Ngài ấy tốt với mẹ, Charlie. Chả nhẽ điều đó không có ý nghĩa gì với con sao? Ngài ấy làm mẹ cảm thấy mình rất đặc biệt,” giọng cô trôi mơ màng. “Ngài ấy nói toàn những lời tuyệt diệu.”
Charlie đi tới cái váy đầm xanh nước biển và sờ vào mình vải trơn bóng, có cảm giác như bị bỏ bùa. “Có phải bà cô Venetia may cái áo đầm này không, mẹ?”
“Ồ, Charlie, không phải đâu. Mẹ mua nó ở Vương Quốc đấy. Chính mắt mẹ nhìn cô gái gói hàng.”
“Chắc giá nó bằng một quả bom quá,” Charlie lầm bầm.
“Đó là một món quà,” mẹ nó nói, hơi hơi mắc cỡ.
Một cái bẫy thì giống hơn, Charlie nghĩ thầm. “Mẹ không thể để ngoại Maisie một mình,” nó vuột miệng. “Đang đông cứng như thế mà. Chính mẹ đã bảo là không thể mà.”
“Thôi đừng ngốc ạ, Charlie. Ông cậu Paton sẽ lên đây nếu ngoại Maisie... tan băng. Nếu con không thể nói được câu nào cho dễ nghe thì tốt hơn con nên đi đi.”
Bàn tay Charlie buông thong xuống. Nó cảm thấy mình đã bại trận. Nó không biết phải sử dụng vũ khí nào để chống lại gã đàn ông đang đánh cắp mẹ nó bằng những lời đường mật. Nó lủi thủi ra khỏi phòng mẹ và đóng cửa lại.
Trên đường xuống lầu, Charlie ghé vào thăm ngoại Maisie. Bà vẫn nằm trong bồn tắm. Ai đó đã đeo mặt nạ ngủ lên mắt bà, như thế khiến bà trông giống một tên trộm hơn là một bà ngoại bị đông cứng. Ngoại trừ cái áo lạnh màu hồng.
“Mày đói chứ gì,” nội Bone nói khi Charlie ló vào nhà bếp.
“Không cảm ơn, cháu ăn trưa rồi,” Charlie nói.
“Ta đâu có mời, ta chỉ hỏi thôi,” bà nội nó nói, không nhìn lên khỏi tờ báo.
Charlie thở dài. “Giỏ đồ ăn có tới không ạ?” Nó hỏi.
“Tới chứ. Ông cậu Paton không đụng tới thứ nào, đồ khờ. Ngon thế còn đòi,” nội Bone chẹp môi.
“Vậy là không còn gì ạ?”
“Một mẩu vụn cũng không”.
Charlie lại thở dài. Nó đi lên lầu và gõ cửa phòng Ông cậu.
“Vào đây, thằng cháu cưng, vào đây,” Ông cậu Paton gọi vọng ra.
Charlie đi vào và ngồi lên mép giường bừa bộn kinh hồn của Ông cậu, trong khi Ông cậu Paton cố ấn vài tờ báo vào trong một ngăn kéo bàn viết.
“Ông nói đúng, Ông cậu ạ,” Charlie âu sầu. “Mẹ con còn hơn cả tươi rói nữa. Mà con nghĩ hình như mẹ bị bỏ bùa rồi hay sao ấy.”
“Ta cũng nghĩ vậy!” Ông cậu Paton xoay chiếc ghế lại và nhìn chong chong vào Charlie. “Nhưng mà nhìn này, không phải tất cả đều thê thảm và u ám đâu. Chúng ta có tin mới cho con đây.”
“Tin tốt chứ ạ?” Charlie khấp khởi hy vọng.
“Thú vị, ít nhất là vậy,” Ông cậu bảo nó. “Trong khi các quý bà giỏi giang của chúng ta đi dự Đại Dạ Vũ, cô Ingledew sẽ đến đây dùng bữa tối với chúng ta. Còn Emma chắc sẽ ở gia đình Vertigo. Julia có một gói quà bộ hấp dẫn nhất cho con, và cả hai ta đều đang phát sốt lên muốn biết trong đó có gì.”
“Cho con á?” Charlie hoang mang. Ông cậu không thể nói gì thêm với nó, vì vậy nó đi về phòng mình và dỡ giỏ xách ra. Con bướm trắng từ rèm cửa sổ bay xuống đậu lên vai nó. Charlie cảm thấy đó là cách cây gậy phép đón mừng mình.
Thời gian lờ đờ trôi qua, Charlie nghĩ đến việc qua thăm Benllamin, nhưng nó cảm thấy ngài ngại nhà số 12, vì biết cô chú Brown là gián điệp. Chắc rồi Benjamin sẽ sang với nó thôi.
Vào lúc bảy giờ, cánh cửa phòng nội Bone bật mở và bà ta loạt soạt xuống cầu thang. Cửa trước đóng cái rầm và Charlie nhìn ra cửa sổ phòng nó. Bên dưới đường, bội Bone và hai bà cô của Charlie, bà Venetia và bà Eustacia, đang đứng chum chụm, thì thà thì thầm. Tất cả họ đều diện áo choàng da màu đen, dài thượt, nhưng bà cô Venetia trông đặc biệt trơn nhẫy hơn cả. Óng a óng ánh như vệt nhớt ốc sên.
Ba bà cô chui vào xe hơi của cô Eustacia, và ngay phút sau chiếc xe đã gầm rú điên cuồng, chồm một phát tới tận cuối đường Filbert. Vài giây sau, có tiếng lụa sột soạt bên ngoài phòng Charlie. Cánh cửa phòng nó mở ra và một một phụ nữ bước vào. Charlie gần như không nhận ra. Lẽ nào người phụ nữ xinh đẹp váy xanh da trời này là mẹ mình sao?
“Trông mẹ thế nào?” Cô hỏi.
Ánh mắt Charlie rà xuống cánh tay trần xanh xao của mẹ. Một cái lắc bạc rộng bao quanh cổ tay trái, nhưng chiếc nhẫn kim cương đã không còn. Charlie rùng mình. Nó chưa bao giờ thấy mẹ không đeo nhẫn cả. Không bao giờ.
“Nhẫn của mẹ đâu?” Charlie nhìn vào mặt cô Amy.
“Nhẫn của mẹ à? Ồ, mẹ tháo nó ra rồi. Mẹ không muốn tỏa sáng quá, phải không nào?” Rồi mẹ nó cười nhếch một cái ngớ ngẩn.
“Nhưng mà mẹ...”
“Chúc ngủ ngon, Charlie,” mẹ nó bất ngờ cúi xuống hôn lên má nó, và Charlie bị phủ trùm trong một luồng hương lạ vô cùng. Mất vài phút, nó đứng đực ra, rồi mới chạy bổ xuống cầu thang đuổi theo mẹ. Có người đã nhấn chuông và cô Amy Bone rời căn nhà mà không ngoái lại lần nào. Một người đàn ông mặc đồng phục đen đóng cánh cửa sau lưng cô lại.
“Mẹ!” Charlie giật cửa mở ra, đúng lúc thấy mẹ nó chui vào ghế sau một chiếc limousine dài, vàng chóe. Cửa sổ xe mờ hơi sương nên nó không thể nhìn qua được. Người đàn ông mặc đồng phục đen, không nghi ngờ gì là tài xế riêng, liếc Charlie một cái rợn người, rồi ngồi vào ghế gành cho tài xế. Chiếc limousine lướt đi, nhẹ ru như một con rắn.
“Đừng đứng ngay trời lạnh nữa, cưng,” Ông cậu Paton đến đằng sau Charlie.
“Ông cậu Paton, ông có thấy mẹ con không?”
“Không. Rất tiếc. Ta bỏ lỡ rồi. Cô ấy đẹp lắm nhỉ?” Ông cậu Paton lôi Charlie qua bên và đóng cửa lại.
“Vâng,” Charlie thẫn thờ. “Nhưng mẹ đã tháo chiếc nhẫn ra rồi.”
“Hừm. Điều đó biểu thị cái gì, ta tự hỏi? Ồ mau lên, giúp ta dọn bàn đón cô Julia đi. Cô ấy đến đây không biết lúc nào đấy.”
Họ đi vào nhà bếp, ở đó Ông cậu Paton đã thắp nến lên tất cả chỗ nào có thể cắm nến được. Charlie sắp dao, nĩa, thìa trong khi Ông cậu lấy ly. Có mùi thơm phức phả ra từ lò nướng, và đến khi cô Ingledew tới thì Charlie đói bụng đến nỗi đã xơi tái ba chiếc bánh quy ưa thích của nội Bone.
Cái gói giấy màu nâu mà cô Ingledew đem tới trông quả là mời gọi. Nó được buộc dây kỹ lưỡng và đóng rất nhiều xi niêm phong. Charlie không biết phải bắt đầu tháo ra từ đâu. Tên của Charlie được ghi bằng nét chữ in to ở phía trên địa chỉ của cô Ingledew.
“Được gởi tới tận nơi nhé,” cô Ingledew bảo với Charlie,” do một phụ nữ lớn tuổi người Trung Hoa, trông rụt rè.”
“Bà Meng!” Charlie suýt đánh rơi cái gói.
“Meng?” Ông cậu nó hỏi. “Cháu biết người phụ nữ Trung Hoa này à?”
Charlie lưỡng lự. Khi buột miệng thốt ra tên của bà Meng, nó đã phá vỡ một nửa lời hứa với ông Bartholomew. Nhưng chắc chắn, trong tất cả những người có trên đời này, Ông cậu Paton và cô Ingledew là người đáng tin cậy nhất. Vì vậy nó ngồi xuống, đặt cái gói lên đùi và kể cho họ nghe tất cả về chuyến đi tới đồng hoang, và cẩn trọng thuật lại thêm những gì nó đã nghe được trong suốt Tiệc Chiêu Đãi Một Trăm Vị Hiệu Trưởng.
“Cô không thích vụ này tí nào,” cô Ingledew nói. “Cô sợ tất cả các cháu rồi sẽ rơi vào tay của những kẻ khủng khiếp.”
Ông cậu Paton dường như không lo đến mức ấy. “Vậy là cha của tiến sĩ Bloor đã trở lại,” ông bật ra. “Ừm, ta không bao giờ ngờ tới.”
“Cháu đã hứa với ông ấy là sẽ không nói gì hết,” Charlie tần ngần, xé mảnh giấy màu nâu. “Ông ấy không muốn bất cứ ai biết chuyện cả.”
“Ta không trách ông ấy. Ông ấy vốn vẫn xung khắc với lão Ezekiel, cha của ông ấy, và cũng chưa bao giờ thuận hòa được với con trai mình. Thế rồi Mary chết,” Ông cậu Paton lắc đầu, “Tôi nghiệp Barty.” [Barty là tên thân mật của ông Bartholomew. (ND)]
“Ông ấy biết cha con,” Charlie nói.
“Đúng vậy,” Ông cậu Paton đưa cho Charlie một con dao xắt thịt bò. “Họ thường đi leo núi với nhau, chỉ một năm trước khi Lyell... biến mất.”
Charlie dùng con dao cắt sợi dây cuối cùng và tờ giấy màu nâu bung rơi xuống sàn, cùng với vài quyển sách nhỏ. Charlie nhặt chúng lên. Quăn queo và bạc màu sương gió, mỗi quyển được cột lại bằng một sợi dây da mỏng để giữ những trang giấy xộc xệch và quăn mép lại với nhau.
“Nhật ký,” cô Ingledew thốt lên. “Coi này, tất cả đều có in năm ở ngoài bìa. Mỗi quyển là năm năm. Tuyệt quá đi mất.”
“Nhật ký à?” Charlie nói. “Tại sao ông ấy lại gởi nhật ký đến cho con?”
Ông cậu Paton khuyên hãy ăn bữa tối do ông đặc biệt chuẩn bị đã rồi hẵng xem chồng nhật ký của ông Bartholomew. Vịt rô-ti, củ cải hầm, khoai tây, cà rốt và đậu nhanh chóng xuất hiện trên bàn, tiếp nữa là một ổ bánh pudding dứa tan chảy trong miệng. Ông cậy Paton rõ ràng là đã cố gắng hết sức để tạo ấn tượng với khách.
Ngay khi chén dĩa được dọn đi, Charlie đặt chồng nhật ký lên bàn và mở sợi dây da đầu tiên ra. Khi mở quyển sách ra, nó thấy một lá thư kẹp bên trong.
“Charlie thân mến,” nó đọc, “ta nghĩ cháu cần phải biết cháu đang phải chống lại thế lực nào. Cháu có nói đến “cái bóng” và cuối cùng ta đã nhớ ra tên của hắn. Trong những cuốn sổ nhật lý này, ta đã đánh dấu các nơi mà hắn được nhắc tới. Cháu đọc rồi sẽ thấy, ta đã đi chu du đó đây rất nhiều trước khi an cư lạc nghiệp ở Trung Hoa. Tại mỗi quốc gia ta tới, ta đều nghe được những câu chuyện về Vua Đỏ. Và ta đã ghi lại tất cả, và một ngày nào đó, cháu sẽ có thời gian để đọc lại tất cả. Nhưng bây giờ cháu cần phải tập trung vào những gì liên quan tới ‘cái bóng’ đáng sợ kia. Hắn ta được biết đến dưới rất nhiều tên khác nhau, nhưng ở đây, ở châu Âu này, hắn là bá tước Harken Badlock.
Khi cháu chắp nối những thông tin có thật về cái bóng đó, cháu sẽ biết hắn ta là một kẻ săn người và giết người. hắn ăn cắp linh hồn và làm tan vỡ những trái tim. Sinh vật nào rơi trúng hắn đều phải hứng chịu điều đó. Đâu đó trong những quyển nhật ký này có một câu thần chú có thể đánh bại hắn. Ta đã chép lại nguyên văn bằng ngôn ngữ của người đã tạo ra nó, và ta tin rằng nó sẽ dẫn cháu tới Vua Đỏ. Nhưng có lẽ cháu cần có sự giúp đỡ mới hiểu nó được.
“Hãy bảo trọng. bạn của ta, đừng sợ.
Bartholomew.”
Cô Ingledew chụp lấy lá thư khi nó vuột ra khỏi tay Charlie. “Lẽ ra ông ấy không nên viết những lời lẽ như thế,” cô gay gắt, “nó làm Charlie sợ chết khiếp mất.”
“Cháu cần phải biết,” Charlie nói.
Ông cậu Paton gãi đầu, “Để xem nào.” Ông cầm chồng nhật ký lên. Quyển nào cũng có vài tấm thẻ đánh dấu bằng da mỏng nhô ra. “Bắt đầu từ năm 1965 nào.”
Một cơn mưa tuyết đột ngột cuốn qua cửa sổ và cô Ingledew đóng rèm lại. Ông cậu Paton mang thêm một cây nến nữa lên bàn và họ kéo xích ghế lại gần nhau, để tất cả đều có thể đọc được nét chữ loằng ngoằng, phai màu phiêu du của ông Bartholomew Bloor.
Hầu như không ai thốt ra được lời nào. Họ chỉ nhắc nhau khi nào phải lật qua trang mới, hay bộc lộ cảm xúc trước một tội ác nào đó không tin nổi. Đêm trở lạnh hơn và nến lụi dần, cho đến khi chúng chỉ còn là những mẩu sáp nhập nhòe. Ông cậu Paton đứng lên và lấy những cây nến mới từ ngăn kéo ra.
Họ đọc mãi. Cả ba người giờ đã bị hút hồn vào những cuộc phiêu lưu từng dẫn ông Bartholomew tới việc khám phá ra những câu chuyện về “cái bóng”. Dường như ông đã đi qua hầu như mọi quốc gia châu Âu, châu Á, châu Phi. Nhưng chính từ cuộc hành trình tới nước Ý mà ông đã khám phá ra sự thật về nguồn gốc của bức chân dung Vua Đỏ.
Một người tên là Luigi Salutati được thừa kế tấm áo choàng màu đỏ của Vua Đỏ từ tổ tiên mình là công chúa Guanhamara. Luigi là một họa sĩ, và không rõ lúc nào, vào thế kỷ thứ 15, ông đã tới Venice để thọ giáo họa sĩ vĩ đại Jacopo Bellini. Một đêm nọ, một mình trong xưởng vẽ, Luigi quàn chiếc áo lên vai cho ấm. Ngay khi vừa choàng chiếc áo vào người, ông liền bị chế ngự bởi niềm khao khát phải vẽ chân dung một người đàn ông hay đến thăm mình trong những giấc mơ. Gương mặt đó giờ đây trở nên rõ rang đối với ông như thể họ cùng ở trong một căn phòng. Nhận ra đây chắc hẳn là tổ tiên mình, vị Vua Đỏ huyền thoại, và Luigi bắt đầu vẽ ngài. Nhưng trong khi vẽ, Luigi nhận thấy có một thế lực thù địch hiện hữu trong phòng, một cái bóng cứ nhất mực đòi đi vào chân dung. Cho dù cố hết sức, Luigi vẫn không thể ngăn được nét cọ của mình trệch ra, ngay chỗ một bóng đen bắt đầu hình thành đằng sau dáng hình của Vua Đỏ, Luigi thú thật là mình đã rơi vào quyền năng của một thầy bùa ác tâm nào đó, kẻ nhất quyết phải ám ảnh cho được ký ức về Vua Đỏ.
Bức tranh đã ở lại Venice suốt cho đến khi những hậu duệ của Luigi đem nó qua nước Anh vào thế kỷ 16. Đây cũng chính là thời gian mà họ đổi họ của mình thành Silk.
“Gabriel!” Charlie thốt lên. “Gia đình Gabriel là chủ nhân của bức chân dung Vua Đỏ.”
“Giờ thì không còn nữa,” Ông cậu Paton rà ngón tay xuống trang giấy. “Ở đây viết rõ là bức chân dung đã bị mua từ nhà Silk bằng những thủ đoạn lừa bịp và hiện đang treo ở Học viện Bloor.”
Charlie dụi mắt. Đọc sách dưới ánh nến thật chẳng dễ dàng gì, nhất là khi nó bắt đầu gà gật. “Dối trá,” Charlie nói. “Tất cả những gì con đã nghe về bá tước Harken Badlock khi con chui dưới gầm bàn đều là dối trá. Họ bảo hắn đã đến để bảo vệ những người con của nhà vua, nhưng thật ra hắn chỉ muốn gây rối loạn mà thôi. Hắn dạy họ cách giết chóc và tra tấn; săn thú đến tuyệt chủng, như ông Bartholomew đã nói đây.”
“Thế là quá nhiều cho sách của chúng ta, Julia à,” Ông cậu Paton nhận xét. “Anh chưa bao giờ tìm thấy một dòng tham khảo nào về con người này trong thư viện của anh.”
“Em cũng không có,” cô Julia nói, “Nhưng chắc rồi cũng đến lúc người ta không còn thiện cảm lắm cho nhưng người như gã bá tước đây. Con cháu của năm người con đi theo hắn một cách mù quáng chắc hẳn đã quyết định cắt đứt hắn khỏi tiểu sử của mình.”
“Trừ cô Chrystal,” Charlie lầm bầm trong một cái ngáp. “Cô ta đã chọn một cái họ khiến người ta liên tưởng về cái gì đó xinh đẹp và tốt bụng. Trong khi họ thật cô ta là Tilpin.” Nó lại ngáp một cái hoành tráng nữa. “Cháu tự hỏi trước khi lấy chồng thì cô ta họ gì.”
“Tới lúc ngủ rồi, Charlie Bone,” ông cậu nó bảo. “Chúng ta đã đọc hết những phần ông Bartholomew đánh dấu cho chúng ta rồi, giờ ngủ đi thôi. Đêm nay chúng ta chẳng thể làm thêm được gì nữa đâu.”
Charlie thở phào khi bị xua đi ngủ. Mắt nó đã díp ríp lại. Để chồng nhật ký đó cho ông cậu và cô Ingledew, nó lờ phờ chúc họ ngủ ngon và đi về giường mình.
Lúc đi ngang qua phòng tắm, nó thấy con bướm trắng bay phấp phới bên ngoài cánh cửa đóng. Sao mình vô tâm quá! Con bướm đó là cây gậy phép. Mà cây gậy phép có thể giúp mình. Mở cửa ra, nó bước vào trong. Phải chăng nó tưởng tượng, hay là ngoại Maisir đã lậm vào giai đoạn đông cứng sâu hơn? Charlie kéo chiếc mặt nạ lên trán bà và thấy mắt bà đã nhắm.
“Ở lại với tụi con đi, ngoại Maisie,” nó thì thầm. “Cố lên. Níu chắc nhé. Chúng con sẽ giúp ngoại.”
Con bướm trắng bay luần quần quanh bóng đèn, và Charlie vội tắt đèn đi. Giờ chỉ còn ánh sáng tỏa ra từ đôi cánh bạc trắng lấp lóa của con bướm. Sinh vật nhỏ đậu lên bàn chân của ngoại Maisie và bò từ từ về phía mặt bà. Lên tới cằm bà, nó bay vụt lên không và lượn lờ quanh đôi mắt nhắm nghiền của ngoại Maisie. Thỉnh lình, mắt ngoại mở ra.
“Ngoại Maisie!” Charlie reo to. “Ngoại Maisie, ngoại Maisie, trở lại đi. Con đây, Charlie nè!”
Dường như ngoại có trông thấy nó và môi bà hơi nhích một tí ti. Con bướm trắng bay xuống và đậu lên mái tóc xám quăn của bà. Một mảng ửng hồng hiện ngang má ngoại Maisie, nhưng rồi thình lình, mắt bà mờ đi và một nét kinh hoàng xuất hiên trên gương mặt. Mí mắt sụp xuống và trông ngoại Maisie bị đông cứng hơn bao giờ hết. Kẻ đã làm đông cứng ngoại Maisie có lẽ muốn chứng tỏ hắn mạnh hơn cả Charlie và cây gậy phép của nó cộng lại.
Charlie thấy thểu trở lại giường cùng với con bướm trắng đậu trên vai. Dẫu mệt đứ đừ nhưng nó biết mình sẽ không thể ngủ được.
***
Billy Raven đang quỳ gối nơi chiếu nghỉ ngay trên đại sảnh. May Phúc ngồi tùm hụp bên cạnh nó. Hai cánh cổng chính để mở toang và từng tràng mưa tuyết theo chân khách khứa thổi vào. Billy chưa bao giờ trông thấy trong cùng một lúc có nhiều người trang phục là lượt đẹp đến thế. Đặc biệt là những phụ nữ, trông như thể họ bước ra từ những câu chuyện cổ tích. Màu sắc những bộ đầm dạ hội sao mà hấp dẫn. Ngay cả các bà cô già khọm của Charlie trông cũng rất ra dáng.
Đột nhiên tiếng chuyện trò lắng xuống. Các vị hiệu trưởng quay đầu về phía cửa và một đôi bước vào. Billy bấu chắc lấy con tiện cầu thang. Người phụ nữ đó là mẹ của Charlie, cô Bone. Cô Bone mà Billy chưa từng thấy bao giờ. Xiêm y xanh da trời bập bềnh, nhìn cô như một nữ thần sáng chói.
Một tiếng gừ đặc nghẹt trong cổ họng May Phúc. Con chó lùi sững lại, tru lên và run cầm cập.
“May Phúc, gì vậy?” Billy nhẹ nhàng ngâm nga.
“Xanh lá cây... người đàn ông... cái bóng,” May Phúc tru lên.
“Người đàn ông xanh lá cây?” Billy ngó xuống tiền sảnh. Mẹ của Charlie đang vịn cánh tay của người đàn ông mặc com-lê nhung xanh lá cây. Ông ta có mái tóc rậm dày nhuộm màu vàng kim và cái mũi diều hâu.
Billy dịch ra khỏi chỗ có ánh sáng đèn. “Cái bóng!” Nó nín thở. “Tao phải nói cho anh Charlie mới được.”
May Phúc gục gặc, “Đi mau đi.”
“Phải, phải đó, tao đi đây.”
Billy vừa lảo đảo đứng lên thì một giọng quát, “Mày làm gì ở đây?” Và Manfred từ hành lang xồ ra.
“Em... em chỉ đang nhìn thôi, thưa ngài,” Billy lắp bắp.
“Trông mày giống gián điệp hơn,” Manfred nói lạnh băng.
“Không. Không phải gián điệp. Thật mà.”
“Tiếc là mày không làm do thám cho tao nữa,” đôi mắt đen tàn bạo của Manfred găm vào mắt Billy và nhìn trừng trừng vào đó.
Đôi mắt bạch tạng màu đỏ của Billy luôn luôn cưỡng lại được luồng thôi miên của Manfred, nhưng tối nay Billy cảm thấy Manfred có gì đó khang khác. Ánh mắt hắn đã mất đi sức mạnh từng có. Có điều gì đó đã thay đổi.
“Đừng có đứng đó mà trơ mắt ra nhìn,” Manfred nạt nộ. “Đi ngủ mau. Đem cả con chó ghẻ này xuống nhà bếp.”
Nhưng Billy vẫn đang ngớ ra nhìn Manfred, cố đoán xem chuyện gì đã xảy ra với hắn.
“Tao bảo gì hả?” Manfred thộp lấy cổ tay Billy, và một ánh chớp xẹt ra khi những ngón tay nghều ngào của hắn ấn vào da thịt Billy. Thằng nhỏ cảm thấy như nguyên cánh tay mình bốc cháy.
“Ối!” Billy rú lên.
Nhiều vị khách ngước nhìn lên, nhưng Manfred đã lôi Billy đi khỏi chiếu nghỉ vào hành lang. “Đi ngủ,” hắn rít lên.
Cánh tay Billy được buông ra, và con trai ông hiệu trưởng ngoắt đầu bỏ đi. Một lúc sau là tiếng những bước chân đi xuống cầu thang.
Khóc thút thít vì đau đớn, Billy chạy ù trở về phòng ngủ chung. Nó giơ cánh tay ra dưới vòi nước lạnh nhưng cơn đau vẫn cứ dai dẳng. Có bốn lằn sâu đỏ tấy phía trên cổ tay nó, và một vệt bên dưới, chỗ ngón cái cắm vào da thịt nó. Lực thôi miên của Manfred đã được thay thế bằng một cái gì đó còn ghê gớm hơn nữa.
Billy nằm trên giường, giữ cánh tay bị thương vắt qua người. May Phúc nhảy lên và định liếm tay nó, nhưng Billy đẩy con chó đi. “Vô ích,” nó lẩm bẩm. “Xin lỗi, May Phúc.”
“Xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi,” con chó già tru lên.
Ánh sáng chói lói trong phòng ngủ chung bắt đầu làm Billy nhức đầu. Nó cần được vỗ về. Bò ra khỏi giường, nó tắt đèn đi và đặt cả năm ngọn nến người người giám họ cho mình lên bậu cửa sổ. Một đốm sáng nhỏ xíu xuất hiện trên đầu mỗi ngọn nến và tất cả gộp thành một thứ ánh sáng thanh dịu.
Billy bắt đầu thở dễ hơn. Đầu nó nhẹ đi và cánh tay nó thôi không buốt thốn nữa. Một lát sau những mảng đỏ sưng tấy hoàn toàn lặn mất.
Charlie nghe thấy tiếng động cơ rồ nhẹ dưới đường. Nó lăn khỏi giường và chạy ra cửa sổ.
Chiếc limousine vàng chóe đậu bên ngoài căn nhà số 9. Một người đàn ông bận com-lê nhung xanh lá cây bước vòng ra sau xe và mở cánh cửa gần lề đường. Mẹ của Charlie bước ra: bộ đầm xanh da trời của mẹ lấp lánh trong ánh đèn đường. Họ bước về phía ngôi nhà, cánh tay của người đàn ông choàng qua vai cô Amy.
“Mẹ, đừng để hắn hôn mẹ.” Charlie khẩn cầu.
Khi cặp đôi gần đến bậc cấp, người đàn ông cúi đầu xuống và hôn vào môi Amy. Charlie cảm thấy như thể mọi hơi thở đã bị tống ra khỏi người mình. Khi mẹ nó bước lên cửa trước, người đàn ông ngó lên và trông thấy Charlie ở cửa sổ. Hắn mỉm cười. Và ngay khoảnh khắc đó, Charlie biết rằng mẹ mình đã bị một thầy bùa hôn phải.
Tác giả :
Jenny Nimmo