Câu Hỏi Tình Yêu
Chương 9
Tối Chủ nhật, Hope gọi từ Seville. Họ vừa ăn tối trong một nhà hàng nhỏ gần Cathedral.
“Em đang diễn xuất rất thuyết phục,” em tôi thì thầm. “Mike không có một manh mối gì là em đã biết.”
“Cậu ấy cư xử như thế nào?”
“Bình thường, mặc dù anh ấy hơi có vẻ... nhấp nhổm. Tối nay trong một phút bối rối anh ấy bắt đầu nói gì đó - em nghĩ anh ấy định thú tội - nhưng sau đó anh ấy dừng lại, giống như là cho dù đấy là chuyện gì, nó cũng là quá đau đớn để nói ra...” Em tôi dừng lại, sau đó tôi nghe thấy một tiếng hít vào chầm chậm. “Thật là lạ khi nghĩ đây có thể là kỳ nghỉ cuối cùng với nhau của bọn em.”
“Em có chắc muốn làm việc này không, Hope?”
“Có,” con bé bình tĩnh nói. “Em chắc chắn. Em có thể vùi đầu trong cát để giữ gìn cuộc sống em đang có - nhưng có thể cuối cùng anh ấy cũng rời bỏ em thôi. Em phải biết Laura, để em có thể chuẩn bị.”
“Em vẫn muốn chị theo dõi cậu ấy vào thứ Ba?”
“Vâng.”
“Và em sẽ chấp nhận hậu quả?”
Tôi nghe thấy một tiếng thở dài. “Em sẽ.”
“Và em thề rằng sẽ không bao giờ trách chị - cho dù chị tìm ra chuyện gì - hoặc dùng nó chống lại chị theo bất kể cách nào?”
“Em thề.”
“Cho dù khó chịu như thế nào?”
“Cho dù khó chịu như thế nào.”
“Vậy được rồi. Địa chỉ làm việc của cậu ấy là gì?”
“Tòa nhà số 42 - đó là Tòa nhà NatWest cũ - ở số 25 Phố Old Broad - chị không thể bỏ qua nó đâu.”
“Thường thì mấy giờ cậu ấy ra về?”
“Khoảng sáu giờ ba mươi. Chị có thể trốn ở quán cà phê ở tầng trệt.”
“Cậu ấy sẽ không thấy chị chứ?”
“Không - vì nó nằm ở phía sau, đằng sau thang máy - nhưng chị sẽ thấy anh ấy khi anh ấy về. Và những bức tường của tòa nhà đều bằng kính nên chị có thể dễ dàng nhìn thấy anh ấy đi đường nào.”
Thế là tối thứ Ba tôi đi tàu điện ngầm đến Phố Liverpool, sau đó đi bộ đến Phố Old Broad, ngược lại với dòng người lao động của thành phố đang trên đường về nhà. Có một đợt nóng sớm nên tôi không cảm thấy quá ngượng ngùng trong đôi kính râm. Bên trái tôi là tòa nhà Gherkin khổng lồ với hai màu xanh-xám và, trước mặt tôi, Tòa nhà 42 vút cao trên bầu trời, những khung cửa sổ lấp lánh ánh đồng và vàng trong ánh nắng chiều muộn.
Tôi đi vào trong và đi qua đại sảnh đến quán Café Ritazza, nơi tôi có thể kín đáo quan sát hai cánh cửa quay. Tôi ngồi ở đó uống cà phê, tha thiết ước rằng mình có thể ở đâu đó khác - hơn hết là ở riêng với Luke. Tôi gọi điện cho anh lúc năm giờ ba mươi, nói rằng tôi vướng một chút việc, nhưng sẽ cố gắng và đến chỗ anh sau đó. Tôi không thể nói với anh sự thật, nhưng tôi không muốn nói dối.
Theo như tờ rơi tôi nhặt được về tòa nhà, Tòa nhà 42 được gọi như thế bởi vì nó có 42 tầng, Kleinwort Perella ở bốn tầng trên cùng. Tôi đến sớm hơn đúng hai mươi phút, vì thế tôi để di động ở chế độ im lặng - tôi không muốn nó quảng cáo sự có mặt của mình - khi tôi uống cà phê, để giết thời gian, như vẫn thường làm, tôi vẩn vơ nghĩ đến những câu hỏi chúng tôi có thể sử dụng trong chương trình. Tòa nhà cao nhất thế giới là tòa nhà nào? (Tòa nhà Sears ở Chicago.) Mối quan hệ giữa các quốc gia liên quan đến dịch vụ tư vấn được gọi là gì? (Liên kết.) Tên của người Đan Mạch vĩ đại đã thiết kế Nhà hát Opera Sydney? (Jörn Utzen.) Một người bình thường mang thai trong bao lâu? (40 tuần.)
Tôi liếc nhìn đồng hồ. Đã sáu giờ mười lăm phút. Trước mắt tôi, những nhân viên tan làm đang ồ ạt đi xuống trong thang máy có vách-kính và ra ngoài qua hai cánh cửa quay. Khi họ ào ra vỉa hè, vài người rẽ phải về hướng Đường Liverpool, trong khi những người khác đứng ở đó để vẫy taxi. Nơi tôi ngồi có một tầm nhìn tốt. Khi tôi nhìn họ trong những bộ quần áo màu than chì, cà vạt lụa và khăn quàng Hermes, tôi cố gắng chọn một danh từ tập hợp cho những nhân viên nhân hàng - có lẽ là ‘lãi suất’ hay ‘kẻ sọc,’ hay là ‘tín dụng’. Đột nhiên trái tim tôi lỡ một nhịp. Kia là Mike, vừa bước ra khỏi thang máy. Tôi đã đứng lên, nhịp tim chạy đua, thì tôi nhận ra mình đã nhận sai người. Tôi ngồi xuống, cảm thấy bồn chồn, giống như một tay đua sau một xuất phát sai lầm. Tôi liếc quanh quán cà phê, hy vọng không ai nhìn thấy tôi, nhưng xung quanh gần như không có người. Tôi trấn tĩnh lại sau những hơi thở sâu.
Hope đã đúng. Có rất nhiều phụ nữ hấp dẫn làm việc ở tòa nhà này. Hầu hết đều khoảng hai mươi đến ba mươi tuổi, đều mảnh mai, ăn mặc chỉnh tề và sang trọng như nhau. Cám dỗ. Tôi tự hỏi trước đây Mike đã từng lầm lạc chưa. Tôi cảm thấy giận dữ với cậu ấy vì đã làm Hope thất vọng - và giận dữ với em tôi vì đã lôi kéo tôi vào.
Bây giờ là sáu giờ hai mươi lăm phút. Tôi tưởng tượng Mike đang dọn dẹp bàn làm việc, mặc áo khoác, sau đó nhấc cặp lên, trong đó sẽ là - cái gì nhỉ? Cái gì đó thiếu vải của La Perla? Đôi hoa tai Tiffany đi cùng bộ với chiếc vòng tay? Tôi hình dung cậu ấy tiến đến thang máy. Nhưng bây giờ số lượng người ra về đã tăng lên. Tôi chăm chú nhìn những người đàn ông qua đôi mắt nhíu lại. Không, tôi nghĩ. Không. Không phải cậu ấy. Hoặc người kia. Cũng không phải. Không... không... không... Hoàn toàn không phải... Không. Tôi đang quan sát cả hai cửa, mắt đảo đi đảo lại, sau đó tôi nhìn lại thang máy đang đi xuống với một nhóm nhiều người khác. Không... không... không... không. Đúng rồi!
Tôi ép chặt người vào ghế. Đó là cậu ấy. Không hề sai. Tôi nhìn cậu ấy bước ra khỏi thang máy, lịch sự đi qua đại sảnh và ra ngoài qua cánh cửa quay và bây giờ, qua những bức tường kính tôi thấy cậu ấy rẽ sang bên trái tòa nhà. Tôi theo cậu ấy ra ngoài. Tôi cảnh giác đến mức căng thẳng. Adrenaline cháy trong mạch máu tôi. Tôi đuổi theo cậu ấy trên Phố Old Broad, nửa như chạy để theo kịp khi cậu ấy đi qua đường, mà không hề chú ý đến sự hiện diện của tôi ba mươi thước phía sau lưng. Một chiếc xe buýt chạy qua trước mặt tôi, che khuất cậu ấy. Sợ rằng tôi sẽ mất dấu cậu ấy, tôi bước ra khỏi vỉa hè mà không hề nhìn, và một chiếc taxi đen rú còi ầm ĩ.
“Con bò ngu ngốc!” Một gã đi xe đạp mặc áo thun hét lên khi anh ta quành tay lái sang một bên để tránh tôi. Phía bên kia đường tôi chỉ có thể thấy cái đầu đen của Mike trong đám đông khi cậu ấy đi sang Phố Threadneedle, qua cửa hàng sandwich Pavarotti và Ngân hàng Hoàng gia Scotland hướng đến Trụ sở Sở giao dịch chứng khoán sang trọng theo kiến trúc Palladian. Trong khi bám theo cậu ấy, tôi cố gắng giữ biểu hiện bình thường trên mặt, bất chấp sự căng thẳng đang cảm thấy, tôi thấy cậu ấy đi xuống ga tàu điện ngầm Bank. Tôi cảm thấy mình giống như một kẻ ám sát khi bám đuôi cậu ấy xuống đường hầm lát đá đen và trắng, đồng thời để ý tránh những người đi bằng vé tháng.
“Thứ lỗi!” một phụ nữ gắt lên khi tôi vô tình va phải cô ấy. Tôi lẩm bẩm một lời xin lỗi, rồi sau đó nhìn thấy biển chỉ dẫn của tuyến Central Line. Nhưng tại sao Mike đi tuyến Central Line ở ga Bank này, khi mà ga tàu điện ngầm ở Đường Liverpool gần hơn? Sau đó tôi nhận ra là cậu ấy đang đi theo biển chỉ dẫn của tuyến “Drain’ - chạy Waterloo và Luân Đôn. Tôi vòng qua một lối rẽ, và thấy cậu ấy đi xuống cầu thang để xuống sân ga - một đường hầm rộng, dài sáng mờ mờ cho phép tôi nhìn thấy cậu ấy rõ ràng khi đi xuống. Khi tôi đi sau lưng cậu ấy cách khoảng mười hai mét, nhận thấy được hơi thở gấp gáp của mình, tôi tự hỏi tại sao cậu ấy lại đi đến Waterloo. Có lẽ cậu ấy sẽ bắt tàu hỏa ra đến ngoại ô - hoặc có lẽ cậu ấy sẽ xuống ở điểm trung chuyển Clapham, hoặc Barnes. Tôi tự hỏi người người đàn bà tên Clare này bao nhiêu tuổi, và cô ta trông như thế nào. Tôi tưởng tượng cô ta khoảng hai lăm tuổi, tóc đỏ - hoang dã và buông thả. Trái ngược với Hope.
Tôi đã đi đến chân cầu thang. Và Mike ở đó, đang đi đến cuối sân ga ngắn. Tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân cậu ấy gõ trên những viên gạch đá hoa. Nếu bây giờ cậu ấy quay lại, cậu ấy sẽ nhìn thấy tôi, vì thế tôi đứng sau một anh chàng cao béo mặc áo mưa màu be. Có tiếng rầm rầm từ phía xa xa, một luồng khí ấm áp, và bây giờ con tàu đang tiến vào. Cửa mở ra, những hành khách ùa ra, và tất cả chúng tôi lao về trước.
Để ý khoảng cách, máy gác tự động phát ra. Để ý khoảng cách...
Qua góc mắt tôi thấy Mike bước vào toa liền kề với toa của tôi. Khi con tàu chuyển bánh, qua vách ngăn kính tôi có thể nhìn thấy cậu ấy đứng gần cửa giữa. Cậu ấy không có vẻ hạnh phúc hay phấn khích. Nếu có, cậu ấy trông khá buồn. Có lẽ cậu ấy cảm thấy tràn ngập xấu hổ bởi sự phản bội của mình - hoặc có lẽ cuộc tình này đang đến hồi kết thúc.
Bây giờ chúng tôi đang tiến đến Waterloo và tôi cảm thấy cái bướu trong bụng tôi cứng lại khi nhận ra tiếp tục theo dấu cậu ấy trong đám đông vào giờ cao điểm này khó khăn như thế nào. Những cánh cửa kéo ra, và tôi nhìn thấy tín hiệu Lối ra ở bên phải, vì thế tôi nấn ná trong khoang vài giây để cho phép Mike có thời gian bước xuống sân ga trước tôi. Mike bước ra, không hề nhận thấy tôi đang đứng cách chỉ vài bước, sau đó tôi bám theo cậu ấy dọc sân ga và lên cầu thang. Bây giờ cậu ấy chỉ cách khoảng hơn bốn mét phía trước khi tôi đi qua biển hiệu chỉ dẫn về tàu hỏa, sau đó đi lên cầu thang, quan sát cậu ấy dừng lại ở cửa tự động để lục tìm vé. Giờ cậu ấy đang đứng trên thang máy, từ từ dâng cao lên trước tôi khi tôi bước lên, ánh sáng ùa qua trần nhà kính của sân ga trên đầu. Tôi cảm thấy một làn gió trong lành mát lạnh chào đón.
Xin hãy luôn giữ túi xách của bạn bên người... tôi nghe hệ thống tăng âm phát ra.
Lúc tôi bám theo Mike dọc phòng chờ của nhà ga tôi lờ mờ nhận thấy lối đi vào tuyến Eurostar ở bên tay trái và sân ga tàu hỏa ở bên tay phải, và tôi đang lo lắng rằng tôi không có vé tàu và không có ý tưởng gì là Mike đang đi đâu, thì tôi nhận ra rằng cậu ấy không tiến đến sân ga. Cậu ấy đang bước đến lối đi chính của nhà ga. Cậu ấy đang ra ngoài. Tránh những hành khách xung quanh, tôi đi theo cậu ấy qua cửa hàng The Body Shop và Delice de France, sau đó đi qua cái cổng mái vòm khổng lồ, và đi xuống những bậc thềm chính. Tôi thấy biểu tượng của Nhà hát Quốc gia. Có lẽ cậu ấy gặp Clare ở đó.
Phía trước là tòa nhà hình tròn khổng lồ của Imax, và bên trái là Festival Hall. Bên dưới chúng tôi là một hàng taxi đang đợi khách, đen và bóng như những con bọ hung, nhưng Mike đi bộ một cách quả quyết. Cậu ấy rẽ trái vào Đường York, đi dưới những lối đi bộ trên cao đến tòa nhà Shell Centre. Bây giờ vỉa hè rộng rãi nên tôi có một tầm nhìn không hạn chế, khoảng bốn mươi sáu mét phía trước. Cậu ấy đang bước đi một cách tự tin. Không ngần ngại. Rõ ràng cậu ấy đã đi theo đường này rất nhiều lần trước đây. Bây giờ, bên phải, là vòng đu quay London Eye, những khoang ghế ngồi của nó lấp lánh trong ánh nắng đầu buổi tối. Tôi nghĩ về Nick, với một cảm giác đau nhói.
Mike đã dừng lại ở ngã tư đường. Khi cậu ấy đứng đợi đi qua, tôi loanh quanh ở bến xe buýt gần đó để giữ một khoảng cách an toàn. Rồi đèn xanh kêu bíp cho cậu ấy qua đường, tôi lại bắt đầu cuộc săn đuổi. Khi cậu ấy sang đến bên kia đường, cậu ấy rảo bước và tôi nhận thấy rằng một bên sườn tôi nhoi nhói và cổ họng tôi khô rát. Bên trái tôi là County Hall, và bây giờ tôi có thể nhìn thấy đồng hồ Big Ben và Lâu đài Westminster, những ngọn tháp dát vàng của lâu đài lấp lánh trong ánh mặt trời. Chúng tôi đang ở Cầu Westminster - xe buýt lướt qua ầm ầm - con sông rộng, màu nâu và lấp lánh bên dưới cầu, một làn gió mạnh thổi vào tóc tôi.
Mike đang đi ở phía bên kia, nhưng khi tôi đợi tín hiệu sang đường, vui sướng lấy lại hơi thở, tôi thấy cậu ấy không rẽ phải để đi qua sông như tôi nghĩ. Thay vào đó cậu ấy đi thẳng. Giờ cậu ấy đang bước vào sân bệnh viện St Thomas. Khi chúng tôi đi men rìa bên ngoài, tôi nghĩ rằng cậu ấy sẽ đi qua nó, tiếp tục đi theo con đường ven sông, nhưng, trước sự ngạc nhiên của tôi, Mike theo biển chỉ dẫn vào lối đi chính, và bây giờ cậu ấy đang đi qua cánh cửa trượt, tránh một bệnh nhân trong chiếc áo bệnh viện màu xanh lục và một chân bó bột.
Mike làm chuyện quái quỷ gì ở đây? Đây khó có thể là một hơi hẹn hò lãng mạn. Có lẽ bạn gái của cậu ấy là một bác sỹ, một y tá, và cậu ấy đón cô ta khi hết ca trực. Có lẽ cậu ấy đang thăm một người bạn? Hoặc có lẽ... phải rồi... có lẽ cậu ấy phải điều trị bệnh nào đó? Chuyện này rất có thể, tôi quyết định khi đi qua cửa hàng hoa. Tôi cảm thấy một làn sóng nhẹ nhõm bất ngờ. Cậu ấy có bệnh tật gì đó, nhưng đang che giấu Hope. Ngoại trừ bây giờ là một thời điểm lạ lùng để điều trị cho bệnh nhân ngoại trú, và cho dù thế nào, còn chiếc vòng tay bạc thì sao, với cái khóa hình trái tim bằng vàng, khắc tên ‘Clare’? Trừ phi Clare là người bị bệnh... Phải. Chính là thế, giờ tôi thấy mình đi theo Mike xuống cầu thang, đến chái Bắc của toàn nhà. Clare là bệnh nhân ở đây. Đấy là nguyên nhân cậu ấy trông buồn như vậy. Cô ta đã ở trong bệnh viện hai tháng, chắc bệnh tình phải nghiêm trọng lắm. Tôi mường tượng ra gò má hõm lại của cô ta, và nước mắt của Mike.
Cậu ấy dừng ở dãy thang máy. Khi cậu ấy ấn nút, tôi nhanh chóng lùi khỏi ánh mắt của cậu ấy đang hướng về quán cà phê. Tôi đã thành công đi theo cậu ấy xa đến thế này, tôi không muốn cậu ấy phát hiện ra. Nhưng tôi nói được gì nếu bị cậu ấy nhìn thấy? Ít nhất, ở đây, tôi có một lý do nghe lọt tai. Tôi sẽ giả vờ ngạc nhiên vì ‘bất ngờ gặp’ cậu ấy, kế đến nói với cậu ấy rằng tôi đang đến thăm một người bạn. Nhưng Mike không nằm trong nguy cơ nhìn thấy tôi. Cậu ấy dường như không chú ý đến khoảng tám người đang đứng xung quanh khi cậu ấy nhìn chằm chằm vào sàn nhà, hoàn toàn chìm đắm. Có một tiếng binh, tất cả bọn họ lùi lại khi thang máy mở để những người bên trong bước ra - sau đó họ bước vào và cánh cửa đóng lại. Mike đã đi - và tôi không biết cậu ấy đi đâu.
Tôi vội vã chạy đến thang máy kế tiếp. Nó đến trong vòng vài giây và tôi bước vào, ấn tất các các tầng. Có rất nhiều người trong thang máy của Mike nên nó có thể dừng lại ở tất cả các tầng, vì thế tôi phải chắc chắn thang máy của mình cũng như vậy. Bằng cách này tôi có lẽ sẽ bắt được bóng dáng cậu ấy trong hành lang mỗi lần cửa thang máy mở.
Tầng một. Cửa mở, giọng nói tự động phát ra. Tôi nhòm vào hành lang. Không có dấu hiệu của Mike ở cả hai hướng. Cửa đóng lại và chúng tôi lại lao lên.
Tầng hai. Cửa mở. Tôi không thể nhìn thấy Mike, nhưng có bốn người nữa bước vào vì thế tôi đảm bảo để mình không bị đẩy lại đằng sau. Một người đàn bà ngồi xe lăn lườm tôi vì không chịu di chuyển, nhưng tôi phải duy trì vị trí thuận lợi của mình.
Tầng ba. Cửa mở...Tầng bốn. Cửa mở... Tầng năm... Mỗi lần thang máy dừng lại, tôi liếc vào hành lang, nhưng tôi không thấy Mike. Tôi đã lạc mất cậu ấy...
Tầng bảy. Cửa mở. Cánh cửa kéo ra, và đột nhiên cậu ấy ở đó, cách tôi khoảng mười lăm mét phía bên trái, đang đợi để được phép vào một phòng bệnh - tôi không thể nhìn gì khi cậu ấy đứng trước tấm biển. Khi tôi bước ra, cậu ấy đưa tay ra ấn một cái nút đỏ lớn. Tôi rón rén vòng qua góc nhà; trái tim tôi đập mạnh với sự căng thẳng vì ở quá gần. Sau đó tôi đứng trước một bảng thông báo, giả vờ tập trung vào một áp phích về tiêm chủng vắc xin MMR[1]. Tôi liếc trộm về phía Mike, và thấy cậu ấy ấn nút lần nữa, sau đó tôi nghe thấy một tiếng thở dài nặng nề. Rõ ràng cậu ấy phải đợi thêm. Giờ cậu ấy đang gõ lên kính bằng bàn tay phải, sau đó đột nhiên giơ tay trái lên và vẫy. Cánh cửa mở ra bởi một y tá trong bộ quần áo màu xanh lục.
[1] Sởi, quai bị và rubella. (ND)
“Chào Mike,” tôi nghe cô ta nói. “Anh khỏe không?”
“Tôi khỏe, cám ơn, Julie. Hôm nay cô bé thế nào?” Mike hỏi thêm đầy lo lắng khi cô ta đưa cậu ấy vào trong.
“Vẫn thế. Nhưng cô bé sẽ khỏe hơn vì gặp anh.” Tấm biển trên tường viết. Khu vực Hậu Sản. Không nhiệm vụ miễn vào.
Tôi đợi vài phút, nhìn chằm chằm vào thông báo về cho bú và NCT[2], nhưng không đọc được tí nào. Sau đó tôi đi đến cánh cửa. Tôi không biết mình phải làm gì, nhưng tôi đơn giản là phải tìm hiểu thêm. Nhưng tôi chỉ được phép vào nếu họ nghĩ tôi là một người đến thăm. Và tôi đang tự hỏi làm thế nào để làm được việc này thì nghe thấy tiếng thang máy kêu và mở ra sau lưng tôi, một người đàn ông và một cậu bé bước ra. Người đàn ông ôm một bó hoa tu líp trắng, và cậu bé đang ôm chặt một con gấu Teddy lớn với một dải ruy băng xanh lơ cuốn quanh cổ. Họ đến và đứng cạnh tôi, người đàn ông bấm chuông. Qua tấm kính, tôi thấy một cô y tá tiến về phía chúng tôi. Cánh cửa mở ra.
[2] Tổ chức từ thiện của Anh Quốc hỗ trợ những ông bố bà mẹ khi mang bầu, sinh con và trong giai đoạn đầu làm bố mẹ. (ND)
“Chúng tôi đến đây để gặp vợ tôi, Sandra King,” anh ta nói. Cô y tá - cho rằng chúng tôi đi cùng nhau - đưa chúng tôi vào bên trong. Tôi thở ra một hơi thở dài nhẹ nhõm - tôi đã vào. Sau đó, khi tôi từ từ đi dọc hành lang dài, nhận thấy mùi thuốc khử trùng hòa lẫn với nước tẩy sàn, mạch đập của tôi bắt đầu chạy đua lần nữa. Tôi có thể nghe thấy những đứa trẻ khóc lóc. Âm thanh đó cứa vào trái tim rồi - không chỉ vì lý do thông thường, mà vì tôi biết một trong những đứa trẻ đó là con của Mike.
Tôi cố gắng tính ngày. Hope nói cậu ấy bắt đầu cư xử đáng ngờ kể từ cuối tháng Giêng. Nếu cậu ấy đến đây hai lần một tuần từ khi đó, thì có nghĩa là đứa bé phải bị sinh sớm. Bây giờ, khi tôi đi qua hai lồng kính còn trống, tôi hiểu lý do thực sự cho thái độ ác ý của cậu ta ở buổi lễ rửa tội của Olivia. Cậu ta phải đứng ở đó, chịu đựng không phải chỉ tội lỗi, mà còn sợ hãi. Tôi nghĩ đến cơ thể bé nhỏ của đứa bé, chân tay bé xíu, mỏng hơn cả ngón tay tôi, gắn vào những sợi dây và ống. Một lễ rửa tội là nơi cuối cùng trên thế giới Mike muốn có mặt.
Khi tôi đến gần chỗ làm việc của y tá, tôi cố gắng nghĩ đến mức độ lừa dối mà Mike đã duy trì để che giấu tất cả chuyện này với Hope. Không chỉ hai tháng qua, mà rất lâu trước đó, từ khi Clare mang thai. Tôi tự hỏi họ đã dan díu với nhau bao lâu rồi. Ít nhất một năm - có lẽ là hai hay ba năm. Một y tá mỉm cười với tôi khi tôi đi qua bàn, vì thế tôi mỉm cười lại trong khi cầu nguyện rằng cô ấy sẽ không hỏi tôi đến thăm ai. Bên phải tôi là những phòng bệnh nhỏ, những người thăm nom đi quanh những chiếc giường có rèm, và thỉnh thoảng là hình ảnh của một bà mẹ đang nằm, hoặc một em bé sơ sinh quấn tã nằm trong những cái nôi có thể nhìn xuyên qua. Bây giờ tôi rẽ trái và nhận ra mình đang ở trong một hành lang dài lắt léo khác. Một người phụ nữ trong chiếc váy thêu hoa văn màu vàng chầm chậm đi qua tôi, cẩn thận ôm chặt bụng - rõ ràng cô ấy vừa mới sinh chưa lâu. Và ở đó, ngay cuối hàng lang, không nhận thấy sự có mặt của tôi, là Mike...
Cậu ấy đang bế một đứa bé. Con của cậu ấy. Mike đã bỏ áo khoác, ống tay áo xắn lên, đứa bé nằm bên vai trái nên tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt nhỏ xíu, nhăn lại vì khó chịu của nó. Cậu ấy đang vỗ vỗ lưng nó, và đi đi lại lại, mỗi hướng vài mét, nhẹ nhàng nhún lên nhún xuống, hoặc dừng lại và đu đưa qua lại trên gót giày. Đứa bé đang mặc một bộ quần áo liền quần và một cái mũ trắng, nó đang khóc không ngừng, theo đúng nhịp điệu của trẻ sơ sinh.
“Arah... Araaah... Araaah... Araaah...”
Khi nó dừng lại để lấy hơi tôi có thể nghe thấy cậu ta vỗ về nó. “Shhhh... Shhh... Shhhh, con yêu. Được rồi. Được rồi con gái bé bóng... con sẽ khỏe thôi... con sẽ khỏe thôi. Shhhh nào con yêu... Shhhh nào con yêu.”
“Arah... Araaah... Araaah... Araaah...”
Tôi lùi lại xa hơn, sau đó ngồi xuống một chiếc ghế; nhìn cậu ấy trong hai hoặc ba phút trong khi cậu ấy đi đi lại lại với đứa bé trong tay. Tôi quá sốc đến nỗi có thể nghe thấy hơi thở của mình. Và hiện giờ tôi đang cố gắng tưởng tượng ra việc nói chuyện với Hope...
Phải, Hope, chị đã đi theo Mike, và ừ, chị đã nhìn thấy cậu ấy đi đâu - không, chị không mất dấu cậu ấy - nhưng chị e là nó không phải là tin tốt vì... ừ... cậu ấy có... Dường như cậu ấy có ai đó, và thực ra nó có vẻ hơi tệ hơn một chút vì em biết không... à... em biết không... có một đứa bé, Hope ạ, và... phải... một đứa bé... phải... chị không biết.... chị không biết.... chị không biết là con trai hay con gái, nhưng... đúng thế... đúng... nó là con của cậu ấy... Chị xin lỗi, Hope... bởi vì chị đã nhìn thấy... chị đã, chị đã chứng kiến rõ ràng bằng chính đôi mắt của mình... trong bệnh viện... St Thomas... ôi làm ơn đừng khóc Hope... làm ơn đừng khóc... chị e là nó là sự thật... đúng... Phải, đúng là Mike... chị thấy cậu ấy đi đi lại lại với đứa bé. Dỗ dành nó, bởi vì nó khóc rất nhiều vì chắc là nó bị sinh sớm; mặc dù không phải nằm trong lồng kính nữa, nhưng dường như nó vẫn cần chăm sóc y tế. Và chị nghĩ rằng đó là việc cậu ấy làm trong hai tháng nay, đi đến bệnh viện để thăm con mình - và đó là vì sao cậu ấy cư xử lạ lùng như thế và quá - từ em dùng là gì? - tâm trạng. Đúng thế. Và đây là nguyên nhân. Em phải nói chuyện với cậu ấy về chuyện này, và nói với cậu ấy rằng em đã biết sự thật, bây giờ em đã biết sự thật và sau đó... chị xin lỗi Hope. Chị nghĩ có lẽ em đã sai, nhưng em không sai... em không hề sai... chị rất tiếc Hope... chị thực sự rất tiếc...
“Tôi có thể giúp cô không?”
“Hả?”
Khi tôi tỉnh lại tôi nhìn thấy người phụ nữ đang nói chuyện với tôi đang đeo một phù hiệu cho biết rằng cô ấy là một bà đỡ; ở dưới là dòng chữ Chăm sóc đặc biệt. “Tôi có thể giúp cô không?” cô ấy nhắc lại. “Cô đến thăm ai thế?”
“Tôi đến thăm...” Tôi liếc về phía Mike và cảm thấy cổ họng tôi siết lại.
“Cô ổn chứ?” cô ấy nói. “Cô có vẻ mệt mỏi.”
“Chuyện này hơi... kỳ cục. Tôi có thể nói chuyện với cô không?”
Tôi bước ra khỏi bệnh viện hai mươi phút sau đó, trong tâm trạng rối bời. Làm thế nào Hope và Mike có thể ở cùng nhau bây giờ? Điều đó là không thể. Tôi đã không nói chuyện với cậu ấy - tôi đã không muốn - nhưng tôi đã tìm ra mọi chuyện tôi cần biết, và bây giờ tôi phải nói lại với Hope. Tôi hình dung em gái tôi ngồi ở nhà, tuyệt vọng chờ tôi gọi điện, nhưng tôi sẽ không gọi - ít nhất là chưa. Vì thế tôi để di động ở chế độ trả lời tự động và bước qua cầu Westminster trong ánh sáng mờ mờ, qua Quảng trường Nghị viện, sau đó gọi một chiếc taxi để về nhà. Và khi đi qua Victoria, tôi quyết định rằng không thể nói với Hope sự thật qua điện thoại. Thay vì trở về căn hộ, nơi Hope có thể liên lạc được với tôi, tôi quyết định đến chỗ Luke - nhất là vì tôi đột nhiên nhớ ra tôi đã nói sẽ cố gắng đến bữa tiệc. Bây giờ là chín giờ kém mười lăm, anh ấy vẫn ở đó.
Tôi yêu cầu lái xe đưa tôi đến Đường Chepstow. Khi anh ta thả tôi ngoài phòng triển lãm, tôi có thể thấy có khoảng một tá người ở bên trong, cầm những chiếc ly rỗng, nói cười. Tôi trả tiền xe và bước vào. Khi tôi đẩy cửa vào, tôi nhìn thấy Hugh. Đây là tất cả những gì tôi cần.
“Hugh,” tôi nói. “Thật ngạc nhiên!”
“Chào Laura.” Anh ấy hôn lên má tôi như thể việc tôi bắt gặp anh ấy ở riêng với một người đàn bà khác không phải chị gái tôi là hoàn toàn bình thường.
“Chào Chantal,” tôi vui vẻ nói. “Thật vui khi gặp cả hai người ở đây.”
“À, anh muốn ủng hộ những sự kiện nghệ thuật địa phương,” Hugh nói. “Chantal và anh ra ngoài uống nước, vì thế cô ấy quyết định đi cùng.”
“Đúng thế,” cô ta nói và đỏ mặt.
“Nhưng bọn anh đang định đi về,” Hugh nói.
“À gửi tình yêu của em đến Fliss nhé,” tôi tươi tỉnh nói thêm.
“Chắc chắn rồi,” anh ấy thản nhiên trả lời. Thật bình tĩnh.
“Laura!” Tôi nghe Luke gọi. Anh hôn tôi.
“Xin lỗi em đến muộn.” Tôi nói. “Em bị vài việc trì hoãn và...”
“Đừng để tâm,” anh âu yếm nói. “Anh thật vui khi em ở đây.”
“Đó là anh rể em,” tôi vừa nói vừa ra hiệu về phía cái lưng đang ra về của Hugh qua cửa sổ kính. “Anh ấy kết hôn với Felicity.”
“Anh biết. Anh nhớ đã gặp anh ấy với em một lần, nhiều năm trước, và anh ấy đã giới thiệu lại. Vậy cô nàng tóc vàng đi với anh ấy là ai?”
“Một người bạn của Felicity, Chantal Vane. Thực ra em nghĩ nó hơi... lạ.”
“Tại sao? Ồ anh hiểu. Em có nghĩ rằng họ...”
“Em không biết. Em cầu Chúa là không.” Tôi đã có đủ vấn đề với những ông chồng của chị em gái mình. “Dù sao thì, buổi triển lãm diễn ra như thế nào?”
Anh cười rạng rỡ. “Nó thành công không thể tưởng được. Bọn anh có một trăm năm mươi khách, và đã bán được mười bức tranh. Craig đã về rồi,” anh ấy nói tiếp, “nhưng để anh chỉ cho em xem những bức tranh của anh ấy.”
Khi chúng tôi đi quanh phòng triển lãm, tôi chăm chú ngắm chúng mặc dù chúng chẳng có ý nghĩa gì với tôi lắm - chỉ là những màu sơn cơ bản phết lên tấm vải bạt, theo lối vẽ đắp, sống động, nhưng dường như hơi gò bó. Tôi cố gắng tiêu hóa những điều Luke đang nói về nghệ thuật trừu tượng không tượng trưng và thử thách trí tuệ mà nó đại diện - những quan điểm tranh luận về nó gần như đẩy bạn vào một thế giới triết học - nhưng thật khó để tập trung. Tôi cảm thấy cứ như là anh ấy đang nói chuyện với tôi từ cuối đường hầm dài và tối đen. Sau đó anh ấy giới thiệu tôi với vài người bạn, Grant và Imogen, bố mẹ cô con gái đỡ đầu chín tháng tuổi của Luke.
“Cô bé rất xinh xắn.” Luke nói. “Jessica cũng mê mẩn cô bé.”
“Cô bé là con đầu của anh chị à?” Tôi lịch sự hỏi Imogen.
“Con đầu của tôi,” chị ấy trả lời. “Grant có hai cậu con trai mười hai tuổi và chín tuổi rất đáng yêu. Chúng cũng yêu mến Alice, phải không anh yêu? Con bé là một cô bé may mắn.”
Anh ấy hạnh phúc gật đầu. “Đúng thế.”
Chúng tôi trao đổi vài chuyện phiếm, sau đó họ nói họ phải đi về, và bây giờ những người còn lưu lại cuối cùng cũng đang ra về. Nên Luke và tôi có thể đi trong khi trợ lý phòng triển lãm, Kristy, dọn dẹp ly rượu và khóa cửa.
“Có rất nhiều người quan tâm,” anh ấy hạnh phúc nói khi chúng tôi tản bộ về nhà anh. “Anh đã lo lắng rằng tổ chức quá gần Lễ Phục sinh sẽ không được như thế, nhưng mọi người đã đến và đó là một tiếng vang thực sự. Em ổn không?” đột nhiên anh ấy hỏi. “Em có vẻ hơi... im lặng.”
“À, em bị... đau đầu,” tôi nói thật.
“Tội nghiệp em. Anh sẽ xua nó đi.”
“Em không nghĩ là anh có thể.” Tôi nghĩ đến Hope, vẫn chờ đợi và thấp thỏm, mãi không thể liên lạc với tôi. Nhưng tôi không thể gọi cho em tôi bây giờ, ngay cả nếu tôi muốn, vì giờ Mike đã về. Tôi quyết định việc đầu tiên của ngày mai là gọi điện cho em gái tôi. Nhưng làm sao tôi có thể nói một điều nghiêm trọng như thế qua điện thoại? Tôi không thể. Tôi phải nói chuyện mặt-đối-mặt. Bỗng nhiên tôi biết phải làm gì. Phải. Đúng thế...
“Chúng ta sẽ thưởng thức phần còn lại của buổi tối một cách êm ả nhé,” Luke nói và nắm tay tôi. “Chúng ta có thể giải trí với một bộ phim - một phim Kinh dị hay ho của Hammer, hoặc chúng ta có thể xem Sự trả thù của Xác ướp. Phim đó rất vui.”
Bây giờ chúng tôi đang trên Đường Lonsdale, chúng tôi đi đến ngang nhà, và Luke vừa mở cổng thì anh ấy bỗng nhiên dừng lại. Nằm trên những phiến đá lát đường ở khu vườn trước là một chiếc quần jeans.
“Chuyện quái gì đang xảy ra ở đây thế này?” Khi anh ấy nhấc nó lên tôi cảm thấy một cú thụi bất ngờ vào lồng ngực tôi. “Và đây...” Anh ấy nhặt lên một cái quần sóc trắng, và một chiếc áo phông màu hồng đang nằm trên ngưỡng cửa. “Cái gì...?”
“Chúng là của em,” tôi lặng người nói.
“Chúng là của em?”
“Phải,” tôi nói với một cảm giác buồn nôn.
“Ôi. Chúa tôi...” Anh ấy mở khóa cửa, tắt báo động chống trộm, sau đó chúng tôi đi lên cầu thang. Anh ấy bật đèn trong phòng ngủ.
“Ôi. Chúa tôi...” anh ấy khe khẽ nhắc lại.
Thứ đầu tiên chúng tôi nhìn thấy là chiếc kimono bằng lụa của tôi. Khó có thể nhận ra, vì nó đã bị xé ra thành khoảng hai mươi miếng với nhiều kích cỡ khác nhau đang vung vãi khắp giường và sàn nhà. Có vài mảnh nằm trên tủ ngăn kéo, trên ghế đẩu, và bàn cạnh giường. Một miếng bay đến Wilkie và phủ lên đầu nó như một chiếc khăn tay, giống như nó đang tắm nắng.
“Ôi Chúa tôi...” Luke lẩm bẩm lần nữa. “Anh xin lỗi Laura.” Anh ấy nhặt một miếng lụa xanh lên. “Anh không biết phải nói gì. Anh thấy... xấu hổ. Anh sẽ mua cho em một cái khác,” anh ấy nói thêm đầy vẻ bất lực.
“Không... Làm ơn... Đừng bận tâm,” tôi thốt ra, quá sững sờ để bộc phát cơn giận của mình. “Thật đấy...”
Anh ngồi sụp xuống chân giường. “Anh thật xin lỗi Laura...” Anh lắc đầu. “Cô ấy... điên rồi.”
Tôi đi vào phòng tắm. Nắp bồn vệ sinh đã đóng xuống, và một tay áo len cashmere xanh lục của tôi thò ra bên ngoài, như thế nó đã cố vật lộn để thoát ra. Khi tôi nhấc cái nắp lên, chí ít tôi có thể biết ơn vì Magda đã dìm nó vào nước có vẻ sạch. Cô ta đã viết trên chiếc gương phòng tắm Đồ chó cái! bằng chữ viết hoa lớn với thỏi son của tôi và quăng phần còn lại vào trong chậu. Cô ta đã xì keo vuốt tóc của tôi lên khắp tường. Cô ta vứt đồ trang điểm của tôi vào chậu rửa và phun kem đánh răng lên chúng. Cô ta cắt dây điện và vứt máy sấy tóc của tôi vào thùng rác.
Tôi tưởng tượng ra Magda tiến hành công cuộc hủy hoại này trong cơn cuồng dại không cả buồn thở - như một con chồn trong nhà của một con gà - bị kích động bởi... cái gì? Sau đó tôi nhớ ra.
“Đây là do em đã cất đồ đạc của cô ta đi.” Tôi nhìn vào tủ quần áo. Chắc chắn, chiếc áo sơ mi in hoa, hai chiếc váy, áo khoác nhung và giày của cô ta đều đã được khôi phục lại vị trí cũ.
“Chúa ơi,” Luke rên rỉ. Anh ấy chỉ ngồi trên giường, vẫn nắm chặt mẩu áo kimono của tôi, lắc lắc đầu.
“Nhưng câu hỏi là... cô ta vào bằng cách nào?” Anh ấy nhìn tôi. “Làm thế nào cô ta vào được, Luke?”
“À...”
“Cô ta không đột nhập vào, rõ ràng là thế.”
“Không...”
“Vậy cô ta có chìa khóa? Làm ơn đừng nói với em là cô ta có chìa khóa, Luke.”
“Cô ấy không có,” anh mệt mỏi nói. “Nhưng cô ấy biết chỗ anh giữ chìa khóa dự phòng. Nhưng anh không nghĩ rằng cô ấy làm việc này vì em đã cất đồ đạc của cô ấy đi.”
“Vậy tại sao?”
“Bởi vì cô ấy phát hiện ra em đã gặp Jess.”
“Thật ư?” Anh thở dài, sau đó gật đầu. “Làm thế nào? Cô ta thấy quả trứng Phục sinh em tặng Jess à?”
“Không. Cô ấy nhìn thấy những tấm ảnh Jessica rửa sáng nay và thấy em ở trong đó.”
“À...” tôi nhớ ánh đèn flash nhá lên khi tôi tránh khỏi tầm ngắm.
“Cô ấy giận dữ gọi điện cho anh và anh quá bận rộn để treo những bức tranh cho buổi triển lãm, vì thế anh nói cô ấy mất trí rồi. Anh không nghĩ cô ấy làm... chuyện này.”
“Anh đang nói rằng cô ấy lái xe từ Chiswick đến đây, chỉ để phá hoại đồ đạc của em?” Tôi gần như cảm thấy được tâng bốc.
“Không. Cô ấy phải đến đây vì Jess có hẹn đi chơi ở Notting Hill, và trong khi đợi, cô ấy đã lẻn vào, để ngó trộm, và rồi thấy em cất đồ của cô ấy đi, và... quẫn trí. Điều đó là quá nhiều cho cô ấy.”
Tôi ngồi xuống cạnh anh, vẫn còn sững sờ. Chúng tôi không cần xem Sự trả thù của Xác ướp. Chúng tôi đã có phiên bản của riêng mình đang diễn ra ngay ở đây.
“Anh sẽ nói chuyện với cô ấy...” anh nói. “Anh sẽ giải quyết chuyện này một cách thỏa đáng cho em, anh không biết làm thế nào, hoặc anh có thể làm gì...” anh vùi đầu vào hai bàn tay. “Nó như địa ngục vậy, Laura. Em không thể hình dung ra sự căng thẳng. Giống như sống trên bờ của một núi lửa.”
“Magma,” tôi bình thản nói. “Tên cô ấy nên là Magma[3].”
[3] Dung nham phun ra từ núi lửa.
Tôi chống bàn tay phải để đỡ lưng. Khi tôi làm thế tôi có thể cảm thấy có thứ gì đó cứng dưới lớp chăn. Tôi kéo ra lại. Đặt giữa đống gối trên giường bên phía tôi là một cái kéo cắt may lớn mà Magda đã cùng để cắt bộ kimono của tôi, hai lưỡi kéo mở ra. Tôi đứng lên.
“Em nghĩ sẽ không ở lại đây tối nay.” Tôi cầm túi xách lên. “Em xin lỗi, Luke. Nó chỉ là... quá sức chịu đựng. Và em đã có một ngày rất căng thẳng rồi.” Tôi nghĩ về Mike, và đứa bé. “Để mai nói chuyện nhé.”
Tôi bước xuống cầu thang và ra khỏi nhà. Tôi không có đủ năng lượng để giận dữ - tôi vẫn còn rã rời vì sốc. Nhưng khi tôi trên đường quay lại Đường Bonchurch tôi nghĩ thật rằng đáng ngạc nhiên khi Magda có thể phá hoại quá nhiều như thế, và cùng lúc thể hiện sự cẩn thận đến như vậy, cẩn thận đóng cửa sổ mà cô ta đã quăng đồ của tôi ra ngoài, sau đó sốt sắng khởi động hệ thống chống trộm và khóa cửa.
Tôi nghe thấy đồng đồ điểm mười một giờ. Tôi nhìn vào điện thoại di động. Tôi có tám cuộc gọi lỡ - tất cả đều từ Hope - và khi tôi về đến nhà, tôi thấy em gái tôi đã để năm tin nhắn với mức độ ngày càng tuyệt vọng trong máy trả lời tự động. Tôi nhắn tin cho nó nói rằng tôi không thể nói chuyện tối nay, nhưng việc đầu tiên trong ngày mai là tôi sẽ gọi cho nó. Nhưng trước khi tôi tỉnh dậy vào sáng hôm sau, con bé đã gọi.
“Tại sao chị không gọi lại cho em?” Em gái tôi khóc. Tôi lờ đờ liếc nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ ba mươi. Tôi chưa ngủ được bao nhiêu. “Em sắp phát điên rồi!” con bé rền rĩ. “Tại sao chị không gọi cho em?”
Tôi rên rỉ. a) vì điều đó là không thể, và b) Vì chị biết lúc chị có thể gọi, Mike đang ở nhà.”
“Thế...” Tôi nghe em tôi hít vào. “Chị đã tìm ra điều gì?” Tôi không trả lời. “Chị đã tìm ra điều gì?” Con bé nhắc lại. “Anh ấy đi đâu? Người phụ nữ Clare này trông như thế nào? Cô ta có trẻ hơn em không? Cô ta có quyến rũ hơn không? Chị có chụp được ảnh của cô ta không? Chị làm ơn nói với em chị đã nhìn thấy gì đi chứ? Làm ơn Laura. Em không thể chịu được việc này. Em không thể chịu được! Em phải biết. Hãy kể cho em đi, được chứ Laura? Kể cho em! Làm ơn, làm ơn, làm ơn nói với em...”
Tôi hít một hơi thở sâu. “Không. Chị sẽ không nói.” Một tiếng thở hổn hển.
“Chị không nói nghĩa là sao? Chị phải nói. Đó là lý do chị đi theo anh ấy. Chị đang chơi trò gì thế?”
“Chị không chơi trò gì cả. Nhưng chị không muốn nói với em những gì chị thấy.”
Một sự im lặng sửng sốt. “Tại sao không?”
“Bởi vì chị muốn chỉ cho em thấy - đấy là lý do. Tối mai chị muốn em đi với chị, và chị sẽ cho em thấy chị đã thấy gì. Và em phải kìm chế mình cho đến khi đó, không làm phiền chị, hay nhiếc móc chị, hay phỉ báng lập trường hay động cơ của chị, hoặc than thở em đau khổ như thế nào với chị vì, thực ra Hope, chị cũng có vấn đề của chị...” Cổ họng tôi nhức nhối. “Và, tin hay không tùy em, chị đang cố hết sức làm điều tốt nhất cho em.”
Tôi có thể nghe thấy tiếng khóc của em tôi.
“Nó là tin xấu đúng không?” nó khóc. “Đó là lý do chị không muốn nói với em. Bởi vì chuyện này quá tồi tệ. Tồi tệ nhất có thể.”
“À...”
“Mike yêu Clare này,” nó rên rỉ. “Phải không?”
“Ừ, chị nghĩ thế.”
“Hôn nhân của em thế là hết.”
“Có lẽ... nhưng chị muốn em tin chị - và em sẽ không nói gì với Mike tối nay. Làm ơn đừng đối chất với cậu ta cho dù em bị thôi thúc như thế nào.”
“Tất nhiên là em muốn, nhưng em không thể. Vì anh ấy đã đi Bỉ và không trở lại cho đến trưa ngày mai - anh ấy đi sớm để đón tàu. Có lẽ cô ta đi với anh ấy,” em tôi hoảng loạn nói thêm.
“Chị không nghĩ thế,” tôi nói. “Dù sao thì, chị sẽ gặp em... ở đâu nhỉ? Bên ngoài ga tàu điện ngầm Westminster lúc... bảy giờ tối mai.”
“Nhưng chúng ta sẽ đi đâu, Laura?”
“Em sẽ biết thôi.”
“Em đang diễn xuất rất thuyết phục,” em tôi thì thầm. “Mike không có một manh mối gì là em đã biết.”
“Cậu ấy cư xử như thế nào?”
“Bình thường, mặc dù anh ấy hơi có vẻ... nhấp nhổm. Tối nay trong một phút bối rối anh ấy bắt đầu nói gì đó - em nghĩ anh ấy định thú tội - nhưng sau đó anh ấy dừng lại, giống như là cho dù đấy là chuyện gì, nó cũng là quá đau đớn để nói ra...” Em tôi dừng lại, sau đó tôi nghe thấy một tiếng hít vào chầm chậm. “Thật là lạ khi nghĩ đây có thể là kỳ nghỉ cuối cùng với nhau của bọn em.”
“Em có chắc muốn làm việc này không, Hope?”
“Có,” con bé bình tĩnh nói. “Em chắc chắn. Em có thể vùi đầu trong cát để giữ gìn cuộc sống em đang có - nhưng có thể cuối cùng anh ấy cũng rời bỏ em thôi. Em phải biết Laura, để em có thể chuẩn bị.”
“Em vẫn muốn chị theo dõi cậu ấy vào thứ Ba?”
“Vâng.”
“Và em sẽ chấp nhận hậu quả?”
Tôi nghe thấy một tiếng thở dài. “Em sẽ.”
“Và em thề rằng sẽ không bao giờ trách chị - cho dù chị tìm ra chuyện gì - hoặc dùng nó chống lại chị theo bất kể cách nào?”
“Em thề.”
“Cho dù khó chịu như thế nào?”
“Cho dù khó chịu như thế nào.”
“Vậy được rồi. Địa chỉ làm việc của cậu ấy là gì?”
“Tòa nhà số 42 - đó là Tòa nhà NatWest cũ - ở số 25 Phố Old Broad - chị không thể bỏ qua nó đâu.”
“Thường thì mấy giờ cậu ấy ra về?”
“Khoảng sáu giờ ba mươi. Chị có thể trốn ở quán cà phê ở tầng trệt.”
“Cậu ấy sẽ không thấy chị chứ?”
“Không - vì nó nằm ở phía sau, đằng sau thang máy - nhưng chị sẽ thấy anh ấy khi anh ấy về. Và những bức tường của tòa nhà đều bằng kính nên chị có thể dễ dàng nhìn thấy anh ấy đi đường nào.”
Thế là tối thứ Ba tôi đi tàu điện ngầm đến Phố Liverpool, sau đó đi bộ đến Phố Old Broad, ngược lại với dòng người lao động của thành phố đang trên đường về nhà. Có một đợt nóng sớm nên tôi không cảm thấy quá ngượng ngùng trong đôi kính râm. Bên trái tôi là tòa nhà Gherkin khổng lồ với hai màu xanh-xám và, trước mặt tôi, Tòa nhà 42 vút cao trên bầu trời, những khung cửa sổ lấp lánh ánh đồng và vàng trong ánh nắng chiều muộn.
Tôi đi vào trong và đi qua đại sảnh đến quán Café Ritazza, nơi tôi có thể kín đáo quan sát hai cánh cửa quay. Tôi ngồi ở đó uống cà phê, tha thiết ước rằng mình có thể ở đâu đó khác - hơn hết là ở riêng với Luke. Tôi gọi điện cho anh lúc năm giờ ba mươi, nói rằng tôi vướng một chút việc, nhưng sẽ cố gắng và đến chỗ anh sau đó. Tôi không thể nói với anh sự thật, nhưng tôi không muốn nói dối.
Theo như tờ rơi tôi nhặt được về tòa nhà, Tòa nhà 42 được gọi như thế bởi vì nó có 42 tầng, Kleinwort Perella ở bốn tầng trên cùng. Tôi đến sớm hơn đúng hai mươi phút, vì thế tôi để di động ở chế độ im lặng - tôi không muốn nó quảng cáo sự có mặt của mình - khi tôi uống cà phê, để giết thời gian, như vẫn thường làm, tôi vẩn vơ nghĩ đến những câu hỏi chúng tôi có thể sử dụng trong chương trình. Tòa nhà cao nhất thế giới là tòa nhà nào? (Tòa nhà Sears ở Chicago.) Mối quan hệ giữa các quốc gia liên quan đến dịch vụ tư vấn được gọi là gì? (Liên kết.) Tên của người Đan Mạch vĩ đại đã thiết kế Nhà hát Opera Sydney? (Jörn Utzen.) Một người bình thường mang thai trong bao lâu? (40 tuần.)
Tôi liếc nhìn đồng hồ. Đã sáu giờ mười lăm phút. Trước mắt tôi, những nhân viên tan làm đang ồ ạt đi xuống trong thang máy có vách-kính và ra ngoài qua hai cánh cửa quay. Khi họ ào ra vỉa hè, vài người rẽ phải về hướng Đường Liverpool, trong khi những người khác đứng ở đó để vẫy taxi. Nơi tôi ngồi có một tầm nhìn tốt. Khi tôi nhìn họ trong những bộ quần áo màu than chì, cà vạt lụa và khăn quàng Hermes, tôi cố gắng chọn một danh từ tập hợp cho những nhân viên nhân hàng - có lẽ là ‘lãi suất’ hay ‘kẻ sọc,’ hay là ‘tín dụng’. Đột nhiên trái tim tôi lỡ một nhịp. Kia là Mike, vừa bước ra khỏi thang máy. Tôi đã đứng lên, nhịp tim chạy đua, thì tôi nhận ra mình đã nhận sai người. Tôi ngồi xuống, cảm thấy bồn chồn, giống như một tay đua sau một xuất phát sai lầm. Tôi liếc quanh quán cà phê, hy vọng không ai nhìn thấy tôi, nhưng xung quanh gần như không có người. Tôi trấn tĩnh lại sau những hơi thở sâu.
Hope đã đúng. Có rất nhiều phụ nữ hấp dẫn làm việc ở tòa nhà này. Hầu hết đều khoảng hai mươi đến ba mươi tuổi, đều mảnh mai, ăn mặc chỉnh tề và sang trọng như nhau. Cám dỗ. Tôi tự hỏi trước đây Mike đã từng lầm lạc chưa. Tôi cảm thấy giận dữ với cậu ấy vì đã làm Hope thất vọng - và giận dữ với em tôi vì đã lôi kéo tôi vào.
Bây giờ là sáu giờ hai mươi lăm phút. Tôi tưởng tượng Mike đang dọn dẹp bàn làm việc, mặc áo khoác, sau đó nhấc cặp lên, trong đó sẽ là - cái gì nhỉ? Cái gì đó thiếu vải của La Perla? Đôi hoa tai Tiffany đi cùng bộ với chiếc vòng tay? Tôi hình dung cậu ấy tiến đến thang máy. Nhưng bây giờ số lượng người ra về đã tăng lên. Tôi chăm chú nhìn những người đàn ông qua đôi mắt nhíu lại. Không, tôi nghĩ. Không. Không phải cậu ấy. Hoặc người kia. Cũng không phải. Không... không... không... Hoàn toàn không phải... Không. Tôi đang quan sát cả hai cửa, mắt đảo đi đảo lại, sau đó tôi nhìn lại thang máy đang đi xuống với một nhóm nhiều người khác. Không... không... không... không. Đúng rồi!
Tôi ép chặt người vào ghế. Đó là cậu ấy. Không hề sai. Tôi nhìn cậu ấy bước ra khỏi thang máy, lịch sự đi qua đại sảnh và ra ngoài qua cánh cửa quay và bây giờ, qua những bức tường kính tôi thấy cậu ấy rẽ sang bên trái tòa nhà. Tôi theo cậu ấy ra ngoài. Tôi cảnh giác đến mức căng thẳng. Adrenaline cháy trong mạch máu tôi. Tôi đuổi theo cậu ấy trên Phố Old Broad, nửa như chạy để theo kịp khi cậu ấy đi qua đường, mà không hề chú ý đến sự hiện diện của tôi ba mươi thước phía sau lưng. Một chiếc xe buýt chạy qua trước mặt tôi, che khuất cậu ấy. Sợ rằng tôi sẽ mất dấu cậu ấy, tôi bước ra khỏi vỉa hè mà không hề nhìn, và một chiếc taxi đen rú còi ầm ĩ.
“Con bò ngu ngốc!” Một gã đi xe đạp mặc áo thun hét lên khi anh ta quành tay lái sang một bên để tránh tôi. Phía bên kia đường tôi chỉ có thể thấy cái đầu đen của Mike trong đám đông khi cậu ấy đi sang Phố Threadneedle, qua cửa hàng sandwich Pavarotti và Ngân hàng Hoàng gia Scotland hướng đến Trụ sở Sở giao dịch chứng khoán sang trọng theo kiến trúc Palladian. Trong khi bám theo cậu ấy, tôi cố gắng giữ biểu hiện bình thường trên mặt, bất chấp sự căng thẳng đang cảm thấy, tôi thấy cậu ấy đi xuống ga tàu điện ngầm Bank. Tôi cảm thấy mình giống như một kẻ ám sát khi bám đuôi cậu ấy xuống đường hầm lát đá đen và trắng, đồng thời để ý tránh những người đi bằng vé tháng.
“Thứ lỗi!” một phụ nữ gắt lên khi tôi vô tình va phải cô ấy. Tôi lẩm bẩm một lời xin lỗi, rồi sau đó nhìn thấy biển chỉ dẫn của tuyến Central Line. Nhưng tại sao Mike đi tuyến Central Line ở ga Bank này, khi mà ga tàu điện ngầm ở Đường Liverpool gần hơn? Sau đó tôi nhận ra là cậu ấy đang đi theo biển chỉ dẫn của tuyến “Drain’ - chạy Waterloo và Luân Đôn. Tôi vòng qua một lối rẽ, và thấy cậu ấy đi xuống cầu thang để xuống sân ga - một đường hầm rộng, dài sáng mờ mờ cho phép tôi nhìn thấy cậu ấy rõ ràng khi đi xuống. Khi tôi đi sau lưng cậu ấy cách khoảng mười hai mét, nhận thấy được hơi thở gấp gáp của mình, tôi tự hỏi tại sao cậu ấy lại đi đến Waterloo. Có lẽ cậu ấy sẽ bắt tàu hỏa ra đến ngoại ô - hoặc có lẽ cậu ấy sẽ xuống ở điểm trung chuyển Clapham, hoặc Barnes. Tôi tự hỏi người người đàn bà tên Clare này bao nhiêu tuổi, và cô ta trông như thế nào. Tôi tưởng tượng cô ta khoảng hai lăm tuổi, tóc đỏ - hoang dã và buông thả. Trái ngược với Hope.
Tôi đã đi đến chân cầu thang. Và Mike ở đó, đang đi đến cuối sân ga ngắn. Tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân cậu ấy gõ trên những viên gạch đá hoa. Nếu bây giờ cậu ấy quay lại, cậu ấy sẽ nhìn thấy tôi, vì thế tôi đứng sau một anh chàng cao béo mặc áo mưa màu be. Có tiếng rầm rầm từ phía xa xa, một luồng khí ấm áp, và bây giờ con tàu đang tiến vào. Cửa mở ra, những hành khách ùa ra, và tất cả chúng tôi lao về trước.
Để ý khoảng cách, máy gác tự động phát ra. Để ý khoảng cách...
Qua góc mắt tôi thấy Mike bước vào toa liền kề với toa của tôi. Khi con tàu chuyển bánh, qua vách ngăn kính tôi có thể nhìn thấy cậu ấy đứng gần cửa giữa. Cậu ấy không có vẻ hạnh phúc hay phấn khích. Nếu có, cậu ấy trông khá buồn. Có lẽ cậu ấy cảm thấy tràn ngập xấu hổ bởi sự phản bội của mình - hoặc có lẽ cuộc tình này đang đến hồi kết thúc.
Bây giờ chúng tôi đang tiến đến Waterloo và tôi cảm thấy cái bướu trong bụng tôi cứng lại khi nhận ra tiếp tục theo dấu cậu ấy trong đám đông vào giờ cao điểm này khó khăn như thế nào. Những cánh cửa kéo ra, và tôi nhìn thấy tín hiệu Lối ra ở bên phải, vì thế tôi nấn ná trong khoang vài giây để cho phép Mike có thời gian bước xuống sân ga trước tôi. Mike bước ra, không hề nhận thấy tôi đang đứng cách chỉ vài bước, sau đó tôi bám theo cậu ấy dọc sân ga và lên cầu thang. Bây giờ cậu ấy chỉ cách khoảng hơn bốn mét phía trước khi tôi đi qua biển hiệu chỉ dẫn về tàu hỏa, sau đó đi lên cầu thang, quan sát cậu ấy dừng lại ở cửa tự động để lục tìm vé. Giờ cậu ấy đang đứng trên thang máy, từ từ dâng cao lên trước tôi khi tôi bước lên, ánh sáng ùa qua trần nhà kính của sân ga trên đầu. Tôi cảm thấy một làn gió trong lành mát lạnh chào đón.
Xin hãy luôn giữ túi xách của bạn bên người... tôi nghe hệ thống tăng âm phát ra.
Lúc tôi bám theo Mike dọc phòng chờ của nhà ga tôi lờ mờ nhận thấy lối đi vào tuyến Eurostar ở bên tay trái và sân ga tàu hỏa ở bên tay phải, và tôi đang lo lắng rằng tôi không có vé tàu và không có ý tưởng gì là Mike đang đi đâu, thì tôi nhận ra rằng cậu ấy không tiến đến sân ga. Cậu ấy đang bước đến lối đi chính của nhà ga. Cậu ấy đang ra ngoài. Tránh những hành khách xung quanh, tôi đi theo cậu ấy qua cửa hàng The Body Shop và Delice de France, sau đó đi qua cái cổng mái vòm khổng lồ, và đi xuống những bậc thềm chính. Tôi thấy biểu tượng của Nhà hát Quốc gia. Có lẽ cậu ấy gặp Clare ở đó.
Phía trước là tòa nhà hình tròn khổng lồ của Imax, và bên trái là Festival Hall. Bên dưới chúng tôi là một hàng taxi đang đợi khách, đen và bóng như những con bọ hung, nhưng Mike đi bộ một cách quả quyết. Cậu ấy rẽ trái vào Đường York, đi dưới những lối đi bộ trên cao đến tòa nhà Shell Centre. Bây giờ vỉa hè rộng rãi nên tôi có một tầm nhìn không hạn chế, khoảng bốn mươi sáu mét phía trước. Cậu ấy đang bước đi một cách tự tin. Không ngần ngại. Rõ ràng cậu ấy đã đi theo đường này rất nhiều lần trước đây. Bây giờ, bên phải, là vòng đu quay London Eye, những khoang ghế ngồi của nó lấp lánh trong ánh nắng đầu buổi tối. Tôi nghĩ về Nick, với một cảm giác đau nhói.
Mike đã dừng lại ở ngã tư đường. Khi cậu ấy đứng đợi đi qua, tôi loanh quanh ở bến xe buýt gần đó để giữ một khoảng cách an toàn. Rồi đèn xanh kêu bíp cho cậu ấy qua đường, tôi lại bắt đầu cuộc săn đuổi. Khi cậu ấy sang đến bên kia đường, cậu ấy rảo bước và tôi nhận thấy rằng một bên sườn tôi nhoi nhói và cổ họng tôi khô rát. Bên trái tôi là County Hall, và bây giờ tôi có thể nhìn thấy đồng hồ Big Ben và Lâu đài Westminster, những ngọn tháp dát vàng của lâu đài lấp lánh trong ánh mặt trời. Chúng tôi đang ở Cầu Westminster - xe buýt lướt qua ầm ầm - con sông rộng, màu nâu và lấp lánh bên dưới cầu, một làn gió mạnh thổi vào tóc tôi.
Mike đang đi ở phía bên kia, nhưng khi tôi đợi tín hiệu sang đường, vui sướng lấy lại hơi thở, tôi thấy cậu ấy không rẽ phải để đi qua sông như tôi nghĩ. Thay vào đó cậu ấy đi thẳng. Giờ cậu ấy đang bước vào sân bệnh viện St Thomas. Khi chúng tôi đi men rìa bên ngoài, tôi nghĩ rằng cậu ấy sẽ đi qua nó, tiếp tục đi theo con đường ven sông, nhưng, trước sự ngạc nhiên của tôi, Mike theo biển chỉ dẫn vào lối đi chính, và bây giờ cậu ấy đang đi qua cánh cửa trượt, tránh một bệnh nhân trong chiếc áo bệnh viện màu xanh lục và một chân bó bột.
Mike làm chuyện quái quỷ gì ở đây? Đây khó có thể là một hơi hẹn hò lãng mạn. Có lẽ bạn gái của cậu ấy là một bác sỹ, một y tá, và cậu ấy đón cô ta khi hết ca trực. Có lẽ cậu ấy đang thăm một người bạn? Hoặc có lẽ... phải rồi... có lẽ cậu ấy phải điều trị bệnh nào đó? Chuyện này rất có thể, tôi quyết định khi đi qua cửa hàng hoa. Tôi cảm thấy một làn sóng nhẹ nhõm bất ngờ. Cậu ấy có bệnh tật gì đó, nhưng đang che giấu Hope. Ngoại trừ bây giờ là một thời điểm lạ lùng để điều trị cho bệnh nhân ngoại trú, và cho dù thế nào, còn chiếc vòng tay bạc thì sao, với cái khóa hình trái tim bằng vàng, khắc tên ‘Clare’? Trừ phi Clare là người bị bệnh... Phải. Chính là thế, giờ tôi thấy mình đi theo Mike xuống cầu thang, đến chái Bắc của toàn nhà. Clare là bệnh nhân ở đây. Đấy là nguyên nhân cậu ấy trông buồn như vậy. Cô ta đã ở trong bệnh viện hai tháng, chắc bệnh tình phải nghiêm trọng lắm. Tôi mường tượng ra gò má hõm lại của cô ta, và nước mắt của Mike.
Cậu ấy dừng ở dãy thang máy. Khi cậu ấy ấn nút, tôi nhanh chóng lùi khỏi ánh mắt của cậu ấy đang hướng về quán cà phê. Tôi đã thành công đi theo cậu ấy xa đến thế này, tôi không muốn cậu ấy phát hiện ra. Nhưng tôi nói được gì nếu bị cậu ấy nhìn thấy? Ít nhất, ở đây, tôi có một lý do nghe lọt tai. Tôi sẽ giả vờ ngạc nhiên vì ‘bất ngờ gặp’ cậu ấy, kế đến nói với cậu ấy rằng tôi đang đến thăm một người bạn. Nhưng Mike không nằm trong nguy cơ nhìn thấy tôi. Cậu ấy dường như không chú ý đến khoảng tám người đang đứng xung quanh khi cậu ấy nhìn chằm chằm vào sàn nhà, hoàn toàn chìm đắm. Có một tiếng binh, tất cả bọn họ lùi lại khi thang máy mở để những người bên trong bước ra - sau đó họ bước vào và cánh cửa đóng lại. Mike đã đi - và tôi không biết cậu ấy đi đâu.
Tôi vội vã chạy đến thang máy kế tiếp. Nó đến trong vòng vài giây và tôi bước vào, ấn tất các các tầng. Có rất nhiều người trong thang máy của Mike nên nó có thể dừng lại ở tất cả các tầng, vì thế tôi phải chắc chắn thang máy của mình cũng như vậy. Bằng cách này tôi có lẽ sẽ bắt được bóng dáng cậu ấy trong hành lang mỗi lần cửa thang máy mở.
Tầng một. Cửa mở, giọng nói tự động phát ra. Tôi nhòm vào hành lang. Không có dấu hiệu của Mike ở cả hai hướng. Cửa đóng lại và chúng tôi lại lao lên.
Tầng hai. Cửa mở. Tôi không thể nhìn thấy Mike, nhưng có bốn người nữa bước vào vì thế tôi đảm bảo để mình không bị đẩy lại đằng sau. Một người đàn bà ngồi xe lăn lườm tôi vì không chịu di chuyển, nhưng tôi phải duy trì vị trí thuận lợi của mình.
Tầng ba. Cửa mở...Tầng bốn. Cửa mở... Tầng năm... Mỗi lần thang máy dừng lại, tôi liếc vào hành lang, nhưng tôi không thấy Mike. Tôi đã lạc mất cậu ấy...
Tầng bảy. Cửa mở. Cánh cửa kéo ra, và đột nhiên cậu ấy ở đó, cách tôi khoảng mười lăm mét phía bên trái, đang đợi để được phép vào một phòng bệnh - tôi không thể nhìn gì khi cậu ấy đứng trước tấm biển. Khi tôi bước ra, cậu ấy đưa tay ra ấn một cái nút đỏ lớn. Tôi rón rén vòng qua góc nhà; trái tim tôi đập mạnh với sự căng thẳng vì ở quá gần. Sau đó tôi đứng trước một bảng thông báo, giả vờ tập trung vào một áp phích về tiêm chủng vắc xin MMR[1]. Tôi liếc trộm về phía Mike, và thấy cậu ấy ấn nút lần nữa, sau đó tôi nghe thấy một tiếng thở dài nặng nề. Rõ ràng cậu ấy phải đợi thêm. Giờ cậu ấy đang gõ lên kính bằng bàn tay phải, sau đó đột nhiên giơ tay trái lên và vẫy. Cánh cửa mở ra bởi một y tá trong bộ quần áo màu xanh lục.
[1] Sởi, quai bị và rubella. (ND)
“Chào Mike,” tôi nghe cô ta nói. “Anh khỏe không?”
“Tôi khỏe, cám ơn, Julie. Hôm nay cô bé thế nào?” Mike hỏi thêm đầy lo lắng khi cô ta đưa cậu ấy vào trong.
“Vẫn thế. Nhưng cô bé sẽ khỏe hơn vì gặp anh.” Tấm biển trên tường viết. Khu vực Hậu Sản. Không nhiệm vụ miễn vào.
Tôi đợi vài phút, nhìn chằm chằm vào thông báo về cho bú và NCT[2], nhưng không đọc được tí nào. Sau đó tôi đi đến cánh cửa. Tôi không biết mình phải làm gì, nhưng tôi đơn giản là phải tìm hiểu thêm. Nhưng tôi chỉ được phép vào nếu họ nghĩ tôi là một người đến thăm. Và tôi đang tự hỏi làm thế nào để làm được việc này thì nghe thấy tiếng thang máy kêu và mở ra sau lưng tôi, một người đàn ông và một cậu bé bước ra. Người đàn ông ôm một bó hoa tu líp trắng, và cậu bé đang ôm chặt một con gấu Teddy lớn với một dải ruy băng xanh lơ cuốn quanh cổ. Họ đến và đứng cạnh tôi, người đàn ông bấm chuông. Qua tấm kính, tôi thấy một cô y tá tiến về phía chúng tôi. Cánh cửa mở ra.
[2] Tổ chức từ thiện của Anh Quốc hỗ trợ những ông bố bà mẹ khi mang bầu, sinh con và trong giai đoạn đầu làm bố mẹ. (ND)
“Chúng tôi đến đây để gặp vợ tôi, Sandra King,” anh ta nói. Cô y tá - cho rằng chúng tôi đi cùng nhau - đưa chúng tôi vào bên trong. Tôi thở ra một hơi thở dài nhẹ nhõm - tôi đã vào. Sau đó, khi tôi từ từ đi dọc hành lang dài, nhận thấy mùi thuốc khử trùng hòa lẫn với nước tẩy sàn, mạch đập của tôi bắt đầu chạy đua lần nữa. Tôi có thể nghe thấy những đứa trẻ khóc lóc. Âm thanh đó cứa vào trái tim rồi - không chỉ vì lý do thông thường, mà vì tôi biết một trong những đứa trẻ đó là con của Mike.
Tôi cố gắng tính ngày. Hope nói cậu ấy bắt đầu cư xử đáng ngờ kể từ cuối tháng Giêng. Nếu cậu ấy đến đây hai lần một tuần từ khi đó, thì có nghĩa là đứa bé phải bị sinh sớm. Bây giờ, khi tôi đi qua hai lồng kính còn trống, tôi hiểu lý do thực sự cho thái độ ác ý của cậu ta ở buổi lễ rửa tội của Olivia. Cậu ta phải đứng ở đó, chịu đựng không phải chỉ tội lỗi, mà còn sợ hãi. Tôi nghĩ đến cơ thể bé nhỏ của đứa bé, chân tay bé xíu, mỏng hơn cả ngón tay tôi, gắn vào những sợi dây và ống. Một lễ rửa tội là nơi cuối cùng trên thế giới Mike muốn có mặt.
Khi tôi đến gần chỗ làm việc của y tá, tôi cố gắng nghĩ đến mức độ lừa dối mà Mike đã duy trì để che giấu tất cả chuyện này với Hope. Không chỉ hai tháng qua, mà rất lâu trước đó, từ khi Clare mang thai. Tôi tự hỏi họ đã dan díu với nhau bao lâu rồi. Ít nhất một năm - có lẽ là hai hay ba năm. Một y tá mỉm cười với tôi khi tôi đi qua bàn, vì thế tôi mỉm cười lại trong khi cầu nguyện rằng cô ấy sẽ không hỏi tôi đến thăm ai. Bên phải tôi là những phòng bệnh nhỏ, những người thăm nom đi quanh những chiếc giường có rèm, và thỉnh thoảng là hình ảnh của một bà mẹ đang nằm, hoặc một em bé sơ sinh quấn tã nằm trong những cái nôi có thể nhìn xuyên qua. Bây giờ tôi rẽ trái và nhận ra mình đang ở trong một hành lang dài lắt léo khác. Một người phụ nữ trong chiếc váy thêu hoa văn màu vàng chầm chậm đi qua tôi, cẩn thận ôm chặt bụng - rõ ràng cô ấy vừa mới sinh chưa lâu. Và ở đó, ngay cuối hàng lang, không nhận thấy sự có mặt của tôi, là Mike...
Cậu ấy đang bế một đứa bé. Con của cậu ấy. Mike đã bỏ áo khoác, ống tay áo xắn lên, đứa bé nằm bên vai trái nên tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt nhỏ xíu, nhăn lại vì khó chịu của nó. Cậu ấy đang vỗ vỗ lưng nó, và đi đi lại lại, mỗi hướng vài mét, nhẹ nhàng nhún lên nhún xuống, hoặc dừng lại và đu đưa qua lại trên gót giày. Đứa bé đang mặc một bộ quần áo liền quần và một cái mũ trắng, nó đang khóc không ngừng, theo đúng nhịp điệu của trẻ sơ sinh.
“Arah... Araaah... Araaah... Araaah...”
Khi nó dừng lại để lấy hơi tôi có thể nghe thấy cậu ta vỗ về nó. “Shhhh... Shhh... Shhhh, con yêu. Được rồi. Được rồi con gái bé bóng... con sẽ khỏe thôi... con sẽ khỏe thôi. Shhhh nào con yêu... Shhhh nào con yêu.”
“Arah... Araaah... Araaah... Araaah...”
Tôi lùi lại xa hơn, sau đó ngồi xuống một chiếc ghế; nhìn cậu ấy trong hai hoặc ba phút trong khi cậu ấy đi đi lại lại với đứa bé trong tay. Tôi quá sốc đến nỗi có thể nghe thấy hơi thở của mình. Và hiện giờ tôi đang cố gắng tưởng tượng ra việc nói chuyện với Hope...
Phải, Hope, chị đã đi theo Mike, và ừ, chị đã nhìn thấy cậu ấy đi đâu - không, chị không mất dấu cậu ấy - nhưng chị e là nó không phải là tin tốt vì... ừ... cậu ấy có... Dường như cậu ấy có ai đó, và thực ra nó có vẻ hơi tệ hơn một chút vì em biết không... à... em biết không... có một đứa bé, Hope ạ, và... phải... một đứa bé... phải... chị không biết.... chị không biết.... chị không biết là con trai hay con gái, nhưng... đúng thế... đúng... nó là con của cậu ấy... Chị xin lỗi, Hope... bởi vì chị đã nhìn thấy... chị đã, chị đã chứng kiến rõ ràng bằng chính đôi mắt của mình... trong bệnh viện... St Thomas... ôi làm ơn đừng khóc Hope... làm ơn đừng khóc... chị e là nó là sự thật... đúng... Phải, đúng là Mike... chị thấy cậu ấy đi đi lại lại với đứa bé. Dỗ dành nó, bởi vì nó khóc rất nhiều vì chắc là nó bị sinh sớm; mặc dù không phải nằm trong lồng kính nữa, nhưng dường như nó vẫn cần chăm sóc y tế. Và chị nghĩ rằng đó là việc cậu ấy làm trong hai tháng nay, đi đến bệnh viện để thăm con mình - và đó là vì sao cậu ấy cư xử lạ lùng như thế và quá - từ em dùng là gì? - tâm trạng. Đúng thế. Và đây là nguyên nhân. Em phải nói chuyện với cậu ấy về chuyện này, và nói với cậu ấy rằng em đã biết sự thật, bây giờ em đã biết sự thật và sau đó... chị xin lỗi Hope. Chị nghĩ có lẽ em đã sai, nhưng em không sai... em không hề sai... chị rất tiếc Hope... chị thực sự rất tiếc...
“Tôi có thể giúp cô không?”
“Hả?”
Khi tôi tỉnh lại tôi nhìn thấy người phụ nữ đang nói chuyện với tôi đang đeo một phù hiệu cho biết rằng cô ấy là một bà đỡ; ở dưới là dòng chữ Chăm sóc đặc biệt. “Tôi có thể giúp cô không?” cô ấy nhắc lại. “Cô đến thăm ai thế?”
“Tôi đến thăm...” Tôi liếc về phía Mike và cảm thấy cổ họng tôi siết lại.
“Cô ổn chứ?” cô ấy nói. “Cô có vẻ mệt mỏi.”
“Chuyện này hơi... kỳ cục. Tôi có thể nói chuyện với cô không?”
Tôi bước ra khỏi bệnh viện hai mươi phút sau đó, trong tâm trạng rối bời. Làm thế nào Hope và Mike có thể ở cùng nhau bây giờ? Điều đó là không thể. Tôi đã không nói chuyện với cậu ấy - tôi đã không muốn - nhưng tôi đã tìm ra mọi chuyện tôi cần biết, và bây giờ tôi phải nói lại với Hope. Tôi hình dung em gái tôi ngồi ở nhà, tuyệt vọng chờ tôi gọi điện, nhưng tôi sẽ không gọi - ít nhất là chưa. Vì thế tôi để di động ở chế độ trả lời tự động và bước qua cầu Westminster trong ánh sáng mờ mờ, qua Quảng trường Nghị viện, sau đó gọi một chiếc taxi để về nhà. Và khi đi qua Victoria, tôi quyết định rằng không thể nói với Hope sự thật qua điện thoại. Thay vì trở về căn hộ, nơi Hope có thể liên lạc được với tôi, tôi quyết định đến chỗ Luke - nhất là vì tôi đột nhiên nhớ ra tôi đã nói sẽ cố gắng đến bữa tiệc. Bây giờ là chín giờ kém mười lăm, anh ấy vẫn ở đó.
Tôi yêu cầu lái xe đưa tôi đến Đường Chepstow. Khi anh ta thả tôi ngoài phòng triển lãm, tôi có thể thấy có khoảng một tá người ở bên trong, cầm những chiếc ly rỗng, nói cười. Tôi trả tiền xe và bước vào. Khi tôi đẩy cửa vào, tôi nhìn thấy Hugh. Đây là tất cả những gì tôi cần.
“Hugh,” tôi nói. “Thật ngạc nhiên!”
“Chào Laura.” Anh ấy hôn lên má tôi như thể việc tôi bắt gặp anh ấy ở riêng với một người đàn bà khác không phải chị gái tôi là hoàn toàn bình thường.
“Chào Chantal,” tôi vui vẻ nói. “Thật vui khi gặp cả hai người ở đây.”
“À, anh muốn ủng hộ những sự kiện nghệ thuật địa phương,” Hugh nói. “Chantal và anh ra ngoài uống nước, vì thế cô ấy quyết định đi cùng.”
“Đúng thế,” cô ta nói và đỏ mặt.
“Nhưng bọn anh đang định đi về,” Hugh nói.
“À gửi tình yêu của em đến Fliss nhé,” tôi tươi tỉnh nói thêm.
“Chắc chắn rồi,” anh ấy thản nhiên trả lời. Thật bình tĩnh.
“Laura!” Tôi nghe Luke gọi. Anh hôn tôi.
“Xin lỗi em đến muộn.” Tôi nói. “Em bị vài việc trì hoãn và...”
“Đừng để tâm,” anh âu yếm nói. “Anh thật vui khi em ở đây.”
“Đó là anh rể em,” tôi vừa nói vừa ra hiệu về phía cái lưng đang ra về của Hugh qua cửa sổ kính. “Anh ấy kết hôn với Felicity.”
“Anh biết. Anh nhớ đã gặp anh ấy với em một lần, nhiều năm trước, và anh ấy đã giới thiệu lại. Vậy cô nàng tóc vàng đi với anh ấy là ai?”
“Một người bạn của Felicity, Chantal Vane. Thực ra em nghĩ nó hơi... lạ.”
“Tại sao? Ồ anh hiểu. Em có nghĩ rằng họ...”
“Em không biết. Em cầu Chúa là không.” Tôi đã có đủ vấn đề với những ông chồng của chị em gái mình. “Dù sao thì, buổi triển lãm diễn ra như thế nào?”
Anh cười rạng rỡ. “Nó thành công không thể tưởng được. Bọn anh có một trăm năm mươi khách, và đã bán được mười bức tranh. Craig đã về rồi,” anh ấy nói tiếp, “nhưng để anh chỉ cho em xem những bức tranh của anh ấy.”
Khi chúng tôi đi quanh phòng triển lãm, tôi chăm chú ngắm chúng mặc dù chúng chẳng có ý nghĩa gì với tôi lắm - chỉ là những màu sơn cơ bản phết lên tấm vải bạt, theo lối vẽ đắp, sống động, nhưng dường như hơi gò bó. Tôi cố gắng tiêu hóa những điều Luke đang nói về nghệ thuật trừu tượng không tượng trưng và thử thách trí tuệ mà nó đại diện - những quan điểm tranh luận về nó gần như đẩy bạn vào một thế giới triết học - nhưng thật khó để tập trung. Tôi cảm thấy cứ như là anh ấy đang nói chuyện với tôi từ cuối đường hầm dài và tối đen. Sau đó anh ấy giới thiệu tôi với vài người bạn, Grant và Imogen, bố mẹ cô con gái đỡ đầu chín tháng tuổi của Luke.
“Cô bé rất xinh xắn.” Luke nói. “Jessica cũng mê mẩn cô bé.”
“Cô bé là con đầu của anh chị à?” Tôi lịch sự hỏi Imogen.
“Con đầu của tôi,” chị ấy trả lời. “Grant có hai cậu con trai mười hai tuổi và chín tuổi rất đáng yêu. Chúng cũng yêu mến Alice, phải không anh yêu? Con bé là một cô bé may mắn.”
Anh ấy hạnh phúc gật đầu. “Đúng thế.”
Chúng tôi trao đổi vài chuyện phiếm, sau đó họ nói họ phải đi về, và bây giờ những người còn lưu lại cuối cùng cũng đang ra về. Nên Luke và tôi có thể đi trong khi trợ lý phòng triển lãm, Kristy, dọn dẹp ly rượu và khóa cửa.
“Có rất nhiều người quan tâm,” anh ấy hạnh phúc nói khi chúng tôi tản bộ về nhà anh. “Anh đã lo lắng rằng tổ chức quá gần Lễ Phục sinh sẽ không được như thế, nhưng mọi người đã đến và đó là một tiếng vang thực sự. Em ổn không?” đột nhiên anh ấy hỏi. “Em có vẻ hơi... im lặng.”
“À, em bị... đau đầu,” tôi nói thật.
“Tội nghiệp em. Anh sẽ xua nó đi.”
“Em không nghĩ là anh có thể.” Tôi nghĩ đến Hope, vẫn chờ đợi và thấp thỏm, mãi không thể liên lạc với tôi. Nhưng tôi không thể gọi cho em tôi bây giờ, ngay cả nếu tôi muốn, vì giờ Mike đã về. Tôi quyết định việc đầu tiên của ngày mai là gọi điện cho em gái tôi. Nhưng làm sao tôi có thể nói một điều nghiêm trọng như thế qua điện thoại? Tôi không thể. Tôi phải nói chuyện mặt-đối-mặt. Bỗng nhiên tôi biết phải làm gì. Phải. Đúng thế...
“Chúng ta sẽ thưởng thức phần còn lại của buổi tối một cách êm ả nhé,” Luke nói và nắm tay tôi. “Chúng ta có thể giải trí với một bộ phim - một phim Kinh dị hay ho của Hammer, hoặc chúng ta có thể xem Sự trả thù của Xác ướp. Phim đó rất vui.”
Bây giờ chúng tôi đang trên Đường Lonsdale, chúng tôi đi đến ngang nhà, và Luke vừa mở cổng thì anh ấy bỗng nhiên dừng lại. Nằm trên những phiến đá lát đường ở khu vườn trước là một chiếc quần jeans.
“Chuyện quái gì đang xảy ra ở đây thế này?” Khi anh ấy nhấc nó lên tôi cảm thấy một cú thụi bất ngờ vào lồng ngực tôi. “Và đây...” Anh ấy nhặt lên một cái quần sóc trắng, và một chiếc áo phông màu hồng đang nằm trên ngưỡng cửa. “Cái gì...?”
“Chúng là của em,” tôi lặng người nói.
“Chúng là của em?”
“Phải,” tôi nói với một cảm giác buồn nôn.
“Ôi. Chúa tôi...” Anh ấy mở khóa cửa, tắt báo động chống trộm, sau đó chúng tôi đi lên cầu thang. Anh ấy bật đèn trong phòng ngủ.
“Ôi. Chúa tôi...” anh ấy khe khẽ nhắc lại.
Thứ đầu tiên chúng tôi nhìn thấy là chiếc kimono bằng lụa của tôi. Khó có thể nhận ra, vì nó đã bị xé ra thành khoảng hai mươi miếng với nhiều kích cỡ khác nhau đang vung vãi khắp giường và sàn nhà. Có vài mảnh nằm trên tủ ngăn kéo, trên ghế đẩu, và bàn cạnh giường. Một miếng bay đến Wilkie và phủ lên đầu nó như một chiếc khăn tay, giống như nó đang tắm nắng.
“Ôi Chúa tôi...” Luke lẩm bẩm lần nữa. “Anh xin lỗi Laura.” Anh ấy nhặt một miếng lụa xanh lên. “Anh không biết phải nói gì. Anh thấy... xấu hổ. Anh sẽ mua cho em một cái khác,” anh ấy nói thêm đầy vẻ bất lực.
“Không... Làm ơn... Đừng bận tâm,” tôi thốt ra, quá sững sờ để bộc phát cơn giận của mình. “Thật đấy...”
Anh ngồi sụp xuống chân giường. “Anh thật xin lỗi Laura...” Anh lắc đầu. “Cô ấy... điên rồi.”
Tôi đi vào phòng tắm. Nắp bồn vệ sinh đã đóng xuống, và một tay áo len cashmere xanh lục của tôi thò ra bên ngoài, như thế nó đã cố vật lộn để thoát ra. Khi tôi nhấc cái nắp lên, chí ít tôi có thể biết ơn vì Magda đã dìm nó vào nước có vẻ sạch. Cô ta đã viết trên chiếc gương phòng tắm Đồ chó cái! bằng chữ viết hoa lớn với thỏi son của tôi và quăng phần còn lại vào trong chậu. Cô ta đã xì keo vuốt tóc của tôi lên khắp tường. Cô ta vứt đồ trang điểm của tôi vào chậu rửa và phun kem đánh răng lên chúng. Cô ta cắt dây điện và vứt máy sấy tóc của tôi vào thùng rác.
Tôi tưởng tượng ra Magda tiến hành công cuộc hủy hoại này trong cơn cuồng dại không cả buồn thở - như một con chồn trong nhà của một con gà - bị kích động bởi... cái gì? Sau đó tôi nhớ ra.
“Đây là do em đã cất đồ đạc của cô ta đi.” Tôi nhìn vào tủ quần áo. Chắc chắn, chiếc áo sơ mi in hoa, hai chiếc váy, áo khoác nhung và giày của cô ta đều đã được khôi phục lại vị trí cũ.
“Chúa ơi,” Luke rên rỉ. Anh ấy chỉ ngồi trên giường, vẫn nắm chặt mẩu áo kimono của tôi, lắc lắc đầu.
“Nhưng câu hỏi là... cô ta vào bằng cách nào?” Anh ấy nhìn tôi. “Làm thế nào cô ta vào được, Luke?”
“À...”
“Cô ta không đột nhập vào, rõ ràng là thế.”
“Không...”
“Vậy cô ta có chìa khóa? Làm ơn đừng nói với em là cô ta có chìa khóa, Luke.”
“Cô ấy không có,” anh mệt mỏi nói. “Nhưng cô ấy biết chỗ anh giữ chìa khóa dự phòng. Nhưng anh không nghĩ rằng cô ấy làm việc này vì em đã cất đồ đạc của cô ấy đi.”
“Vậy tại sao?”
“Bởi vì cô ấy phát hiện ra em đã gặp Jess.”
“Thật ư?” Anh thở dài, sau đó gật đầu. “Làm thế nào? Cô ta thấy quả trứng Phục sinh em tặng Jess à?”
“Không. Cô ấy nhìn thấy những tấm ảnh Jessica rửa sáng nay và thấy em ở trong đó.”
“À...” tôi nhớ ánh đèn flash nhá lên khi tôi tránh khỏi tầm ngắm.
“Cô ấy giận dữ gọi điện cho anh và anh quá bận rộn để treo những bức tranh cho buổi triển lãm, vì thế anh nói cô ấy mất trí rồi. Anh không nghĩ cô ấy làm... chuyện này.”
“Anh đang nói rằng cô ấy lái xe từ Chiswick đến đây, chỉ để phá hoại đồ đạc của em?” Tôi gần như cảm thấy được tâng bốc.
“Không. Cô ấy phải đến đây vì Jess có hẹn đi chơi ở Notting Hill, và trong khi đợi, cô ấy đã lẻn vào, để ngó trộm, và rồi thấy em cất đồ của cô ấy đi, và... quẫn trí. Điều đó là quá nhiều cho cô ấy.”
Tôi ngồi xuống cạnh anh, vẫn còn sững sờ. Chúng tôi không cần xem Sự trả thù của Xác ướp. Chúng tôi đã có phiên bản của riêng mình đang diễn ra ngay ở đây.
“Anh sẽ nói chuyện với cô ấy...” anh nói. “Anh sẽ giải quyết chuyện này một cách thỏa đáng cho em, anh không biết làm thế nào, hoặc anh có thể làm gì...” anh vùi đầu vào hai bàn tay. “Nó như địa ngục vậy, Laura. Em không thể hình dung ra sự căng thẳng. Giống như sống trên bờ của một núi lửa.”
“Magma,” tôi bình thản nói. “Tên cô ấy nên là Magma[3].”
[3] Dung nham phun ra từ núi lửa.
Tôi chống bàn tay phải để đỡ lưng. Khi tôi làm thế tôi có thể cảm thấy có thứ gì đó cứng dưới lớp chăn. Tôi kéo ra lại. Đặt giữa đống gối trên giường bên phía tôi là một cái kéo cắt may lớn mà Magda đã cùng để cắt bộ kimono của tôi, hai lưỡi kéo mở ra. Tôi đứng lên.
“Em nghĩ sẽ không ở lại đây tối nay.” Tôi cầm túi xách lên. “Em xin lỗi, Luke. Nó chỉ là... quá sức chịu đựng. Và em đã có một ngày rất căng thẳng rồi.” Tôi nghĩ về Mike, và đứa bé. “Để mai nói chuyện nhé.”
Tôi bước xuống cầu thang và ra khỏi nhà. Tôi không có đủ năng lượng để giận dữ - tôi vẫn còn rã rời vì sốc. Nhưng khi tôi trên đường quay lại Đường Bonchurch tôi nghĩ thật rằng đáng ngạc nhiên khi Magda có thể phá hoại quá nhiều như thế, và cùng lúc thể hiện sự cẩn thận đến như vậy, cẩn thận đóng cửa sổ mà cô ta đã quăng đồ của tôi ra ngoài, sau đó sốt sắng khởi động hệ thống chống trộm và khóa cửa.
Tôi nghe thấy đồng đồ điểm mười một giờ. Tôi nhìn vào điện thoại di động. Tôi có tám cuộc gọi lỡ - tất cả đều từ Hope - và khi tôi về đến nhà, tôi thấy em gái tôi đã để năm tin nhắn với mức độ ngày càng tuyệt vọng trong máy trả lời tự động. Tôi nhắn tin cho nó nói rằng tôi không thể nói chuyện tối nay, nhưng việc đầu tiên trong ngày mai là tôi sẽ gọi cho nó. Nhưng trước khi tôi tỉnh dậy vào sáng hôm sau, con bé đã gọi.
“Tại sao chị không gọi lại cho em?” Em gái tôi khóc. Tôi lờ đờ liếc nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ ba mươi. Tôi chưa ngủ được bao nhiêu. “Em sắp phát điên rồi!” con bé rền rĩ. “Tại sao chị không gọi cho em?”
Tôi rên rỉ. a) vì điều đó là không thể, và b) Vì chị biết lúc chị có thể gọi, Mike đang ở nhà.”
“Thế...” Tôi nghe em tôi hít vào. “Chị đã tìm ra điều gì?” Tôi không trả lời. “Chị đã tìm ra điều gì?” Con bé nhắc lại. “Anh ấy đi đâu? Người phụ nữ Clare này trông như thế nào? Cô ta có trẻ hơn em không? Cô ta có quyến rũ hơn không? Chị có chụp được ảnh của cô ta không? Chị làm ơn nói với em chị đã nhìn thấy gì đi chứ? Làm ơn Laura. Em không thể chịu được việc này. Em không thể chịu được! Em phải biết. Hãy kể cho em đi, được chứ Laura? Kể cho em! Làm ơn, làm ơn, làm ơn nói với em...”
Tôi hít một hơi thở sâu. “Không. Chị sẽ không nói.” Một tiếng thở hổn hển.
“Chị không nói nghĩa là sao? Chị phải nói. Đó là lý do chị đi theo anh ấy. Chị đang chơi trò gì thế?”
“Chị không chơi trò gì cả. Nhưng chị không muốn nói với em những gì chị thấy.”
Một sự im lặng sửng sốt. “Tại sao không?”
“Bởi vì chị muốn chỉ cho em thấy - đấy là lý do. Tối mai chị muốn em đi với chị, và chị sẽ cho em thấy chị đã thấy gì. Và em phải kìm chế mình cho đến khi đó, không làm phiền chị, hay nhiếc móc chị, hay phỉ báng lập trường hay động cơ của chị, hoặc than thở em đau khổ như thế nào với chị vì, thực ra Hope, chị cũng có vấn đề của chị...” Cổ họng tôi nhức nhối. “Và, tin hay không tùy em, chị đang cố hết sức làm điều tốt nhất cho em.”
Tôi có thể nghe thấy tiếng khóc của em tôi.
“Nó là tin xấu đúng không?” nó khóc. “Đó là lý do chị không muốn nói với em. Bởi vì chuyện này quá tồi tệ. Tồi tệ nhất có thể.”
“À...”
“Mike yêu Clare này,” nó rên rỉ. “Phải không?”
“Ừ, chị nghĩ thế.”
“Hôn nhân của em thế là hết.”
“Có lẽ... nhưng chị muốn em tin chị - và em sẽ không nói gì với Mike tối nay. Làm ơn đừng đối chất với cậu ta cho dù em bị thôi thúc như thế nào.”
“Tất nhiên là em muốn, nhưng em không thể. Vì anh ấy đã đi Bỉ và không trở lại cho đến trưa ngày mai - anh ấy đi sớm để đón tàu. Có lẽ cô ta đi với anh ấy,” em tôi hoảng loạn nói thêm.
“Chị không nghĩ thế,” tôi nói. “Dù sao thì, chị sẽ gặp em... ở đâu nhỉ? Bên ngoài ga tàu điện ngầm Westminster lúc... bảy giờ tối mai.”
“Nhưng chúng ta sẽ đi đâu, Laura?”
“Em sẽ biết thôi.”
Tác giả :
Isabel Wolff