Câu Hỏi Tình Yêu
Chương 2
“Giờ thì chúng ta biết tại sao anh ấy quá hứng thú với việc gặp cô như vậy,” Marian nói khi cô ấy tẩy trang cho tôi. Tôi nhìn vào hình ảnh phản chiếu của cô ấy khi cô ấy lau sạch phấn nền bằng những cái vuốt dài và chắc chắn. “Chắc đó là một cú sốc.”
“Cô có thể nói như thế lần nữa.” Tôi nhìn vào bàn tay mình. Chúng vẫn đang run rẩy. “Chỉ gặp anh ấy lần nữa thôi cũng đủ tệ rồi, không kể đến... như thế.”
“Anh ta cũng là một người thú vị, phải không, lúc cô quen anh ấy trước đây ý?”
“Ừ. Phải, anh ấy rất... hóm hỉnh.”
“Và điển trai.” Cô ấy nhắc lại khi giật lấy một miếng bông tẩy trang khác. Tôi hít thở chầm chậm bằng mũi để lấy lại bình tĩnh.
“Phải.” Và thông minh, lôi cuốn, thú vị, hơi lập dị, thích tán tỉnh và rất hay... khiến người khác phát cáu.
“Anh ấy có thay đổi nhiều không?” Rõ ràng là không. “Ý tôi là, nhìn bên ngoài ấy?” Cô ấy thêm vào.
“Không. Nếu có thì, anh ấy hấp dẫn hơn.”
“Nhưng gặp lại anh ấy thật lạ - và lại trong tình huống như thế!” Và bây giờ, cuối cùng, tôi nhìn vào danh sách người chơi mà tôi đã tìm thấy trong túi áo khoác của mình. Tôi nhanh chóng liếc qua đoạn về Luke. Luke North, ba mươi sáu tuổi, học Lịch sử Nghệ thuật ở Cambridge, sau đó làm việc ở Christie’s vài năm. Trong ba năm qua, anh điều hành phòng trưng bày Nghệ thuật Đương đại Due North ở Bayswater. Anh sống ở Notting Hill. Tôi đọc nó lần nữa. Lần nữa. Lần nữa. Sau đó thêm một lần nữa.
“Có nghiêm túc không?” Tôi nghe Marian hỏi.
“Cái gì?”
“Mối quan hệ của cô với anh ấy có nghiêm túc không? Được rồi,” cô ấy nói tiếp với một nụ cười. “Cô không cần phải kể với tôi. Nhưng tôi không thể không băn khoăn, sau những gì anh ấy vừa làm.”
“Tôi không ngại chút nào,” tôi trả lời. Bất cứ khi nào tôi cảm thấy bấn loạn tôi thường muốn nói về nó, và tôi nhận thấy Marian biết cảm thông. “Mối quan hệ đó là nghiêm túc.” Tôi giải thích. “Tôi đang học Văn học cổ điển, anh ấy học Lịch sử Nghệ thuật. Chúng tôi hay tranh cãi - nhưng đó là một phần của niềm vui. Nó là một trong những mối quan hệ sôi nổi và nồng nhiệt - nó rất thú vị... sâu sắc... nó là...” Tôi buột ra một tiếng thở dài cay đắng. “Thời gian hạnh phúc nhất của cuộc đời tôi.”
“Vậy có chuyện gì xảy ra?” cô ấy nhẹ nhàng hỏi. “Hai người quyết định rằng vẫn còn quá trẻ để ổn định cuộc sống?”
“Không. Không phải thế. Chúng tôi sẽ cùng thuê một căn hộ ở Luân Đôn sau khi tốt nghiệp - chúng tôi thậm chí đã tìm thấy một căn để chuyển đến nhưng -” Tôi quá xấu hổ để kể với Marian sự thật bẽ bàng đó - “Tất cả mọi chuyện trở nên sai lầm... tồi tệ.” Im lặng phủ xuống, sau đó Marian đặt tay lên lên vai tôi. “Dù sao,” tôi nhìn vào khuôn mặt ba mươi tư tuổi của mình trong gương với những nếp nhăn bắt đầu xuất hiện. “Đã rất lâu rồi.” Tôi đứng lên, sau đó kéo chiếc áo choàng ra. “Tôi cho rằng tốt hơn nên đi đến bữa tiệc sau chương trình.”
“Ừ, chúc may mắn. Tôi đoán rằng anh ấy sẽ ở đấy.”
Tôi đi thang máy lên đến tầng trên cùng, nhịp tim tôi dồn dã, tâm trí tôi vật lộn với những cảm giác xung đột. Tôi thấy hoảng hốt khi Luke lại bất ngờ lao vào cuộc đời tôi lần nữa, tán tỉnh tôi - chọc tức tôi, nhưng, đồng thời, tôi cũng cảm thấy... vui. Bây giờ, khi tôi đi xuống hành lang, tôi có thể nghe thấy tiếng ồn ào huyên náo phát ra từ phòng tiếp khách. Tôi dừng lại ở cửa một phút, sau đó đi vào. Không khí sực mùi sandwich, cà phê và rượu trắng rẻ tiền - đồ ăn sau buổi ghi hình thường khá là tồi. Hầu hết đội ngũ đều đã có mặt ở đó, tán gẫu với những người chơi, và, khi họ tia thấy tôi, một hoặc hai người họ cười điệu. Khi tôi tiến vào trong, tôi nghe Dylan giải thích cho Christine rằng chương trình sẽ phát sóng vào cuối tháng Ba, trong khi bên trái tôi, Jim và Doug dường như thảo luận về vài câu đố nhàm chán.
“Không phải là một ‘lũ’ tê giác,” tôi nghe Jim nói. “Phải là một ‘đàn’.”
“Anh chắc không?” Doug nói.
“Hoàn toàn chắc chắn - Tôi biết nhiều về những danh từ tập hợp. Nó còn sử dụng cho hà mã nữa.”
“Tôi nghĩ nó là một ‘bầy’ hà mã.”
“Anh có thể sử dụng ‘bầy’, nhưng ‘đàn’ thì thông dụng hơn.”
“Thế còn hươu cao cổ thì sao?”
“Quá dễ - một ‘đàn’.”
Và kia, trong góc phòng, gần cửa sổ, đang nói chuyện với Sara, một hình ảnh vẫn khiến tôi bồn chồn, và rất ư vô lý, ghen tuông, cho dù là mười hai năm sau nữa - là Luke. Đột nhiên anh nhìn thấy tôi và vẫy chào. Sau đó, anh ra hiệu cho tôi lại gần với vẻ mặt dạn mày dày đặc trưng. Nếu Sara không đang đứng đấy, tôi đã phớt lờ anh đi. Tôi quyết định sẽ ra vẻ lạnh lùng và xa cách.
“Chào, Laura.” Anh mỉm cười. Như Marian đã nói - đôi mắt tuyệt đẹp. Viền quanh bởi hàng mi dày và sẫm màu là một màu nâu rực rỡ và ấm áp, giống như màu nâu của thuốc lá, với những tia màu hoàng ngọc và vàng tỏa ra. Tôi chưa bao giờ tin rằng tôi gặp lại anh ấy lần nữa, đừng nói đến đứng gần như thế này. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp người nào đó hơi giống anh, và tôi thấy mình nhìn chằm chằm vào người đó, cảm giác nuối tiếc trào dâng.
“Chào, Luke,” tôi trả lời.
“Anh xin lỗi về việc đó. Anh làm em bối rối à?”
“Phải,” tôi trả lời. “Nhưng có thể anh cố tình làm như thế.”
“Thực ra, anh không hề.” Anh hất đầu về phía Tom. “Giám đốc của em có vẻ hay can thiệp.”
“Em nghĩ là vì anh ấy nghĩ anh đang cố gắng phá hoại buổi ghi hình.”
“Không hề. Nó chỉ là để -” anh nhún vai - “cho vui.”
“Dù sao, cảnh quay lại tốt rồi,” Sara lịch sự nói. “Vì vậy đừng lo lắng.” Chúng tôi đã thay đổi kết thúc bằng việc Luke quyết định không chơi phần Xoay chuyển Vị trí.
Anh lấy một cái bánh mỳ xúc xích từ chiếc khay đi ngang qua. “Nhưng họ nói rằng anh có thể hỏi em bất kỳ câu hỏi nào.”
“Bất kỳ câu hỏi nào về kiến thức chung,” tôi sửa lại.
“Nó vẫn là một chương trình hay và có nhịp độ cao,” Sara xen vào. “Anh là một người chơi rất giỏi, Luke ạ, và chưa có tổn hại gì. Dù sao đi nữa, tôi sẽ... để hai người nói chuyện tiếp,” cô ấy khôn khéo thêm vào. “Hai người rõ ràng có vài vướng mắc cần giải quyết.”
Khi Sara rút lui, Luke mỉm cười với tôi lần nữa, đầy vẻ thắc mắc, dường như hơi ngạc nhiên bởi thái độ lạnh nhạt của tôi, nhưng anh ấy mong đợi gì chứ? Tại sao tôi lại phải niềm nở và vui vẻ khi anh ấy làm tôi lúng túng như thế, không kể đến chuyện xảy ra giữa chúng tôi mười hai năm trước?
“Em có thể hỏi anh vài câu được không?” Tôi nói.
“Tất nhiên.” Anh ấy lấy một cái bánh mỳ xúc xích khác. “Đó là công việc của em mà - hỏi mọi người. Chúa ơi, anh đói thế - anh đã không ăn trưa.”
“Anh có định làm như thế trước đó không?”
“Không. Anh định sẽ hỏi em điều gì đó hoàn toàn là đúng đắn -” anh ấy phủi những mẩu vụn bánh mỳ trên môi - “nhưng thay vào đó anh đột nhiên lại cảm thấy sự thôi thúc muốn mời em đi ăn tối lấn át.”
“Em hiểu,” tôi nói. “Vậy đấy là ‘tính đồng bóng’ nhỉ - một ‘sự thay đổi bốc đồng của ý nghĩ’?”
Anh ấy mỉm cười. “Anh cho là thế.”
“Và tại sao anh cười khi em hỏi anh ‘dê’ nghĩa là gì?”
Anh ấy đảo mắt. “Giải thích sẽ mất nhiều thời gian - anh sẽ kể cho em trong bữa tối. Anh hy vọng em sẽ đến. Đã lâu lắm rồi.” Anh mỉm cười lần nữa. Và khi anh làm thế, bất chấp tình trạng khủng hoảng của mình, tôi đột nhiên cảm thấy khao khát quen thuộc từng có với anh dấy lên mạnh mẽ. Tôi muốn cánh tay anh quấn quanh tôi, như anh thường làm. “Em sẽ đồng ý chứ?” Tôi muốn vùi mặt vào cổ anh. Tôi muốn lướt đầu ngón tay trên đường cong đáng yêu của môi anh. “Em sẽ đồng ý chứ?” anh nhắc lại.
“Em thực sự không... biết.”
“Khó khăn thế sao, Laura?”
“Không, nhưng...” tôi đột nhiên tỉnh lại từ trạng thái mơ hồ. “Xem này, Luke - anh thật táo tợn. Anh lả lướt quay trở lại cuộc đời của em theo cách... kỳ quặc này, và bây giờ anh đang ra vẽ rằng em sẽ ăn tối với anh, khi mà chúng ta thực tế đã không nói chuyện với nhau từ năm 1993, đúng không nhỉ?”
“Phải. Nhưng đó không phải là lỗi của anh.”
“Phải chứ!” Tôi hạ thấp giọng, nhận thấy những con mắt kín đáo quay về hướng chúng tôi. “Đó là lỗi của anh.”
“Không đúng. Em không trả lời thư hay điện thoại của anh. Em hất anh ra khỏi cuộc đời em như thể anh chưa bao giờ tồn tại.”
“Ai có thể đổ lỗi cho em nhỉ?” tôi hỏi. “Trong tình huống đó?” Im lặng buông xuống.
“Thế này giống như ngày xưa,” anh vui vẻ nói. Tôi giật mình nhận ra rằng anh nói đúng. Hai phút ở bên nhau và chúng tôi đã trượt vào trạng thái cảm xúc cũ.
Tôi cố gắng lái cuộc hội thoại trở lại vùng đất an toàn. “Thế câu hỏi đúng đắn anh định hỏi em là gì?”
“À - ừ, anh đã nghĩ rất cẩn thận. Anh không muốn hỏi điều gì mà em không biết, vì tất nhiên điều cuối cùng anh muốn là làm em xấu hổ trước mắt hàng nghìn người xem.”
“Thật chu đáo.”
“Vì vậy anh quyết định hỏi em một câu hỏi mà em có thể trả lời.”
“Là?”
“Trái tim con người đập bao nhiêu lần một ngày?” Tôi nhìn anh trống rỗng. “Câu đấy nghe như một trong những mẩu Thông tin Vô ích cũ rích của anh.”
“Ừ. Nhưng khả năng tính nhẩm của em rất siêu, anh nhớ thế, vì thế anh biết em sẽ có câu trả lời.”
“Nhưng gần như chắc chắn em sẽ mất nhiều hơn năm giây, nhờ thế anh có thể nhân đôi số tiền. Trò đùa nho nhỏ của anh khá là đắt giá nhỉ?”
“Ồ ừ.” Anh nhún vai. “8.000 cũng đủ rồi.”
“Để làm gì - nếu anh không phiền vì em đã hỏi? Ý em là, vì sao anh lại muốn tham gia vào chương trình này?”
“Em thực sự muốn biết à?”
“Thật đấy. Em rất ngạc nhiên khi gặp anh. Đấy là nói một cách nhẹ nhàng.”
“Ok. Anh được vài người bạn gợi ý. Anh đang than phiền với họ rằng anh cần vài nghìn để đi học ở trường nghệ thuật - anh luôn luôn muốn đi học ở đó. Em còn nhớ không?”
“Có, em nhớ. Tất nhiên.”
“Và anh đã giành được một khóa học ngoài giờ ở trường Slade. Nhưng thời điểm này anh đang rất thiếu tiền vì nhiều lý do mà anh không muốn kể để làm em buồn chán, vì thế họ gợi ý anh thử tham gia chương trình Whadda Ya Know?!! Anh đã hơi sốc khi phát hiện em là người dẫn chương trình. Đấy là nói một cách nhẹ nhàng, và anh đã quyết định tham gia. Nhưng càng nghĩ về nó, anh càng nhận ra anh muốn gặp lại em nhiều như thế nào - đặc biệt khi anh phát hiện ra văn phòng của em không cách xa nơi anh ở là mấy.”
“Vậy tại sao anh không gửi thư cho em?”
“Bởi vì anh không nghĩ rằng em sẽ trả lời. Em có thể sẽ không trả lời, đúng không?”
“Em không... biết. Em... có thể... không.”
“Chính xác. Vì thế anh quyết định tham gia chương trình. Thành thật là anh nghĩ em sẽ biết trước.”
“Lẽ ra là thế, nhưng em đã không đọc danh sách người chơi.”
Anh liếc nhìn đồng hồ. “Ôi trời - anh phải đi - anh phải đi đón Jessica.” Jessica? “Đó là cô gái của anh, tình yêu của cuộc đời anh,” anh tự hào giải thích. Tôi đột nhiên thấy chùng xuống, như thể tất cả niềm vui của tôi đã biến mất.
“Em hiểu.”
“Cô ấy thực sự rất xinh xắn. Cô ấy có đôi mắt xanh to...”
“Thật thú vị... Em phải nói chuyện với những người chơi khác.”
“Và một nụ cười mê hoặc.”
“Tuyệt vời.” Tôi giơ tay ra. “Rất vui gặp lại anh, Luke.” Tôi trao cho anh một nụ cười cau có, sau đó quay đi.
“Em có muốn xem ảnh không?”
“Xin lỗi? Không - cũng không sao, vì anh đã đề nghị.”
“Chờ chút... đây rồi...” Anh rút một khung ảnh nhỏ bằng da gập lại từ trong túi và đưa nó cho tôi. Một bé gái nhỏ bé như thiên thần đang mỉm cười hạnh phúc nhìn chằm chằm vào tôi.
“Cô bé là con gái anh?” Anh gật đầu nhiệt tình. Một làn sóng nhẹ nhõm tràn ngập tôi, theo cách làm tôi giật mình. “Em không biết là anh đã có con.”
“Thế ư?”
Tôi nhún vai. “Em không có tí manh mối vào về những chuyện xảy ra với anh.” Tôi không nói thêm rằng tôi đã tránh tìm hiểu. Tôi lờ đi tất cả những người bạn chung của chúng tôi vì tôi không thể chịu đựng được mối liên hệ đó. Tôi nhìn vào bức ảnh lần nữa. “Cô bé thật đẹp. Cô bé thực sự xinh đẹp!”
“Ừ, anh nghĩ điều đó thật hiển nhiên, nhưng cám ơn.”
“Cô bé, gì nhỉ, năm tuổi à?”
“Vừa tròn sáu tuổi.”
“Vậy là anh - anh đã kết hôn, phải không?”
“Ừ.”
“Ừm.” Vậy ra là thế.
“Dù sao thì...” anh lấy chùm chìa khóa xe ra khỏi túi và lắc lắc chúng. “Anh phải đi thôi - hôm nay đến lượt anh đón con bé ở trường. Vậy... anh đoán em không muốn dùng bữa tối với anh.” Anh nhún vai. “Hay...”
“Em không thực sự nói thế, Luke.”
“Ừm em không nói là em đồng ý.” Anh cầm khăn quàng lên. “Thế em đã thay đổi quyết định chưa?”
“Làm sao em có thể thay đổi khi em chưa quyết định? Anh đang... thao túng... người khác!”
Anh mỉm cười. “Anh không hề - Anh chỉ thẳng thắn thôi. Anh đang hỏi em có đồng ý ăn tối với anh không - thứ Sáu nhé? Bây giờ anh đang vội, vì thế nếu em không trả lời, anh coi sự im lặng của em là đồng ý. Anh đón em lúc tám giờ nhé?”
“Nhưng...”
“Nhưng gì?” Anh nhìn tôi sau đó vỗ tay vào lông mày. “Tất nhiên... nhưng anh không biết địa chỉ của em. Ngốc thật. Bây giờ em sẽ cho anh địa chỉ chứ?”
“Không phải thế, Luke - đó không phải ý của em. Ý em là - thế còn vợ anh?” Trái tim tôi đang đập quá ầm ĩ đến nỗi tôi nghĩ anh có thể nghe thấy. “Anh nói anh đã kết hôn - vợ anh sẽ không để tâm chứ? Em cho rằng cô ấy sẽ để ý đấy.”
Anh lắc đầu. “Anh sẽ không kể với cô ấy.”
“Ồ. Này, em không nghĩ như thế là hay đâu.”
Anh đảo tròn mắt. “Thôi võ đoán đi nào, Laura. Anh sẽ không nói với cô ấy - vì một lý do đơn giản là anh không phải làm thế. Bọn anh đã chia tay.”
“Ôi trời,” tôi nói. Trái tim tôi reo lên. Thực ra nó không chỉ reo ca - mà còn nhảy múa, tung tăng, quay tròn và hy vọng. “Em rất tiếc khi nghe thế. Từ khi nào thế?”
“Tháng Năm vừa rồi... Dù sao thì, Laura, anh phải đi ngay bây giờ. Vậy câu trả lời là gì?” Anh cầm áo khoác lên.
“À -” và bây giờ, lần đầu tiên, tôi cho phép mình mỉm cười - “Câu trả lời là... một trăm nghìn lần. Trái tim con người đập một trăm nghìn lần một ngày, đúng không?”
“Đúng!” Anh hôn vào má tôi. “Thỉnh thoảng nhiều hơn.”
Họ nói vết cắt đầu tiên là vết cắt sâu nhất - và điều đó thật đúng. Nhìn thấy Luke lần nữa dường như khiến cả thế giới bao trùm trong làn ánh sáng hoàn toàn mới. Tất cả những thứ quen thuộc giờ trông xa lạ đến kỳ quặc - giống như cái lăng trụ tôi nhìn nhận mọi thứ đã thay đổi. Khi tôi mở cửa nhà tối hôm đó, dường như quá khứ đã trỗi dậy để chôn vùi hiện thực và như thể đây là lần đầu tôi nhìn căn hộ này. Tôi đi thẳng đến bàn làm việc và lấy ra một cái hộp gỗ chạm khắc trong đó tôi cất giữ những đồ đạc quá riêng tư khuất khỏi tầm mắt người khác. Có một bức ảnh trắng đen của bố mẹ tôi đang hôn nhau; một lọn tóc buộc nơ của bà tôi, chiếc nhẫn đính hôn và nhẫn cưới của tôi nằm trong những chiếc hộp nhung, và ở dưới đáy, một bức chân dung của tôi do Luke vẽ. Anh đã vẽ đến cả tá, tôi đã đốt tất cả những bức khác, nhưng vì lý do gì đó, tôi giữ lại bức này. Anh vẽ tôi khi tôi đang ngủ trong một buổi sáng Chủ nhật cuối tháng đầu tiên chúng tôi sống cùng nhau khi mọi thứ đều vút cao - sâu đậm. Bây giờ, khi tôi nhìn vào chính mình lúc trẻ hơn, dáng người trần truồng của tôi khắc họa bởi những đường nét màu xanh sẫm và bóng tối mờ mờ, tôi nghĩ đến cuộc đời đã thay đổi như thế nào.
Tôi rót một ly rượu, uống vài ngụm lớn, sau đó nằm trên ghế sofa, nhắm mắt lại, nghĩ đến Luke, cho phép tất cả ký ức tôi đã đẩy đi xa rất lâu rồi quay trở lại trong một cơn sóng luyến tiếc...
Thịch! Thịch! Tôi mở mắt. “Ôi Chúa tôi.” Thịnh! Thịch! Tôi nhìn lên trần nhà. “Không phải nữa chứ.” Hàng xóm mới ở tầng trên của tôi là một bà đồng và mỗi lần lên đồng của bà ấy có thể khá là ầm ĩ.Thịnh! THỊCH!THỊCH! Tôi đảo mắt, tưởng tượng những tấm rèm lay động, những đốm sáng nhảy nhót và đồ đạc bay quanh căn phòng. Tôi vẫn còn chưa gặp bà ấy, nhưng tôi đã thoáng thấy bà ấy khi bà ấy chuyển nhà. Đó là một phụ nữ tóc đen quyến rũ khó xác định được tuổi. Tôi biết bà ấy làm nghề gì, bởi vì trong tháng qua nhiều người đã bấm chuông cửa nhà tôi và hỏi tôi có phải ‘Bà đồng Cynth?’ hay không. Thịnh! Thịch! Theo những lá thư bà ấy nhận được, tên thật của bà ấy là Cynthia del Mar. THỊCH!THỊCH! Tôi đã nhìn thấy con mèo của bà ấy đang ngồi trên lối thoát hỏa hoạn vài lần.
THỊCH!THỊCH!!! ‘GÌ CHỨ!!!” Thế này thì quá lắm. Tại sao bà ấy không thể thể hiện một chút suy nghĩ, hoặc ít nhất vào một giờ giấc hợp lý? Tôi liếc nhìn đồng hồ. Tám kém một phút - đã đến lúc bật TV; nếu may mắn nó có thể át tiếng ồn của bà ấy.
“Giờ hãy đặt ngón tay lên chuông nào tất cả mọi người,” người đọc bản tin vui vẻ nói. “Bởi vì đây là chương trình đố vui trên truyền hình mới của Channel 4 - Whadda Ya Know?!!” Những hình ảnh mở đầu trôi đi. Và tôi ở đó, đang đề nghị bốn người chơi - hai người đàn ông và hai phụ nữ - tự giới thiệu về mình. Chúng tôi ghi hình chương trình này vào đầu tháng Giêng.
“Tôi tên là Peter Watts và tôi là một công chức nhà nước.”
“Tôi là Sue Jones và tôi làm trong ngành công nghệ thông tin.”
“Tôi là Geoff Cornish và tôi là một nhà bán buôn gia cầm.”
“Tên tôi là Kate Carr và tôi là một thủ thư.”
“Chúng ta bắt đầu. Câu hỏi đầu tiên -”
Tôi cảm thấy buồn chán khi xem chương trình một mình, nhưng tôi cũng không có ai để xem cùng. Bố mẹ tôi sống ở Yorkshire, Hope và Mike đã ra ngoài, và tôi không muốn đến nhà Felicity bởi vì tôi sẽ gặp chị ấy tối mai. Xem cùng Tom sẽ thật tuyệt, nhưng anh ấy rõ ràng là bận rộn. Tôi nghĩ anh ấy đang gặp gỡ ai đó - tôi có cảm giác đó. Bây giờ, chúng tôi đi đến câu hỏi thứ ba hay thứ tư thì tôi nghe thấy, từ tầng trên, “Ối! - ối! -ốiiiii.” THỊCH!THỊCH!!!
Sống bên dưới một nhà duy linh có thể làm người khác sợ, nhưng nó không hề làm tôi sợ bởi vì tôi không tin vào những chuyện huyền bí - tôi là người theo thuyết duy lý, vì thế tôi chỉ tin vào sự thật. Nhưng cho dù nó không làm tôi sợ, tôi thực sự phản đối tiếng ồn. Và nhà bán buôn gia cầm Geoff đang trả lời sai hoàn toàn câu hỏi về Noёl Coward (câu trả lời là vở Blithe Spirit, chứ không phải Hay Fever), thì tiếng chân đi xuống cầu thang vang lên dồn dập, sau đó là tiếng gõ cửa khẩn cấp.
“Xin - chàooo!!!” Tôi nghe thấy một giọng nói khàn khàn dễ nghe, nhưng hơi quá ngâm nga một cách kỳ lạ. “Có ai ở nhà không? Có ai ở nhà kh-ô-ng?” Tôi mệt mỏi đứng lên.
“Bà là một bà đồng,” tôi lẩm bẩm. “Vì thế lẽ ra bà phải biết chứ.” Tôi mở cửa. Cynthia đứng đó, trông có vẻ tuyệt vọng.
“Tôi cực kỳ xin lỗi,” bà ấy thốt ra, nắm chặt thành cửa bằng hai tay. “Nhưng tôi gặp một vấn đề.”
“Vâng?” tôi ngập ngừng nói, hít vào mùi hương đậm của nước hoa Hiểu biết. Tôi có một trí nhớ tốt về mùi thơm cũng như sự việc.
“Tôi là Cynthia.” Bà ấy chìa một bàn tay đeo trang sức và cắt sửa đẹp đẽ về phía tôi. “Tôi biết chúng ta chưa chính thức gặp nhau, nhưng tôi tự hỏi cô có thể giúp tôi được không?”
“Chắc chắn. Nếu tôi có thể. Chuyện gì thế?”
“Cái ti vi chết tiệt của tôi lại hỏng rồi. Nó thường phản ứng với bạo lực chân tay, nhưng vì vài lý do nào đó hôm nay thì không.” À. Điều đó giải thích cho những tiếng ồn ào. Nhưng bà ấy nghĩ tôi có thể làm gì? Đập nó? Gọi Cửa hàng cho thuê? “Và tôi mong được xem chương trình đố vui mới này đến chết đi được.”
“Tôi hiểu.”
“Nó thực sự có vẻ rất vui nhộn.”
“Ừm.”
“Vì thế tôi băn khoăn cô có ngại để tôi xem cùng dưới này không.”
Ồ.
“Tôi thật xin lỗi,” bà ấy thốt ra. “Tôi biết đó là một đòi hỏi quá đáng kỳ cục.” Tại sao không chứ, tôi nghĩ? Trong bất cứ tình huống nào thì cuộc gặp của tôi với Luke đã khiến tôi rộng rãi và hào hiệp.
“Được... mà. Tôi thực sự không thấy phiền. Thực ra tôi cũng đang xem một mình.”
Bà ấy chắp hai bàn tay trước ngực khiến sợi dây ngọc trai lớn kêu lách cách. “Ồ, cô thật là tốt! Cô biết không tôi say mê những câu đố.” Bà ấy giải thích khi xô qua tôi và yên vị trên chiếc ghế sô pha. “Tôi xem tất cả các chương trình. Chính tôi cũng nói là tôi trả lời khá tốt. Ồ, đấy có phải chai đã mở rồi không? Tôi thích có một ly.”
Tôi không thấy phiền toái vì sự hiện diện của Cynthia - hay tốc độ bà ấy tiêu thụ gần hết chai rượu Merlot của tôi - đấy không phải là do những khen ngợi ngớt lời của bà ấy đối với chương trình. Bà ấy ngồi thẳng lưng trong ghế sofa, tập trung nhìn chằm chằm vào màn hình. Nếu bà ấy có một túi bỏng ngô, bà ấy chắc sẽ nhai nó rôm rốp.
“Người đàn ông đó mặc chiếc áo sơ mi thật kinh khủng... Và cô ấy thực ra nên cố định lại răng... Đó là miệng núi lửa Ngorongoro, đồ ngốc nghếch! Ngorongoro!... Người dẫn chương trình có vẻ ngoài khá lạ, cô có nghĩ thế không...? Không, không, nó không phải là nhà khỉ, tên đại ngu ngốc - đó là nơi nuôi ong!”
Nhiều khi sự bực tức của bà ấy với những người chơi gần như khiến bà ấy nhảy dựng lên. Những lúc khác bà ấy trợn tròn mắt lên với tôi trước khi quay lại với màn hình. “Không, không phải Titanic,đồ ngốc - đó là Lusitania! Có bao nhiêu loại tài sản trên một bàn cờ tỷ phú Monopoly? 40! Ối. Là 22 chứ? Hừm...” Thỉnh thoảng bà ấy cố gắng và giục giã những người chơi, như thể bà ấy là người dẫn chương trình. “Tiếp tục đi, nào... Tiếp tục đi...” Và đến lúc Xoay chuyển Vị trí. “Chúa tôi,” Cynthia thở hổn hển. “Anh ta sẽ hỏi cô ấy một câu hỏi. Điều đó thật mới lạ! Tôi cá là Anne Robinson sẽ không thích như thế!” Chúng tôi quan sát khi người dẫn đầu số điểm, Geoff, nhà bán buôn gia cầm; hỏi tôi với một nụ cười hơi tự mãn, cứ như là anh ta tin chắc rằng tôi không thể nào biết câu trả lời, “Quadrimum là gì?”
“Quadrimum?” Cynthia nhắc lại với biểu hiện thất kinh. “Tôi không có ý tưởng nào dù mờ nhạt nhất. Cô gái tội nghiệp, cô ấy sẽ không bao giờ trả lời được - thật xấu hổ. Tôi không thể xem được.” Bà ấy lấy tay che mặt. Chúng tôi có thể nghe thấy đồng hồ sân khấu tích tắc khi năm giây đếm ngược bắt đầu. “Quadrimum?” Cynthia nhắc lại từ đằng sau những ngón tay thuôn dài. “Tàn ác. Thật là tàn ác...”
“Đó là loại rượu ngon nhất và nhiều năm tuổi nhất,” Cynthia và tôi nghe tôi nói. “Nó ít nhất phải được bốn năm tuổi -”
“Chính... xác,” Geoff nói với một vẻ mặt kinh hoàng, pha lẫn ngạc nhiên và thất vọng không hề che giấu - dù sao, anh ta vừa mất hai nghìn bảng.
“Thật là hay,” Cynthia nói. Bà ấy nhìn tôi với đôi mắt như những chiếc chảo vệ tinh. “Tôi kinh ngạc vì cô ấy biết điều đó.”
“Câu hỏi đấy không khó thế đâu. Nó ở trong bất cứ từ điển từ khó nào - tôi thường buộc mình học năm từ mới mỗi ngày - và tất nhiên học Văn học cổ điển cũng có ích. Từ đó được mô tả trong một bài thơ hay của Horace.” Tôi thầm ghi lại trong đầu sẽ đọc lại nó. Tôi liếc nhìn giá sách - tôi biết tôi để nó ở đâu đấy.
“Cho dù vậy, điều đó thật ấn tượng, ý tôi là...” Bà ấy nhìn tôi lần nữa, và giờ biểu hiện của bà ấy đã thay đổi. “Ý tôi là...” Bà ấy nhìn chằm chằm vào tôi một cách lộ liễu sau đó quay đầu lại nhìn màn hình. Bây giờ cái đồng xu đang quay quanh cái rãnh, kêu leng keng ầm ĩ. “Đấy là cô...” bà ấy thốt ra. “Tôi không... chú ý... tôi không... nhận ra...” Bà ấy úp bàn tay vào miệng. “Nhưng đấy là cô, có phải vậy không?” Tôi gật đầu. “Tất nhiên ¬- cô gọi là Laura.” Bà ấy nhìn vào TV. “Và cô ấy cũng thế.”
“Đúng... thế.”
Đang có vẻ sững sờ, bỗng nhiên Cynthia rạng rỡ hẳn lên, như thể đã bắt được mặt tích cực của tình huống. “Ừm... điều đấy khá là hay. Tôi có một hàng xóm nổi tiếng. Một người dẫn chương trình truyền hình phát sóng trực tiếp!” Bà ấy vui vẻ kết luận. “Giờ thì, kể cho tôi nghe với - chuyện đó xảy ra như thế nào?” Khi dòng chữ kết thúc chương trình bay lượn trên màn hình, tôi nhanh chóng giải thích làm thế nào tôi có được công việc này.
“Vậy là tiếng tăm đã tự lao đến với cô nhỉ?”
“À, tất nhiên tôi không tìm kiếm nó.” Tôi nôn nao nghĩ về Nick. “Tiếng tăm là điều cuối cùng tôi muốn có. Vậy còn bà?” Tôi tiếp tục. “Bà là một... bà đồng phải không?” Tôi rót cho bà ấy một ly rượu khác. “Một nhà duy linh?”
“Ồ không.” Bà ấy trông có vẻ hoảng sợ. “Tôi không nhìn thấy được người chết ở một cuộc gọi hồn, và tôi không liên hệ với người đã mất. Quá đáng sợ,” bà ấy thêm vào với một cái rùng mình. “Tôi có tham gia vài khóa học về kỹ năng giao tiếp tâm linh thời gian trước, nhưng tôi có một kinh nghiệm không vui vẻ lắm với một vài ngoại chất.”
“Vậy bà làm gì?” Tôi hỏi khi rót đầy ly cho mình.
“Tôi là một bà đồng. Tôi có khả năng nhìn xuyên thấu được những thứ vô hình và tôi thường cho mọi người những lời khuyên, hoặc giúp họ đạt được mục tiêu của mình. Tôi có thể giúp đỡ mọi vấn đề như - khủng hoảng hôn nhân, công việc, những khó khăn gia đình - tôi thậm chí còn giúp tìm vật nuôi đi lạc. Vài người nghĩ tôi là người chỉ dẫn tinh thần, hoặc thậm chí là thiên thần của họ.”
“Ồ -” Tôi xem điều đó là cực kỳ ngớ ngẩn nhưng cố gắng nghĩ ra điều gì đó hay hay để nói. “Điều đó nghe thật thú vị.”
“Ừ, mặc dù...” lông mày bà ấy nhăn lại vì lo lắng, “tôi có thể làm điều đó với vài khách hàng một cách bí mật. Thực ra đó cũng là một điều lo lắng. Vất vả, đúng không - tác động đến cuộc sống của ai đó,” bà ấy lơ đãng thêm vào.
“Ừm,” tôi nhún vai. “Tôi... quen rồi.”
“Vì thế nếu cô biết ai đó cần đến khả năng xem trước tương lai...”
“Ồ. Vâng. Tất nhiên. Bà có quảng cáo trên tạp chí địa phương không?”
“Có - và tôi có một trang web - nhưng vấn đề là có rất nhiều bà đồng ở Luân Đôn. Thị trường đã bão hòa - ồ chào Hans!” Con mèo của bà ấy vừa thơ thẩn đi qua cánh cửa đang mở và bây giờ đang cuộn ra cuộn vào quanh mắt cá chân của bà ấy, rên ừ ừ như một chiếc Ferrari nhỏ. “Cô không sợ mèo chứ?” bà ấy hỏi khi nó nhảy vào lòng.
“Không. Tôi thích chúng.”
“Và cô mèo này rất đáng yêu.”
“Phải. Ừm... tại sao bà gọi nó là Hans, nếu nó là con cái?”
“Bởi vì tôi tìm thấy nó bên ngoài căn hộ cũ của tôi ở Hans Place.”
“Hans Place ở Knightsbridge ư?” Bà ấy gật đầu. “Đó là một nơi xinh đẹp!”
“Ồ đúng thế,” bà ấy nói với vẻ tiếc nuối. “Đó là thiên đường.”
“Vậy điều gì khiến bà đến đây?” tôi hỏi. “Ladbroke Grove có hơi chút... khác biệt.”
“Tôi biết. Nhưng, ừm...” bà ấy thở dài. “Tình cảnh của tôi thay đổi. Cô biết không, căn hộ trước đây không thuộc về tôi. Thật không may.” Bà ấy bẻ một cái bánh mỳ dài ra làm hai. “Vì thế, khi... thỏa thuận đó... đến hồi kết thúc, tôi quyết định thực sự phải mua một nơi chốn của riêng mình. Nơi này là tất cả những gì tôi có khả năng để mua, nhưng nó là một căn hộ đẹp.”
“Nhưng làm thế nào mà bà lại tham gia vào lĩnh vực tâm linh?”
“À, đó thực sự là một câu chuyện... Cô có muốn nghe không?” Tôi không muốn - nhưng tôi lịch sự gật đầu. Bà ấy ngồi xuống, cầm lấy ly rượu, rồi nhìn chằm chằm vào khoảng không ở giữa khi bà ấy bắt đầu đi xuống Con đường Ký Ức. “Tất cả là vì một con mòng biển,” bà ấy bắt đầu. “Chính xác là, một con mòng biển có tâm linh.” Tôi nhìn bà ấy. “Nó đã cứu mạng tôi.”
“Thật sao?”
“Không có gì phải nghi ngờ. Cô biết không, khoảng thời gian này năm ngoái, tôi cảm thấy rất, rất chán nản - tôi đã trải qua... bước ngoặt lớn trong cuộc đời. Vì thế tôi đến sống với chị gái ở Dorset và một buổi chiều tôi đi dạo trên một vách đá. Và tôi chắc phải đã ở quá gần gờ đá, bởi vì tôi trượt và rơi xuống từ độ cao khoảng tám mét. Và tôi đang nằm đó, trên bờ biển, mắc kẹt giữa hai tảng đá mòn, đau đớn khủng khiếp với một chiếc chân gãy, không thể chuyển động được - như thế này.” Bà ấy vòng hai tay siết chặt hai bên để giúp tôi hình dung hoàn cảnh nguy hiểm đó.
“Thật tồi tệ.”
“Rất kinh khủng - nhất là bởi vì tôi biết thủy triều đang lên. Tôi cứ gọi mãi, nhưng bãi biển vắng như sa mạc. Và tôi nằm đó, thành thực tin rằng tôi sắp chết, rồi một con mòng biển xuất hiện và lơ lửng trên đầu. Nó không bay đi. Vì vậy, trong cơn tuyệt vọng, tôi gào lên với nó. Tôi hét lên, ‘Vì Chúa, đi đi và tìm sự giúp đỡ!’ Trước sự ngạc nhiên cùng cực của tôi, nó bay đi.” Bà ấy nghiêng mình về phía trước, đôi mắt xám to mở lớn. “Nhưng đây mới là phần không thể tin được. Sau đó tôi biết rằng nó đã bay đến ngôi nhà nhỏ của chị gái tôi, dùng mỏ gõ lên cửa sổ nhà bếp, và đập cánh phành phạch để gây ra một tiếng ồn ầm ĩ. Chị gái tôi cố gắng xua nó đi, nhưng nó không chịu. Vì vậy chị ấy quyết định rằng nó phải đang cố gắng nói điều gì đó. Thế là chị ấy đi theo nó ra ngoài, khi nó bay, nó vẫn dừng lại và nhìn chị ấy để đảm bảo rằng chị ấy vẫn đi theo, sau đó nó bay lên lần nữa. Khi nó đáp xuống gờ vách đá, nó nhìn xuống, chị gái tôi cũng nhìn xuống và thấy tôi nằm ở đó, rồi chị ấy gọi đội cứu hỏa.” Cynthia ngồi lại, lắc đầu trong vẻ kinh ngạc. “Cô có cho rằng đó là một câu chuyện khó tin không?”
“Tôi... nghĩ vậy.”
“Nhưng sự thật đúng là thế. Đây...” Bà ấy đẩy con mèo ra khỏi lòng, sau đó nâng chân váy lụa nhã nhặn của mình lên. Qua chiếc tất tôi nhìn thấy một chiếc sẹo lớn phía trên đầu gối trái, những mũi khâu lõm xuống như những chiếc răng của một cái khóa. “Và sau đó tôi cứ nghĩ, làm thế nào mà con chim hoang dã đó biết rằng tôi đang gặp nguy hiểm? Và làm thế nào mà nó biết cách để gọi cứu giúp? Tôi quyết rằng chỉ có một lời giải thích duy nhất...”
“Là gì?”
“Đấy là bằng cách nào đó tôi có thể giao tiếp với nó bằng tâm linh, nhờ thế mà nó có thể cứu sống tôi. Điều này khiến tôi nhận ra rằng tôi đã có một món quà của tâm linh - một món quà tôi không được lãng phí. Đấy là cách mà tôi đã trở thành một bà đồng,” bà ấy kết luận. “Nếu cô muốn, tôi có thể xem cho cô như một cách nói lời cảm ơn vì đã thật tốt bụng với hàng xóm.” Bà ấy đặt bàn tay lên cổ tay trái của tôi. “Tôi có thể làm việc đó dựa trên xung điện mà đồng hồ của cô phát ra.”
“Cám ơn.” Tôi rút tay ra. “Nhưng tôi không tin vào những điều như thế.”
“Cô không tin sao?” Bà ấy dường như lặng đi vì sửng sốt.
“Không.” Vẻ ngạc nhiên của bà ấy làm tôi tức tối. “Và tôi không tin vào ông già Nô-en, tiên răng, yêu tinh, ma quỷ hoặc những người xanh nhỏ bé hay Quái vật hồ Loch Ness, và tôi phải nói rằng tôi nghi ngờ về Chúa. Tôi e rằng tôi chỉ tin vào những gì đã được chứng minh. Tôi tin vào những sự kiện thực tế, chứ không phải những điều tưởng tượng.”
Cynthia đang lắc đầu. “‘Nhưng có nhiều thứ khác nữa trên Thiên đường và Trái đất, Horatio[1]’, vân vân và vân vân...”
[1] Một câu nói trong vở kịch Hamlet của Shakespeare, do Hamlet nói với Horatio bạn mình.
“Điều đấy có lẽ đúng. Nhưng tôi có xu hướng tin rằng những hiện tượng đó có những nguyên nhân tất yếu, chứ không có gì là kỳ diệu.”
Bà ấy tỏ ra thất vọng. “Ồ, điều đó tùy vào cô thôi. Nhưng cô chắc chắn cô không muốn một lời tiên đoán không?”
“Rất chắc. Dù sao,” tôi tiếp tục, quyết tâm thay đổi chủ đề, “bà đã làm gì trước khi trở thành một bà đồng?”
“Tôi từng là một... diễn viên?”
“Thật ư? Bà đã đóng phim nào?”
“Một số phim.”
“Liệu có phim nào tôi có thể đã xem rồi không?”
“Ừm, đã lâu lắm rồi - vào cuối những năm 50, nhưng tôi còn rất trẻ, chỉ vừa mới tốt nghiệp.” Từ điều này tôi đoán rằng bà ấy chắc phải vừa mới sáu mươi tuổi - già hơn ít nhất mười tuổi so với vẻ ngoài. “Tôi là một ngôi sao nhí của Trường Rank Charm.” À. Điều đó giải thích giọng nói giống Fenella Fielding. “Họ chỉ làm những bộ phim hạng B nhưng rất gay cấn. Tôi bị chìm thuyền năm lần, bắt cóc hai lần, bị người hành tinh bắt đi bốn lần và bị ăn sống bởi những con kiến giết người khổng lồ.” Bà ấy bâng khuâng mỉm cười. “Đó là một cuộc sống tuyệt diệu.”
“Và bà đóng những phim gì sau đó?”
“À, khi tôi ở cuối những năm ba mươi tuổi, sự nghiệp của tôi dường như... ừ... cô biết nghề diễn như thế nào mà...” Bà ấy có vẻ lưỡng lự để kể tiếp và tôi không muốn tỏ vẻ tọc mạch. “Được rồi, cô chắc chắn không muốn tôi tiên đoán cho à?” bà ấy kiên trì. “Tôi thực sự muốn làm thế vì tôi thấy tinh hoa phát ra từ cô khá là thú vị. Tôi có thể nhìn thấy nó cô biết không. Rất rõ ràng.” Bà ấy ngồi lại và nhìn tôi đầy tán thưởng. “Nó có màu xanh lá cây và vàng điểm thêm màu tím hoa cà. Hãy cho phép tôi nhé.”
“Không, cảm ơn. Hoàn toàn thành thật nhé Cynthia, tôi nghĩ rất cả những điều này như một mớ những chuyện nhảm nhí.”
“Trong trường hợp đó thì không có vấn đề gì,” bà ấy hài lòng tuyên bố. “Bởi vì, nếu nó là một ‘mớ những chuyện nhảm nhí’ thì có hại gì để tôi tiên đoán cho cô, nhỉ?”
Thất bại trước lý lẽ của bà ấy, tôi bằng lòng.
Bà ấy nắm lấy cổ tay trái của tôi bằng bàn tay phải và nhắm mắt lại. Sau đó đột nhiên bà ấy mở mắt ra, và lại nhìn chằm chằm vào khoảng không ở giữa, đôi mắt to màu xám nhíu lại như thể đang cố gắng tập trung vào điều gì đó vẫn còn lấp ló dưới tầm nhìn.
“Cô đang đi theo một hướng đi mới,” bà ấy tuyên bố. Rất sáng suốt, tôi chế nhạo nghĩ. “Cô không hạnh phúc.” Yeah. Ai chẳng không chứ? “Nhưng tâm trạng của cô đang khởi sắc.” Cảm giác sững sờ, tôi nói với chính mình. “Tình yêu sắp đến.” Những lời tiên đoán trở nên ấm áp hơn. Tôi hạnh phúc nghĩ về Luke. Bà ấy nhắm mắt lại, hít thở ầm ĩ - phần cuối mũi bà ấy nhăn lại như loại động vật rừng nào đó - kế đến bà ấy lại mở mắt. “Cô đang kiểm soát cuộc sống của mình,” bà ấy tuyên bố. Giống như hầu hết phụ nữ có nghề nghiệp ở tuổi tôi. Điều này thực sự ngớ ngẩn. Tôi chiều theo bà ấy đủ rồi. Nhưng bây giờ Cynthia nhắm mắt lại lần nữa, cứ như là bà ấy đã rơi vào một giấc ngủ sâu, rất sâu. Trong sự im lặng kéo dài tôi nhận thấy mình đang nhìn chăm chăm vào mi mắt đã nhăn lại vì tuổi tác và phủ một lớp trắng mờ của bà ấy. Tôi nhận thấy tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ hình cỗ xe ngựa trên mặt lò sưởi - một món quà cưới của bố mẹ tôi. Và tôi vừa mới tự hỏi Cynthia sẽ như thế này trong bao lâu và lúc nào đánh thức bà ấy là lịch sự, thì bà ấy đột nhiên mở mắt ra, và nhìn chằm chằm vào tôi với vẻ dữ dội khiến tôi giật mình.
“Cô vừa mất ai đó,” bà ấy nói bằng giọng không còn khàn khàn và kịch tính nữa mà rõ ràng và sâu sắc. “Phải không? Ai đó đã biến mất khỏi cuộc đời cô. Người nào đó rất quan trọng với cô. Nhưng đã có một... bi kịch, và bây giờ anh ta đã ra đi.” Tôi nhận ra một cảm giác ấm áp là lạ, lan ra từ đầu ngón chân đến xương ức, như thể tôi bị nhấn chìm trong sáp nóng. “Cô đã bị bỏ rơi, Laura.” Bà ấy lại nhắm mắt, hít thở sâu. “Đơn độc.” Một sự im lặng khác phủ xuống dường như lại ngâm nga và rộn lên. Sau đó bà ấy mở mắt. “Điều đó có đúng không, Laura?” Tôi nhìn chằm chằm vào bà ấy. “Đúng không?” Tôi có thể nghe thấy hơi thở của mình.
“Đúng thế.” Tôi nghe mình nói.
“Tôi biết mà!” Bà ấy vui vẻ thốt lên, tỏ ra vui sướng trước sự chính xác hiển nhiên của những tiên đoán của mình hơn là quan tâm đến tôi. “Tôi cảm thấy nó trong giây lát khi tôi nhìn thấy cô. Tôi có thể cảm thấy nó -” bà ấy nhìn quanh căn phòng, sau đó thoáng rùng mình - “ở đây có chấn động cường độ rất cao. Dù sao đi nữa,” bà ấy thêm vào. “Hãy tiếp tục.”
“Tôi nghĩ là không,” tôi phản đối. Nhưng bà ấy vẫn giữ tay tôi. “Thật đấy, Cynthia.” Tôi cố rút tay ra. “Tôi nghĩ thế là đủ rồi.” Bà ấy nhìn vào khoảng không lần nữa, lần này nháy mắt nhanh như chớp. Sau đó úp bàn tay trái lên ngực.
“Tôi có thể nhìn thấy cậu ta.”
“Bà làm sao?”
“Tôi có thể nhìn thấy cậu ta. Rất rõ ràng.” Giờ tôi cảm thấy vừa nóng vừa ớn lạnh. “Cậu ta đang đứng trên một cánh đồng... một cánh đồng đầy...” bà ấy hít một hơi, mắt mở to vì kinh ngạc “...hoa. Những bông hoa xinh đẹp. Chúng bao quanh cậu ta. Đó là một hình ảnh tuyệt vời. Nhưng mặc dù cậu ta được bao quanh bởi những bông hoa tuyệt đẹp, cậu ta có vẻ ủ rũ và buồn rầu.”
“Tôi muốn dừng lại.” Tôi giật mạnh tay lại. Tôi vẫn có thể cảm nhận sức ép của những ngón tay bà ấy trên cổ tay. “Anh ấy không ở trong một cánh đồng hoa. Điều đó thật vô lý.”
“Không. Không phải thế. Nó rất thật. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Có người khác nữa.” Tôi cảm thấy muốn ốm. “Đúng không?” Tôi nhìn trừng trừng vào bà ấy.
“Ý bà là gì?”
“Ý tôi là cô không phải chỉ mất một người - mà là hai.” Tôi cảm thấy tóc trên cổ tôi dựng lên. Bà ấy nhắm mắt lại một lúc, sau đó lại mở ra. “Tôi không thể nhìn thấy người thứ hai, nhưng tôi có thểcảm thấy sự hiện diện của họ. Tôi có thể cảm nhận được.” Tôi đứng lên. “Cô không biết họ lâu lắm... nhưng cô yêu họ. Cô không muốn nó kết thúc... Bây giờ,” bà ấy tử tế nói, “điều đó có nghĩa gì với cô không?” Tôi nhìn vào bà ấy, nhận thấy da gà đã nổi lên hai cánh tay. “Có không?”
“Không,” tôi nói. “Không tí nào. Không.”
“Nó khiến em sởn tóc gáy,” tôi nói với Felicity tối hôm sau. Tôi đang ngồi tại bàn ăn trong nhà chị ấy ở Đường Moorhouse với Olivia đang ê a trong lòng, trong khi Fliss rửa rau xà lách trong chậu rửa bát. “Bà ấy nói bà ấy có thể nhìn thấy Nick đứng trên một cách đồng hoa. Chị nghĩ thế nào?” Felicity nhìn chằm chằm ra ngôi vườn nhỏ có tường bao quanh khi hoàng hôn vừa mới buông xuống.
“Điều đó có vẻ quá tốt cho cậu ta. Nghe như là Vườn Thiên đường ý.” Chị ấy nhét một lọn tóc vàng rối bù vào sau tai. “Cậu ta không xứng đáng với số phận dễ chịu như vậy.”
“Ồ thôi nào, Fliss. Đừng khó khăn quá.” Qua máy bộ đàm theo dõi trẻ con, chúng tôi có thể nghe Hugh di chuyển trong phòng ngủ tầng trên. Mỗi lần chuyển động của anh ấy gây ra một vòng cung ánh sáng nhá lên và nhấp nháy trên màn hình.
“Không đâu, Laura,” Felicity tiếp tục. “Chị không e ngại nói về chuyện đó. Nick là đồ chết tiệt vì đã làm những điều đó - và không hề báo trước! Chị biết vài người có lẽ thấy thông cảm hơn nhưng cậu ta gây cho em quá nhiều đau đớn để chị có thể tha thứ.”
“Chị không phải tha thứ cho anh ấy, Fliss,” tôi lặng lẽ nói. “Mà đó là em. Trong bất cứ trường hợp nào, ý tưởng chúng ta tha thứ cho anh ấy là điều gì đó mang tính lý thuyết suông trong tình huống này.”
“Chị cho là thế - vì cậu ta đã biến đi vĩnh viễn.” Chị ấy cười một cách cay độc.
“Thật kinh khủng, Fliss.”
Chị ấy gắng sức tạo ra một vẻ mặt tội lỗi. “Nhưng nhân vật Madame Arciti[2] này còn nói gì khác không?” Tôi nghĩ về những lời Cynthia nói sau cùng, nhưng tôi không kể với Felicity. Mặc dù chị ấy luôn cởi mở với tôi về cuộc sống của chị ấy nhưng có những điều chị ấy không bao giờ biết về cuộc sống của tôi. “Bà ấy không thể liên lạc với Nick đúng không?” chị ấy nói tiếp. “Hỏi cậu ta tại sao làm thế, có lẽ thế? Đẩy chúng ta vào nỗi khốn khổ này?”
[2] Một nhân vật bà đồng trong vở kịch nổi tiếng Blithe Spirit của Anh, công diễn đầu tiên vào năm 1941, và đạt kỷ lục số lượng buổi biểu diễn là 1.997 lần so với những vở kịch không phải là nhạc kịch.
Tôi nhúc nhích trong ghế. “Bà ấy không lên đồng, và em cũng không muốn bà ấy thử. Và lý do vì sao anh ấy làm điều đó... sự thật là chúng ta có thể không bao giờ biết. Nhưng làm ơn, đừng nói đến những chuyện xảy ra với anh ấy với bất kỳ ai, Fliss. Điều đó rất quan trọng vì em không muốn nó xuất hiện trên báo chí.”
Chị ấy cho xà lách vào một cái bát. “O...k.”
“Afaclathaollaollagazzzagoyagoyagoya,” Olivia nói.
Felicity quay lại và nháy mắt với nó với một nụ cười thật rộng khiến tôi nghĩ khuôn mặt chị ấy sẽ vỡ ra. “Đó có phải là điều con nghĩ không, con yêu? Chị thích cách nó nói,” chị ấy thêm vào với một tiếng cười khúc khích. “Nó nói giống như một người ngoài hành tinh với cách phát âm là lạ, thoát trần của mình.”
“Thekzellagoyaobbadobbagertertergoya.”
“Đấy có phải là ngôn ngữ họ nói trên hành tinh của con không, con yêu bé bỏng của mẹ?”
Khi tôi ôm Olivia bé bỏng bụ bẫm trong lòng, mái tóc lông tơ sáng màu của con bé cọ vào cằm tôi. Tôi vuốt ve cánh tay mềm mại của nó với những khuỷu tay bụ bẫm. Tôi siết nhẹ đầu gối mập mạp của nó. Tôi yêu Olivia, nhưng đấy là một tình yêu ngọt ngào pha lẫn chua xót.
“Con thật... đáng yêu, Olivia,” tôi tha thiết nói. “Thật đáng yêu.” Tôi hôn lên đỉnh đầu con bé.
Con bé vặn người lại để nhìn tôi, đôi mắt xanh to nhìn vào mắt tôi chằm chằm không chớp mắt, với vẻ quan tâm thân thiết. Sau đó nó giơ bàn tay phải lên, với những ngón tay nhỏ mập, như những con sao biển, và chạm vào má tôi. “Thizclalefafffooohethana- gagoygoyagoyagoya.”
“Goyagoyagoya,” Fliss nói, đi đến và hôn chụt một cái rõ to lên má con bé. Olivia cười khanh khách, vì thế chị ấy làm lại lần nữa, sau đó quay lại với cái chậu. “Chị đứng bên cạnh cũi của nó,” chị ấy lẳng lặng giãi bày. “Vào ban đêm. Khi nó đang ngủ. Chị nghiêng người trên cũi, và cảm nhận hơi thở đáng yêu của nó trên má chị, như một làn gió nhỏ. Và chị vẫn không thể tin rằng con bé là của chị. Chị yêu nó thật nhiều,” chị ấy nói khi bắt đầu cắt một quả cà chua. “Chị có thể dành tất cả thời gian chỉ để nhìn vào nó; hôn lên khuôn mặt nhỏ bé của nó, mỗi ngày chị lại yêu nó nhiều hơn, chị...” tôi nghe thấy giọng chị ấy nghèn nghẹn, “...chị chưa từng biết rằng một người có thể cảm nhận được tình yêu đến mức như vậy.”
“Em hiểu,” tôi lẩm bẩm. Con dao của Felicity dừng khựng lại. “Ý em là, em có thể... tưởng tượng được.”
“Và nó hoàn toàn khác với những gì ai đó cảm nhận về một người đàn ông. Thành thật mà nói, Laura, chị cảm thấy mối quan hệ của chị với Olivia thực sự trọn vẹn. Chị gần như ghen tị với những người mẹ độc thân,” chị ấy bày tỏ với vẻ tội lỗi. “Nếu chỉ có bạn và đứa con thì chắc phải rất ấm cúng, không phải nghĩ đến ai khác.” Khi chị ấy nói điều này, chúng tôi nghe thấy Hugh khẽ khịt mũi và ho khi anh ấy đi lại, mở ngăn kéo và tủ búp phê. “Anh ấy sẽ xuống ngay để ăn tối.” Chị ấy lấy một bình sữa ở trên nóc tủ và đưa nó cho tôi. “Em cho Olivia uống sữa nhé? Con bé phải ăn thêm sữa ngoài vào buổi tối vì sữa của chị không còn đủ nữa.”
Khi tôi đặt Olivia trong cánh tay gập lại, Fliss mở tủ lạnh và lấy ra một ít thịt bò, một hộp kem và một hộp bơ.
“Chị đang ăn kiêng theo công thức Atkins à, Fliss?” Chắc chắn là chị ấy cần. Cân nặng trung bình của một người mang thai tăng lên là gần mười ba ký, nhưng Felicity, vốn đã mập mạp, đã tăng thêm gần ba mươi ký.
“Atkins á? Em chắc phải đang đùa.” Chị ấy mở tủ đông lạnh và lấy một túi khoai tây cắt lát. “Chị rất thích thức ăn chứa nhiều năng lượng. Dù sao đi nữa, chị vẫn đang cho bú, vì thế chị không nên ăn kiêng chút nào. Đấy là lý do của chị.”
“Nhưng sữa mẹ sinh ra trực tiếp từ lượng dự trữ chất béo của người mẹ, vì thế nếu chị giảm đi vài ký, chị vẫn ổn thôi, Fliss.” Trong nhiều tuần!
“Chị biết là nên thế.” Chị ấy kéo cái cạp co giãn của chiếc quần dùng cho phụ nữ mới sinh cũ kỹ. “Chị vẫn còn thừa đến gần mười ba ký.” Và phần còn lại! “Nhưng chị nghĩ rằng...” chị ấy cau mày - “nếu tiếp tục cho con bú, cân nặng sẽ tự giảm đi.”
“Chuyện đấy thật hoang đường. Chị sẽ giảm cân khi cho bú thời gian đầu, rõ ràng là thế, nhưng sau đó nó thường tăng lên và cứ... giữ thế mãi.”
Felicity nhìn tôi với vẻ là lạ. “Sao em biết thế?”
Tôi nhìn lại chị ấy. “Em đọc ở đâu đó.”
“Thôi nào,” Felicity tiếp tục. “Chị quá hạnh phúc để quan tâm mình béo như thế nào, và Hugh quá bận rộn với những phát minh ngốc nghếch của anh ấy để chú ý. Trong những trường hợp hiếm hoi chị cần ăn diện, chị sẽ mặc quần chẽn để ép phẳng bụng.”
“Đừng hờ hững với chính mình, Fliss. Tất cả những cuốn sách đều nói thế.”
“Ồ, cuối cùng thì cũng tốt đẹp cả thôi,” chị ấy vui vẻ nói. “Và Hugh không phải là người nông cạn.” Tôi không nghĩ anh ấy như thế, nhưng hy vọng chị ấy đúng. “Thôi nào, đừng mang lại khó khăn cho chị - ok? Trước giờ chị cũng đã chịu đựng khó khăn rồi, có hai người em gái mảnh khảnh.”
Để ý đến chiếc túi nhỏ trông có vẻ đắt tiền trên chiếc ghế cao, tôi thay đổi chủ đề. “Chị vừa đi mua sắm à?”
Chị ấy với lấy một chiếc khăn và lau khô tay. “Vài thứ tuyệt vời.” Chị ấy mở túi và rút ra một chiếc áo đan len màu hồng nhỏ xíu cực kỳ mềm mại nằm trong một túi vải mỏng màu vàng nhạt. “Nó tuyệtkhông?”
Tôi cảm thấy cổ họng nghẹn lại. “Ừ.” Olivia túm lấy nó và cố gắng nhét một ống tay áo vào mồm. “Đây là len cashmere.” Tôi thêm vào khi vuốt vuốt nó.
Felicity nhăn mặt. “Chị biết. Nó có tốn đến tám bảng và con bé sẽ chỉ mặc trong ba tháng, nhưng nó quá xinh xắn đến nỗi chị không thể nào cưỡng lại. Trong bất cứ trường hợp nào, tại sao con gái bé bỏng của chị không thể có mọi thứ tốt nhất chứ?”
Olivia có mọi quyền. Con bé được mặc những quần áo xinh xắn mua ở Oilily, BabyDior và Petit Bateau. Ngủ trong những tấm chăn lanh. Di chuyển trong chiếc xe đẩy hiệu Bugaboo Frog trị giá năm trăm bảng, và địu có đai bằng lông cừu hiệu Bill Amberg. Khuôn mặt rạng rỡ của nó được tô điểm thêm một chiếc túi xách dành riêng từ Anya Hindmarch, và chân cũi sơ sinh của nó được mạ đồng cứng. Chiếc váy rửa tội bằng lụa Felicity đã đặt may cho lễ rửa tội vào Chủ nhật này trị giá hai trăm hai mươi bảng.
“Chị có đủ tiền mua nó à?” Tôi hỏi khi Olivia mãn nguyện bú sữa trong chiếc bình.
“Tất nhiên là không,” chị ấy trả lời. “Nhưng chị không quan tâm bởi vì chị trong giai đoạn mới sinh con, Laura, vì thế chị sẽ không tằn tiện đâu, bởi vì chị sẽ không bao giờ có lại thời gian này lần nữa.” Đây là luận điệu thường xuyên của Felicity. Rằng chị ấy sẽ không bao giờ trải nghiệm lại thời gian đặc biệt này của cuộc đời, vì thế nó phải được hoàn hảo theo mọi cách. Sau đấy chị ấy bắt đầu nói về lễ rửa tội, về chị ấy thích người cha xứ như thế nào, về nhà thờ cao đẹp như thế nào, không phải ‘một nhà thờ hoành-tráng-giả-tạo xấu xí’, về tất cả những điệu nhạc đáng yêu sẽ được chơi, về những thức ăn tuyệt đỉnh mà chị ấy đặt, những người mà chị ấy mời, và bộ quần áo mới chị ấy sẽ mặc.
“Khi nào chị trở lại làm việc?” Tôi hỏi chị ấy khi nâng chiếc bình lên cho Olivia. “Thời gian nghỉ thai sản của chị chắc sắp hết rồi.”
Felicity hít một hơi thở. “Chị sẽ không đi làm.”
“Cái gì?”
“Chị đã quyết định, Laura.” Chị ấy mở tủ lạnh. “Chị sẽ không đi làm lại. Ít nhất là trong vòng ba năm,” chị ấy tự sửa lại trong khi lục lọi tủ lạnh. “Nhưng đừng đề cập đến chuyện này trước mặt Hugh. Chị chỉ vừa nói với anh ấy sáng nay, và anh ấy tiếp nhận chuyện này không tốt lắm.”
“Em không ngạc nhiên đâu.” Tôi biết họ có một khoản thế chấp lớn, không kể đến tất cả chi phí điều trị bệnh khó sinh. “Như vậy sẽ khó khăn cho anh ấy, Fliss.”
Chị ấy nhún vai. “Anh ấy phải tự cân nhắc - anh ấy đã có một công việc tốt. Chị biết em sẽ nghĩ là chị nhẫn tâm,” chị ấy tiếp tục khi lấy ra một chai gia vị Pháp. “Nhưng, sau mười bảy năm trông nom con cái của những người khác, bây giờ chị muốn dành thời gian cho con mình. Chị mong chờ Hugh chống đỡ cho chị trong một thời gian và đó là tất cả. Nếu quyết định của chị buộc anh ấy quay lại làm việc, vậy thì tốt hơn nhiều, bởi những phát minh chơi chơi quái quỷ này sẽ không có tác dụng gì cả.”
“Em không biết nữa - có lẽ anh ấy sẽ thành công với cái gì đấy, thật đấy, chị biết mà... vào đúng lúc?”
“Chúng cũng không phải là những phát minh sáng lạn gì cho đến nay, đúng không nào? Cái thứ nhìn giống như một ống keo Pritt, nhưng lại chứa đầy bơ thay vì keo, ‘để tiết kiệm công sức rửa bát đĩa’; còn hai cái ô nhỏ xíu kẹp vào mặt trước của giày...”
“À phải. Để che mưa cho chúng.”
Chị ấy đảo tròn mắt. “Đúng thế. Chiếc ô với một ô vuông trong suốt để em có thể kiểm tra trời tạnh mưa chưa mà không bị ướt...”
“Ừm - và những con dao và dĩa picnic có thể ăn được.”
“Chị biết. Vô dụng,” Felicity nói với một tiếng cười châm chọc.
“Và thứ tiếp theo là gì? Một cái tấm bia bắn phi tiêu có thể phồng ra?” Tôi nghe một tiếng kẽo kẹt trên cầu thang. Sau đó Olivia hút hơi sữa cuối cùng với một tiếng thở dài hài lòng.
“Con bé ăn xong rồi, Fliss.” Tôi lau góc miệng của nó.
“Nhanh thế. Đây này, con yêu...” chị ấy bế Olivia, nâng nó lên cao, hôn hai lần, và đặt nó lên vai trái. “Ý chị là, chị có thể nghĩ ra vài thứ hữu dụng mà Hugh có thể phát minh.”
“Như cái gì?” Hugh nói, hơi có vẻ cứng nhắc khi anh bước nào. Anh rất cao - 1m92 - và có chút lóng ngóng trong chiếc quần nhung kẻ cũ và chiếc áo chui đầu Guernsey, nhưng anh ấy rất đẹp trai, theo kiểu trẻ con. “Chào Laura.” Anh ấy tươi cười với tôi, sau đó trao cho tôi một cái hôn anh em. “Em muốn anh phát minh những thứ có ích gì cơ, Fliss?”
“À, những thứ chúng ta thực sự cần,” chị ấy trả lời. “Như sơn móng tay khô ngay trong một giây, hoặc quần không bao giờ tuột, hay một chiếc lò vi sóng với nút ‘Đảo ngược’ để dùng cho những lần em nấu đồ ăn quá chín, hoặc một hệ thống tin nhắn bằng giọng nói cho phép anh nhắn lại lần nữa và xóa những lời nhắn ngốc nghếch và vớ vẩn anh đã gửi cho ai đó; hoặc, để xem nào - ôi Chúa ơi, con bé bị trớ!” Một dòng chất lỏng trắng nhỏ đã xuất hiện trên vai Felicity và đang nhỏ xuống lưng chị ấy. “Chiếc khăn muslin đâu rồi?” Chị ấy tìm quanh. “Chị không bao giờ, chưa bao giờ tìm thấy một chiếc khăn muslin nào khi cần.”
“Điều đó giải thích tại sao em trông giống như một Jackson Pollock lang thang[3],” Hugh nói.
[3] Một họa sĩ nổi tiếng người Mỹ.
“Anh có thể lấy cho em một ít giấy lau được không?” Anh ấy xé lấy một ít giấy và chùi chiếc áo phông đen phùng phình của chị ấy. “Chết tiệt - em sẽ phải giặt nó lần nữa. Ôi,”
“Cô có thể nói như thế lần nữa.” Tôi nhìn vào bàn tay mình. Chúng vẫn đang run rẩy. “Chỉ gặp anh ấy lần nữa thôi cũng đủ tệ rồi, không kể đến... như thế.”
“Anh ta cũng là một người thú vị, phải không, lúc cô quen anh ấy trước đây ý?”
“Ừ. Phải, anh ấy rất... hóm hỉnh.”
“Và điển trai.” Cô ấy nhắc lại khi giật lấy một miếng bông tẩy trang khác. Tôi hít thở chầm chậm bằng mũi để lấy lại bình tĩnh.
“Phải.” Và thông minh, lôi cuốn, thú vị, hơi lập dị, thích tán tỉnh và rất hay... khiến người khác phát cáu.
“Anh ấy có thay đổi nhiều không?” Rõ ràng là không. “Ý tôi là, nhìn bên ngoài ấy?” Cô ấy thêm vào.
“Không. Nếu có thì, anh ấy hấp dẫn hơn.”
“Nhưng gặp lại anh ấy thật lạ - và lại trong tình huống như thế!” Và bây giờ, cuối cùng, tôi nhìn vào danh sách người chơi mà tôi đã tìm thấy trong túi áo khoác của mình. Tôi nhanh chóng liếc qua đoạn về Luke. Luke North, ba mươi sáu tuổi, học Lịch sử Nghệ thuật ở Cambridge, sau đó làm việc ở Christie’s vài năm. Trong ba năm qua, anh điều hành phòng trưng bày Nghệ thuật Đương đại Due North ở Bayswater. Anh sống ở Notting Hill. Tôi đọc nó lần nữa. Lần nữa. Lần nữa. Sau đó thêm một lần nữa.
“Có nghiêm túc không?” Tôi nghe Marian hỏi.
“Cái gì?”
“Mối quan hệ của cô với anh ấy có nghiêm túc không? Được rồi,” cô ấy nói tiếp với một nụ cười. “Cô không cần phải kể với tôi. Nhưng tôi không thể không băn khoăn, sau những gì anh ấy vừa làm.”
“Tôi không ngại chút nào,” tôi trả lời. Bất cứ khi nào tôi cảm thấy bấn loạn tôi thường muốn nói về nó, và tôi nhận thấy Marian biết cảm thông. “Mối quan hệ đó là nghiêm túc.” Tôi giải thích. “Tôi đang học Văn học cổ điển, anh ấy học Lịch sử Nghệ thuật. Chúng tôi hay tranh cãi - nhưng đó là một phần của niềm vui. Nó là một trong những mối quan hệ sôi nổi và nồng nhiệt - nó rất thú vị... sâu sắc... nó là...” Tôi buột ra một tiếng thở dài cay đắng. “Thời gian hạnh phúc nhất của cuộc đời tôi.”
“Vậy có chuyện gì xảy ra?” cô ấy nhẹ nhàng hỏi. “Hai người quyết định rằng vẫn còn quá trẻ để ổn định cuộc sống?”
“Không. Không phải thế. Chúng tôi sẽ cùng thuê một căn hộ ở Luân Đôn sau khi tốt nghiệp - chúng tôi thậm chí đã tìm thấy một căn để chuyển đến nhưng -” Tôi quá xấu hổ để kể với Marian sự thật bẽ bàng đó - “Tất cả mọi chuyện trở nên sai lầm... tồi tệ.” Im lặng phủ xuống, sau đó Marian đặt tay lên lên vai tôi. “Dù sao,” tôi nhìn vào khuôn mặt ba mươi tư tuổi của mình trong gương với những nếp nhăn bắt đầu xuất hiện. “Đã rất lâu rồi.” Tôi đứng lên, sau đó kéo chiếc áo choàng ra. “Tôi cho rằng tốt hơn nên đi đến bữa tiệc sau chương trình.”
“Ừ, chúc may mắn. Tôi đoán rằng anh ấy sẽ ở đấy.”
Tôi đi thang máy lên đến tầng trên cùng, nhịp tim tôi dồn dã, tâm trí tôi vật lộn với những cảm giác xung đột. Tôi thấy hoảng hốt khi Luke lại bất ngờ lao vào cuộc đời tôi lần nữa, tán tỉnh tôi - chọc tức tôi, nhưng, đồng thời, tôi cũng cảm thấy... vui. Bây giờ, khi tôi đi xuống hành lang, tôi có thể nghe thấy tiếng ồn ào huyên náo phát ra từ phòng tiếp khách. Tôi dừng lại ở cửa một phút, sau đó đi vào. Không khí sực mùi sandwich, cà phê và rượu trắng rẻ tiền - đồ ăn sau buổi ghi hình thường khá là tồi. Hầu hết đội ngũ đều đã có mặt ở đó, tán gẫu với những người chơi, và, khi họ tia thấy tôi, một hoặc hai người họ cười điệu. Khi tôi tiến vào trong, tôi nghe Dylan giải thích cho Christine rằng chương trình sẽ phát sóng vào cuối tháng Ba, trong khi bên trái tôi, Jim và Doug dường như thảo luận về vài câu đố nhàm chán.
“Không phải là một ‘lũ’ tê giác,” tôi nghe Jim nói. “Phải là một ‘đàn’.”
“Anh chắc không?” Doug nói.
“Hoàn toàn chắc chắn - Tôi biết nhiều về những danh từ tập hợp. Nó còn sử dụng cho hà mã nữa.”
“Tôi nghĩ nó là một ‘bầy’ hà mã.”
“Anh có thể sử dụng ‘bầy’, nhưng ‘đàn’ thì thông dụng hơn.”
“Thế còn hươu cao cổ thì sao?”
“Quá dễ - một ‘đàn’.”
Và kia, trong góc phòng, gần cửa sổ, đang nói chuyện với Sara, một hình ảnh vẫn khiến tôi bồn chồn, và rất ư vô lý, ghen tuông, cho dù là mười hai năm sau nữa - là Luke. Đột nhiên anh nhìn thấy tôi và vẫy chào. Sau đó, anh ra hiệu cho tôi lại gần với vẻ mặt dạn mày dày đặc trưng. Nếu Sara không đang đứng đấy, tôi đã phớt lờ anh đi. Tôi quyết định sẽ ra vẻ lạnh lùng và xa cách.
“Chào, Laura.” Anh mỉm cười. Như Marian đã nói - đôi mắt tuyệt đẹp. Viền quanh bởi hàng mi dày và sẫm màu là một màu nâu rực rỡ và ấm áp, giống như màu nâu của thuốc lá, với những tia màu hoàng ngọc và vàng tỏa ra. Tôi chưa bao giờ tin rằng tôi gặp lại anh ấy lần nữa, đừng nói đến đứng gần như thế này. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp người nào đó hơi giống anh, và tôi thấy mình nhìn chằm chằm vào người đó, cảm giác nuối tiếc trào dâng.
“Chào, Luke,” tôi trả lời.
“Anh xin lỗi về việc đó. Anh làm em bối rối à?”
“Phải,” tôi trả lời. “Nhưng có thể anh cố tình làm như thế.”
“Thực ra, anh không hề.” Anh hất đầu về phía Tom. “Giám đốc của em có vẻ hay can thiệp.”
“Em nghĩ là vì anh ấy nghĩ anh đang cố gắng phá hoại buổi ghi hình.”
“Không hề. Nó chỉ là để -” anh nhún vai - “cho vui.”
“Dù sao, cảnh quay lại tốt rồi,” Sara lịch sự nói. “Vì vậy đừng lo lắng.” Chúng tôi đã thay đổi kết thúc bằng việc Luke quyết định không chơi phần Xoay chuyển Vị trí.
Anh lấy một cái bánh mỳ xúc xích từ chiếc khay đi ngang qua. “Nhưng họ nói rằng anh có thể hỏi em bất kỳ câu hỏi nào.”
“Bất kỳ câu hỏi nào về kiến thức chung,” tôi sửa lại.
“Nó vẫn là một chương trình hay và có nhịp độ cao,” Sara xen vào. “Anh là một người chơi rất giỏi, Luke ạ, và chưa có tổn hại gì. Dù sao đi nữa, tôi sẽ... để hai người nói chuyện tiếp,” cô ấy khôn khéo thêm vào. “Hai người rõ ràng có vài vướng mắc cần giải quyết.”
Khi Sara rút lui, Luke mỉm cười với tôi lần nữa, đầy vẻ thắc mắc, dường như hơi ngạc nhiên bởi thái độ lạnh nhạt của tôi, nhưng anh ấy mong đợi gì chứ? Tại sao tôi lại phải niềm nở và vui vẻ khi anh ấy làm tôi lúng túng như thế, không kể đến chuyện xảy ra giữa chúng tôi mười hai năm trước?
“Em có thể hỏi anh vài câu được không?” Tôi nói.
“Tất nhiên.” Anh ấy lấy một cái bánh mỳ xúc xích khác. “Đó là công việc của em mà - hỏi mọi người. Chúa ơi, anh đói thế - anh đã không ăn trưa.”
“Anh có định làm như thế trước đó không?”
“Không. Anh định sẽ hỏi em điều gì đó hoàn toàn là đúng đắn -” anh ấy phủi những mẩu vụn bánh mỳ trên môi - “nhưng thay vào đó anh đột nhiên lại cảm thấy sự thôi thúc muốn mời em đi ăn tối lấn át.”
“Em hiểu,” tôi nói. “Vậy đấy là ‘tính đồng bóng’ nhỉ - một ‘sự thay đổi bốc đồng của ý nghĩ’?”
Anh ấy mỉm cười. “Anh cho là thế.”
“Và tại sao anh cười khi em hỏi anh ‘dê’ nghĩa là gì?”
Anh ấy đảo mắt. “Giải thích sẽ mất nhiều thời gian - anh sẽ kể cho em trong bữa tối. Anh hy vọng em sẽ đến. Đã lâu lắm rồi.” Anh mỉm cười lần nữa. Và khi anh làm thế, bất chấp tình trạng khủng hoảng của mình, tôi đột nhiên cảm thấy khao khát quen thuộc từng có với anh dấy lên mạnh mẽ. Tôi muốn cánh tay anh quấn quanh tôi, như anh thường làm. “Em sẽ đồng ý chứ?” Tôi muốn vùi mặt vào cổ anh. Tôi muốn lướt đầu ngón tay trên đường cong đáng yêu của môi anh. “Em sẽ đồng ý chứ?” anh nhắc lại.
“Em thực sự không... biết.”
“Khó khăn thế sao, Laura?”
“Không, nhưng...” tôi đột nhiên tỉnh lại từ trạng thái mơ hồ. “Xem này, Luke - anh thật táo tợn. Anh lả lướt quay trở lại cuộc đời của em theo cách... kỳ quặc này, và bây giờ anh đang ra vẽ rằng em sẽ ăn tối với anh, khi mà chúng ta thực tế đã không nói chuyện với nhau từ năm 1993, đúng không nhỉ?”
“Phải. Nhưng đó không phải là lỗi của anh.”
“Phải chứ!” Tôi hạ thấp giọng, nhận thấy những con mắt kín đáo quay về hướng chúng tôi. “Đó là lỗi của anh.”
“Không đúng. Em không trả lời thư hay điện thoại của anh. Em hất anh ra khỏi cuộc đời em như thể anh chưa bao giờ tồn tại.”
“Ai có thể đổ lỗi cho em nhỉ?” tôi hỏi. “Trong tình huống đó?” Im lặng buông xuống.
“Thế này giống như ngày xưa,” anh vui vẻ nói. Tôi giật mình nhận ra rằng anh nói đúng. Hai phút ở bên nhau và chúng tôi đã trượt vào trạng thái cảm xúc cũ.
Tôi cố gắng lái cuộc hội thoại trở lại vùng đất an toàn. “Thế câu hỏi đúng đắn anh định hỏi em là gì?”
“À - ừ, anh đã nghĩ rất cẩn thận. Anh không muốn hỏi điều gì mà em không biết, vì tất nhiên điều cuối cùng anh muốn là làm em xấu hổ trước mắt hàng nghìn người xem.”
“Thật chu đáo.”
“Vì vậy anh quyết định hỏi em một câu hỏi mà em có thể trả lời.”
“Là?”
“Trái tim con người đập bao nhiêu lần một ngày?” Tôi nhìn anh trống rỗng. “Câu đấy nghe như một trong những mẩu Thông tin Vô ích cũ rích của anh.”
“Ừ. Nhưng khả năng tính nhẩm của em rất siêu, anh nhớ thế, vì thế anh biết em sẽ có câu trả lời.”
“Nhưng gần như chắc chắn em sẽ mất nhiều hơn năm giây, nhờ thế anh có thể nhân đôi số tiền. Trò đùa nho nhỏ của anh khá là đắt giá nhỉ?”
“Ồ ừ.” Anh nhún vai. “8.000 cũng đủ rồi.”
“Để làm gì - nếu anh không phiền vì em đã hỏi? Ý em là, vì sao anh lại muốn tham gia vào chương trình này?”
“Em thực sự muốn biết à?”
“Thật đấy. Em rất ngạc nhiên khi gặp anh. Đấy là nói một cách nhẹ nhàng.”
“Ok. Anh được vài người bạn gợi ý. Anh đang than phiền với họ rằng anh cần vài nghìn để đi học ở trường nghệ thuật - anh luôn luôn muốn đi học ở đó. Em còn nhớ không?”
“Có, em nhớ. Tất nhiên.”
“Và anh đã giành được một khóa học ngoài giờ ở trường Slade. Nhưng thời điểm này anh đang rất thiếu tiền vì nhiều lý do mà anh không muốn kể để làm em buồn chán, vì thế họ gợi ý anh thử tham gia chương trình Whadda Ya Know?!! Anh đã hơi sốc khi phát hiện em là người dẫn chương trình. Đấy là nói một cách nhẹ nhàng, và anh đã quyết định tham gia. Nhưng càng nghĩ về nó, anh càng nhận ra anh muốn gặp lại em nhiều như thế nào - đặc biệt khi anh phát hiện ra văn phòng của em không cách xa nơi anh ở là mấy.”
“Vậy tại sao anh không gửi thư cho em?”
“Bởi vì anh không nghĩ rằng em sẽ trả lời. Em có thể sẽ không trả lời, đúng không?”
“Em không... biết. Em... có thể... không.”
“Chính xác. Vì thế anh quyết định tham gia chương trình. Thành thật là anh nghĩ em sẽ biết trước.”
“Lẽ ra là thế, nhưng em đã không đọc danh sách người chơi.”
Anh liếc nhìn đồng hồ. “Ôi trời - anh phải đi - anh phải đi đón Jessica.” Jessica? “Đó là cô gái của anh, tình yêu của cuộc đời anh,” anh tự hào giải thích. Tôi đột nhiên thấy chùng xuống, như thể tất cả niềm vui của tôi đã biến mất.
“Em hiểu.”
“Cô ấy thực sự rất xinh xắn. Cô ấy có đôi mắt xanh to...”
“Thật thú vị... Em phải nói chuyện với những người chơi khác.”
“Và một nụ cười mê hoặc.”
“Tuyệt vời.” Tôi giơ tay ra. “Rất vui gặp lại anh, Luke.” Tôi trao cho anh một nụ cười cau có, sau đó quay đi.
“Em có muốn xem ảnh không?”
“Xin lỗi? Không - cũng không sao, vì anh đã đề nghị.”
“Chờ chút... đây rồi...” Anh rút một khung ảnh nhỏ bằng da gập lại từ trong túi và đưa nó cho tôi. Một bé gái nhỏ bé như thiên thần đang mỉm cười hạnh phúc nhìn chằm chằm vào tôi.
“Cô bé là con gái anh?” Anh gật đầu nhiệt tình. Một làn sóng nhẹ nhõm tràn ngập tôi, theo cách làm tôi giật mình. “Em không biết là anh đã có con.”
“Thế ư?”
Tôi nhún vai. “Em không có tí manh mối vào về những chuyện xảy ra với anh.” Tôi không nói thêm rằng tôi đã tránh tìm hiểu. Tôi lờ đi tất cả những người bạn chung của chúng tôi vì tôi không thể chịu đựng được mối liên hệ đó. Tôi nhìn vào bức ảnh lần nữa. “Cô bé thật đẹp. Cô bé thực sự xinh đẹp!”
“Ừ, anh nghĩ điều đó thật hiển nhiên, nhưng cám ơn.”
“Cô bé, gì nhỉ, năm tuổi à?”
“Vừa tròn sáu tuổi.”
“Vậy là anh - anh đã kết hôn, phải không?”
“Ừ.”
“Ừm.” Vậy ra là thế.
“Dù sao thì...” anh lấy chùm chìa khóa xe ra khỏi túi và lắc lắc chúng. “Anh phải đi thôi - hôm nay đến lượt anh đón con bé ở trường. Vậy... anh đoán em không muốn dùng bữa tối với anh.” Anh nhún vai. “Hay...”
“Em không thực sự nói thế, Luke.”
“Ừm em không nói là em đồng ý.” Anh cầm khăn quàng lên. “Thế em đã thay đổi quyết định chưa?”
“Làm sao em có thể thay đổi khi em chưa quyết định? Anh đang... thao túng... người khác!”
Anh mỉm cười. “Anh không hề - Anh chỉ thẳng thắn thôi. Anh đang hỏi em có đồng ý ăn tối với anh không - thứ Sáu nhé? Bây giờ anh đang vội, vì thế nếu em không trả lời, anh coi sự im lặng của em là đồng ý. Anh đón em lúc tám giờ nhé?”
“Nhưng...”
“Nhưng gì?” Anh nhìn tôi sau đó vỗ tay vào lông mày. “Tất nhiên... nhưng anh không biết địa chỉ của em. Ngốc thật. Bây giờ em sẽ cho anh địa chỉ chứ?”
“Không phải thế, Luke - đó không phải ý của em. Ý em là - thế còn vợ anh?” Trái tim tôi đang đập quá ầm ĩ đến nỗi tôi nghĩ anh có thể nghe thấy. “Anh nói anh đã kết hôn - vợ anh sẽ không để tâm chứ? Em cho rằng cô ấy sẽ để ý đấy.”
Anh lắc đầu. “Anh sẽ không kể với cô ấy.”
“Ồ. Này, em không nghĩ như thế là hay đâu.”
Anh đảo tròn mắt. “Thôi võ đoán đi nào, Laura. Anh sẽ không nói với cô ấy - vì một lý do đơn giản là anh không phải làm thế. Bọn anh đã chia tay.”
“Ôi trời,” tôi nói. Trái tim tôi reo lên. Thực ra nó không chỉ reo ca - mà còn nhảy múa, tung tăng, quay tròn và hy vọng. “Em rất tiếc khi nghe thế. Từ khi nào thế?”
“Tháng Năm vừa rồi... Dù sao thì, Laura, anh phải đi ngay bây giờ. Vậy câu trả lời là gì?” Anh cầm áo khoác lên.
“À -” và bây giờ, lần đầu tiên, tôi cho phép mình mỉm cười - “Câu trả lời là... một trăm nghìn lần. Trái tim con người đập một trăm nghìn lần một ngày, đúng không?”
“Đúng!” Anh hôn vào má tôi. “Thỉnh thoảng nhiều hơn.”
Họ nói vết cắt đầu tiên là vết cắt sâu nhất - và điều đó thật đúng. Nhìn thấy Luke lần nữa dường như khiến cả thế giới bao trùm trong làn ánh sáng hoàn toàn mới. Tất cả những thứ quen thuộc giờ trông xa lạ đến kỳ quặc - giống như cái lăng trụ tôi nhìn nhận mọi thứ đã thay đổi. Khi tôi mở cửa nhà tối hôm đó, dường như quá khứ đã trỗi dậy để chôn vùi hiện thực và như thể đây là lần đầu tôi nhìn căn hộ này. Tôi đi thẳng đến bàn làm việc và lấy ra một cái hộp gỗ chạm khắc trong đó tôi cất giữ những đồ đạc quá riêng tư khuất khỏi tầm mắt người khác. Có một bức ảnh trắng đen của bố mẹ tôi đang hôn nhau; một lọn tóc buộc nơ của bà tôi, chiếc nhẫn đính hôn và nhẫn cưới của tôi nằm trong những chiếc hộp nhung, và ở dưới đáy, một bức chân dung của tôi do Luke vẽ. Anh đã vẽ đến cả tá, tôi đã đốt tất cả những bức khác, nhưng vì lý do gì đó, tôi giữ lại bức này. Anh vẽ tôi khi tôi đang ngủ trong một buổi sáng Chủ nhật cuối tháng đầu tiên chúng tôi sống cùng nhau khi mọi thứ đều vút cao - sâu đậm. Bây giờ, khi tôi nhìn vào chính mình lúc trẻ hơn, dáng người trần truồng của tôi khắc họa bởi những đường nét màu xanh sẫm và bóng tối mờ mờ, tôi nghĩ đến cuộc đời đã thay đổi như thế nào.
Tôi rót một ly rượu, uống vài ngụm lớn, sau đó nằm trên ghế sofa, nhắm mắt lại, nghĩ đến Luke, cho phép tất cả ký ức tôi đã đẩy đi xa rất lâu rồi quay trở lại trong một cơn sóng luyến tiếc...
Thịch! Thịch! Tôi mở mắt. “Ôi Chúa tôi.” Thịnh! Thịch! Tôi nhìn lên trần nhà. “Không phải nữa chứ.” Hàng xóm mới ở tầng trên của tôi là một bà đồng và mỗi lần lên đồng của bà ấy có thể khá là ầm ĩ.Thịnh! THỊCH!THỊCH! Tôi đảo mắt, tưởng tượng những tấm rèm lay động, những đốm sáng nhảy nhót và đồ đạc bay quanh căn phòng. Tôi vẫn còn chưa gặp bà ấy, nhưng tôi đã thoáng thấy bà ấy khi bà ấy chuyển nhà. Đó là một phụ nữ tóc đen quyến rũ khó xác định được tuổi. Tôi biết bà ấy làm nghề gì, bởi vì trong tháng qua nhiều người đã bấm chuông cửa nhà tôi và hỏi tôi có phải ‘Bà đồng Cynth?’ hay không. Thịnh! Thịch! Theo những lá thư bà ấy nhận được, tên thật của bà ấy là Cynthia del Mar. THỊCH!THỊCH! Tôi đã nhìn thấy con mèo của bà ấy đang ngồi trên lối thoát hỏa hoạn vài lần.
THỊCH!THỊCH!!! ‘GÌ CHỨ!!!” Thế này thì quá lắm. Tại sao bà ấy không thể thể hiện một chút suy nghĩ, hoặc ít nhất vào một giờ giấc hợp lý? Tôi liếc nhìn đồng hồ. Tám kém một phút - đã đến lúc bật TV; nếu may mắn nó có thể át tiếng ồn của bà ấy.
“Giờ hãy đặt ngón tay lên chuông nào tất cả mọi người,” người đọc bản tin vui vẻ nói. “Bởi vì đây là chương trình đố vui trên truyền hình mới của Channel 4 - Whadda Ya Know?!!” Những hình ảnh mở đầu trôi đi. Và tôi ở đó, đang đề nghị bốn người chơi - hai người đàn ông và hai phụ nữ - tự giới thiệu về mình. Chúng tôi ghi hình chương trình này vào đầu tháng Giêng.
“Tôi tên là Peter Watts và tôi là một công chức nhà nước.”
“Tôi là Sue Jones và tôi làm trong ngành công nghệ thông tin.”
“Tôi là Geoff Cornish và tôi là một nhà bán buôn gia cầm.”
“Tên tôi là Kate Carr và tôi là một thủ thư.”
“Chúng ta bắt đầu. Câu hỏi đầu tiên -”
Tôi cảm thấy buồn chán khi xem chương trình một mình, nhưng tôi cũng không có ai để xem cùng. Bố mẹ tôi sống ở Yorkshire, Hope và Mike đã ra ngoài, và tôi không muốn đến nhà Felicity bởi vì tôi sẽ gặp chị ấy tối mai. Xem cùng Tom sẽ thật tuyệt, nhưng anh ấy rõ ràng là bận rộn. Tôi nghĩ anh ấy đang gặp gỡ ai đó - tôi có cảm giác đó. Bây giờ, chúng tôi đi đến câu hỏi thứ ba hay thứ tư thì tôi nghe thấy, từ tầng trên, “Ối! - ối! -ốiiiii.” THỊCH!THỊCH!!!
Sống bên dưới một nhà duy linh có thể làm người khác sợ, nhưng nó không hề làm tôi sợ bởi vì tôi không tin vào những chuyện huyền bí - tôi là người theo thuyết duy lý, vì thế tôi chỉ tin vào sự thật. Nhưng cho dù nó không làm tôi sợ, tôi thực sự phản đối tiếng ồn. Và nhà bán buôn gia cầm Geoff đang trả lời sai hoàn toàn câu hỏi về Noёl Coward (câu trả lời là vở Blithe Spirit, chứ không phải Hay Fever), thì tiếng chân đi xuống cầu thang vang lên dồn dập, sau đó là tiếng gõ cửa khẩn cấp.
“Xin - chàooo!!!” Tôi nghe thấy một giọng nói khàn khàn dễ nghe, nhưng hơi quá ngâm nga một cách kỳ lạ. “Có ai ở nhà không? Có ai ở nhà kh-ô-ng?” Tôi mệt mỏi đứng lên.
“Bà là một bà đồng,” tôi lẩm bẩm. “Vì thế lẽ ra bà phải biết chứ.” Tôi mở cửa. Cynthia đứng đó, trông có vẻ tuyệt vọng.
“Tôi cực kỳ xin lỗi,” bà ấy thốt ra, nắm chặt thành cửa bằng hai tay. “Nhưng tôi gặp một vấn đề.”
“Vâng?” tôi ngập ngừng nói, hít vào mùi hương đậm của nước hoa Hiểu biết. Tôi có một trí nhớ tốt về mùi thơm cũng như sự việc.
“Tôi là Cynthia.” Bà ấy chìa một bàn tay đeo trang sức và cắt sửa đẹp đẽ về phía tôi. “Tôi biết chúng ta chưa chính thức gặp nhau, nhưng tôi tự hỏi cô có thể giúp tôi được không?”
“Chắc chắn. Nếu tôi có thể. Chuyện gì thế?”
“Cái ti vi chết tiệt của tôi lại hỏng rồi. Nó thường phản ứng với bạo lực chân tay, nhưng vì vài lý do nào đó hôm nay thì không.” À. Điều đó giải thích cho những tiếng ồn ào. Nhưng bà ấy nghĩ tôi có thể làm gì? Đập nó? Gọi Cửa hàng cho thuê? “Và tôi mong được xem chương trình đố vui mới này đến chết đi được.”
“Tôi hiểu.”
“Nó thực sự có vẻ rất vui nhộn.”
“Ừm.”
“Vì thế tôi băn khoăn cô có ngại để tôi xem cùng dưới này không.”
Ồ.
“Tôi thật xin lỗi,” bà ấy thốt ra. “Tôi biết đó là một đòi hỏi quá đáng kỳ cục.” Tại sao không chứ, tôi nghĩ? Trong bất cứ tình huống nào thì cuộc gặp của tôi với Luke đã khiến tôi rộng rãi và hào hiệp.
“Được... mà. Tôi thực sự không thấy phiền. Thực ra tôi cũng đang xem một mình.”
Bà ấy chắp hai bàn tay trước ngực khiến sợi dây ngọc trai lớn kêu lách cách. “Ồ, cô thật là tốt! Cô biết không tôi say mê những câu đố.” Bà ấy giải thích khi xô qua tôi và yên vị trên chiếc ghế sô pha. “Tôi xem tất cả các chương trình. Chính tôi cũng nói là tôi trả lời khá tốt. Ồ, đấy có phải chai đã mở rồi không? Tôi thích có một ly.”
Tôi không thấy phiền toái vì sự hiện diện của Cynthia - hay tốc độ bà ấy tiêu thụ gần hết chai rượu Merlot của tôi - đấy không phải là do những khen ngợi ngớt lời của bà ấy đối với chương trình. Bà ấy ngồi thẳng lưng trong ghế sofa, tập trung nhìn chằm chằm vào màn hình. Nếu bà ấy có một túi bỏng ngô, bà ấy chắc sẽ nhai nó rôm rốp.
“Người đàn ông đó mặc chiếc áo sơ mi thật kinh khủng... Và cô ấy thực ra nên cố định lại răng... Đó là miệng núi lửa Ngorongoro, đồ ngốc nghếch! Ngorongoro!... Người dẫn chương trình có vẻ ngoài khá lạ, cô có nghĩ thế không...? Không, không, nó không phải là nhà khỉ, tên đại ngu ngốc - đó là nơi nuôi ong!”
Nhiều khi sự bực tức của bà ấy với những người chơi gần như khiến bà ấy nhảy dựng lên. Những lúc khác bà ấy trợn tròn mắt lên với tôi trước khi quay lại với màn hình. “Không, không phải Titanic,đồ ngốc - đó là Lusitania! Có bao nhiêu loại tài sản trên một bàn cờ tỷ phú Monopoly? 40! Ối. Là 22 chứ? Hừm...” Thỉnh thoảng bà ấy cố gắng và giục giã những người chơi, như thể bà ấy là người dẫn chương trình. “Tiếp tục đi, nào... Tiếp tục đi...” Và đến lúc Xoay chuyển Vị trí. “Chúa tôi,” Cynthia thở hổn hển. “Anh ta sẽ hỏi cô ấy một câu hỏi. Điều đó thật mới lạ! Tôi cá là Anne Robinson sẽ không thích như thế!” Chúng tôi quan sát khi người dẫn đầu số điểm, Geoff, nhà bán buôn gia cầm; hỏi tôi với một nụ cười hơi tự mãn, cứ như là anh ta tin chắc rằng tôi không thể nào biết câu trả lời, “Quadrimum là gì?”
“Quadrimum?” Cynthia nhắc lại với biểu hiện thất kinh. “Tôi không có ý tưởng nào dù mờ nhạt nhất. Cô gái tội nghiệp, cô ấy sẽ không bao giờ trả lời được - thật xấu hổ. Tôi không thể xem được.” Bà ấy lấy tay che mặt. Chúng tôi có thể nghe thấy đồng hồ sân khấu tích tắc khi năm giây đếm ngược bắt đầu. “Quadrimum?” Cynthia nhắc lại từ đằng sau những ngón tay thuôn dài. “Tàn ác. Thật là tàn ác...”
“Đó là loại rượu ngon nhất và nhiều năm tuổi nhất,” Cynthia và tôi nghe tôi nói. “Nó ít nhất phải được bốn năm tuổi -”
“Chính... xác,” Geoff nói với một vẻ mặt kinh hoàng, pha lẫn ngạc nhiên và thất vọng không hề che giấu - dù sao, anh ta vừa mất hai nghìn bảng.
“Thật là hay,” Cynthia nói. Bà ấy nhìn tôi với đôi mắt như những chiếc chảo vệ tinh. “Tôi kinh ngạc vì cô ấy biết điều đó.”
“Câu hỏi đấy không khó thế đâu. Nó ở trong bất cứ từ điển từ khó nào - tôi thường buộc mình học năm từ mới mỗi ngày - và tất nhiên học Văn học cổ điển cũng có ích. Từ đó được mô tả trong một bài thơ hay của Horace.” Tôi thầm ghi lại trong đầu sẽ đọc lại nó. Tôi liếc nhìn giá sách - tôi biết tôi để nó ở đâu đấy.
“Cho dù vậy, điều đó thật ấn tượng, ý tôi là...” Bà ấy nhìn tôi lần nữa, và giờ biểu hiện của bà ấy đã thay đổi. “Ý tôi là...” Bà ấy nhìn chằm chằm vào tôi một cách lộ liễu sau đó quay đầu lại nhìn màn hình. Bây giờ cái đồng xu đang quay quanh cái rãnh, kêu leng keng ầm ĩ. “Đấy là cô...” bà ấy thốt ra. “Tôi không... chú ý... tôi không... nhận ra...” Bà ấy úp bàn tay vào miệng. “Nhưng đấy là cô, có phải vậy không?” Tôi gật đầu. “Tất nhiên ¬- cô gọi là Laura.” Bà ấy nhìn vào TV. “Và cô ấy cũng thế.”
“Đúng... thế.”
Đang có vẻ sững sờ, bỗng nhiên Cynthia rạng rỡ hẳn lên, như thể đã bắt được mặt tích cực của tình huống. “Ừm... điều đấy khá là hay. Tôi có một hàng xóm nổi tiếng. Một người dẫn chương trình truyền hình phát sóng trực tiếp!” Bà ấy vui vẻ kết luận. “Giờ thì, kể cho tôi nghe với - chuyện đó xảy ra như thế nào?” Khi dòng chữ kết thúc chương trình bay lượn trên màn hình, tôi nhanh chóng giải thích làm thế nào tôi có được công việc này.
“Vậy là tiếng tăm đã tự lao đến với cô nhỉ?”
“À, tất nhiên tôi không tìm kiếm nó.” Tôi nôn nao nghĩ về Nick. “Tiếng tăm là điều cuối cùng tôi muốn có. Vậy còn bà?” Tôi tiếp tục. “Bà là một... bà đồng phải không?” Tôi rót cho bà ấy một ly rượu khác. “Một nhà duy linh?”
“Ồ không.” Bà ấy trông có vẻ hoảng sợ. “Tôi không nhìn thấy được người chết ở một cuộc gọi hồn, và tôi không liên hệ với người đã mất. Quá đáng sợ,” bà ấy thêm vào với một cái rùng mình. “Tôi có tham gia vài khóa học về kỹ năng giao tiếp tâm linh thời gian trước, nhưng tôi có một kinh nghiệm không vui vẻ lắm với một vài ngoại chất.”
“Vậy bà làm gì?” Tôi hỏi khi rót đầy ly cho mình.
“Tôi là một bà đồng. Tôi có khả năng nhìn xuyên thấu được những thứ vô hình và tôi thường cho mọi người những lời khuyên, hoặc giúp họ đạt được mục tiêu của mình. Tôi có thể giúp đỡ mọi vấn đề như - khủng hoảng hôn nhân, công việc, những khó khăn gia đình - tôi thậm chí còn giúp tìm vật nuôi đi lạc. Vài người nghĩ tôi là người chỉ dẫn tinh thần, hoặc thậm chí là thiên thần của họ.”
“Ồ -” Tôi xem điều đó là cực kỳ ngớ ngẩn nhưng cố gắng nghĩ ra điều gì đó hay hay để nói. “Điều đó nghe thật thú vị.”
“Ừ, mặc dù...” lông mày bà ấy nhăn lại vì lo lắng, “tôi có thể làm điều đó với vài khách hàng một cách bí mật. Thực ra đó cũng là một điều lo lắng. Vất vả, đúng không - tác động đến cuộc sống của ai đó,” bà ấy lơ đãng thêm vào.
“Ừm,” tôi nhún vai. “Tôi... quen rồi.”
“Vì thế nếu cô biết ai đó cần đến khả năng xem trước tương lai...”
“Ồ. Vâng. Tất nhiên. Bà có quảng cáo trên tạp chí địa phương không?”
“Có - và tôi có một trang web - nhưng vấn đề là có rất nhiều bà đồng ở Luân Đôn. Thị trường đã bão hòa - ồ chào Hans!” Con mèo của bà ấy vừa thơ thẩn đi qua cánh cửa đang mở và bây giờ đang cuộn ra cuộn vào quanh mắt cá chân của bà ấy, rên ừ ừ như một chiếc Ferrari nhỏ. “Cô không sợ mèo chứ?” bà ấy hỏi khi nó nhảy vào lòng.
“Không. Tôi thích chúng.”
“Và cô mèo này rất đáng yêu.”
“Phải. Ừm... tại sao bà gọi nó là Hans, nếu nó là con cái?”
“Bởi vì tôi tìm thấy nó bên ngoài căn hộ cũ của tôi ở Hans Place.”
“Hans Place ở Knightsbridge ư?” Bà ấy gật đầu. “Đó là một nơi xinh đẹp!”
“Ồ đúng thế,” bà ấy nói với vẻ tiếc nuối. “Đó là thiên đường.”
“Vậy điều gì khiến bà đến đây?” tôi hỏi. “Ladbroke Grove có hơi chút... khác biệt.”
“Tôi biết. Nhưng, ừm...” bà ấy thở dài. “Tình cảnh của tôi thay đổi. Cô biết không, căn hộ trước đây không thuộc về tôi. Thật không may.” Bà ấy bẻ một cái bánh mỳ dài ra làm hai. “Vì thế, khi... thỏa thuận đó... đến hồi kết thúc, tôi quyết định thực sự phải mua một nơi chốn của riêng mình. Nơi này là tất cả những gì tôi có khả năng để mua, nhưng nó là một căn hộ đẹp.”
“Nhưng làm thế nào mà bà lại tham gia vào lĩnh vực tâm linh?”
“À, đó thực sự là một câu chuyện... Cô có muốn nghe không?” Tôi không muốn - nhưng tôi lịch sự gật đầu. Bà ấy ngồi xuống, cầm lấy ly rượu, rồi nhìn chằm chằm vào khoảng không ở giữa khi bà ấy bắt đầu đi xuống Con đường Ký Ức. “Tất cả là vì một con mòng biển,” bà ấy bắt đầu. “Chính xác là, một con mòng biển có tâm linh.” Tôi nhìn bà ấy. “Nó đã cứu mạng tôi.”
“Thật sao?”
“Không có gì phải nghi ngờ. Cô biết không, khoảng thời gian này năm ngoái, tôi cảm thấy rất, rất chán nản - tôi đã trải qua... bước ngoặt lớn trong cuộc đời. Vì thế tôi đến sống với chị gái ở Dorset và một buổi chiều tôi đi dạo trên một vách đá. Và tôi chắc phải đã ở quá gần gờ đá, bởi vì tôi trượt và rơi xuống từ độ cao khoảng tám mét. Và tôi đang nằm đó, trên bờ biển, mắc kẹt giữa hai tảng đá mòn, đau đớn khủng khiếp với một chiếc chân gãy, không thể chuyển động được - như thế này.” Bà ấy vòng hai tay siết chặt hai bên để giúp tôi hình dung hoàn cảnh nguy hiểm đó.
“Thật tồi tệ.”
“Rất kinh khủng - nhất là bởi vì tôi biết thủy triều đang lên. Tôi cứ gọi mãi, nhưng bãi biển vắng như sa mạc. Và tôi nằm đó, thành thực tin rằng tôi sắp chết, rồi một con mòng biển xuất hiện và lơ lửng trên đầu. Nó không bay đi. Vì vậy, trong cơn tuyệt vọng, tôi gào lên với nó. Tôi hét lên, ‘Vì Chúa, đi đi và tìm sự giúp đỡ!’ Trước sự ngạc nhiên cùng cực của tôi, nó bay đi.” Bà ấy nghiêng mình về phía trước, đôi mắt xám to mở lớn. “Nhưng đây mới là phần không thể tin được. Sau đó tôi biết rằng nó đã bay đến ngôi nhà nhỏ của chị gái tôi, dùng mỏ gõ lên cửa sổ nhà bếp, và đập cánh phành phạch để gây ra một tiếng ồn ầm ĩ. Chị gái tôi cố gắng xua nó đi, nhưng nó không chịu. Vì vậy chị ấy quyết định rằng nó phải đang cố gắng nói điều gì đó. Thế là chị ấy đi theo nó ra ngoài, khi nó bay, nó vẫn dừng lại và nhìn chị ấy để đảm bảo rằng chị ấy vẫn đi theo, sau đó nó bay lên lần nữa. Khi nó đáp xuống gờ vách đá, nó nhìn xuống, chị gái tôi cũng nhìn xuống và thấy tôi nằm ở đó, rồi chị ấy gọi đội cứu hỏa.” Cynthia ngồi lại, lắc đầu trong vẻ kinh ngạc. “Cô có cho rằng đó là một câu chuyện khó tin không?”
“Tôi... nghĩ vậy.”
“Nhưng sự thật đúng là thế. Đây...” Bà ấy đẩy con mèo ra khỏi lòng, sau đó nâng chân váy lụa nhã nhặn của mình lên. Qua chiếc tất tôi nhìn thấy một chiếc sẹo lớn phía trên đầu gối trái, những mũi khâu lõm xuống như những chiếc răng của một cái khóa. “Và sau đó tôi cứ nghĩ, làm thế nào mà con chim hoang dã đó biết rằng tôi đang gặp nguy hiểm? Và làm thế nào mà nó biết cách để gọi cứu giúp? Tôi quyết rằng chỉ có một lời giải thích duy nhất...”
“Là gì?”
“Đấy là bằng cách nào đó tôi có thể giao tiếp với nó bằng tâm linh, nhờ thế mà nó có thể cứu sống tôi. Điều này khiến tôi nhận ra rằng tôi đã có một món quà của tâm linh - một món quà tôi không được lãng phí. Đấy là cách mà tôi đã trở thành một bà đồng,” bà ấy kết luận. “Nếu cô muốn, tôi có thể xem cho cô như một cách nói lời cảm ơn vì đã thật tốt bụng với hàng xóm.” Bà ấy đặt bàn tay lên cổ tay trái của tôi. “Tôi có thể làm việc đó dựa trên xung điện mà đồng hồ của cô phát ra.”
“Cám ơn.” Tôi rút tay ra. “Nhưng tôi không tin vào những điều như thế.”
“Cô không tin sao?” Bà ấy dường như lặng đi vì sửng sốt.
“Không.” Vẻ ngạc nhiên của bà ấy làm tôi tức tối. “Và tôi không tin vào ông già Nô-en, tiên răng, yêu tinh, ma quỷ hoặc những người xanh nhỏ bé hay Quái vật hồ Loch Ness, và tôi phải nói rằng tôi nghi ngờ về Chúa. Tôi e rằng tôi chỉ tin vào những gì đã được chứng minh. Tôi tin vào những sự kiện thực tế, chứ không phải những điều tưởng tượng.”
Cynthia đang lắc đầu. “‘Nhưng có nhiều thứ khác nữa trên Thiên đường và Trái đất, Horatio[1]’, vân vân và vân vân...”
[1] Một câu nói trong vở kịch Hamlet của Shakespeare, do Hamlet nói với Horatio bạn mình.
“Điều đấy có lẽ đúng. Nhưng tôi có xu hướng tin rằng những hiện tượng đó có những nguyên nhân tất yếu, chứ không có gì là kỳ diệu.”
Bà ấy tỏ ra thất vọng. “Ồ, điều đó tùy vào cô thôi. Nhưng cô chắc chắn cô không muốn một lời tiên đoán không?”
“Rất chắc. Dù sao,” tôi tiếp tục, quyết tâm thay đổi chủ đề, “bà đã làm gì trước khi trở thành một bà đồng?”
“Tôi từng là một... diễn viên?”
“Thật ư? Bà đã đóng phim nào?”
“Một số phim.”
“Liệu có phim nào tôi có thể đã xem rồi không?”
“Ừm, đã lâu lắm rồi - vào cuối những năm 50, nhưng tôi còn rất trẻ, chỉ vừa mới tốt nghiệp.” Từ điều này tôi đoán rằng bà ấy chắc phải vừa mới sáu mươi tuổi - già hơn ít nhất mười tuổi so với vẻ ngoài. “Tôi là một ngôi sao nhí của Trường Rank Charm.” À. Điều đó giải thích giọng nói giống Fenella Fielding. “Họ chỉ làm những bộ phim hạng B nhưng rất gay cấn. Tôi bị chìm thuyền năm lần, bắt cóc hai lần, bị người hành tinh bắt đi bốn lần và bị ăn sống bởi những con kiến giết người khổng lồ.” Bà ấy bâng khuâng mỉm cười. “Đó là một cuộc sống tuyệt diệu.”
“Và bà đóng những phim gì sau đó?”
“À, khi tôi ở cuối những năm ba mươi tuổi, sự nghiệp của tôi dường như... ừ... cô biết nghề diễn như thế nào mà...” Bà ấy có vẻ lưỡng lự để kể tiếp và tôi không muốn tỏ vẻ tọc mạch. “Được rồi, cô chắc chắn không muốn tôi tiên đoán cho à?” bà ấy kiên trì. “Tôi thực sự muốn làm thế vì tôi thấy tinh hoa phát ra từ cô khá là thú vị. Tôi có thể nhìn thấy nó cô biết không. Rất rõ ràng.” Bà ấy ngồi lại và nhìn tôi đầy tán thưởng. “Nó có màu xanh lá cây và vàng điểm thêm màu tím hoa cà. Hãy cho phép tôi nhé.”
“Không, cảm ơn. Hoàn toàn thành thật nhé Cynthia, tôi nghĩ rất cả những điều này như một mớ những chuyện nhảm nhí.”
“Trong trường hợp đó thì không có vấn đề gì,” bà ấy hài lòng tuyên bố. “Bởi vì, nếu nó là một ‘mớ những chuyện nhảm nhí’ thì có hại gì để tôi tiên đoán cho cô, nhỉ?”
Thất bại trước lý lẽ của bà ấy, tôi bằng lòng.
Bà ấy nắm lấy cổ tay trái của tôi bằng bàn tay phải và nhắm mắt lại. Sau đó đột nhiên bà ấy mở mắt ra, và lại nhìn chằm chằm vào khoảng không ở giữa, đôi mắt to màu xám nhíu lại như thể đang cố gắng tập trung vào điều gì đó vẫn còn lấp ló dưới tầm nhìn.
“Cô đang đi theo một hướng đi mới,” bà ấy tuyên bố. Rất sáng suốt, tôi chế nhạo nghĩ. “Cô không hạnh phúc.” Yeah. Ai chẳng không chứ? “Nhưng tâm trạng của cô đang khởi sắc.” Cảm giác sững sờ, tôi nói với chính mình. “Tình yêu sắp đến.” Những lời tiên đoán trở nên ấm áp hơn. Tôi hạnh phúc nghĩ về Luke. Bà ấy nhắm mắt lại, hít thở ầm ĩ - phần cuối mũi bà ấy nhăn lại như loại động vật rừng nào đó - kế đến bà ấy lại mở mắt. “Cô đang kiểm soát cuộc sống của mình,” bà ấy tuyên bố. Giống như hầu hết phụ nữ có nghề nghiệp ở tuổi tôi. Điều này thực sự ngớ ngẩn. Tôi chiều theo bà ấy đủ rồi. Nhưng bây giờ Cynthia nhắm mắt lại lần nữa, cứ như là bà ấy đã rơi vào một giấc ngủ sâu, rất sâu. Trong sự im lặng kéo dài tôi nhận thấy mình đang nhìn chăm chăm vào mi mắt đã nhăn lại vì tuổi tác và phủ một lớp trắng mờ của bà ấy. Tôi nhận thấy tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ hình cỗ xe ngựa trên mặt lò sưởi - một món quà cưới của bố mẹ tôi. Và tôi vừa mới tự hỏi Cynthia sẽ như thế này trong bao lâu và lúc nào đánh thức bà ấy là lịch sự, thì bà ấy đột nhiên mở mắt ra, và nhìn chằm chằm vào tôi với vẻ dữ dội khiến tôi giật mình.
“Cô vừa mất ai đó,” bà ấy nói bằng giọng không còn khàn khàn và kịch tính nữa mà rõ ràng và sâu sắc. “Phải không? Ai đó đã biến mất khỏi cuộc đời cô. Người nào đó rất quan trọng với cô. Nhưng đã có một... bi kịch, và bây giờ anh ta đã ra đi.” Tôi nhận ra một cảm giác ấm áp là lạ, lan ra từ đầu ngón chân đến xương ức, như thể tôi bị nhấn chìm trong sáp nóng. “Cô đã bị bỏ rơi, Laura.” Bà ấy lại nhắm mắt, hít thở sâu. “Đơn độc.” Một sự im lặng khác phủ xuống dường như lại ngâm nga và rộn lên. Sau đó bà ấy mở mắt. “Điều đó có đúng không, Laura?” Tôi nhìn chằm chằm vào bà ấy. “Đúng không?” Tôi có thể nghe thấy hơi thở của mình.
“Đúng thế.” Tôi nghe mình nói.
“Tôi biết mà!” Bà ấy vui vẻ thốt lên, tỏ ra vui sướng trước sự chính xác hiển nhiên của những tiên đoán của mình hơn là quan tâm đến tôi. “Tôi cảm thấy nó trong giây lát khi tôi nhìn thấy cô. Tôi có thể cảm thấy nó -” bà ấy nhìn quanh căn phòng, sau đó thoáng rùng mình - “ở đây có chấn động cường độ rất cao. Dù sao đi nữa,” bà ấy thêm vào. “Hãy tiếp tục.”
“Tôi nghĩ là không,” tôi phản đối. Nhưng bà ấy vẫn giữ tay tôi. “Thật đấy, Cynthia.” Tôi cố rút tay ra. “Tôi nghĩ thế là đủ rồi.” Bà ấy nhìn vào khoảng không lần nữa, lần này nháy mắt nhanh như chớp. Sau đó úp bàn tay trái lên ngực.
“Tôi có thể nhìn thấy cậu ta.”
“Bà làm sao?”
“Tôi có thể nhìn thấy cậu ta. Rất rõ ràng.” Giờ tôi cảm thấy vừa nóng vừa ớn lạnh. “Cậu ta đang đứng trên một cánh đồng... một cánh đồng đầy...” bà ấy hít một hơi, mắt mở to vì kinh ngạc “...hoa. Những bông hoa xinh đẹp. Chúng bao quanh cậu ta. Đó là một hình ảnh tuyệt vời. Nhưng mặc dù cậu ta được bao quanh bởi những bông hoa tuyệt đẹp, cậu ta có vẻ ủ rũ và buồn rầu.”
“Tôi muốn dừng lại.” Tôi giật mạnh tay lại. Tôi vẫn có thể cảm nhận sức ép của những ngón tay bà ấy trên cổ tay. “Anh ấy không ở trong một cánh đồng hoa. Điều đó thật vô lý.”
“Không. Không phải thế. Nó rất thật. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Có người khác nữa.” Tôi cảm thấy muốn ốm. “Đúng không?” Tôi nhìn trừng trừng vào bà ấy.
“Ý bà là gì?”
“Ý tôi là cô không phải chỉ mất một người - mà là hai.” Tôi cảm thấy tóc trên cổ tôi dựng lên. Bà ấy nhắm mắt lại một lúc, sau đó lại mở ra. “Tôi không thể nhìn thấy người thứ hai, nhưng tôi có thểcảm thấy sự hiện diện của họ. Tôi có thể cảm nhận được.” Tôi đứng lên. “Cô không biết họ lâu lắm... nhưng cô yêu họ. Cô không muốn nó kết thúc... Bây giờ,” bà ấy tử tế nói, “điều đó có nghĩa gì với cô không?” Tôi nhìn vào bà ấy, nhận thấy da gà đã nổi lên hai cánh tay. “Có không?”
“Không,” tôi nói. “Không tí nào. Không.”
“Nó khiến em sởn tóc gáy,” tôi nói với Felicity tối hôm sau. Tôi đang ngồi tại bàn ăn trong nhà chị ấy ở Đường Moorhouse với Olivia đang ê a trong lòng, trong khi Fliss rửa rau xà lách trong chậu rửa bát. “Bà ấy nói bà ấy có thể nhìn thấy Nick đứng trên một cách đồng hoa. Chị nghĩ thế nào?” Felicity nhìn chằm chằm ra ngôi vườn nhỏ có tường bao quanh khi hoàng hôn vừa mới buông xuống.
“Điều đó có vẻ quá tốt cho cậu ta. Nghe như là Vườn Thiên đường ý.” Chị ấy nhét một lọn tóc vàng rối bù vào sau tai. “Cậu ta không xứng đáng với số phận dễ chịu như vậy.”
“Ồ thôi nào, Fliss. Đừng khó khăn quá.” Qua máy bộ đàm theo dõi trẻ con, chúng tôi có thể nghe Hugh di chuyển trong phòng ngủ tầng trên. Mỗi lần chuyển động của anh ấy gây ra một vòng cung ánh sáng nhá lên và nhấp nháy trên màn hình.
“Không đâu, Laura,” Felicity tiếp tục. “Chị không e ngại nói về chuyện đó. Nick là đồ chết tiệt vì đã làm những điều đó - và không hề báo trước! Chị biết vài người có lẽ thấy thông cảm hơn nhưng cậu ta gây cho em quá nhiều đau đớn để chị có thể tha thứ.”
“Chị không phải tha thứ cho anh ấy, Fliss,” tôi lặng lẽ nói. “Mà đó là em. Trong bất cứ trường hợp nào, ý tưởng chúng ta tha thứ cho anh ấy là điều gì đó mang tính lý thuyết suông trong tình huống này.”
“Chị cho là thế - vì cậu ta đã biến đi vĩnh viễn.” Chị ấy cười một cách cay độc.
“Thật kinh khủng, Fliss.”
Chị ấy gắng sức tạo ra một vẻ mặt tội lỗi. “Nhưng nhân vật Madame Arciti[2] này còn nói gì khác không?” Tôi nghĩ về những lời Cynthia nói sau cùng, nhưng tôi không kể với Felicity. Mặc dù chị ấy luôn cởi mở với tôi về cuộc sống của chị ấy nhưng có những điều chị ấy không bao giờ biết về cuộc sống của tôi. “Bà ấy không thể liên lạc với Nick đúng không?” chị ấy nói tiếp. “Hỏi cậu ta tại sao làm thế, có lẽ thế? Đẩy chúng ta vào nỗi khốn khổ này?”
[2] Một nhân vật bà đồng trong vở kịch nổi tiếng Blithe Spirit của Anh, công diễn đầu tiên vào năm 1941, và đạt kỷ lục số lượng buổi biểu diễn là 1.997 lần so với những vở kịch không phải là nhạc kịch.
Tôi nhúc nhích trong ghế. “Bà ấy không lên đồng, và em cũng không muốn bà ấy thử. Và lý do vì sao anh ấy làm điều đó... sự thật là chúng ta có thể không bao giờ biết. Nhưng làm ơn, đừng nói đến những chuyện xảy ra với anh ấy với bất kỳ ai, Fliss. Điều đó rất quan trọng vì em không muốn nó xuất hiện trên báo chí.”
Chị ấy cho xà lách vào một cái bát. “O...k.”
“Afaclathaollaollagazzzagoyagoyagoya,” Olivia nói.
Felicity quay lại và nháy mắt với nó với một nụ cười thật rộng khiến tôi nghĩ khuôn mặt chị ấy sẽ vỡ ra. “Đó có phải là điều con nghĩ không, con yêu? Chị thích cách nó nói,” chị ấy thêm vào với một tiếng cười khúc khích. “Nó nói giống như một người ngoài hành tinh với cách phát âm là lạ, thoát trần của mình.”
“Thekzellagoyaobbadobbagertertergoya.”
“Đấy có phải là ngôn ngữ họ nói trên hành tinh của con không, con yêu bé bỏng của mẹ?”
Khi tôi ôm Olivia bé bỏng bụ bẫm trong lòng, mái tóc lông tơ sáng màu của con bé cọ vào cằm tôi. Tôi vuốt ve cánh tay mềm mại của nó với những khuỷu tay bụ bẫm. Tôi siết nhẹ đầu gối mập mạp của nó. Tôi yêu Olivia, nhưng đấy là một tình yêu ngọt ngào pha lẫn chua xót.
“Con thật... đáng yêu, Olivia,” tôi tha thiết nói. “Thật đáng yêu.” Tôi hôn lên đỉnh đầu con bé.
Con bé vặn người lại để nhìn tôi, đôi mắt xanh to nhìn vào mắt tôi chằm chằm không chớp mắt, với vẻ quan tâm thân thiết. Sau đó nó giơ bàn tay phải lên, với những ngón tay nhỏ mập, như những con sao biển, và chạm vào má tôi. “Thizclalefafffooohethana- gagoygoyagoyagoya.”
“Goyagoyagoya,” Fliss nói, đi đến và hôn chụt một cái rõ to lên má con bé. Olivia cười khanh khách, vì thế chị ấy làm lại lần nữa, sau đó quay lại với cái chậu. “Chị đứng bên cạnh cũi của nó,” chị ấy lẳng lặng giãi bày. “Vào ban đêm. Khi nó đang ngủ. Chị nghiêng người trên cũi, và cảm nhận hơi thở đáng yêu của nó trên má chị, như một làn gió nhỏ. Và chị vẫn không thể tin rằng con bé là của chị. Chị yêu nó thật nhiều,” chị ấy nói khi bắt đầu cắt một quả cà chua. “Chị có thể dành tất cả thời gian chỉ để nhìn vào nó; hôn lên khuôn mặt nhỏ bé của nó, mỗi ngày chị lại yêu nó nhiều hơn, chị...” tôi nghe thấy giọng chị ấy nghèn nghẹn, “...chị chưa từng biết rằng một người có thể cảm nhận được tình yêu đến mức như vậy.”
“Em hiểu,” tôi lẩm bẩm. Con dao của Felicity dừng khựng lại. “Ý em là, em có thể... tưởng tượng được.”
“Và nó hoàn toàn khác với những gì ai đó cảm nhận về một người đàn ông. Thành thật mà nói, Laura, chị cảm thấy mối quan hệ của chị với Olivia thực sự trọn vẹn. Chị gần như ghen tị với những người mẹ độc thân,” chị ấy bày tỏ với vẻ tội lỗi. “Nếu chỉ có bạn và đứa con thì chắc phải rất ấm cúng, không phải nghĩ đến ai khác.” Khi chị ấy nói điều này, chúng tôi nghe thấy Hugh khẽ khịt mũi và ho khi anh ấy đi lại, mở ngăn kéo và tủ búp phê. “Anh ấy sẽ xuống ngay để ăn tối.” Chị ấy lấy một bình sữa ở trên nóc tủ và đưa nó cho tôi. “Em cho Olivia uống sữa nhé? Con bé phải ăn thêm sữa ngoài vào buổi tối vì sữa của chị không còn đủ nữa.”
Khi tôi đặt Olivia trong cánh tay gập lại, Fliss mở tủ lạnh và lấy ra một ít thịt bò, một hộp kem và một hộp bơ.
“Chị đang ăn kiêng theo công thức Atkins à, Fliss?” Chắc chắn là chị ấy cần. Cân nặng trung bình của một người mang thai tăng lên là gần mười ba ký, nhưng Felicity, vốn đã mập mạp, đã tăng thêm gần ba mươi ký.
“Atkins á? Em chắc phải đang đùa.” Chị ấy mở tủ đông lạnh và lấy một túi khoai tây cắt lát. “Chị rất thích thức ăn chứa nhiều năng lượng. Dù sao đi nữa, chị vẫn đang cho bú, vì thế chị không nên ăn kiêng chút nào. Đấy là lý do của chị.”
“Nhưng sữa mẹ sinh ra trực tiếp từ lượng dự trữ chất béo của người mẹ, vì thế nếu chị giảm đi vài ký, chị vẫn ổn thôi, Fliss.” Trong nhiều tuần!
“Chị biết là nên thế.” Chị ấy kéo cái cạp co giãn của chiếc quần dùng cho phụ nữ mới sinh cũ kỹ. “Chị vẫn còn thừa đến gần mười ba ký.” Và phần còn lại! “Nhưng chị nghĩ rằng...” chị ấy cau mày - “nếu tiếp tục cho con bú, cân nặng sẽ tự giảm đi.”
“Chuyện đấy thật hoang đường. Chị sẽ giảm cân khi cho bú thời gian đầu, rõ ràng là thế, nhưng sau đó nó thường tăng lên và cứ... giữ thế mãi.”
Felicity nhìn tôi với vẻ là lạ. “Sao em biết thế?”
Tôi nhìn lại chị ấy. “Em đọc ở đâu đó.”
“Thôi nào,” Felicity tiếp tục. “Chị quá hạnh phúc để quan tâm mình béo như thế nào, và Hugh quá bận rộn với những phát minh ngốc nghếch của anh ấy để chú ý. Trong những trường hợp hiếm hoi chị cần ăn diện, chị sẽ mặc quần chẽn để ép phẳng bụng.”
“Đừng hờ hững với chính mình, Fliss. Tất cả những cuốn sách đều nói thế.”
“Ồ, cuối cùng thì cũng tốt đẹp cả thôi,” chị ấy vui vẻ nói. “Và Hugh không phải là người nông cạn.” Tôi không nghĩ anh ấy như thế, nhưng hy vọng chị ấy đúng. “Thôi nào, đừng mang lại khó khăn cho chị - ok? Trước giờ chị cũng đã chịu đựng khó khăn rồi, có hai người em gái mảnh khảnh.”
Để ý đến chiếc túi nhỏ trông có vẻ đắt tiền trên chiếc ghế cao, tôi thay đổi chủ đề. “Chị vừa đi mua sắm à?”
Chị ấy với lấy một chiếc khăn và lau khô tay. “Vài thứ tuyệt vời.” Chị ấy mở túi và rút ra một chiếc áo đan len màu hồng nhỏ xíu cực kỳ mềm mại nằm trong một túi vải mỏng màu vàng nhạt. “Nó tuyệtkhông?”
Tôi cảm thấy cổ họng nghẹn lại. “Ừ.” Olivia túm lấy nó và cố gắng nhét một ống tay áo vào mồm. “Đây là len cashmere.” Tôi thêm vào khi vuốt vuốt nó.
Felicity nhăn mặt. “Chị biết. Nó có tốn đến tám bảng và con bé sẽ chỉ mặc trong ba tháng, nhưng nó quá xinh xắn đến nỗi chị không thể nào cưỡng lại. Trong bất cứ trường hợp nào, tại sao con gái bé bỏng của chị không thể có mọi thứ tốt nhất chứ?”
Olivia có mọi quyền. Con bé được mặc những quần áo xinh xắn mua ở Oilily, BabyDior và Petit Bateau. Ngủ trong những tấm chăn lanh. Di chuyển trong chiếc xe đẩy hiệu Bugaboo Frog trị giá năm trăm bảng, và địu có đai bằng lông cừu hiệu Bill Amberg. Khuôn mặt rạng rỡ của nó được tô điểm thêm một chiếc túi xách dành riêng từ Anya Hindmarch, và chân cũi sơ sinh của nó được mạ đồng cứng. Chiếc váy rửa tội bằng lụa Felicity đã đặt may cho lễ rửa tội vào Chủ nhật này trị giá hai trăm hai mươi bảng.
“Chị có đủ tiền mua nó à?” Tôi hỏi khi Olivia mãn nguyện bú sữa trong chiếc bình.
“Tất nhiên là không,” chị ấy trả lời. “Nhưng chị không quan tâm bởi vì chị trong giai đoạn mới sinh con, Laura, vì thế chị sẽ không tằn tiện đâu, bởi vì chị sẽ không bao giờ có lại thời gian này lần nữa.” Đây là luận điệu thường xuyên của Felicity. Rằng chị ấy sẽ không bao giờ trải nghiệm lại thời gian đặc biệt này của cuộc đời, vì thế nó phải được hoàn hảo theo mọi cách. Sau đấy chị ấy bắt đầu nói về lễ rửa tội, về chị ấy thích người cha xứ như thế nào, về nhà thờ cao đẹp như thế nào, không phải ‘một nhà thờ hoành-tráng-giả-tạo xấu xí’, về tất cả những điệu nhạc đáng yêu sẽ được chơi, về những thức ăn tuyệt đỉnh mà chị ấy đặt, những người mà chị ấy mời, và bộ quần áo mới chị ấy sẽ mặc.
“Khi nào chị trở lại làm việc?” Tôi hỏi chị ấy khi nâng chiếc bình lên cho Olivia. “Thời gian nghỉ thai sản của chị chắc sắp hết rồi.”
Felicity hít một hơi thở. “Chị sẽ không đi làm.”
“Cái gì?”
“Chị đã quyết định, Laura.” Chị ấy mở tủ lạnh. “Chị sẽ không đi làm lại. Ít nhất là trong vòng ba năm,” chị ấy tự sửa lại trong khi lục lọi tủ lạnh. “Nhưng đừng đề cập đến chuyện này trước mặt Hugh. Chị chỉ vừa nói với anh ấy sáng nay, và anh ấy tiếp nhận chuyện này không tốt lắm.”
“Em không ngạc nhiên đâu.” Tôi biết họ có một khoản thế chấp lớn, không kể đến tất cả chi phí điều trị bệnh khó sinh. “Như vậy sẽ khó khăn cho anh ấy, Fliss.”
Chị ấy nhún vai. “Anh ấy phải tự cân nhắc - anh ấy đã có một công việc tốt. Chị biết em sẽ nghĩ là chị nhẫn tâm,” chị ấy tiếp tục khi lấy ra một chai gia vị Pháp. “Nhưng, sau mười bảy năm trông nom con cái của những người khác, bây giờ chị muốn dành thời gian cho con mình. Chị mong chờ Hugh chống đỡ cho chị trong một thời gian và đó là tất cả. Nếu quyết định của chị buộc anh ấy quay lại làm việc, vậy thì tốt hơn nhiều, bởi những phát minh chơi chơi quái quỷ này sẽ không có tác dụng gì cả.”
“Em không biết nữa - có lẽ anh ấy sẽ thành công với cái gì đấy, thật đấy, chị biết mà... vào đúng lúc?”
“Chúng cũng không phải là những phát minh sáng lạn gì cho đến nay, đúng không nào? Cái thứ nhìn giống như một ống keo Pritt, nhưng lại chứa đầy bơ thay vì keo, ‘để tiết kiệm công sức rửa bát đĩa’; còn hai cái ô nhỏ xíu kẹp vào mặt trước của giày...”
“À phải. Để che mưa cho chúng.”
Chị ấy đảo tròn mắt. “Đúng thế. Chiếc ô với một ô vuông trong suốt để em có thể kiểm tra trời tạnh mưa chưa mà không bị ướt...”
“Ừm - và những con dao và dĩa picnic có thể ăn được.”
“Chị biết. Vô dụng,” Felicity nói với một tiếng cười châm chọc.
“Và thứ tiếp theo là gì? Một cái tấm bia bắn phi tiêu có thể phồng ra?” Tôi nghe một tiếng kẽo kẹt trên cầu thang. Sau đó Olivia hút hơi sữa cuối cùng với một tiếng thở dài hài lòng.
“Con bé ăn xong rồi, Fliss.” Tôi lau góc miệng của nó.
“Nhanh thế. Đây này, con yêu...” chị ấy bế Olivia, nâng nó lên cao, hôn hai lần, và đặt nó lên vai trái. “Ý chị là, chị có thể nghĩ ra vài thứ hữu dụng mà Hugh có thể phát minh.”
“Như cái gì?” Hugh nói, hơi có vẻ cứng nhắc khi anh bước nào. Anh rất cao - 1m92 - và có chút lóng ngóng trong chiếc quần nhung kẻ cũ và chiếc áo chui đầu Guernsey, nhưng anh ấy rất đẹp trai, theo kiểu trẻ con. “Chào Laura.” Anh ấy tươi cười với tôi, sau đó trao cho tôi một cái hôn anh em. “Em muốn anh phát minh những thứ có ích gì cơ, Fliss?”
“À, những thứ chúng ta thực sự cần,” chị ấy trả lời. “Như sơn móng tay khô ngay trong một giây, hoặc quần không bao giờ tuột, hay một chiếc lò vi sóng với nút ‘Đảo ngược’ để dùng cho những lần em nấu đồ ăn quá chín, hoặc một hệ thống tin nhắn bằng giọng nói cho phép anh nhắn lại lần nữa và xóa những lời nhắn ngốc nghếch và vớ vẩn anh đã gửi cho ai đó; hoặc, để xem nào - ôi Chúa ơi, con bé bị trớ!” Một dòng chất lỏng trắng nhỏ đã xuất hiện trên vai Felicity và đang nhỏ xuống lưng chị ấy. “Chiếc khăn muslin đâu rồi?” Chị ấy tìm quanh. “Chị không bao giờ, chưa bao giờ tìm thấy một chiếc khăn muslin nào khi cần.”
“Điều đó giải thích tại sao em trông giống như một Jackson Pollock lang thang[3],” Hugh nói.
[3] Một họa sĩ nổi tiếng người Mỹ.
“Anh có thể lấy cho em một ít giấy lau được không?” Anh ấy xé lấy một ít giấy và chùi chiếc áo phông đen phùng phình của chị ấy. “Chết tiệt - em sẽ phải giặt nó lần nữa. Ôi,”
Tác giả :
Isabel Wolff